Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

luận văn thạc sĩ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty TNHH phú tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.43 KB, 100 trang )

1
1

LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan luận văn “Kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại Công ty TNHH Phú Tân” là công trình nghiên cứu độc
lập, các tài liệu tham khảo, số liệu thống kê phục vụ mục đích nghiên cứu
trong công trình này được sử dụng đúng quy định, không vi phạm quy chế
bảo mật của Nhà nước. Tác giả xin cam đoan những vấn đề nêu trên là đúng
sự thật.Nếu sai, tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Oanh


2
2

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện nhiệt tình và quý báu của nhiều cá nhân
và tập thể.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học
Thương Mại, xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Khoa Sau đại học đã
tạo điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành luận văn của mình.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới PGS,TS. Nguyễn Phú
Giang đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành luận văn thạc sĩ
một cách trọn vẹn và hoàn chỉnh.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các cán bộ,
nhân viên Công ty TNHH Phú Tân, đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.


Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày….tháng….năm 2016
Tác giả

Nguyễn Ngọc Oanh


3
3

MỤC LỤC


4
4

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ


5
5

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BHYT
BHXH
BHTN
CCDC
CPBH
CPSX

CPQLDN
DD
KPCĐ
NVLTT
NCTT
NLĐ
SP
SXC
SXKD
TK
TSCĐ
PX

Diễn giải
Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm thất nghiệp
Công cụ dụng cụ
Chi phí bán hàng
Chi phí sản xuất
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Dở dang
Kinh phí công đoàn
Nguyên vật liệu trực tiếp
Nhân công trực tiếp
Người lao động
Sản phẩm
Sản xuất chung
Sản xuất kinh doanh
Tài khoản

Tài sản cố định
Phân xưởng


6

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ngày càng mạnh mẽ
tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với tất cả các doanh nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp nói riêng. Các doanh nghiệp
phải đối mặt với sực ép cạnh tranh của các đơn vị kinh doanh cùng ngành
nghề trong nước và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp
Việt Nam cần phát huy một cách hiệu quả nhất các nguồn lực hiện có và tận
dụng tối đa những ảnh hưởng tốt từ ngoài lực là các chính sách hỗ trợ của
Nhà nước như các chính sách hỗ trợ về tín dụng, chính sách đầu tư cho các
ngành trọng điểm. Tuy nhiên, việc phát huy các yếu tố nội lực vẫn là những
giải pháp được đánh giá có hiệu quả hơn để các doanh nghiệp có thể chủ động
trong định hướng phát triển của mình. Vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp
luôn gắn liền với câu hỏi: “Làm thế nào để có thể tính đúng, tính đủ các chi
phí hợp lý vào giá thành sản phẩm để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản
phẩm”. Tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh, đảm bảo phát triển bền vững là một nhiệm vụ trọng yếu
của các doanh nghiệp. Khi phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh
tại một doanh nghiệp sản xuất thì chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng. Để có được những số liệu trên thì chúng
ta không thể không nhắc đến vai trò to lớn của hạch toán kế toán. Việc tổ
chức kế toán đúng, hợp lý chính xác chi phí sản xuất và tính đúng tính đủ giá
thành sản phẩm, trong việc kiểm tra tính hợp lý hợp pháp của chi phí phát
sinh ở doanh nghiệp sản xuất nói chung và ở các phân xưởng, tổ đội sản xuất

nói riêng. Thông qua số liệu do bộ phận kế toán tập hợp chi phí, tính giá
thành cung cấp, nhà quản lý doanh nghiệp biết được chi phí và giá thành thực


7

tế của từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, của hoạt động sản xuất kinh
doanh và các hoạt động khác trong doanh nghiệp. Qua đó, nhà quản lý có thể
phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm, tình hình
sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn có hiệu quả, để từ đó đưa ra các quyết định
phù hợp với sự phát triển sản xuất kinh doanh và yêu cầu quản trị doanh
nghiệp.
Việc phân tích đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
chỉ có thể dựa trên giá thành sản phẩm chính xác. Mà tính chính xác của giá
thành sản phẩm lại chịu ảnh hưởng của kết quả tổng hợp chi phí sản xuất. Do
vậy tổ chức tốt kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm để đảm bảo xác
định đúng nội dung, phạm vi chi phí cấu thành trong giá thành, xác định đúng
lượng giá trị các yếu tố chi phí đã dịch chuyển vào sản phẩm hoàn thành là
yêu cầu cấp bách và ngày càng phải hoàn thiện đổi mới công tác đó là rất cần
thiết đối với doanh nghiệp.
Xi măng là một trong số những ngành công nghiệp được hình thành sớm
nhất ở nước ta (cùng với ngành than, dệt, đường sắt). Đến nay, đã có khoảng
hơn 90 Công ty, đơn vị than trực tiếp sản xuất và phục vụ sản xuất xi măng
trong cả nước, trong đó khoảng 33 thành viên thuộc tổng công ty xi măng
Việt Nam, 5 công ty liên doanh, và hơn 50 công ty nhỏ và các trạm nghiền
khác nhau. Trong những năm qua ngành xi măng đóng góp một phần không
nhỏ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam, trung bình từ 10% - 12% GDP.
Vì thế Chính phủ xác định Xi măng là ngành phát triển chiến lược nhằm hỗ
trợ phát triển kinh tế. Do vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như nâng
cao lợi nhuận cho doanh nghiệp thì làm thế nào để tiết kiệm chi phí sản xuất,

hạ giá thành sản phẩm là một yêu cầu tất yếu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn trình bày có hệ thống, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận
chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành tại các doanh nghiệp.


8

Vận dụng những vấn đề lý luận vào thực tiễn để đánh giá thực trạng
công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty
TNHH Phú Tân.
Trên cơ sở hệ thống hóa, phân tích những vấn đề chung và nghiên cứu
khảo sát thực tế về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
Công ty TNHH Phú Tân, từ đó đưa ra một số nội dung và kiến nghị về hoàn
thiện kế toán trong lĩnh vực này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp;
Nghiên cứu thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
Công ty TNHH Phú Tân dưới góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài không nghiên cứu toàn bộ công tác kế toán mà
chỉ đi sâu vào nghiên cứu thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại công ty TNHH Phú Tân trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến
năm 2015 và đề xuất giải pháp cho các năm tiếp theo.
4. Tổng quan nghiên cứu của các công trình liên quan đến đề tài
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là chủ đề nghiên cứu
của rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước.Các công trình này
cũng đã đề cập đến mọi góc độ cần nghiên cứu.Có thể nói đây là đề tài được
nhiều người lựa chọn nhất cho đề tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, mỗi
người lại có cách nhìn nhận, suy nghĩ khác nhau làm đa dạng hơn những vấn

đề cần làm sáng tỏ.
Luận văn Thạc sỹ của tác giả Ngô Tuấn Anh, bảo vệ năm 2009 tại
trường Đại học Thương Mại với đề tài “Kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm cao su tại các doanh nghiệp trong khu công nghiệp và chế
xuất”. Về lý luận tác giả đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về kế toán tập


9

hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp sản xuất
như khái niệm, bản chất, mối quan hệ cũng như phân loại chi phí sản xuất và
các phương pháp tập hợp chi phí sản xuất … Về thực tế, qua phân tích chi phí
và tính giá thành sản phẩm cao su tại các doanh nghiệp trong các khu công
nghiệp và khu chế xuất, tác giả đã thấy được những ưu điểm, nhược điểm
cũng như bộ máy kế toán của doanh nghiệp được xây dựng tương đối hoàn
chỉnh, phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp,
phản ánh đầy đủ nội dung hạch toán, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý.
Doanh nghiệp đã xác định được đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là
từng nhóm, từng loại sản phẩm theo quy trình công nghệ sản xuất riêng góp
phần đơn giản hóa, giảm bớt khối lượng công việc trong phần hành kế toán
tập hợp chi phí sản xuất tạo cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm chính xác.
Luận văn Thạc sỹ của tác giả Lê Thúy Hà, bảo vệ năm 2011 tại Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân với đề tài “Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại Công ty cổ phần bia Sài Gòn – Hà Nam”. Trong luận văn này
tác giả đã đề cập đến lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm cả dưới góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị. Trong phần thực
trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tác giả cũng đã đề cập
dưới góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị từ đó đưa ra các giải pháp hoàn
thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ
phần bia Sài Gòn – Hà Nam.

Tác giả Vũ Thị Thanh Huyền – Trường Đại học Kinh tế quốc dân “Hoàn
thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh
nghiệp khai thác than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”. Về mặt lý luận, tác giả đã
trình bày và phân tích các quan điểm về chi phí và giá thành, phân tích đối tượng
tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành tại các doanh nghiệp sản xuất. Về mặt
thực tiễn, tác giả đã khái quát thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
tại một số công ty khai thác than, phân tích và nêu những vấn đề tồn tại về hạch


10

toán chi phí và phương pháp tính giá thành sản phẩm than và đề ra một số giải
pháp khắc phục những tồn tại về việc quản lý chi phí, hạch toán phần hành kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Luận văn thạc sỹ “ Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
tại Công ty Cổ phần đá ốp lát cao cấp Vinaconex” (tháng 10 năm 2013) của
tác giả Nguyễn Thị Hải Vân – Đại học Thương Mại. Về mặt lý luận, tác giả
đã trình bày và phân tích các quan điểm về chi phí và giá thành, phân tích đối
tượng tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành tại các doanh nghiệp sản xuất.
Về mặt thực tiễn, tác giả đã khái quát được thực trạng kế toán chi phí và tính
giá thành sản phẩm gạch ốp lát tại Công ty Cổ phần Vinaconex, phân tích và
nêu những vấn đề tồn tại trong cách hạch toán chi phí và phương pháp tính
giá thành sản phẩm gạch ốp lát.Bên cạnh những mặt đạt được thì luận văn còn
hạn chế vì chỉ tập trung về kế toán tài chính chưa quan tâm nhiều đến kế toán
quản trị chi phí trong công ty.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Mai bảo vệ năm 2013 tại
trường Đại học Kinh tế quốc dân với đề tài “Hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần Hoàng Long”.Tác giả
đã chỉ ra rất chi tiết và chặt chẽ những lý thuyết xung quanh vấn đề tập hợp
chi phí và tính giá thành sản phẩm. Cùng với đó là các giải pháp cụ thể dưới

góc độ kế toán quản trị như: phân loại chi phí và đưa ra được một mẫu báo
cáo quản trị cụ thể cho Công ty, xây dựng và đưa vào thực hiện hệ thống kế
toán quản trị chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Tác giả Hàn Minh Thu - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân “Hoàn thiện
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Cổ phần
Hương Nguyên GH5” (tháng 11 năm 2014).Cũng tương tự như các đề tài
khác, tác giả đã trình bày chi tiết cơ sở lý luận về chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất.Đề tài đề cập được đối tượng
tập hợp chi phí sản xuất, đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm


11

bánh đậu xanh tại Công ty Cổ phẩn Hương Nguyên GH5. Với số liệu cụ thể
trên sổ kế toán chi tiết, sổ cái các tài khoản 621, 622, 627, 154 kết hợp với các
phương pháp khảo sát thực tế; tác giả đã đề ra các giải pháp hoàn thiện kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty.
Trong luận văn thạc sỹ “Kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm tại
Công ty Cổ phần 26” (năm 2015) của Trần Thị Thu Hà – Đại học Thương Mại,
đã chỉ ra rất chi tiết và khá chặt chẽ những lý thuyết xung quanh vấn đề tập hợp
chi phí và tính giá thành sản phẩm. Tuy luận văn đã tiếp cận vấn đề trên hai
góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị, nhưng cách tiếp cận hai góc độ này
còn rời rạc, chưa chặt chẽ, trình bày riêng rẽ chưa đan xen với nhau để thấy
được sự khác biệt.
Qua các đề tài nghiên cứu này đã đưa ra các nội dung cơ bản của kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cả dưới góc độ kế toán tài chính và
góc độ kế toán quản trị, từ đó đề xuất các phương hướng hoàn thiện dưới cả hai
góc độ để ứng dụng vào các ngành cụ thể theo phạm vi nghiên cứu khác nhau
của từng đề tài. Mặc dù vậy, theo tác giả được biết chưa có một đề tài nào
nghiên cứu một cách chuyên sâu về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản

phẩm tại công ty TNHH Phú Tân. Vì vậy, có thể nói rằng đề tài “Kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Phú Tân” là một đề tài
không trùng lặp với các đề tài khác.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục kết
cấu của luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu của đề tài
Chương 2: Những lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất.
Chương 3: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Phú Tân.
Chương 4:Các kết luận và đề xuất nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Phú Tân


12

CHƯƠNG 2: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ
SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT
2.1. Một số vấn đề lý thuyết cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm
2.1.1. Một số định nghĩa, khái niệm liên quan đến kế toán chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm
2.1.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
a) Khái niệm chi phí sản xuất
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình biến đổi
một cách có ý thức và có mục đích các yếu tố sản xuất đầu vào để hình thành
các sản phẩm lao vụ, dịch vụ nhất định. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến
hành sản xuất kinh doanh nhất định phải kết hợp hài hòa cả 3 yếu tố: Tư liệu

lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Sự tham gia của cà 3 yếu tố
trên vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có sự khác nhau, từ đó hình
thành nên các chi phí sản xuất tương ứng.
Để đo lường các hao phí đã bỏ ra trong một kỳ nhất định nhằm tổng hợp
các chi phí, tính giá thành sản phẩm người ta dùng thước đo tiền tệ.
Theo chế độ kế toán Việt Nam: “Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền
về toàn bộ các hao phí lao động sống, lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã
bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất trong một thời kỳ”. Trong đó, chi phí
lao động sống bao gồm: Tiền lương, các khoản trích theo lương và các khoản
có tính chất lương. Còn lao động vật hóa bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu,
chi phí nhiên liệu….
Trên góc độ kế toán tài chính: Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện
bằng tiền toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh
nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một
thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm).


13

Chi phí của doanh nghiệp có thể hiểu là toàn bộ các hao phí về lao động
sống cần thiết, lao động vật hóa và các chi phí khác mà doanh nghiệp phải chi
ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
Trên góc độ kế toán quản trị, do mục đích của kế toán quản trị là cung
cấp thông tin thích hợp, hữu ích, kịp thời cho việc ra quyết định của nhà quản
trị. Vì vậy, ngoài việc nhận thức chi phí như trong kế toán tài chính, các nhà
quản trị còn cần phải nhận thức chi phí theo góc độ nhận diện thông tin để
phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh. Do đó, chi phí có thể là những phí
tổn thực tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được tổng
hợp theo từng bộ phận, từng trung tâm chi phí cũng như xác định giá trị hàng
hóa tồn kho trong từng khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ. Những chi phí

này có thể là những phí tổn được ước tính, dự kiến trước hoặc những phí tổn
mất đi do chọn phương án này thay cho phương án khác,…do đó không chú
trọng đến các chứng từ đảm bảo tính pháp lý như trong kế toán tài chính.
Có thể kết luận rằng: chi phí sản xuất có thể hiểu là toàn bộ các hao phí
về lao động sống cần thiết, lao động vật hóa và các chi phí khác mà doanh
nghiệp phải chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất.
b) Khái niệm giá thành sản phẩm
Một trong những nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung là nguyên tắc
hoạt động liên tục. Theo đó, quá trình hạch toán được thực hiện trên giả định
doanh nghiệp hoạt động vô thời hạn hoặc ít nhất không bị giải thể trong tương
lai gần.Trong quá trình đó, hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình
thường.Các chi phí sản xuất không ngừng phát sinh và chuyển hoá thành giá
trị của sản phẩm chế tạo. Việc xác định thời điểm, thời kỳ để tập hợp chi phí
sản xuất và tính toán xem để có được một khối lượng sản phẩm hoàn thành
nhất định, doanh nghiệp đã phải bỏ ra bao nhiêu chi phí, chỉ là một điểm ngắt
chủ quan của chủ thể quản lý. Do vậy, hiển nhiên là, tại thời điểm tính toán đó


14

thường tồn tại những sản phẩm đã được hoàn thành và những sản phẩm còn
đang chế tạo dở dang, chưa hoàn thành công đoạn sản xuất cuối cùng. Toàn
bộ chi phí sản xuất tập hợp được trong kỳ nằm trong giá trị của sản phẩm dở
dang cuối kỳ và sản phẩm hoàn thành trong kỳ.
Chi phí sản xuất tập hợp được tạo nên giá trị của sản phẩm hoàn thành
được gọi là giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí
về lao động sống vào lao động vật hóa mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến
khối lượng, công tác, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ.
Xét về bản chất giá thành là việc chuyển dịch vốn doanh nghiệp bỏ vào

quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hoàn thành, nó có chức năng là: thước
đo bù đắp chi phí và lập giá. Trên góc độ doanh nghiệp, việc tiết kiệm hay
lãng phí về CPSX ảnh hưởng trực tiếp đến việc giảm hay tăng giá thành sản
phẩm, đây là vấn đề các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm bởi vì giá thành sản
phẩm càng thấp thì hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao và ngược lại. Do
vậy, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là mục tiêu quan trọng của tất cả các
doanh nghiệp sản xuất.
Tóm lại, giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh
chất lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế tài chính
của doanh nghiệp. Giá thành được tính toán chính xác cho từng loại sản phẩm
hoặc lao vụ cụ thể (đối tượng tính giá thành) và chỉ tính toán xác định đối với
số lượng sản phẩm hoặc lao vụ đã hoàn thành khi kết thúc một số giai đoạn
công nghệ sản xuất (Nửa thành phẩm).
2.1.2. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Nhằm mục đích tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một
cách chính xác, đầy đủ, thì công việc đầu tiên các nhà quản lý phải thực hiện đó
là xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lý luận và thực tế kế toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.


15

2.1.2.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất thực chất là xác định nơi phát
sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi
giới hạn mà chi phí sản xuất cần được tập hợp nhằm phục vụ cho việc kiểm soát
chi phí và tính giá thành sản phẩm.
Để xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất thì cần phải căn
cứ vào:

- Đặc điểm và công dụng của chi phí;
- Đặc điểm tổ chức và quản lý sản xuất của doanh nghiệp;
- Quy trình công nghệ sản xuất và chế tạo sản phẩm;
- Yêu cầu kiểm tra, kiểm soát chi phí của doanh nghiệp;
- Yêu cầu tính giá thành theo các đối tượng tính giá;
- Khả năng, trình độ quản lý, trình độ kế toán của doanh nghiệp.
Tùy thuộc vào đặc điểm tình hình cụ thể mà đối tượng kế toán tập hợp
chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp có thể là:
- Từng sản phẩm, chi tiết sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng;
- Từng phân xưởng giai đoạn công nghệ sản xuất;
- Toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất, toàn doanh nghiệp.
Xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là cơ sở, là tiền đề
quan trọng để kiểm tra, kiểm soát quá trình phát sinh chi phí, tăng cường trách
nhiệm vật chất đối với các bộ phận và cung cấp số liệu cần thiết cho việc tính
các chỉ tiêu giá thành.
2.1.2.2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm
Đối tượng tính giá thành là xác định sản phẩm, bán thành phẩm, công
việc, lao vụ đòi hỏi phải tính giá thành đơn vị.
+ Xác định đối tượng giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán thành
phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối


16

tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay trên
dây chuyền sản xuất tùy theo mục tiêu bán ra sản phẩm gì của quá trình sản xuất
ra sản phẩm;
+ Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất đơn chiếc thì từng sản phẩm được
xác định là đối tượng tính giá thành. Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất hàng
loạt theo đơn đặt hàng thì từng loại sản phẩm và đơn vị sản phẩm thuộc từng

đơn đặt hàng hoàn toàn là đối tượng tính giá thành. Doanh nghiệp tổ chức sản
xuất khối lượng lớn, mặt hàng ổn định thì từng loại sản phẩm, dịch vụ và đơn
vị sản phẩm dịch vụ sản xuất hoàn thành là đối tượng tính giá thành;
+ Đối với doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn thì đối
tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành cuối cùng của quy trình công
nghệ còn các doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp thì khối
lượng tính giá thành có thể là nửa thành phẩm ở từng giai đoạn và thành phẩm
hoàn thành ở giai đoạn công nghệ cuối cùng và cũng có thể là từng bộ phận,
từng chi tiết sản phẩm của sản phẩm đã lắp ráp hoàn thành.
2.1.3. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Xuất phát từ sự khác nhau cơ bản giữa hạch toán chi phí sản xuất và đối
tượng tính giá thành sản phẩm mà có sự phân biệt giữa phương pháp hạch
toán chi phí và phương pháp tính giá thành sản phẩm.
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ
thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản
xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản,
phương pháp hạch toán chi phí bao gồm các phương pháp hạch toán chi phí
theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân
xưởng, … Về thực chất, khi vận dụng các phương pháp hạch toán chi phí sản
xuất trong công tác kế toán hàng ngày chính là việc mở các sổ, thẻ chi tiết
hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các chi


17

phí phát sinh có liên quan đến từng đối tượng. Mỗi phương pháp hạch toán
chi phí ứng với một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên gọi của phương
pháp này biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí. Cụ thể
một số phương pháp tập hợp chi phí như sau:
a) Phương pháp trực tiếp

Phương pháp này áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát sinh
có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng kế toán chi phí sản xuất riêng biệt.
Kế toán căn cứ vào chứng từ gốc để hạch toán trực tiếp cho từng đối tượng
riêng biệt.
Phương pháp này đảm bảo tính chính xác cao trong việc tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo đúng đối tượng.
b) Phương pháp phân bổ gián tiếp
Áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến nhiều
đối tượng chịu chi phí, không tổ chức ghi chép ban đầu riêng cho từng đối tượng
chịu phí.
Theo phương pháp này, khi chi phí phát sinh được tập hợp lại, sau đó
phân bổ cho các đối tượng theo tiêu thức thích hợp. Việc phân bổ tiến hành
cụ thể như sau:
Bước 1: Xác định hệ số phân bổ H
Tổng chi phí cần phân bổ C
(2.3)
Tổng tiêu thức phân bổ T
Bước 2: Xác định mức chi phí phân bổ cho từng đối tượng
H

=

Ci = Ti * H
Trong đó:

(2.4)

Ci: Chi phí phân bổ cho đối tượng i
Ti: Tiêu thức phân bổ của đối tượng i


[Nguồn: 8, tr 97]
2.2. Ảnh hưởng chuẩn mực kế toán Việt Nam đến Kế toán chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm


18

2.2.1. Chuẩn mực số 01
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01- VAS 01 ban hành kèm theo
quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2002, kế toán chi phí
trong doanh nghiệp sản xuất cần tuân thủ 7 nguyên tắc kế toán sau:
Cơ sở dồn tích: Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên
quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải
được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực
tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền. Báo cáo tài chính lập trên
cơ sở dồn tích phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ,
hiện tại và tương lai.
Như vậy, các loại chi phí trong doanh nghiệp phải được ghi nhận vào
“thời điểm phát sinh” mà không phải là thời điểm thực tế thu tiền, chi tiền. Từ
đó thì báo cáo tài chính là có ích cho việc ra quyết định của các đối tượng sử
dụng báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Hoạt động liên tục: Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định
là doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh
bình thường trong tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp không có ý định cũng
như không buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể quy mô
hoạt động của mình.
Bởi khi một doanh nghiệp sản xuất nói riêng và các doanh nghiệp nói
chung hoạt động liên tục thì giá trị của tài sản được ghi nhận theo nguyên tắc
giá gốc mà không quan tâm đến giá thị trường. Nguyên tắc hoạt động liên tục
là nguyên tắc tiền đề để có thể thực hiện được các nguyên tắc kế toán, chính

sách kế toán trong việc hạch toán kế toán nói chung và kế toán chi phí và giá
thành sản phẩm nói riêng. Trường hợp thực tế khác với giả định hoạt động
liên tục thì báo cáo tài chính phải lập trên một cơ sở khác và phải giải thích cơ
sở đã sử dụng để lập báo cáo tài chính.
Giá gốc: Tài sản phải được ghi nhận theo giá gốc. Giá gốc của tài sản
được tính theo số tiền hoặc khoản tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính


19

theo giá trị hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận. Giá gốc
của tài sản không được thay đổi trừ khi có quy định khác trong chuẩn mực kế
toán cụ thế.
Tức là mọi tài sản trong doanh nghiệp sản xuất đều phải được ghi nhận
theo số tiền hoặc khoản tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính theo giá trị
hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận.
Phù hợp: Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau.
Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương
ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí tương ứng với doanh
thu gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi
phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó.
Nhất quán: Các chính sách và phương pháp kế toán doanh nghiệp đã chọn
phải được áp dụng thống nhất ít nhất trong một kỳ kế toán năm như phương
pháp khấu hao TSCĐ, phương pháp tính giá trị hàng tồn kho, phương pháp hạch
toán hàng tồn kho… Trường hợp có thay đổi chính sách và phương pháp kế toán
đã chọn thì phải giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần
thuyết minh báo cáo tài chính.
Nguyên tắc nhất quán đảm bảo việc tính toán, phân tích, đánh giá các chỉ
tiêu kinh tế nói chung và kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp sản xuất nói riêng được chính xác, các thông tin kế toán sẽ có

tính so sánh giữa các kỳ kế toán, giữa các số liệu kế toán. Do vậy, việc đánh
giá tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được chính xác.
Thận trọng: Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết
để lập các ước tính kế toán trong các điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc
thận trọng đòi hỏi: Phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn,
không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập, không
đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí, doanh thu và


20

thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn về khả năng thu
được lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả
năng phát sinh chi phí.
Trong quá trình hạch toán chi phí tại doanh nghiệp, việc ghi nhận các
khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất
chung trên mức bình thường vào giá vốn hàng bán và thực hiện nguyên tắc
thận trọng trong hạch toán chi phí.
Trọng yếu: Thông tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu
thông tin hoặc thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể
báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng
báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của thông
tin hoặc các sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể.Tính trọng yếu của
thông tin phải được xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính.
Nguyên tắc này chú trọng đến các yếu tố, các khoản mục chi phí mang
tính chất trọng yếu quyết định bản chất, nội dung của các sự kiện kinh tế đồng
thời cho phép không nhất thiết phải ghi nhận theo đúng bản chất của các
nghiệp vụ, sự vật, hiện tượng nếu như không làm ảnh hưởng đến tính tin cậy
của thông tin kế toán. Tuân thủ nguyên tắc này trong kế toán chi phí sản xuất
sẽ làm cho chi phí sản xuất của doanh nghiệp không mang tính chính xác mà

mang tính tin cậy nhưng lại không làm ảnh hưởng đến bản chất của nghiệp vụ.
Chi phí sản xuất kinh doanh phát sinh trong quá trình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp như giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản
lý doanh nghiệp, chi phí lãi tiền vay và các chi phí liên quan đến hoạt động
cho các bên khác sử dụng tài sản sinh ra lợi tức, tiền bản quyền… Những chi
phí này phát sinh dưới dạng tiền và các khoản tương đương tiền, hàng tồn
kho, khấu hao máy móc, thiết bị. Chi phí sản xuất được ghi nhận trong báo
cáo kết quá hoạt động kinh doanh khi các khoản chi phí này làm giảm bớt lợi


21

ích kinh tế trong tương lai có liên quan đến việc giảm bớt tài sản hoặc tăng nợ
phải trả và chi phí này phải được xác định một cách đáng tin cậy. Các chi phí
sản xuất được ghi chép trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phải tuân
thủ theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí.
2.2.2. Chuẩn mực số 02
Đối tượng điều chỉnh của chuẩn mực này là hàng tồn kho, là những tài
sản được giữ để bán trong kỳ SXKD bình thường (thành phẩm) hay đang
trong quá trình SXKD dở dang (bán thành phẩm hay các sản phẩm dở dang)
và các nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ sản xuất. Như vậy, đối tượng mà
chuẩn mực này điều chỉnh cũng chính là đối tượng kế toán tập hợp CPSX và
GTSP trong các doanh nghiệp. Điều này lý giải tại sao đây là chuẩn mực
mang tính chất nền tảng đối với công tác hạch toán kế toán CPSX và GTSP.
Nội dung chính của chuẩn mực đề cập đến cách xác định trị giá của hàng tồn
kho theo phương pháp giá gốc. Các chi phí được tính vào giá gốc của hàng
tồn kho bao gồm:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm giá mua của hàng tồn kho
và chi phí mua hàng (bốc xếp, vận chuyển, bảo quản trong quá trình mua
NVL,…). Các khoản chiết khấu thương mại và giảm giá hàng mua do hàng

mua không đúng quy cách, phẩm chất được trừ khỏi chi phí mua.
Trong ngành công nghiệp sản xuất xi măng, khi xuất kho NVL phục vụ
cho nhu cầu sản xuất, giá gốc của hàng tồn kho được xác định theo 3 phương
pháp tính trị giá hàng tồn kho sau:
+ Phương pháp tính theo giá đích danh: phương pháp này được áp dụng
đối với doanh nghiệp có ít loại mặt hàng hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện
được. Đây là phương pháp tuân thủ nguyên tắc phù hợp của kế toán, chi phí
thực tế phù hợp với doanh thu thực tế. Giá trị của hàng xuất kho đem bán phù
hợp với doanh thu mà nó tạo ra. Hơn nữa, giá trị hàng tồn kho được phản ánh


22

theo đúng giá trị thực tế của nó.
+ Phương pháp bình quân gia quyền: Theo phương pháp này, giá trị của
từng loại hàng tồn kho được tính theo giá trị trung bình của từng loại hàng tồn
kho tương tự đầu kỳ và giá trị từng loại hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất
trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo thời kỳ hoặc vào mỗi lần
nhập xuất hàng, phụ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp. Công thức tính giá
bình quân gia quyền:
Đơn giá bình quân

=

Trị giá thực tế tồn ĐK + Trị giá nhập trong kỳ

SLSP tồn đầu kỳ + SLSP nhập trong kỳ
+ Phương pháp nhập trước – xuất trước (FIFO): Phương pháp này áp dụng

dựa trên giả định là hàng tồn kho được mua trước hoặc sản xuất trước thì được

xuất trước và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là hàng tồn kho được mua hoặc sản
xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho
được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá
trị của hàng tồn kho được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ
hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm các chi phí về lương, các khoản
phụ cấp có tính chất lương và các khoản trích theo lương theo quy định của
pháp luật.
- Chi phí sản xuất chung: là các chi phí khác có liên quan trực tiếp đến
quá trình sản xuất bao gồm CPSX chung cố định và CPSX chung biến đổi.
+ CPSX chung cố định là những CPSX gián tiếp, thường không thay đổi
theo số lượng sản phẩm sản xuất như chi phí khấu hao, chi phí bảo dưỡng
máy móc thiết bị, nhà xưởng, chi phí quản lý hành chính ở các phân xưởng
sản xuất… Chi phí SXC cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị
sản phẩm được dựa trên công suất bình thường của máy móc sản xuất. Nếu
mức sản phẩm thực tế sản xuất ra cao hơn công suất bình thường thì CPSX


23

chung cố định được phân bổ cho mỗi đơn vị sản phẩm theo chi phí thực tế
phát sinh. Còn nếu mức sản phẩm thực tế sản xuất ra thấp hơn công suất bình
thường thì CPSX chung cố định chỉ được phân bổ vào chi phí chế biến cho
mỗi đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình thường. Khoản CPSX chung
không phân bổ được ghi nhận là CPSX kinh doanh trong kỳ.
+ CPSX chung biến đổi là những chi phí sản xuất gián tiếp, thường thay đổi
trực tiếp hoặc gần như trực tiếp theo số lượng sản phẩm sản xuất như chi phí
NVL trực tiếp, vật tư gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp. CPSX chung biến
đổi được phân bổ hết vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm theo chi phí
thực tế phát sinh.

Như vậy, có thể thấy quá trình kế toán tập hợp CPSX và tính GTSP
trong ngành công nghiệp sản xuất xi măng về thực chất cũng là quá trình xác
định giá trị của hàng tồn kho theo nguyên tắc giá gốc. Vì vậy mà GTSP sản
xuất hoàn thành trong kỳ bao gồm ba yếu tố CPSX kể trên có liên quan trực
tiếp đến quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm của doanh nghiệp. Bên cạnh đó
chuẩn mực cũng đưa ra hướng dẫn giúp loại bỏ các chi phí không tính vào giá
gốc của hàng tồn kho hay các chi phí cần loại trừ khi tính GTSP đó là: Chi phí
nguyên liệu, vật liệu, chi phí nhân công và các CPSX kinh doanh khác phát
sinh trên mức bình thường; chi phí bảo quản hàng tồn kho (trừ các khoản chi
phí bảo quản hàng tồn kho cần thiết cho quá trình sản xuất tiếp theo) và chi
phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
2.2.3. Chuẩn mực số 16
Chi phí đi vay là lãi tiền vay và các chi phí khác phát sinh liên quan trực
tiếp đến các khoản vay của doanh nghiệp bao gồm:
- Lãi tiền vay ngắn hạn, lãi tiền vay dài hạn, kể cả lãi tiền vay trên các
khoản thấu chi.


24

- Phần phân bổ các khoản chiết khấu hoặc phụ trội phát sinh liên quan
đến những khoản vay do phát hành trái phiếu.
- Phần phần bổ các khoản chi phí phụ phát sinh liên quan đến quá trình làm
thủ tục vay.
- Chi phí tài chính của tài sản thuê tài chính.
Theo quy định của chuẩn mực này thì chi phí đi vay phải ghi nhận vào
chi phí SXKD trong kỳ khi phát sinh. Chi phí đi vay liên quan trực tiếp đến
việc sản xuất tài sản dở dang được tính vào giá trị của tài sản đó (được vốn
hóa), các khoản đi vay được vốn hóa khi doanh nghiệp chắc chắn thu được lợi
ích kinh tế trong tương lai do sử dụng tài sản đó và chi phí đi vay có thể xác

định được một cách đáng tin cây. Các trường hợp xác định chi phí vay được
vốn hóa:
+ Trường hợp khoản vốn vay riêng biệt chỉ sử dụng cho mục đích sản
xuất một tài sản dở dang thì chi phí đi vay có đủ điều kiện vốn hóa cho tài sản
dở dang đó sẽ được xác định là chi phí đi vay thực tế phát sinh từ các khoản
vay trừ đi các khoản thu nhập phát sinh từ hoạt động đầu tư tạm thời của các
khoản vay này.
Chuẩn mực này cũng quy định thời điểm bắt đầu vốn hóa chi phí đi vay
vào giá trị tài sản dở dang khi thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:
+ Các chi phí cho việc đầu tư xây dựng hoặc sản xuất tài sản dở dang bắt đầu
phát sinh.
+ Các chi phí đi vay phát sinh.
+ Các hoạt động cần thiết trong việc chuẩn bị đưa tài sản dở dang vào sử
dụng hoặc bán đang được tiến hành.


25

2.3. Kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm theo quan điểm
kế toán tài chính
2.3.1. Kế toán chi phí sản xuất
2.3.1.1. Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên, vật liệu chính,
vật liệu phụ, nhiên liệu,… được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản
phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng
đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó.
Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi
phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp
phân bổ gián tiếp tuân theo những tiêu thức nhất định.
- Chứng từ sử dụng: Phiếu xuất kho, hóa đơn giá trị gia tăng, hóa đơn

mua hàng, biên bản kiểm nghiệm vật tư ...
- Quy trình luân chuyển chứng từ: Quy trình luân chuyển chứng từ liên
quan đến chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể khái quát như sau:
+ Khi xuất vật tư cho phân xưởng sản xuất, thủ kho căn cứ vào “Phiếu
xuất kho” được lập để xuất vật tư cho phân xưởng sản xuất. Nếu vật tư mua
ngoài dùng ngay cho sản xuất thì chứng từ được sử dụng để hạch toán là “Hóa
đơn mua hàng” hoặc “Hóa đơn giá trị gia tăng”, “Phiếu chi”, “Giấy báo
Nợ”...;
+ Từ các chứng từ trên, kế toán vào Sổ chi tiết tài khoản 621. Bảng kê
xuất vật tư, Bảng kê nhập - xuất - tồn;
+ Đồng thời, kế toán căn cứ vào các chứng từ gốc để phản ánh vào các
sổ tổng hợp như sổ Nhật ký chung, sổ Cái ...
Tài khoản sử dụng: Theo thông tư 200/2014/TT-BTC thay thế cho
quyết định 15/2006/QĐ-BTC, ban hành ngày20/3/2006 về hệ thống tài khoản
kế toán, Ban hành “Chế độ kế toán doanh nghiệp” áp dụng cho tất cả các


×