Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

luận văn thạc sĩ quản lý nhà nƣớc về phát triển bền vững làng nghề trên địa bàn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.58 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
------- š&› -------

TRƯƠNG QUỐC ĐẠT

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
------- š&› -------

TRƯƠNG QUỐC ĐẠT

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 34 04 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS HOÀNG VĂN THÀNH

HÀ NỘI, NĂM 2016


3

MỤC LỤC


4

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1
2
3
4
5

BVMT
CCN
CNH, HÐH
CTCP
CTTNHH


Bảo vệ môi trường
CCN
CNH, HĐH
Công ty cổ phần
Công ty trách nhiệm hữu hạn

6

DN

Doanh nghiệp

7

HĐND

Hội đồng nhân dân

8

HTX

Hợp tác xã

9

KCN

Khu công nghiệp


10

SXKD

Sản xuất kinh doanh

11

SXNN

Sản xuất nông nghiệp

12

TCCP

Tiêu chuẩn cho phép

13

TN&MT

Tài nguyên & môi trường

14

TP

Thành phố


15

TSCĐ

Tài sản cố định

16

TTCN

Tiểu thủ công nghiệp

17
18

QLNN
UBND

Quản lý nhà nước
Ủy ban nhân dân

19

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới


5


DANH MỤC CÁC BẢNG

STT

Bảng

1

Bảng 2.1

2

Bảng 2.2

3

Bảng 2.3

Nội dung
Số lượng làng nghề và cơ cấu ngành nghề của tỉnh
Bắc Ninh

Trang

39

Các loại sản phẩm của làng nghề

45


Tình hình tiêu thụ sản phẩm chủ yếu năm 2014 của

46

một số Làng nghề phát triển


6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam là đất nước có truyền thống lâu đời với nhiều làng nghề truyền
thống. Sự tồn tại và phát triển của các làng nghề đã và đang đóng góp tích cực cho
sự phát triển kinh tế khu vực nông thôn, giúp giải quyết công ăn việc làm, tăng thu
nhập cho người nông dân, góp phần quan trọng và sự nghiệp xây dựng nông thôn
mới và công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước.
Trong những năm gần đây với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường, của khoa
học công nghệ và chủ đạo là xu thế toàn cầu hóa, các làng nghề có những cơ hội để
phát triển, nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức phải đối mặt. Thách thức
lớn nhất mà các làng nghề phải đối mặt là tìm ra một hướng đi đúng đắn để tồn tại
và phát triển. Bên cạnh đó, muốn cho các làng nghề tồn tại và phát triển tốt, nhà
nước cũng cần phải có những chính sách ưu đãi để tháo gỡ bớt những khó khăn
nhằm tiếp sức thêm cho các làng nghề vượt qua những khó khăn trước mắt từ đó tạo
đà phát triển đi lên góp phần vào sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ - khu vực kinh tế năng động, tỉnh
Bắc Ninh đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian qua. Bối cảnh
phát triển kinh tế mới đang đưa đến nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng không ít
khó khăn, thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Để đạt
được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nói chung và công nghiệp hoá nông

nghiệp nông thôn nói riêng như đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ XVIII và Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2015. Tỉnh uỷ,
UBND tỉnh Bắc Ninh xác định các làng nghề là tiềm năng, là thế mạnh của tỉnh
trong phát triển kinh tế xã hội nói chung và tiến trình công nghiệp hoá nông nghiệp
nông thôn của tỉnh nói riêng.
Từ năm tái lập tỉnh (năm 1997) đến nay, giá trị sản xuất do làng nghề tạo ra
chiếm từ 75-80% giá trị sản xuất của khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh và
chiếm trên 30% giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn.
Xuất phát từ những khó khăn và thách thức của làng nghề truyền thống trong
quá trình cạnh tranh với các mặt hàng công nghiệp trong thời đại CNH - HĐH hiện
nay, vấn đề bức thiết đặt ra là làm thế nào để bảo tồn và phát triển các làng nghề
truyền thống, đủ sức cạnh tranh để tiếp tục tồn tại và phát triển. Khó khăn của các
làng nghề truyền thống hiện nay là nguồn vốn đầu tư cho sản xuất còn hạn chế,
trong khi đó nguồn vốn vay còn khó, số lượng vay không nhiều, cùng với thủ tục
hành chánh rườm rà cũng tạo tâm lý e dè cho các hộ sản xuất. Khó khăn tiếp theo là


7

thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định dẫn đến quá trình sản xuất cũng bị
động, mang tính cầm chừng nên các hộ sản xuất không mạnh dạn đầu tư. Nguồn
nhân lực cũng đang là một bài toán khó đối với các làng nghề truyền thống. Đa
phần người lao động chọn làm công nhân ở các xí nghiệp vì có nguồn thu nhập ổn
định mà yếu tố công việc không đòi hỏi sức khỏe, ít nặng nhọc, độc hại...
Chính vì những lý do nêu trên mà các làng nghề truyền thống thời gian qua đã
gặp không ít khó khăn và thách thức trong việc bảo tồn và phát triển. Do vậy, việc
đề xuất các giải pháp thiết thực và hiệu quả để giúp các làng nghề truyền thống vượt
qua khó khăn, tiếp tục phát triển và đóng góp cho đất nước là một nhiệm vụ quan
trọng. Phát triển các làng nghề là một trong những mục tiêu quan trọng thúc đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn của tỉnh Bắc Ninh, nó

không chỉ góp phần tạo việc làm lúc nông nhàn mà còn tạo nên những dấu ấn, bản
sắc văn hoá của mỗi địa phương qua các sản phẩm văn hoá lưu giữ từ đời này sang
đời khác. Vì vậy, nghiên cứu đề ra những giải pháp đổi mới quản lý nhà nước để
thúc đẩy sự phát triển của các làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đang là đòi hỏi
khách quan và cấp thiết. Xuất phát từ nhận thức đó, tác giả chọn đề tài: “Quản lý
nhà nước về phát triển bền vững làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” để nghiên
cứu.
Luận văn tập trung vào trả lời câu hỏi: “Thực trạng phát triển bền vững và
quản lý nhà nước đối với các làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh thời gian qua
như thế nào? Giải pháp nào để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với phát
triển bền vững các làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 2015 đến năm
2020?”
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài, ở Việt Nam có một số đề tài sau:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Xây dựng và phát triển mô hình làng nghề
du lịch tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ ” của GS.TS Hoàng Văn Châu. Tác giả đã
làm rõ những vấn đề lý luận về làng nghề, làng nghề truyền thống, làng nghề du
lịch cũng như tiềm năng và sự cần thiết phải phát triển mô hình làng nghề du lịch tại
một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Đã tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng và phát triển
làng nghề gắn với hoạt động du lịch của Nhật bản, thái Lan, Trung Quốc và
Malaysia từ đó rút ra những bài học đối với Việt Nam. Đã phân tích và đánh giá
thực trạng làng nghề, làng nghề du lịch tại một số tỉnh đồng bằng Bắc bộ, từ thực
trạng đáp ứng yêu cầu du lịch tại các làng nghề, đến tình hình khách du lịch cũng
như mô hình tổ chức quản lý và cơ chế quản lý làng nghề du lịch. Đã đề xuất các
mô hình tổ chức quản lý làng nghề du lịch, một số tour du lịch làng nghề chủ yếu


8

cũng như các phương án xây dựng và phát triển các làng nghề du lịch tại các tỉnh

đồng bằng Bắc Bộ.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Như Chung về “Quá trình hoàn thiện các chính
sách thúc đẩy phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 đến 2003 thực
trạng, kinh nghiệm và giải pháp”. Đề tài đã đề cập tới thực trạng về chính sách quản
lý nhà nước đối với làng nghề và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện chính sách
quản lý nhà nước thúc đẩy sự phát triển của làng nghề.
Luận án tiến sỹ của Mai Thế Hờn về “ Phát triển làng nghề truyền thống trong
quá trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá ở vùng ven thủ đô Hà Nội.” Đề tài đã đề
cập tới vấn đề quy hoạch, kế hoạch phát triển làng nghề, đã đề cập đến vấn đề phát
triển thị trường, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ cho sự phát triển làng
nghề. Đề tài còn đề cập đến chính sách của Nhà nước đối với việc phát triển làng
nghề truyền thống trong quá trình Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá.
Luận văn Thạc sỹ của Vũ Thu Hà năm 2002 về “ Khôi phục và phát triển làng
nghề ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng - Thực trạng và giải pháp.” Tác giả
đã nghiên cứu thực trạng làng nghề truyền thống ở nông thôn vùng đồng bằng sông
Hồng và đưa ra giải pháp về qui hoạch, kế hoạch khôi phục và phát triển làng nghề
truyền thống, đưa ra giải pháp về đào tạo lao động, cán bộ quản lý, thị trường tiêu
thụ, đổi mới công nghệ, chính sách của nhà nước để phát triển làng nghề truyền
thống.
Luận văn thạc sỹ của Trần Văn Hiến năm 2006 về “ Tín dụng của ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng
Nam.” Tác giả đã nghiên cứu thực trạng công tác tín dụng ngân hàng nông nghiệp
của tỉnh Quảng Nam đối với sự phát triển làng nghề của tỉnh; đồng thời tác giả đã
đưa ra dự báo sự phát triển của làng nghề, của tín dụng ngân hàng nông nghiệp đến
năm 2012, đưa ra cơ chế, chính sách cho vay để khuyến khích làng nghề phát triển.
Ngoài ra còn một số luận văn lý luận chính trị cao cấp năm 2006 về “Phát
triển làng nghề truyền thống trong nền kinh tế thị trường hiện nay trên địa bàn
huyện Đức Thọ - Hà Tĩnh “của Thạc sỹ Nguyễn Quốc Hải và luận văn thạc sỹ năm
2006 về “ Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế “ của Nguyễn Trọng Tuấn cũng đều đề cập đến thực trạng làng nghề truyền

thống của các địa phương khác nhau; đồng thời cũng đưa ra những giải pháp về qui
hoạch kế hoạch phát triển nghề truyển thống và đặt vấn đề thị trường tiêu thụ, đổi
mới công nghệ, chính sách, đào tạo nguồn lao động để làng nghề được phát triển
trong điều kiện Việt Nam thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và gia nhập
tổ chức thương mại thế giới WTO.


9

Nhìn chung các công trình nghiên cứu kể trên đã đi nghiên cứu những khía
cạnh khác nhau của làng nghề và đưa ra những giải pháp pháp phát triển làng
nghề… cho đến nay chưa có công trình nào đi vào nghiên cứu chuyên sâu về quản
lý nhà nước đối với làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là đề xuất quản lý nhà nước về phát triển bền vững
làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận của Quản Lý Nhà Nước về phát triển bền
vững làng nghề tại mỗi địa phương.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát triển bền vững làng
nghề của tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất giải pháp về quản lý nhà nước về phát triển bền vững các làng nghề
của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 2016 đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý nhà nước đối với các
làng nghề của tỉnh Bắc Ninh.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước của chính quyền cấp
tỉnh nhưng đặt trong khuôn khổ của chính sách, chế độ quản lý làng nghề của CP.
Về nội dung nghiên cứu là: Quản lý nhà nước về phát triển bền vững LN.
Về không gian nghiên cứu là: Làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Về thời gian nghiên cứu là: từ năm 2010 đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của quản lý kinh tế như :
5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu
Trong luận văn này, tác giả sẽ sử dụng các dữ liệu thứ cấp được thu thập từ
các báo cáo, số liệu thống kê của Sở Công Thương tỉnh Bắc Ninh – đơn vị quản lý
Nhà nước về Làng Nghề trên địa bàn. Bên cạnh đó để phục vụ quá trình nghiên cứu,
tác giả sẽ thu thập các dữ liệu từ các bài viết, đề tài của các cơ quan, cá nhân khác.
5.2. Phương pháp phân tích dữ liệu
Trong luận văn, tác giả sẽ sử dụng phương pháp so sánh để đánh giá thực
trạng quản lý nhà nước về phát triển bền vững làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.


10

Ngoài ra tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng hợp các dữ liệu đã thu thập
được từ các báo cáo của Sở Công Thương tỉnh Bắc Ninh, từ đó nhận định các yếu tố
ảnh hưởng tới tình hình phát triển bền vững làng nghề trên địa bàn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được
kết cấu gồm 3 chương.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ CỦA MỘT ĐỊA
PHƯƠNG.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG CÁC LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BẮC NINH



11

Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ CỦA MỘT ĐỊA PHƯƠNG
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI LÀNG NGHỀ
1.1.1. Khái quát về làng nghề
1.1.1.1. Khái niệm làng nghề
Lịch sử phát triển Việt Nam gắn liền với đơn vị hành chính làng xã, cũng là
nơi sinh sống và làm việc của người dân. Trong luỹ tre làng là cả xã hội thu nhỏ với
các mối liên kết đan xen trong cuộc sống và trong công việc.
Làm ruộng không chỉ là một nghề nghiệp chủ yếu mà còn là một cách
sống, một đặc trưng văn hoá của hầu hết cư dân ở các làng xã ở Việt Nam.
Trong quá trình phát triển, một bộ phận dân cư tách ra và làm nghề khác và hình
thành nên các Làng Nghề. Các làng nghề có một vai trò đặc biệt quan trọng trong sự
phát triển nông thôn Việt Nam.
Theo từ điển tiếng Việt:
“Làng là một khối người quần tụ ở một nơi nhất định trong nông thôn. Làng là
một tế bào xã hội của người Việt, là một tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng
giềng. Đó là một không gian lãnh thổ nhất định, ở đó tập hợp những người dân quần
tụ lại cùng sinh sống và sản xuất.” Còn “ Nghề là công việc chuyên làm theo sự
phân công lao động của xã hội.”
Làm ruộng không chỉ là một nghề nghiệp chủ yếu mà còn là một cách
sống, một đặc trưng văn hoá của hầu hết cư dân ở các làng xã ở Việt Nam.
Trong quá trình phát triển, một bộ phận dân cư tách ra và làm nghề khác. Ban
đầu, các nghề phi nông nghiệp xuất hiện ở một số hộ gia đình, nhưng rồi trong
quá trình phát triển và chuyên môn hoá sản xuất, số hộ gia đình và số người
làm nghề tăng lên, dần chiếm đa số. Lúc này, làng nghề được hình thành, trở thành

tên gọi thậm chí là “thương hiệu” trong vùng và cả nước. Từ đó mà các nghề được
lan truyền và phát triển thành làng nghề. Bên cạnh những người chuyên làm nghề
thì đa phần vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm nghề (nghề phụ), nhưng do nhu cầu
trao đổi hàng hoá mà các nghề mang tính chuyên môn cao hơn và thường chỉ giới
hạn trong qui mô nhỏ (làng).
Từ cách tiếp cận đó, các nhà nghiên cứu có đưa ra một số khái niệm về làng
nghề:


12

Trong cuốn “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH - HĐH”
của TS Mai Thế Hởn khái niệm về làng nghề được hiểu như sau: “Làng nghề là
cụm dân cư sinh sống trong một thôn, có một hay một số nghề tách ra khỏi nông
nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các ngành đó chiếm tỷ lệ cao
trong tổng số thu nhập.”
Cũng dựa trên khái niệm làng nghề của TS Mai Thế Hởn, TS Đỗ Quang Dũng
đã phân tích sâu hơn về mặt thu nhập từ đó đưa ra khái niệm: “Làng nghề là làng ở
nông thôn có một hay có một số nghề thủ công hầu như được tách hẳn khỏi nông
nghiệp, kinh doanh độc lập và đạt tới một tỷ lệ nhất định về lao động làm nghề cũng
như mức thu nhập từ nghề so với tổng số thu nhập và lao động của làng nghề.”
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lại đưa ra khái niệm làng nghề như
sau: “Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum,
sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động
ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau”.
Như vậy chúng ta thấy rằng: chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh và thống
nhất về “ làng nghề ”. Theo tác giả, Làng nghề là một không gian kinh tế nhất định,
được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, chủ yếu liên quan tới các nghề thủ công
và một số dịch vụ, trong đó lao động và thu nhập từ nghề này chiếm tỷ trọng lớn
hơn.

1.1.1.2. Đặc điểm của làng nghề
Làng nghề ở nông thôn Việt Nam có từ rất lâu, phát triển rất đa dạng, phong
phú và có đặc điểm sau:
- Thứ nhất: Làng nghề Việt Nam đa dạng về cơ cấu ngành hàng và chủng loại
mặt hàng và gắn chặt với sản xuất nông nghiệp.
Đặc điểm này xuất phát từ chính cơ sở hình thành ban đầu của làng nghề là
khai thác lợi thế tại chỗ và phục vụ nhu cầu dân cư trong vùng. Do nhu cầu việc làm
và thu nhập mà ban đầu người nông dân đã làm nghề thủ công và coi đó là nghề phụ
làm thêm bên cạnh nghề làm ruộng vào những lúc thời gian nhàn rỗi hoặc sử dụng
lao động nhàn rỗi. Ngoài ra, trong bối cảnh nền sản xuất nhỏ, nặng về tự cung tự
cấp nên làng nghề là nguồn cung cấp nhiều loại hàng hoá thiết yếu cho dân cư
trong nhiều thế kỷ. Lúc đầu nghề thủ công chủ yếu là sản xuất và sửa chữa những
sản phẩm phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống như nghề dệt vải, nghề rèn, đan
lát, nghề làm giấy, làm tranh, đúc đồng, ...Về sau do nhu cầu phải trao đổi hàng hoá
và do lực lượng sản xuất phát triển, nghề thủ công phát triển, một bộ phận dân cư
trong làng đã tách khỏi sản xuất nông nghiệp và làm nghề thủ công nghiệp, những
sản phẩm của họ vẫn phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống của người dân


13

trong làng và những làng xung quanh. Mặt khác, mặc dù chuyên làm nghề thủ công
nghiệp nhưng họ vẫn giữ đất nông nghiệp để sản xuất thóc gạo đảm bảo cuộc sống
của họ. Trong điều kiện phát triển kinh tế, tăng cường hội nhập quốc tế và nhất là
trong xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làng nghề có cơ hội mở rộng ngành hàng,
lĩnh vực mới. Hiện nay, làng nghề không chỉ còn bó gọn trong một số ngành hàng
tiểu thủ công nghiệp được cha ông để lại mà mở thêm nhiều lĩnh vực mói như công
nghiệp, thương mại, dịch vụ…
Ví dụ, ở Bắc Ninh các làng nghề đã có nhiều mặt hàng mới, tỷ trọng các
ngành cơ khí, vật liệu xây dựng, thực phẩm tăng rõ rệt so với trước đây.

- Thứ hai, Làng nghề thường gắn với nông nghiệp, nông thôn.
Nông thôn là nguồn cung cấp nguyên liệu, lao động và thị trường tiêu thụ chủ
yếu cho các sản phẩm làng nghề. Các làng nghề nông sản, thực phẩm, thủ công mỹ
nghệ lấy nguyên liệu chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp. Điều đó thể hiện rõ
sự phân bố làng nghề ở Việt Nam thường gắn với vùng nguyên liệu, như Nga Sơn
(Thanh Hoá), Kim Sơn (Ninh Bình) nổi tiếng về các làng nghề chiếu cói là nhờ có
vùng nguyên liệu cói. Về nhân lực, làng nghề phụ thuộc hoàn toàn vào lao động
nông nghiệp. Hiện có 100% lao động làng nghề xuất thân từ nông thôn với hình
thức làm việc bán thời gian là chủ yếu. Thu hút lao động nông nhàn là thế mạnh
(cho phép giảm chi phí tối đa) và cũng là điểm chủ yếu của làng nghề, bởi vậy
khi nhận được đơn hàng vào dịp nông vụ, các làng nghề không có đủ lao động
để đáp ứng tiến độ giao hàng. Sản phẩm làng nghề được tiêu thụ chủ yếu ở thị
trường nông thôn và khách hàng chủ yếu là người làm nông nghiệp. Đa số làng
nghề có đích nhắm tiêu thụ sản phẩm là thị trường trong vùng. Điều này có thể thấy
rất rõ ở đa số ngành hàng từ chế biến thực phẩm đến cơ khí…
- Thứ ba, Quy mô sản xuất ở các làng nghề hiện còn nhỏ bé, thể hiện ở quy
mô hộ gia đình là chủ yếu
Do làng nghề ở nông thôn chủ yếu là làng nghề truyền thống, mô hình tổ chức
gia đình là chủ yếu, cha truyền con nối, nên qui mô sản xuất bị giới hạn trong phạm
vi gia đình huyết thống. Các hình thức tổ chức sản xuất hợp tác xã, tổ hợp, doanh
nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần không đáng kể. Trong mô hình sản
xuất này, người chủ gia đình là người thợ cả, có kỹ thuật cao vừa tổ chức sản xuất
kinh doanh, vừa quản lý và hạch toán kinh doanh, vừa là người truyền nghề, quản lý
kỹ thuật, còn mọi thành viên trong gia đình, dòng họ là những người tham gia vào
quá trình sản xuất kinh doanh; tuỳ theo năng lực trình độ của mỗi người mà được
người chủ giao công việc cụ thể, dẫn tới năng lực sản xuất làng nghề còn hạn
chế. Trong thời kỳ đổi mới, nhờ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cơ


14


chế quản lý thay đổi, làng nghề được phát huy mạnh mẽ, khai thác mọi tiềm năng
của các hộ gia đình vào sản xuất kinh doanh. Do cơ chế thị trường, các gia đình
trong làng nghề phải cạnh tranh với nhau, nên qui mô sản xuất kinh doanh đã được
mở rộng, lao động sản xuất đã được thuê mướn bên ngoài, anh em con cháu gia
đình đóng vai trò quản lý từng khâu, từng mắt xích quan trọng trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Hiện nay tuy đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp tư nhân, công ty
TNHH, công ty CP nhưng qui mô sản xuất vẫn giới hạn trong phạm vi gia đình
hoặc dòng họ. Các công ty, các doanh nghiệp này đóng vai trò là trung tâm, vệ tinh
tìm kiếm thị trường, tiêu thụ lớn về sản phẩm hoặc cung ứng lớn về vật tư cho các
hộ gia đình thực hiện dưới hình thức hợp đồng.
- Thứ tư, phương pháp dạy nghề trong các làng nghề là truyền nghề
Xuất phát từ đặc điểm qui mô sản xuất chủ yếu là gia đình và bí quyết riêng
trong nghề của từng gia đình, nên việc dạy nghề cho con cháu hoặc người thân là
hình thức truyền nghề trực tiếp, tức là hướng dẫn trực tiếp từng thao tác, vừa làm
vừa học nhằm giữ bí quyết riêng của gia đình trong nghề. Do đặc thù nghề nghiệp
mà không thể sử dụng máy móc để sản xuất hàng loạt được mà phải dựa vào lao
động thủ công, dựa vào bàn tay khéo léo, tinh xảo của người thợ nên việc dạy nghề
vẫn phải hướng dẫn trực tiếp từng thao tác, vừa học vừa làm. Ngày nay khoa học
công nghệ hiện đại, xuất hiện nhiều máy móc hiện đại, một số công việc, công đoạn
của quá trình sản xuất đã sử dụng máy móc thay thế cho lao động. Chẳng hạn nghề
gỗ đã sử dụng các máy cưa, máy lộng, máy bào, máy khoan để thay thế cho các lao
động bào, cưa, xẻ, đục ... hoặc nghề dệt vải đã sử dụng mô tơ thay thế cho chân đạp
máy dệt ... nhưng các công việc quyết định đến chất lượng, thẩm mỹ và tính chất
độc đáo của sản phẩm vẫn sử dụng lao động thủ công. Vì vậy trong làng nghề việc
dạy nghề cho lao động chủ yếu là truyền nghề.
- Thứ năm, sản phẩm làng nghề đa dạng mang đậm tính chất truyền thống,
mạng đậm bản sắc văn hoá dân tộc
Làng nghề ở nông thôn chủ yếu là làng nghề truyền thống nên sản phẩm sản
xuất ra mang đậm tính chất truyền thống. Mặt khác do dạy nghề là hình thức truyền

nghề, nên giữ được bí quyết, giữ được nét độc đáo của sản phẩm nghề mà địa
phương khác, làng khác không thể làm được. Vì nét độc đáo, truyền thống đó của
sản phẩm mà nó tạo nên thương hiệu của sản phẩm, do đó nó chi phối được thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Chẳng hạn khi muốn mua tranh dân gian thì phải đến
Đông Hồ, muốn mua sản phẩm đồ gỗ cổ phải đến Đồng kỵ, Phù Khê ... mặc dù các
làng khác có sản xuất ra sản phẩm đó nhưng người dân vẫn không ưa thích. Ngày
nay, trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng đa
dạng, phong phú, nên các làng nghề đã nhanh chóng đổi mới, sản xuất đa dạng,


15

phong phú loại sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Hơn thế nữa,
trong xu thế hội nhập nhiều sản phẩm làng nghề đã xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Bởi vậy sản phẩm của làng nghề tất yếu phải đa dạng và phong phú thể loại, mẫu
mã phù hợp với nhu cầu trong và ngoài nước, đồng thời chất lượng sản phẩm không
ngừng nâng cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong thị trường.
Đặc biệt, trong xu thế hội nhập, ngành du lịch phát triển, sản phẩm làng nghề
đã thể hiện được những nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, phong cảnh thiên
nhiên, con người Việt Nam ... như tranh Đông Hồ, đồ gốm Quế Võ, đồ gỗ, chạm
khắc gỗ Đồng Kỵ, Phù Khê ... nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch mà còn giới
thiệu về văn hoá, con người và đất nước Việt Nam với bạn bè trên thế giới.
1.1.1.3. Phát triển bền vững làng nghề
Trong những thập kỷ 70, 80 của thế kỷ 20, tăng trưởng kinh tế của một số
nước đạt tốc độ khá cao, tuy nhiên nó cũng có những ảnh hưởng tiêu cực của sự
tăng trưởng đó đến tương lai con người, và vấn đề tăng trưởng bền vững đã được
đặt ra.
Là một khái niệm tương đối rộng và có thể có nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy
nhiên, một định nghĩa chung nhất đã được đưa ra cho khái niệm phát triển bền vững
trong Báo cáo của ngân hàng thế giới đề cập lần đầu tiên năm 1987 như sau:

“Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không
làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng đầy đủ như cầu của thế hệ tương lai”
Định nghĩa này mặc dù còn chung chung nhưng đã nhấn mạnh được hai yếu tố
quan trọng nhất của phát triển bền vững. Đó là vẫn nạn môi trường và mối tương
quan của nó với sự phát triển kinh tế và nhu cầu của sự phát triển đó đối với mục
tiêu xóa đói giảm nghèo.
Ở Việt Nam, khái niệm phát triển bền vững được hiểu theo một cách toàn diện
hơn: “ Phát triển bền vững bao trùm các mặt của đời sống xã hội với nghĩa là phải
kết sự phát triển kinh tế với thực hiện tiền bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và cải
thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh
quốc gia.”
Nếu như không tính đến khía cạnh an ninh, quốc phòng thì khái niệm Phát
triển bền vững về cơ bản bao hàm 3 phương diện: Môi trường bền vững, kinh tế bền
vững và xã hội bền vững.
Phát triển bền vững làng nghề là phát triển làng nghề đảm bảo tính ổn định,
lâu dài và việc phát triển không làm ảnh hưởng đến lợi ích cho các thế hệ tương lai.
Đó là sự phát triển dựa trên mức tăng trưởng cao và ổn định, hướng tới mục tiêu


16

tiến bộ và công bằng xã hội nông thôn, khai thác và bảo vệ hợp lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Phát triển làng nghề bền vững là sự củng cố, duy trì, phát triển hoạt động sản
xuất kinh doanh của các làng nghề hiện có, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và
phát triển của các làng nghề mới nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm làng nghề trên thị trường; góp phần giải quyết việc
làm, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân; bảo vệ môi trường tại các làng
nghề được.
- Phát triển bền vững về kinh tế nghĩa là tạo ra sự tăng trưởng ổn định, hiệu

quả, nâng cao chất lượng sản phẩm làng nghề, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn theo hướng CNH - HĐH. Điều này được thể hiện ở tốc độ tăng tăng
trưởng kinh tế của làng nghề, tỷ trọng đóng góp của các làng nghề trong GDP của
địa phương.
- Phát triển bền vững làng nghề về mặt xã hội: là góp phần thực hiện mục tiêu
xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm, ổn định xã hội, hạn chế bất bình đẳng, góp phần
đảm bảo an sinh xã hội cho các tầng lớp dân cư tại các làng nghề nói riêng và ở địa
phương và cả nước nói chung, góp phần bảo tồn giữ gìn những nét văn hoá đặc sắc
của mỗi vùng miền của dân tộc.
- Phát triển bền vững làng nghề về môi trường, có nghĩa là vừa sử dụng hiệu
quả các nguồn tài nguyên mà các làng nghề khai thác và sử dụng làm nguyên nhiên
liệu, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái tại các làng nghề.
1.1.1.4. Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn
Vai trò của làng nghề đối với phát triển kinh tế- xã hội thể hiện như sau:
a) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động ở nông
thôn, nâng cao mức sống của dân cư
Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn,
góp phần xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh việc tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao
động ở khu vực này, phát triển ngành nghề sẽ tạo thêm việc làm cho lao động ở khu
vực nông thôn, phát triển ngành nghề nông thôn sẽ tạo thêm việc làm cho lao động
lúc nông nhàn; lao động phụ như người già, trẻ em, khuyết tật...
Thu nhập từ các làng nghề cũng đóng góp một phần không nhỏ vào quá trình
phát triển kinh tế của địa phương. Thể hiện ở việc làng nghề đóng góp vào thu ngân
sách của địa phương, làng nghề phát triển kéo theo nhiều ngành nghề khác, nhiều
hoạt động dịch vụ liên quan phát triển...tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần thực
hiện xóa đói giảm nghèo – thông qua cơ hội tạo việc làm và thu nhập của người dân


17


tăng lên đáng kể… Thực tế cho thấy, địa phương nào có làng nghề thì mức sống của
người dân thường cao hơn những làng không làm nghề.
b) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
Phát triển làng nghề nông thôn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra
khối lượng hàng hoá đa dạng, phong phú phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, là một
trong những nội dung quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng
công nghiệp - dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.
Cơ cấu lao động nông thôn thay đổi, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp
giảm, tỷ trọng lao động trong các ngành nghề nông thôn tăng. Góp phần bố trí lao
động hợp lý theo hướng " ly nông bất ly hương". Sự phát triển làng nghề truyền
thống đã phá thế thuần nông và tạo đà cho công nghiệp phát triển, thúc đẩy CNH –
HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Các làng nghề sẽ là cầu nối liền giữa công nghiệp lớn hiện đại với nông
nghiệp phi tập trung, làm tiền đề xây dựng công nghiệp lớn hiện đại, là bước trung
gian chuyển từ nông thôn thuần nông, nhỏ lẻ, phân tán lên công nghiệp lớn - hiện
đại và đô thị hoá. Làng nghề sẽ là điểm thực hiện tốt phân công lao động tại chỗ, là
nơi tạo ra sự kết hợp nông - công nghiệp có hiệu quả. Sự phát triển của các làng
nghề là một trong những hướng rất quan trọng để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới theo hướng CNH- HĐH.
c) Góp phần xây dựng nông thôn mới hiện đại, văn minh.
Hiện nay, các làng nghề đang phát triển đã đóng góp vai trò quan trọng trong
việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Sự phát triển của các nghề truyền thống
kéo theo sự phát triển của nhiều nghề khác nhau như thương mại, dịch vụ, vận tải,
thông tin liên lạc, cung cấp điện nước,...và ngược lại, những ngành nghề này lại hỗ
trợ trực tiếp cho sự phát triển của các làng nghề. Ở những quận huyện của thành
phố có nhiều ngành nghề phát triển thường hình thành nên một điểm giao lưu buôn
bán, dịch vụ và trao đổi hàng hóa, dần dần ở đây đã phát triển thành cụm dân cu ̛ với
lối sống đô thị ngày một rõ nét hơn, nông thôn đổi thay và từng bước đô thị hóa.
Nhờ có thu nhập cao, đời sống vật chất tinh thần người dân được cải thiện, cơ

sở hạ tầng phát triển. Đây là cơ hội tốt để xây dựng nông thôn mới hiện đại.


18

d) Góp phần vào bảo tồn và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc
Do hầu hết các làng nghề có khởi nguồn từ sáng tạo của dân cư địa phương
nên trong sản phẩm làng nghề từ kiểu dáng, mẫu mã đều có những dấu ấn riêng về
bản sắc văn hoá của từng địa phương. Lịch sử phát triển của các làng nghề truyền
thống gắn với lịch sử phát triển văn hóa dân tộc. Nhiều sản phẩm truyền thống có
tính nghệ thuật cao, trong đó thể hiện những sắc thái riêng của mỗi làng nghề. Bảo
tồn và phát triển các làng nghề truyền thống chính là sự kế thừa và phát huy đội ngũ
nghệ nhân có bàn tay khéo léo cùng những bí quyết nghề quý giá và thông qua đó
bảo tồn những nét độc đáo của bản sắc dân tộc Việt Nam nói chung và của Bắc
Ninh nói riêng trong cộng đồng quốc tế. Trong các sản phẩm của các làng nghề
truyền thống, văn hoá tinh thần kết tinh trong văn hoá vật thể. Các sản phẩm của
các làng nghề thủ công nghiệp truyền thống là sự kết tinh, sự bảo lưu và phát triển
các giá trị văn hoá, văn minh lâu đời của dân tộc Việt Nam, vừa mang nét đặc sắc
riêng biệt vừa mang nét tương đồng với những sản phẩm của các dân tộc khác trên
thế giới. Giá trị của các sản phẩm thủ công truyền thống được khách hàng trong và
ngoài nước nhìn nhận chủ yếu từ góc độ văn hoá, nghệ thuật dân tộc sau đó mới đến
vấn đề kỹ thuật và kinh tế. Đẩy mạnh phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn
phải chăng là tăng thêm sức mạnh cội nguồn, gieo vào lòng mỗi người Việt Nam
tình cảm dân tộc, yêu quí, trân trọng, giữ gìn di sản và bản sắc văn hoá dân tộc.
Điều đó cũng không có gì khác là giữ gìn và phát huy văn hoá – văn minh nhân
loại, làm tăng những giá trị văn hoá truyền thống trong một thế giới ngày càng hiện
đại.
1.1.2. Khái quát về quản lý nhà nước đối với phát triển bền vững làng nghề
1.1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước
Theo quan niệm của C.MÁC: “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao động

chung nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn đều cần có sự
quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động cá nhân và thực
hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất,
sự vận động này khác với sự vận động của các cơ quan độc lập của cơ thể đó. Một
nhạc công tự điều khiển mình, nhưng một dàn nhạc phải có nhạc trưởng.”
Tức theo C.Mác, quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để đạt được
cái thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất. Ở đây Mác đã tiếp cận khái niệm
quản lý từ góc độ mục đích của quản lý.
Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay: Quản
lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của


19

con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra và
đúng với ý chí của người quản lý.
Theo Giáo trình quản lý hành chính nhà nước: “Quản lý nhà nước là sự tác
động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã
hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã
hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước
trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN”.
Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước,
được sửa dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quản lý nhà
nước được xem là một hoạt động chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và
có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt.uản lý nhà nước được hiểu theo hai
nghĩa.
Theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước,
từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư pháp.
Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.
Quản lý nhà nước được đề cập trong đề tài này là khái niệm quản lý nhà nước

theo nghĩa rộng; quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban hành các
văn bản luật, các văn bản mang tính luật đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của
đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với đối tượng quản lý cần thiết của Nhà
nước. Hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu và trước hết được thực hiện bởi tất cả
các cơ quan nhà nước, song có thể các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần
chúng và nhân dân trực tiếp thực hiện nếu được nhà nước uỷ quyền, trao quyền thực
hiện chức năng của nhà nước theo quy định của pháp luật.
Quản lý nhà nước đối với phát triển bền vững làng nghề là việc áp dụng hệ
thống các công cụ quản lý tác động vào đối tượng quản lý để hướng dẫn các làng
nghề của địa phương phát triển theo hướng bền vững trên cơ sở sử dụng hiệu quả
các nguồn lực kinh tế.
1.1.2.2. Phương pháp và công cụ quản lý nhà nước đối với phát triển bền
vững làng nghề
a) Phương pháp quản lý nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền thống
Để quản lý nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền thống sử dụng các
phương pháp như: phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính và phương pháp
giáo dục. Tùy vào từng đối tượng và tình huống cụ thể mà có thể dùng một hoặc kết
hợp nhiều phương pháp khác nhau với nhau để đạt được mục tiêu đề ra trong từng
giai đoạn, thời kỳ khác nhau.


20

Phương pháp kinh tế: Phương pháp kinh tế là cách thức tác động gián tiếp của
Nhà nước, dựa trên những lợi ích kinh tế có tính hướng dẫn lên đối tượng quản lý,
nhằm làm cho đối tượng quản lý tự giác, chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao. Phương pháp kinh tế là phương pháp quan trọng để Nhà nước cũng như địa
phương thực hiện quản lý đối với phát triển làng nghề truyền thống. Phương pháp
này được thể chế thông qua chính sách kinh tế như sử dụng đất, thuế, các hoạt động
hỗ trợ…

Phương pháp hành chính: là cách thức tác động trực tiếp của Nhà nước thông
qua các quyết định và có tính bắt buộc trong khuôn khổ pháp luật lên các chủ thể
kinh tế , nhằm thực hiện các mục tiêu của nhà nước trong những tình huống nhất
định. Tác động điều chỉnh hành động, hành vi của các chủ thể kinh tế là những tác
động bắt buộc của Nhà nước lên quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các
chủ thể kinh tế , nhằm đàm bảo thực hiện mục tiêu quản lý Nhà nước. Một mặt,
phương pháp hành chính được thực hiện căn cứu chủ yếu vào hệ thống pháp luật về
phát triển bền vững làng nghề truyền thống, kiểm soát bằng luật pháp và kịp thời
ngăn chặn xử lý những vi phạm, tiêu chuẩn hóa làm trong sạch đội ngũ cán bộ
QLNN về phát triển bền vững làng nghề truyền thống. Mặt khác, phương pháp này
được thực hiện trên cơ sở xây dựng, bàn hành các chủ trương, đường lối, chính
sách, định hướng cho các làng nghề truyền thống thực hiện theo đúng chủ trương và
chiến lược phát triền kinh tế xã hội của đất nước.
Phương pháp giáo dục: là các thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và
tình cảm của cong người nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao động
của họ trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Để góp phần thực hiện tốt các
nội dung QLNN về phát triển bền vững làng nghề truyền thống, thông qua các
phương tiện tuyên truyền, giáo dục người dân trong các làng nghề nâng cao ý thức,
trách nhiệm, bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc, làm giàu cho bản thân và đất
nước.
b) Công cụ QLNN đối với phát triển làng nghề truyền thống
Để thực hiện chức năng quản lý của mình, Nhà nước có thể sử dụng các công
cụ bao gồm: Kế hoạch, chính sách và pháp luật
Công cụ kế hoạch: Nhà nước có những định hướng về phát triển làng nghề
truyền thống theo mục tiêu đã đề ra. Chính quyền địa phương xây dựng và triển
khai kịp thời các chiến lược nhằm phát triển làng nghề truyền thống, quy hoạch và
đưa ra các kế hoạch cụ thể hướng các làng nghề truyền thống của địa phương phù
hợp với điều kiện của mỗi địa phương và quy hoạch tổng thể các nguồn lực được sử
dụng tối ưu. Nhờ đó mà các cơ quan QLNN có cơ sở để kiểm tra, đánh giá các hoạt



21

động đúng định hướng hay không. Quy hoạch làng nghề phù hợp với tính phát triển
đặc thù của các ngành nghề.
Công cụ pháp luật: Pháp luật là hệ thống các quy tắc chung có tính bắt buộc
thể hiện ý chí của nhà nước và cộng đồng xã hội, do Nhà nước đặt ra, thực thi và
bảo vệ nhằm phát triển xã hội theo tính đặc trưng đã định. Trong phát triển làng
nghề truyền thống nhà nước sử dụng công cụ pháp luật để quản lý và phát triển làng
nghề truyền thống nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc xác lập kỷ cương cho việc sản
xuất kinh doanh sản phẩm làng nghề truyền thống. Từ đó sẽ phát hiện và ngăn chặn
các hành vi trái với pháp luật gây tổn hại cho nền kinh tế và xã hội.
Công cụ chính sách: là một trong những công cụ chủ yếu của Nhà nước để
quản lý nền kinh tế, nó tập trung các giải pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu
bộ phận nhằm hướng tới mục tiêu chung của phát triển kinh tế xã hội. Đây là công
cụ để nhà nước thực hiện toàn bộ các quan điểm, các nguyên tắc, qua đó thể hiện
quyết tâm và phương hướng xây dựng các phương thức, biện pháp của nhà nước
trong việc điều chỉnh một loạt các quan hệ kinh tế pháp sinh nhằm đưa ra các chiến
lược, kế hoạch cụ thể vào thực tiễn, các chính sách ra đời như một công cụ hữu hiện
nhằm phát triển
1.1.2.3. Vai trò quản lý nhà nước đối với phát triển bền vững làng nghề
Quản lý nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền thống có vai trò sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với phát triển làng nghề truyền thống sẽ định
hướng các hoạt động sản xuất sản phẩm làng nghề của địa phương phát triển theo
đúng mục tiêu của địa phương đã đề ra trên cơ sở tạp lập môi trường thuận lợi cho
các làng nghề tại đại phương tiếp cận với các yếu tố tài nguyên, nguồn nhân lực.
Thứ hai, Quản lý nhà nước đối với phát triền bền vững làng nghề có vai trò
điều tiết các nguồn lực, phân bổ hợp lý nguồn tài nguyên phù hợp với đặc điểm
từng ngành nghề của địa phương. Bằng công cụ quản lý, cơ quan Quản lý nhà nước
sẽ giám sát các hoạt động kinh doanh của các làng nghề và có những biện pháp

thích hợp để xử lý nếu có vi phạm xảy ra.
Thứ ba, Quản lý nhà nước đối với phát triển bền vững làng nghề có vai trò
giám sát, đảm bảo phát hiện vào xử lý kịp thời các sai phạm trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của các làng nghề nhằm đảm bảo tính công bằng, đảm bảo quyền
và nghĩa vụ của các cơ sở sản xuất linh daonh từ đố bảo tồn giá trị văn hóa truyền
thống của làng nghề.


22

1.1.3. Nội dung của quản lý nhà nước về phát triển bền vững làng nghề
Để nâng cao giá trị hàng hóa của làng nghề, đáp ứng nhu cầu của thị trường,
nâng cao đời sống của nhân dân và phục vụ cho nhu cầu xây dựng cơ bản... trên địa
bàn tỉnh cần phải đẩy mạnh phát triển công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, cho các làng
nghề và dịch vụ du lịch đối với những làng nghề truyền thống có tiềm năng.
- Khai thác và huy động hết công suất của những cơ sở công nghiệp hiện có,
xây dựng thêm các cơ sở sản xuất phụ trợ mới phục vụ cho sản xuất làng nghề phục
vụ đời sống và xuất khẩu, sản xuất các mặt hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng...
- Khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống, mở mang nghề mới,
phục vụ cho sản xuất, đời sống và xuất khẩu.
- Khuyến khích phát triển các cơ sở dịch vụ phục vụ cho yêu cầu pháttriển sản
xuất và đời sống của nhân dân. Trong quá trình công nghiệp hóa vàhiện đại hóa, lao
động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp sản xuất ra sản phẩmthô sẽ ngày càng
giảm. Cần phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụvừa phục vụ cho sản
xuất, đời sống, vừa khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lao động xã hội ở nông
thôn dư thừa, tăng giá trị của nông sản hàng hóa. Nhà nước khuyến khích mọi thành
phần kinh tế tư nhân trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào kinh
doanh các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp của làng nghề, nhất là đầu tư vào công
nghiệp phục vụ tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông sản và xây dựng cơ sở hạ tầng,
tìm thị trường tiêu thụ hàng hóa của làng nghề.

- Với mục tiêu phát triển làng nghề toàn diện theo hướng bền vững. Khai thác
lợi thế của địa phương để phát triển sản xuất hàng hóa lớn với năng suất, chất
lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Tăng nhanh sản lượng và kim ngạch
xuất khẩu các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp, nâng cao thu nhập và đời sống người
dân, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
- Đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong sảnxuất,
chế biến, bảo quản; ưu tiên ứng dụng công nghệ để tạo nhiều sản phẩm an toàn với
môi trường và quy trình sản xuất không gây ô nhiễm môi trường nhưng vẫn đạt
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
- Quản lý chỉ đạo xây dựng kết cấu hạ tầng ở làng nghề.
Kết cấu hạ tầng có vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống của nhân dân ở các làng nghề, cụm làng nghề, góp phần thu hẹp
chênh lệch về điều kiện sống và lao động giữa đô thị và nông thôn, tạo dựng bộ mặt
nông thôn mới văn minh, hiện đại. Trước hết đẩy mạnh phát triển thủy lợi, kiên cố
hóa kênh mương nhằm phục vụ sản xuất tại các làng nghề. Hệ thống cấp thoát nước
thải phải hoàn chỉnh, đồng bộ, đảm bảo chống úng, chống hạn, bảo vệ môi trường,
hạn chế ô nhiễm do úng ngập gây ra, giữ gìn và phát triển môi trường sinh thái. Có


23

biện pháp hữu hiệu cải thiện môi trường sống ở các vùng ô nhiễm thuộc địa bàn
tỉnh. Ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật phục vụ cho sản xuất, nhưng
không coi nhẹ kết cấu hạ tầng phục vụ cho đời sống của nhân dân như nhà trẻ,
trường học, trạm y tế, các công trình văn hóa, thể thao, dịch vụ, chợ...
- Về giao thông phục vụ làng nghề: bảo đảm liên hệ thuận lợi, nhất là các
đường liên xã, liên thôn, cần phải được quy hoạch và xây dựng kiên cố hóa, đảm
bảo đi lại vận chuyển hàng hóa thuận tiện.
- Về cấp điện: tiến tới 100% số xã được cấp điện phục vụ nhu cầu sản xuất và
sinh hoạt. Các xã đều có hệ thống thông tin liên lạc nối liền trong nước và ngoài

nước.
- Về cấp nước sạch, vệ sinh môi trường: tiến tới 100% dân làng nghề được sử
dụng nước sạch hợp vệ sinh. Mỗi gia đình có các công trình hợp vệ sinh: giếng
nước, nhà tắm, nhà vệ sinh đúng quy cách.
- Các công trình xử lý nước thải, chất thải cẩn được quy hoạch xây dựng hợp
lý, không ảnh hưởng tới đời sống nhân dân xung quanh làng nghề. Cần áp dụng
nhưng công nghệ an toàn không gây ô nhiễm, thân thiện với môi trường vào xử lý
chất thải, nước thải của làng nghề.
1.1.3.1. Hoạch định và thực thi đường lối, mục tiêu phát triển làng nghề
Hoạch định các chương trình hành động cụ thể cho chương trình khuyến công.
Tham gia xây dựng đề tài “Xây dựng mô hình phát triển bền vững làng nghề tỉnh
Bắc Ninh”, Xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất Công
nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp đặt biệt là ngành nghề nông thôn.
Khảo sát, quy hoạch và đề xuất công nhận các làng nghề ở các lĩnh vực khác
chưa được công nhận đồng thời xây dựng đề án duy trì và phát triển nghề có thế
mạnh về số lượng thợ thủ công cũng như nguồn nguyên liệu ở lĩnh vực này.
Tổ chức phát động phong trào thi đua sản xuất Công nghiệp - Tiểu thủ công
nghiệp, khen thưởng các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có thành tích làm ăn giỏi,
đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, giải quyết việc làm cho nhiều
lao động tại địa phương.
Hàng năm xây dựng các kế hoạch, đề án khuyến công địa phương và khuyến
công quốc gia, xây dựng Chương trình khuyến công địa phương từng giai đoạn cụ
thể cần quan tâm đến làng nghề.
Tiếp tục triển khai Quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận danh hiệu và
một số chế độ ưu đãi đối với nghệ nhân, thợ giỏi, người có công đưa nghề mới về
tỉnh Bắc Ninh, theo tinh thần của Quyết định này đối tượng quan tâm đặc biệt cũng
là Nghệ nhân, thợ giỏi tại các làng nghề.


24


Tổ chức cho Ban đại diện Làng nghề tham quan học tập kinh nghiệm, phương
thức quản lý, tham gia quãng bá sản phẩm tại các kỳ hội chợ trong và ngoài tỉnh.
Đồng thời các đại biểu cũng kiến nghị với Hiệp hội làng nghề Việt Nam:
Hiệp hội làng nghề Việt Nam nên hỗ trợ cho làng nghề xúc tiến thương mại,
giới thiệu sản phẩm thông qua các làng nghề với nhau, đồng thời gợi ý sản xuất tập
trung những mặt hàng chủ lực, có thế mạnh mà thị trường tiêu thụ ổn định và bền
vững.
Hiệp hội nên tổ chức giao lưu học tập kinh nghiệm giữa các làng nghề và các
vùng Miền, lồng ghép công tác tuyên truyền vận động nêu cao ý thức, vị trí, vai trò
của làng nghề trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; làm sao để họ nhận
thức được quyền và nghĩa vụ của các thành viên từ đó gắn kết lại với nhau xây dựng
làng nghề phát triển bền vững.
Đối với Chính phủ và các bộ, ngành trung ương ban hành chính sách tài chính
tín dụng thông thoáng để làng nghề có thể tiếp cận các nguồn vốn từ chương trình
mục tiêu quốc gia, vốn kích cầu, nhất là nguồn vốn từ quỹ hỗ trợ phát triển Việt
Nam để tạo điều kiện cho làng nghề thực hiện tốt việc sản xuất kinh doanh của
mình, nhất là trong lĩnh vực cơ giới hoá trong sản xuất nên áp dụng mô hình cho
vay tín chấp.
Chính phủ nên có chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi để
sản phẩm của làng nghề không phải qua nhiều khâu trung chuyển và các nhà đầu tư
có thể tiếp cận làng nghề một cách thuận lợi.
1.1.3.2. Quy hoạch phát triển làng nghề
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng
làng nghề theo hướng phát triển bền vững. Qui hoạch, kế hoạch là qui định, là
hoạch định một cách có kế hoạch, có cơ sở khoa học trong tổng thể nhằm đạt mục
tiêu phát triển bền vững, lâu dài. Trên cơ sở qui hoạch đó mà có kế hoạch thực hiện
từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng cơ sở nhằm đảm bảo những chuẩn mực đã đặt ra.
Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển làng nghề của Đảng và
nhà nước, địa phương có tác dụng tạo điều kiện xây dựng được môi trường, áp dụng

được công nghệ hiện đại vào sản xuất với qui mô lớn, nâng cao năng lực cạnh tranh
cho các làng nghề, doanh nghiệp. Mặt khác có qui hoạch nhà nước mới kiểm tra,
kiểm soát được sự phát triển cũng như việc tạo ra phát triển của làng nghề, từ đó có
chính sách điều chỉnh phù hợp. Quy hoạch, kế hoạch cũng nhằm khắc phục tình
trạng sản xuất nhỏ, tự phát của các làng nghề để tiến tới sản xuất lớn, đủ sức cạnh
tranh.


25

1.1.3.3. Ban hành và triển khai thực hiện các quy định pháp lý làm cơ sở cho
quản lý nhà nước
Hệ thống pháp luật điều chỉnh khá đa dạng, bao phủ mọi mặt hoạt động của
làng nghề với tư cách một thực thể sống, một bộ phận của nền kinh tế, của xã hội.
Có thể nêu ra một số luật và văn bản dưới luật sau: Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp, Luật Thương mại, Luật Lao động, Luật Bảo vệ môi trường, Luật chuyên
ngành (Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm…)
Thông qua hệ thống pháp luật, một mặt, Nhà nước tuyên bố các quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể hoạt động trong làng nghề, đặc biệt là quyền và nghĩa vụ,
chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước đối với làng nghề. Nếu hệ thống luật
pháp tiến bộ và phù hợp, sẽ khuyến khích làng nghề phát triển. Ngược lại, hệ thống
luật pháp lạc hậu, bảo thủ sẽ cản trở sự phát triển của làng nghề.
1.1.3.4. Các chính sách hỗ trợ phát triển làng nghề
*Chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước
Nhà nước có thể sử dụng các chính sách ưu đãi, hoặc tài trợ để khuyến khích
đầu tư vào khu vực kinh tế làng nghề như: tài trợ toàn bộ, tài trợ một phần, tài trợ
bằng cấp vốn ngân sách, tài trợ bằng vay tín dụng ưu đãi…
*Chính sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng đối với làng nghề
Nhà nước có thể sử dụng ngân sách cấp vốn hoặc sử dụng quỹ tín dụng nhà
nước cấp vốn tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng và doanh

nghiệp kinh doanh trong khu vực làng nghề. Thông qua sự hỗ trợ trực tiếp này các
làng nghề có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển…
*Chính sách đất đai
Nhà nước sử dụng chính sách đất đai để điều chỉnh quỹ đất, giá thuê đất trong
các cụm làng nghề. Trước hết, nhà nước quy định việc xây dựng cụm làng nghề
phải tuân thủ quy hoạch vùng, phải quy hoạch tổng thể, dài hạn đất xây dựng các
làng nghề. Thứ hai, nhà nước can thiệp vào quá trình thu hồi đất và chuyển giao cho
các làng nghề. Bởi vì, đất để xây dựng làng nghề thường là đất đã và đang được dân
cư sử dụng. Vì thế, để có thể chuyển đổi mục đích sử dụng, thường phải tiến hành
công tác thu hồi, tập trung và đền bù, giải phóng mặt bằng. Nhà nước tác động đến
quá trình này bằng các quy định về thu hồi đất, chính sách đền bù, chính sách tái
định cư… Đối với những nước mà đất đai thuộc sở hữu toàn dân như nước ta thì
nhà nước còn tác động vào khâu giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Một mặt,
quản lý nhà nước đảm bảo việc sử dụng đất đai xây dựng làng nghề nằm trong quy
hoạch chung về sử dụng đất, nhất là cân đối giữa quỹ đất của công nghiệp và đất


×