1
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Nguyễn Trọng Tản
Sinh ngày: 30/08/1981 – Nơi sinh: Tiền Hải - Thái Bình
Là học viên cao học lớp: CH18B – Chuyên ngành Quản lý kinh tế.
Niên khóa: 2012 – 2014. Khoa sau đại học – Trường Đại học Thương Mại.
Tôi xin cam đoan:
1. Luận văn Thạc sỹ kinh tế: “Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn
thành phố Yên Bái - tỉnh Yên Bái” là do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
Tiến sỹ Thân Danh Phúc.
2. Các số liệu, tài liệu, dẫn chứng mà tôi sử dụng trong đề tài là do chính tôi
thu thập, xử lý mà không có sự sao chép không hợp lệ nào.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự cam đoan này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Trọng Tản
1
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và bản luận văn này, bên cạnh những nỗ
lực của bản thân tác giả đã nhận được sự quan tâm, động viên, giúp đỡ tận tình của
các thầy cô, bạn bè, gia đình trong suốt quá trình học tập, công tác.
Nhân đây, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
- Người hướng dẫn khoa học: Tiến sỹ Thân Danh Phúc
- Các thầy cô giáo Khoa sau đại học – Trường Đại học Thương Mại
- Tập thể lãnh đạo, phòng TNMT, sở kế hoạch đầu tư thành phố Yên Bái
- Các cơ quan, các nhà khoa học, gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và cung cấp tài
liệu cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình
và năng lực của bản thân, tuy nhiên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác
giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô và bạn đọc
để tác giả có thể hoàn thiện tốt luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2015.
Tác giả
Nguyễn Trọng Tản
2
3
MỤC LỤC
3
4
DANH MỤC VIẾT TẮT
STT
Chỉ tiêu
Mã
1
2
TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN
NNP
Trong đó:
LUA
Trong đó:Đất chuyên trồng lúa nước
CLN
RPH
RDD
RSX
NTS
PNN
Trong đó:
3
1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
1.6
2
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10
2.11
3
3.1
3.2
4
5
6
Đất nông nghiệp
Đất trồng lúa
Đất trồng cây lâu năm
Đất rừng phòng hộ
Đất rừng đặc dụng
Đất rừng sản xuất
Đất nuôi trồng thuỷ sản
Đất phi nông nghiệp
Đất xây dựng trụ sở cơ quan,
công trình sự nghiệp
Đất quốc phòng
Đất an ninh
Đất khu công nghiệp
CTS
CQP
CAN
SKK
Đất xây dựng khu công nghiệp
Đất xây dựng cụm công nghiệp
SKS
DDT
DRA
TTN
NTD
DHT
Trong đó:
DVH
DYT
DGD
DTT
ODT
CDS
CDS
CDS
DTD
DBT
DDL
Đất cho hoạt động khoáng sản
Đất di tích danh thắng
Đất bãi thải, xử lý chất thải
Đất tôn giáo, tín ngưỡng
Đất nghĩa trang, nghĩa địa
Đất phát triển hạ tầng
Đất cơ sở văn hoá
Đất cơ sở y tế
Đất cơ sở giáo dục - Đào tạo
Đất cơ sở thể dục thể thao
Đất ở tại đô thị
Đất chưa sử dụng
Đất chưa sử dụng còn lại
Đất chưa sử dụng đưa vào sử dụng
Đất đô thị
Đất khu bảo tồn thiên nhiên
Đất khu du lịch
4
5
DANG MỤC BẢNG BIỂU
5
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt đối
với sản xuất nông lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường
sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã
hội, an ninh quốc phòng. Điều 18 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 quy định: "Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy
hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả".
Cùng với quá trình CNH - HĐH, với sự phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị
trường và quá trình bùng nổ dân số, các quan hệ đất đai chuyển từ chỗ là quan hệ
khai thác chinh phục tự nhiên chuyển thành các quan hệ kinh tế xã hội về sở hữu và
sử dụng một loại tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng. Đất đai được coi như một
hàng hoá đem ra mua bán trao đổi, một tài sản dùng để chuyển nhượng, thế chấp và
thừa kế…. Sự phong phú về yêu cầu của cuộc sống trong đổi mới và phát triển nền
kinh tế của đất nước đã và đang dẫn đến sự đa dạng về mục đích sử dụng đất đai.
Đây là một biểu hiện tốt của việc sử dụng đất đai ngày càng có hiệu quả hơn. Tuy
nhiên, chính từ sự đa dạng về mục đích sử dụng đất đai đó, quá trình tổ chức quản
lý và sử dụng đất cũng vì thế mà bộc lộ những tồn tại, nảy sinh nhiều vấn đề nằm
ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước như: sử dụng đất không đúng mục đích, sai
nguyên tắc, giao đất trái thẩm quyền... Hiện tượng tranh chấp đất, lấn chiếm đất đai
diễn ra ngày càng phức tạp; Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi,
GPMB, bồi thường, hỗ trợ tái định cư, … diễn ra còn chậm, chưa đồng bộ đã phần
nào làm ảnh hưởng tới việc sản xuất của người dân.
Xuất phát từ thực tế đó, với mong muốn tìm hiểu về thực trạng công tác quản
lý Nhà nước về đất đai, từ đó đánh giá những thuận lợi, khó khăn, đề xuất những
giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đất đai, tôi đã tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Yên Bái
– tỉnh Yên Bái”.
6
7
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất ( TLSX) không thể
thay thế được trong sản xuất nông lâm nghiệp là mặt bằng để sản xuất … nội dung
quản của nhà nước về đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng XHXN đã
được nghiên cứu khá toàn diện và rộng rãi. Tuy nhiên quản lý Nhà nước về đất đai
trong điều kiện phát triển KTTT và hội nhập kinh tế thế giới, trong phạm vi một đô
thị cụ thể như thành phố Yên Bái còn chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách
hệ thống và toàn diện.
Các nghiên cứu QLNN về đất đai trong giai đoạn hiện nay, phần lớn tập
trung đề cập đến các cơ chế chính sách về đất đai trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực (ÀFTA) trong đó có
đề tài nghiên cứu: “ Quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện Nam Trực –
Tỉnh Nam Định” của tác giả Nguyễn Hoàng Anh năm 2010, và đề tài: “ nghiên cứ
đánh giá thực trạng, đề xuất mô hình tổ chức quản lý đất đai cấp tỉnh, huyện góp
phần đẩy mạnh thực hiện kinh tế hóa ngành quản lý đất đai” năm 2014 của nhóm
tác giả Nguyễn Thị Minh Tâm và Hà Việt Cường, và kinh nghiệm quản lý đất đai
tại thành phố Hải Phòng.
Trong điều kiện nền KTTT đã có nhiều nghiên cứu quan trọng công phu của
các Bộ, các Viện nghiên cứu, các nhà khoa học như: “ Cơ sở khoa học cho việc
hoạch định các chính sách đất đai và sử dụng hợp lý quỹ đất” – năm 2000 của tổng
cục Địa chính và Viện nghiên cứu Địa chính do tiến sỹ Chu Văn Thỉnh làm chủ
nghiệm đề tài và một số đề tài nghiên cứu khoa học khác nhìn chung các nghiên cứu
đã đề cập đến nội dung sở hữu toàn dân về đất đai với mục tiêu tìm hiểu khoa học
và tham mưu cho nhà nước ban hành các chính sách đất đai ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay, tốc độ đô thị hóa mạnh phát sinh nhiều mâu thuẫn về quyền lợi giữa
người SDĐ bị thu hồi đất với quyền lợi của Nhà nước trong các chính sách về bồi
thường, hỗ trợ thu hồi đất. Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
và nhà quản lý về xây dựng chính sách chính sách đất đai trong quan hệ sở hữu toàn
dân về đất đai ở nước ta, nhằm góp ý kiến với Nhà nước xây dựng chính sách bồi
7
8
thường đảm bảo công bằng xã hội như bài viết có tên: “ Quan hệ sử dụng hợp lý đất
đai khu vực nông thôn, biện pháp vừa có tính trứơc mắt, vừa có tính lâu dài nhằm
xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững ở Việt Nam” năm 2005 của tác giả TS.
Nguyễn Dũng Tiến ( Viện nghiên cứu Địa chính)
Về nôi dung đất đai với tính chất là nguồn lực quan trọng của quá trình CNH
– HĐH đất nước trong điều kiện nền KTTT đã có nhiều cá nhân và các tổ chức
nghiên cứu phần lớn đề cập đến cơ chế chính sách về đất đai và đất đai được đánh
giá có vị trí vô cùng quan trọng, một trong những đề tài nghiê cứu tương đối toàn
diện là đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước của Nguyễn Đình Bồng thuộc Bộ Tài
nguyên Môi trường với tên đề tài “ Nghiên cứu đổi mới hệ thống quản lý đất đai để
hình thành và phát triển thị trường bất động sản ở Việt Nam” năm 2005 tuy nhiên
đến nay chưa có đề tài hoặc công trình nghiên cứu nào công bố trùng với đề tài luận
văn mà cao học viên đã chọn
Yên Bái là trung tâm của các tỉnh phía Tây Bắc, quản lý Nhà nước về đất đai
trên địa bàn thành phố giai đoạn hiện nay nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc. Vì vậy lựa
chọn đề tài luận văn thực sự xuất phát từ nhu cầu thực tiễn.
3 Tiếp cận và xác lập các vấn đề nghiên cứu.
3.1 Tiếp cận nghiên cứu
Đề tài tiếp cận nghiên cứu trên tầm vĩ mô về công tác quản lý nhà nước đối
với đất đai. Việc hoạt động sử dụng đất diễn ra trên địa bàn tỉnh và được phân cấp
trách nhiệm quản lý của địa phương chủ yếu là hướng dẫn thực thi, thanh tra, kiểm
soát và xử lý vi phạm đối với hoạt động sử dụng đất.
3.2 Xác lập các vấn đề nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nội dung quản lý nhà nước về đất đai trên
địa bàn thành phố Yên Bái – Tỉnh Yên Bái. Do vậy cần xác lập rõ các vấn đề
nghiên cứu sau:
- Việc sử dụng đất có quan hệ và ảnh hưởng như thế nào đến chính sách và các
công cụ quản lý nhà nước.
8
9
- Các quy định quản lý nhà nước đối với đất đai (thể hiện cở các thể chế chính
sách pháp luật)
- Trách nhiệm thực thi quản lý nhà nước phân cấp cho chính quyền địa
phương ( UBND tỉnh). Phối hợp về tổ chức và quản lý, hướng dẫn thực thi, cấp
phép kinh doanh, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn
thành phố và thực trạng quản lý nhà nước có tác động như thế nào đến đất đai trên
địa bàn thành phố.
- Những định hướng và giải pháp chủ yếu về quản lý nhà nước về đất đai trên
địa bàn thành phố Yên Bái – Tỉnh Yên Bái.
4 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục tiêu
Trên cơ sở khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn phân tích,
đánh giá thực trang quản lý của Nhà nước đối với đất đai trên đại bàn thành phố
Yên Bái – Tỉnh Yên Bái để từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản, nhằm tăng cường
vai trò quản lý của Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố
- Phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành
phố Yên Bái. Chỉ rõ những mặt tích cưc, điểm mạnh trong công tác quản lý nhà
nước cũng như những mặt hạn chế, mặt yếu, những bất cập trong quản lý lĩnh vực
về đất đai tại địa phương.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị về quản lý nhà nước về đất đai trên địa
bàn thành phố Yên Bái giai đoạn 2011 – 2013 và đến năm 2020 nhằm khắc phục
những hạn chế, nhược điểm, khai thác tốt lợi thế địa phương, thực hiện thắng lợi
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố đề ra đề ra.
4.2 Nhiệm vụ
- Xây dựng kế hoạch và đề cương nghiên cứu, các vấn đề lý luận về quan hệ sử
dụng đất, về vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai với tính chất là tài nguyên
quan trọng và quý giá của sự sống và sản xuất, bài học thực tiễn rút ra từ một số
tỉnh phía Bắc
9
10
- Lựa chọn các phương pháp thích hợp để thu thập thông tin, dữ liệu sơ cấp,
thứ cấp
- Tổng quan, tổng hợp và phân tích các dữ liệu đã thu thập, xử lý. Hệ thống
hoá những vấn đề cơ sở lý luận của đề tài, phân tích thực trạng vai trò quản lý của
Nhà nước đối với đất đai của thành phố, đánh giá mặt được, mặt hạn chế và những
vấn đề đặt ra hiện nay.
- Đánh giá khái quát thực trạng về đất đai của thành phố và những nội dung
chủ yếu của quản lý nhà nước về đất đai.
- Xác định nguyên nhân các yếu tố ảnh hưởng và những bất cập trong công tác
quản lý nhà nước,thực thi chính sách của địa phương về đất đai.
- Nghiên cứu các định hướng về quản lý đất đai và đề xuất giải pháp, kiến nghị
để giải quyết những bất cập nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đất
đai trên địạ bàn thành phố Yên Bái.
5 Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
- Dựa trên cơ sở phương pháp luận biên chứng và quan điểm lịch sử. luận văn
dựa vào các quy luật kinh tế và quan điểm đường lối, chính sách của và Nhà nước
làm cơ sở phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp.
- Phương pháp trìu tượng hoá khoa học và phương pháp phân tích hệ thống,
việc nghiên cứu vai trò của quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Yên
Bái – Tỉnh Yên Bái được thực hiện một cách đồng bộ gắn với từng giai đoạn từng
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của thành phố.
- Đồng thời nghiên cứu các vấn đề đó trong những bối cảnh cụ thể của đất
nước và địa phương.
5.2 Phương pháp cụ thể
- Khai thác xử lý và tổng quan các tư liệu, dữ liệu thứ cấp tại các cơ quan quản
lý đất đai trên địa bàn thành phố Yên Bái, các trung tâm thông tin, phòng tài nguyên
môi trường và trên các website…..
10
11
- Minh hoạ bằng bản đồ biểu đồ, luận văn tiến hành nghiên cứu một số vấn đề
chuyên sâu trong lĩnh vực quản lý đất đai. Đồng thời nội dung quản lý của Nhà
nước đối với đất đai ở thành phố được xem xét đtánh giá trên cơ sở so sánh đối
chiếu với một số tỉnh thành phố trong nước nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho
thành phố Yên Bái.
- Tham vấn ý kiến chuyên gia, nhà quản lý chuyên ngành về đất đai trên địa
bàn thành phố Yên Bái – Tỉnh Yên Bái.
- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích so sánh, các phương tiện công
nghệ thông tin hỗ trợ.
6 Phạm vi nghiên cứu
6.1 Về nội dung
Tập trung nghiên cứu những quy định chính sách chủ yếu của chính phủ, các
cơ quan chuyên ngành liên quan đến quản lý đất đai. Trên bình diện địa phương đặt
trọng tâm nghiên cứu vào công tác thực thi chính sách pháp luật nhà nước của tỉnh
Yên Bái và thành phố Yên Bái đối với viêc quản lý đất đai.
Làm rõ trách nhiệm các cơ quan chức năng sở ngành cũng như chính quyền cấp
thành phố, cấp phường trong thực thi công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn.
6.2 Về thời gian
Nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố giai
đoạn 2011 - 2013 đề xuất giải pháp, kiến nghị về quản lý nhà nước trên địa bàn định
hướng đến năm 2020
6.3 Về không gian
Nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Yên Bái .
Các cơ quan có trách nhiệm quản lý của chính quyền địa phương gồm UBND
tỉnh Yên Bái, UBND thành phố Yên Bái, các phòng ban quản lý về đất đai, UBND
phường, xã là chủ yếu, các cơ quan chức năng, bộ máy thực thi ở các Sở ngành của
tỉnh gồm : Sở kế hoạch, tài nguyên môi trường, Sở xây dựng….
11
12
7 Kết cấu luận văn
Phần mở đầu
Phần I: Tổng quan nghiên cứu quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành
phố Yên Bái – Tỉnh Yên Bái.
Phần II: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về đất đai.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đất đai trên địa bàn thành phố Yên Bái
– Tỉnh Yên Bái.
Chương3: Một số giải pháp, kiến nghị quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn
thành phố Yên Bái - Tỉnh Yên Bái.
Phần III: Kết luận
12
13
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐẤT ĐAI
1.1 Khái niệm, sự cần thiết của quản lý nhà nước về đất đai.
1.1.1 Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai.
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên, tài sản quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa
bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng. Điều 18 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
quy định: "Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật,
đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả"
Quản lý Nhà nước đối với đất đai là một nội dung quan trọng của quản lý Nhà
nước về kinh tế, do vai trò và vị trí đặc biệt của đất đai với tính chất là tài nguyên quốc
gia vô cùng quý giá, TLSX không thể thay thế trong sản xuất nông lâm nghiệp là mặt
bằng để tổ chức sản xuất nhiều ngành kinh tế… đồng thời đất đai là hàng hoá có giá trị
cao. Quản lý Nhà nước về đất đai chính là thực hiện chức năng của Nhà nước thực hiện
quyền đại diện sở hữu toàn dân, tham gia tực tiếp vào vận hành thị trường đất đai
Các quan hệ đất đai là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế, bao gồm:
quan hệ về sở hữu đất đai, quan hệ về sử dụng đất đai, quan hệ về phân phối các
sản phẩm do sử dụng đất mà có...
Bộ luật Dân sự quy định "Quyền sở hữu bao gồm quyền chiêm hữu, quyền
sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật ".
Từ khi Luật đất đai thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại tài sản dân sự đặc
biệt (1993) thì quyền sở hữu đất đai thực chất cũng là quyền sở hữu một loại tài
sản dân sự đặc biệt. Vì vậy khi nghiên cứu về quan hệ đất đai, ta thấy có các
quyền năng của sở hữu nhà nước về đất đai bao gồm: Quyền chiếm hữu đất đai,
quyền sử dụng đất đai, quyền định đoạt đất đai. Các quyền năng này được Nhà
nước thực hiện trực tiếp bằng việc xác lập các chế độ pháp lý về quản lý và sử
dụng đất đai. Nhà nước không trực tiếp thực hiện các quyền năng này mà thông
qua hệ thống các cơ quan nhà nước do Nhà nước thành lập ra và thông qua các tổ
13
14
chức, cá nhân sử dụng đất theo những quy định,theo sự giám sát của Nhà nước.
Hoạt động trên thực tế của các cơ quan nhà nước nhằm bảo vệ và thực hiện
quyền sở hữu nhà nước về đất đai rất phong phú và đa dạng, bao gồm các nội
dung đã quy định ở Điều 6, Luật Đất đai 2003.
Các nội dung trên nhằm bảo vệ và thực hiện quyền sở hữu nhà nước về đất
đai, được tập trung vào 4 lĩnh vực cơ bản sau đây:
*Thứ nhất: Nhà nước thực hiện việc phân phối và phân phối lại đất đai theo
quy hoạch và kế hoạch chung thống nhất. Nhà nước đại diện sở hữu toàn bộ quỹ đất
đai, nhưng lại không trực tiếp sử dụng mà giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng.
Nhà nước với vai trò chủ quản lý đất đai thực hiện phân phối đất đai cho các chủ sử
dụng; theo quá trình phát triển của xã hội, Nhà nước còn thực hiện phân phối lại
quỹ đất đai cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Để thực hiện việc phân
phối và phân phối lại đất đai, Nhà nước đã thực hiện việc chuyển giao quyền sử
dụng đất giữa các chủ thể khác nhau, thực hiện việc điều chỉnh giữa các loại đất,
giữa các vùng kinh tế. Hơn nữa, Nhà nước thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất, cho phép chuyển quyền sử dụng đất và thu hồi
đất. Vì vậy, Nhà nước quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất đai. Đồng thời,
Nhà nước còn quản lý việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất, thu hồi đất; quản lý việc chuyển quyền sử dụng đất; quản lý việc lập quy
hoạch, kế hoạch và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
*Thứ hai: Nhà nước đại diện sở hữu đất đai nên biết rõ các thông tin
chính xác về số lượng đất đai, về chất lượng đất đai, về tình hình hiện trạng của
việc quản lý và sử dụng đất đai. Cụ thể:
-Về hiện trạng sử dụng đất: Nhà nước nắm về thực tế quản lý và sử dụng đất
có hợp lý, có hiệu quả không? có theo đúng quy hoạch, kế hoạch không? cách đánh
giá phương hướng khắc phục để giải quyết các bất hợp lý trong sử dụng đất đai.
-Về số lượng đất đai: Nhà nước nắm về diện tích đất đai trong toàn quốc
gia,trong từng vùng kinh tế, trong từng đơn vị hành chính các địa phương; nắm về
diện tích của mỗi loại đất như đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, v.v...; nắm về diện
14
15
tích của từng chủ sử dụng và sự phân bố trên bề mặt lãnh thổ...
-Về chất lượng đất: Nhà nước nắm về đặc điểm lý tính, hoá tính của từng loại đất,
độ phì của đất, kết cấu đất, hệ số sử dụng đất v.v.., đặc biệt là đối với đất nông nghiệp.
*Thứ ba: Nhà nước thường xuyên thanh tra, kiểm tra chế độ quản lý và sử
dụng đất đai. Hoạt động phân phối và sử dụng đất do các cơ quan nhà nước và do
người sử dụng cụ thể thực hiện. Để việc phân phối và sử dụng được phù hợp với
yêu cầu và lợi ích của Nhà nước, Nhà nước tiến hành kiểm tra giám sát quá trình
phân phối và sử dụng đất Trong khi kiểm tra, giám sát, nếu phát hiện các vi phạm
và bất cập trong phân phối và sử dụng, Nhà nước sẽ xử lý và giải quyết các vi
phạm, bất cập đó.
*Thứ tư. Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai. Hoạt
động này được thực hiện thông qua các chính sách tài chính về đất đai như: thu tiền
sử dụng đất (có thể dưới dạng tiền giao đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất, có thể dưới dạng tiền thuê đất, có thể dưới dạng tiền chuyển mục đích sử
dụng đất), thu các loại thuế liên quan đến việc sử dụng đất (như thuế sử dụng đất,
thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế thu nhập cao có được từ việc chuyển quyền sử
dụng đất...) nhằm điều tiết các nguồn lợi hoặc phần giá trị tăng thêm từ đất mà
không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại.
Các mặt hoạt động trên có mối quan hệ trong một thể thống nhất đều nhằm
mục đích bảo vệ và thực hiện quyền sở hữu Nhà nước về đất đai. Nắm chắc tình hình
đất đai là tạo cơ sở khoa học và thực tế cho phân phối đất đai và sử dụng đất đai một
cách hợp lý theo quy hoạch, kế hoạch. Kiểm tra, giám sát là củng cố trật tự trong
phân phối đất đai và sử dụng đất đai, đảm bảo đúng quy định của Nhà nước.
Từ sự phân tích các hoạt động quản lý nhà nước đối với đất đai như trên, có
thể đưa ra khái niệm quản lý nhà nước về đất đai như sau:
*Quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước đối
với đất đai; đó là các hoạt động nắm chắc tình hình sử dụng đất; phân phối và
phân phối lại quỹ đất đai theo quy hoạch, kế hoạch; kiểm tra giám sát quá trình
quản lý và sử dụng đất; điều tiết các nguồn lợi từ đất đai.
15
16
1.1.2 Sự cần thiết của quản lý nhà nước về đất đai.
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên, tài sản quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt do vậy để đảm bảo quyền sử dụng đất và khai phá các vùng đất
mới dự trữ cho tương lai là vô cùng quan trọng
Luật đất đai năm 2003 ra đời ngày 26/11/2003 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2004
tạo ra một bước ngoặt lớn đối với công tác quản lý nhà nước về đất đai. Luật đã
điều chỉnh các quan hệ đất đai phù hợp với thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Đồng thời đã tạo ra thế và lực thúc đẩy trình độ phát triển của công tác
quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta, giúp việc quản lý đất đai thống nhất, đồng bộ
hơn và từng bước đi vào nề nếp, hạn chế được tình trạng phân tán, sử dụng đất
không đúng mục đích hoặc bỏ hoang….
Quản lý nhà nước về đất đai nhằm mục đích:
-Bảo vệ quyền sở hữu nhà nước đối với đất đai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng đất, đảm bảo tính hợp pháp của người sử dụng đất, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc sử dụng đất có hiệu quả hơn góp phần tích cực vào vấn đề
bảo vệ môi trường.
- Quản lý đất đai là phải thường xuyên đo đạc, thành lập nên các hồ sơ địa
chính thống kê đầy đủ các chủ sở đất để chính quyền địa phương quản lý dễ dàng
hơn. Theo Hiến pháp 1992 quy định đất đai là sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà
nước, chính vì vậy nên Nhà nước có quyền định đoạt số phận của đất đai thông qua
việc nhà nước giao đất, cho thuê, thu hồi đất khi cần thiết. Các đối tượng sử dụng
đất chỉ có quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Nhà nước quản lý đất đai nhằm ngăn chặn các hành vi xâm lấn và tư hữu đất
đai, sử dụng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các phát sinh trong xã hội. Các
quan hệ xã hội đối với đất đai bao gồm quan hệ về sở hữu đất đai, quan hệ về sử
dụng đất đai, quan hệ về phân phối các sản phẩm tạo ra do sử dụng đất.
Đất đai là sở hữu toàn dân mà đại diện cao nhất là nhà nước vì vậy Nhà nước
dung quyền nhất thống nhất đât đai của mình bằng các quy phạm pháp luật
16
17
về quản lý đất đai của các cơ quan quyền lực, được thực hiện thông qua hệ thống
các cơ quan nhà nước do nhà nước lập ra.
Để tránh tình trạng đất đai bị chuyển mục đích sử dụng trái phép, sử dụng
không đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nguồn tài nguyên đất bị lãng phí, đòi
hỏi tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai, nhằm khai thác và sử
dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai của thành phố với chức năng cung cấp vốn đầu
tư cho sự phát triển của thành phố.
Đất đai được sử dụng bằng cách Nhà nước giao cho các hộ dân và các thành
phần kinh tế trong xã hội đảm bảo được sử dụng lâu dài phục vụ cho quá trình kinh
doanh và sản xuất trên mảnh đất của mình. Việc sử dụng đúng mục đích đất đai sẽ
tạo điều kiện tốt hơn cho quá trình quản lý, đất đai được sử dụng được xác định
theo cơ cấu và không gian sử dụng, đòi hỏi phải nghiên cứu các yêu cầu khách quan
của xã hội về nhu cầu sử dụng đất khi đó phân bổ đất một cách hợp lý tránh thất
thất thoát lãng phí tài nguyên đât.
Các quy hoạch về đất đai sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống giao thông,
kênh rạch thuỷ lợi và kiến trúc của toàn địa phương nhằm mang lại hiệu quả cao
cho công tác quản lý đất đai. Vì vậy mục tiêu cơ bản của công tác quản lý đất đai là
sự kết hợp hữu cơ giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong việc sử dụng đất
một cách triệt để nhất và người kinh doanh trên mảnh đất của mình phải có nghĩa vụ
tài chính đối với Nhà nước bằng cách phải nộp thuế sử dụng đất.
Do hiện trạng quản lý nhà nước về đất đai còn có nhiều điểm hạn chế, vì trình
độ cán bộ quản lý địa chính trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, chưa cập nhật đầy
đủ được các thông tin và các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quản lý do vậy năng lực
còn có nhiều điểm hạn chế vì thế hiệu qủa quản lý không cao.
1.1.3 Ý nghĩa của đất đai đối với đời sống , sản xuất.
Đất đai do tự nhiên tạo ra, có trước con người và là cơ sở để tồn tại và phát triển
của xã hội loài người. Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người cho thấy đất đai
là một tài nguyên vô giá và chứa đựng sẵn trong đó các tiềm năng của sự sống, tạo
điều kiện cho sự sống của thực vật, động vật và con người trên trái đất. Chính vì
17
18
vậy,đất đai có ý nghĩa ngày càng quan trọng. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt,
tham gia vào hoạt động của đời sống Kinh tế xã hội, có vị trí có định, không di
chyển được cũng không thể tạo ra thêm tuy nhiên đất đai lại có khả năng tái tạo
thông qua độ phì của đất. Con người không thể tạo ra đất đai nhưng bằng lao động
của mình con người tác động vào đất, cải tạo đất để tạo ra các sản phẩm cần thiết
phục vụ cho cuộc sống của con người. Vì thế đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên
lại vừa là sản phẩm của lao động. Luật đất đai năm 1993 đã khẳng định ý nghĩa to
lớn của đất đai như sau: “ Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là thành phàn quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa
bàn phân bố khu dân cư, xây dựng các cơ sở hạ tầng xã hội, an ninh quốc phòng…”
Đối với mỗi lĩnh vực, đất đai lại có ý nghĩa quan trọng khác nhau. Trong ngành
nông nghiệp, đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó vừa là đối tượng lao động,
vừa là tư liệu lao động. Con người khai phá đất hoang để chăn nuôi trồng trọt, cũng
nhờ có đất mà cây trồng mới có thể sinh trưởng và phát triển được, cung cấp lương
thực thực phẩm để nuôi sống con người. Cho nên nếu không có đất, các hoạt động
sản xuất nông nghiệp sẽ không thể tiến hành được. Trong công nghiệp và các ngành
khai khoáng, đất được khai thác để làm gạch ngói, đồ gốm phục vụ cho ngành xây
dựng. Đất còn làm nền móng, là địa điểm để tiến hành các hoạt động thao tác, là
chỗ đứng cho công nhân trong sản xuất công nghiệp. Trong cuộc sống, đất đai còn
là địa bàn phân bố khu dân cư, là nơi để con người xây dựng nhà ở, hệ thống đường
sá giao thông, các toà nhà cao tầng, các công trình văn hoá kiến trúc tạo nên bộ mặt
tổng thể của một quốc gia. Ngoài ra, đất đai còn là nơi để xây dựng các tụ điểm vui
chơi giải trí, thể dục thể thao, xây dựng các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh
để thoả mãn nhu cầu cuộc sống hàng ngày của con người.
Mặt khác, đất đai còn là bộ phận lãnh thổ quốc gia. Nói đến chủ quyền của một
quốc gia là phải nói đến sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia đó. Để bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ, nhà nước phải sử dụng quyền lực của mình để bảo vệ đất đai, ngăn chặn
sự xâm lấn của các thế lực bên ngoài. Trải qua các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ
nước, đất đai của nước ta ngày nay là thành quả của bao thế hệ đã hi sinh xương
18
19
máu, dày công vun đắp mới có được. Từ đó đất đai trở thành giá trị thiêng liêng và
vô cùng quý giá, đòi hỏi chúng ta phải giữ gìn, sử dụng hợp lý đất đai.
Ý nghĩa to lớn của đất đai chỉ có thể phát huy một cách đầy đủ khi mà có sự tác
động tích cực của con người một cách thường xuyên. Nếu như con người sử dụng, khai
thác kiệt quệ độ phì nhiêu của đất mà không bồi cải tạo đất thì ý nghĩa to lớn của đất
đai sẽ không thể được phát huy. Sự hạn chế về mặt diện tích đất cùng với sự hạn chế
trong việc khai thác tiềm năng đất do tiến bộ khoa học kỹ thuật đòi hỏi con người phải
biết tính toán đánh giá đầy đủ về đất đai để có thể khai thác hiệu quả nhất
2.2 Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về đất đai
Vai trò quản lý của Nhà nước đối với đất đai được thể hiện ở các nội dụng của
quản lý Nhà nước đối với đất đai, là việc Nhà nước sử dụng các phương pháp, biện
pháp các phương tiện, công cụ quản lý, thông qua hoạt động của bộ máy quản lý để
thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với đất đai nhằm đạt được mụ tiêu
sử dụng đất đã đặt ra cụ thể:
-
Thực hiện chức năng của Nhà nước thống nhất quản lý đất đai trong phạm vi
cả nước nhằm sử dụng đất có hiệu quả, tiết kiệm và bảo vệ nguồn tài nguyên đất.
-
Thực hiện quyền đai diện sở hữu toàn dân về đất đai đó là các quyền định
đoạt về đất đai, thực hiện các quyền lợi về kinh tế trong quản lý sử dụng đất, tiến
hành giao đất hoặc cho thuê đất.
Các nôi dụng quản lý Nhà nước về đất đai bao gồm:
-
Ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản để chỉ đạo,
điều hành, tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật
-
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất làm cơ sở cho việc phân bổ quỹ
đất, quyết định mục đích sử dụng đất thông qua cơ chế giao đất, thu hồi đất.
-
Quản lý tài chính về đất đai trực tiếp tham gia vận hành thị trường quyền sử
dụng đất của các chủ thể quản lý và chủ thể sử dụng đất.
-
Quản lý giám sát thực hiện pháp luật đất đai thông qua các công tác thanh
tra, kiểm tra, tiến hành xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai trong quản lý sử dụng
đất của các chủ thể quản lý và chủ thể sử dụng đất
19
20
Nhà nước quản lý đất đai thông qua các văn bản pháp luật về quản lý sử dụng
đất là những văn bản không chỉ cung cấp thông tin mà còn thể hiện ý chí mệnh lệnh
của các cơ quan quản lý đối với người sử dụng đất nhằm thực hiện các quy định luật
lệ của nhà nước. Theo đó các đối tượng sử dụng đất phải thực hiện các quy định về
sử dụng theo một khuôn khổ do nhà nước đặt ra. Các văn bản pháp luật quản lý sử
dụng đất biểu hiện quyền lực của các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, nhằm
điều chỉnh và xác lập quyền sử dụng và sở hữu đất đai của toàn dân.
Văn bản quản lý nhà nước về đất đai có hai loại hình:
-
Văn bản quy phạm pháp luật.
-
Văn bản quy phạm pháp quy.
Văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các văn bản luật và văn bản pháp quy.
Các văn bản Luật bao gồm Hiến pháp, Luật, pháp lệnh. Các quy định của Hiến
pháp là căn cứ cho tất cả các ngành luật. Còn luật là các văn bản có giá trị sau Hiến
pháp nhằm cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp.
Văn bản pháp quy là các văn bản dưới luật, chứa đựng các quy tắc sử sự
chung được áp dụng nhiều lần do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
một trình tự thủ tục nhất định nhằm cụ thể hoá luật, pháp lệnh. Văn bản pháp quy
được ban hành nhằm cụ thể hóa hoạt động, thực hiện văn bản pháp luật. Đó là
phương tiện để quản lý nhà nước, để thể chế hoá và thực hiện sự lãnh đạo của Đảng,
quyền làm chủ của nhân dân.
2.2.1 Điều tra khảo sát đo đạc đánh giá phân hạng đất, lập bản đồ địa chính
Là một trong những công việc quan trọng nhất của quản lý đất đai, vì sau khi
đo đạc, đánh giá, phân hạng đất sẽ xây dựng nên được bản đồ địa chính từ đó xây
dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất, xây dựng bản đồ quy hoạch sử dụng đất để
phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về đất đai. Việc này hết sức có ý nghĩa
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung, Căn cứ vào kết quả này,
Nhà nước và các cấp, các ngành ở địa phương mới có cơ sở để hoạch định
chính sách phát triển nông lâm nghiệp phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, bên cạnh đó công tác đo đạc, khảo sát sẽ cho biết quỹ đất là
như thế nào để có những phương án sử dụng đất đai cho hợp lý và khoa học.
Mặt khác, hoạt động này còn là cơ sở để hàng năm Nhà nước thu thuế sử
20
21
dụng đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất và quy định giá trị của quyền sử dụng
đất làm cơ sở thực hiện khi bồi thường, khi giao đất, khi cho thuê đất, khi cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Để có những quy hoạch và hoạch định chiến lược kinh tế của đất nước thì
không thể thiếu được việc đánh giá, phân hạng đất. Đồng thời, để giúp cho công
tác quản lý nhà nước về đất đai được đạt hiệu quả cao hơn thì công việc này là hết
sức quan trọng nó giúp cho công tác quản lý đất đai đạt hiệu quả cao hơn
Theo Khoản 13, Điều 4, Luật Đất đai 2003 thì: "Bản đồ địa chính là bản đồ
thể hiện các thửa đất và các yếu tố địa tý có liên quan, lập theo đơn vị hành
chính xã, phường, thị trấn, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận".
Bản đồ địa chính được lập ra nhằm phục vụ quá trình quản lý đất đai cho hiệu
quả hơn, vì trong bản đồ địa chính đã chỉ ra được đầy đủ các thông tin của từng
thửa đất có diện tích là bao nhiêu? mục đích sử dụng? chủ sử dụng là ai?... Bản
đồ địa chính được sử dụng kiểm tra, giám sát việc thực hiện các công việc về
địa chính của cấp huyện và cấp xã; đồng thời trực tiếp thực hiện các công việc về
địa chính theo thẩm quyền của mình
2.2.2 Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Việc lập ra các bản đồ quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai của cơ quan nhà
nứơc có thẩm quyền sẽ giúp cho việc phân bổ quỹ đất cho các ngành, các tổ chức,
cá nhân tránh lãng phí tài nguyên đất và bảo vệ môi trường sinh thái. Vì vậy cho
nên quy hoạch sử dụng đất có vai trò rất quan trọng và được thể hiện như sau:
+ Quy hoạch sử dụng đất đảm bảo sự quản lý thống nhất của nhà nước, tạo điều
kiện phân bổ đất đai một cách hợp lý cho quá trình sử dụng đất và tạo điều kiện cho
các tổ chức và các thành phần trong xã hội phát huy được quyền sử dụng đất của mình.
+ Thông qua quy hoach, đất đai từng bước được hoạch định chiến lược để sử dụng
cho mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, phát triển công nghiệp, đô thị, xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội phù hợp với quỹ đất của một quốc gia, một vùng hay một địa
phương nào đó, tạo thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
+ Việc quy hoạch đất đai nhằm mục đích thống kê được quỹ đất của thành phố
khi đo sẽ tránh được sự phân bổ quỹ đất chồng chéo và sử dụng đạt hiệu quả cao.
21
22
Quy hoạch phải đảm bảo được 3 yếu tố: Kỹ thuật, kinh tế và pháp lý để lập ra
được bản đồ địa chính theo đúng kết quả đo đạc, tiết kiệm chi phi, và phải tuân theo
quy đinh của pháp luât.
2.2.3 Quản lý việc giao đất, cho thuê và thu hồi đất
Nhà nước là đại diện sở hữu toàn bộ đất đai nên việc giao đất và thu hồi đất
tuỳ vào từng thời điểm và các yếu tố lịch sử cụ thể đất mà người dân hoặc các tổ
chức đang sử dụng nhà nước có thể thu hồi để phục vụ cho các mục đích quan trọng
hơn như quốc phòng, an ninh…. hoặc phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng thì Nhà nước thu hồi đất hoặc có thể trưng dụng đất mà không quy định việc
cho người sử dụng thuê đất hoặc cho người sử dụng chuyển mục đích sử dụng
đất. và việc gia đất cũng chỉ thực hiện dưới hình thức "cấp đất", tức là giao đất
nhưng có thể không tương đương với giá trị của quyền sử dụng đất.
Luật Đất đai 2003 ra đời thì "Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
chuyển mục đích sử dụng đất" mới được hoàn thiện được thể hiện như sau:
-Nhà nước giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định
hành chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
-Nhà nước cho thuê đất tà việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp
đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
-Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử
dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn quản lý theo quy định của Luật này.
- Chuyển mục đích sử dụng đất là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra
quyết định hành chính cho phép chuyển mục đích sử dụng với những diện tích đất
cụ thể từ mục đích này sang mục đích khác.
Việc Nhà nước giao đất và cho thuê đất thì các cá nhân và các thành phần sử dụng
đất có quyển chuyển nhượng đất một cách hợp pháp nó sẽ thúc đấy nền kinh tế phát triển,
đáp ứng được nhu cầu của mọi đối tượng sử dụng đất, kể cả trong nước và nước ngoài.
- Tạo ra rang buộc về pháp lý giũa người sử dụng đất và Nhà nước giải quyết các
22
23
mối quan hệ về đất đai, người sử dụng toàn quyền quyết định mảnh đất của mình.
*Chính sách giao đất của nhà nước thể hiện như sau:
- Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất cất các mục đích sử dụng đất
công vào công việc phát triền cơ sở hạ tầng cũng như vấn đề về anh ninh quốc
phòng như: Trồng rừng,bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, xây dựng các công
trình phục vụ cho lĩnh vực sự nghiệp, kinh tế,văn hoá xã hội…
+ Hộ gia đình cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản,
làm muối mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có được từ các hoạt động sản xuất đó.
- Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất:
+ Hộ gia đình cá nhân có nhu cầu sử dụng đất làm nhà ở, các cá nhân tổ chức
xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng sau đó bán phục vụ mục đích kinh doanh, hoạc cho
thuê diện tích đất sử dụng…
*Chính sách cho thuê đất của nhà nước :
Bao gồm các thành phần, tổ chức kinh tế sử dụng đất để sản xuất kinh doanh
theo các phương án đã được duyệt từ trước, trừ các doanh nghiệp sử dụng vào mục
đích nông nghiệp. Ngoài ra còn có các nhân và các tổ chức nước ngoài
Theo điều 37 Luật đất đai năm 2003 đã quy định rõ ràngtrách nhiệm của Nhà
nước trong việc giao đất và cho thuê đất cụ thể như sau:
- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định:
+ Giao đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
+ Cho thuê đất đối với tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ
chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài.
+ Cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức. Uỷ ban nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định:
+Giao đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư
+Cho thuê đất đối với hộ gia đình, cá nhân;
+ Cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân.
- Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông
nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.
23
24
- Cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất quy định trên đây không được ủy quyền.
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất quy định trên đây là
cơ quan có thẩm quyền quyết định điều chỉnh đối với trường hợp người sử dụng
đất đã có quyết định giao đất, cho thuê đất trước ngày 1 tháng 7 năm 2004.
*Chính sách thu hồi đất:
Nhà nước là đại diện sở hữu toàn bộ đất đai do vậy quyền quyết định thu hồi
đất hoặc xử lý các sai phạm về đất đai trong các trường hợp sau:
- Các cá nhân tổ chức bị giải thể phá sản, không có nhu cầu sử dụng đất, người
đã chết nhưng không còn người thừa kế…hoặc người sử dụng đất tự nguyện giao
nộp và không có mục đích sử dụng đất
- Đất không sử dụng trong 12 tháng liền mà không được cơ quan có thẩm quyền cho
phép, và người sử dụng đất trốn thuế không có nghĩa vụ với nhà nước vể mặt tài chính.
- Ngoài ra đất được nhà nước thu hồi phục vụ cho các vấn đề an ninh quốc gia
khi đó nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo cho các tổ chức cá nhân ổn định khu
làm việc và chỗ ở mới…và có các chính sách đền bù hỗ trợ theo quy định của pháp
luật hiện hành.
2.2.4 Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý hợp đồng
sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thống kê đất.
Đăng ký sử dụng đất là một trong những quyền lợi và nghĩa vụ của các cá
nhân, tổ chức, do vậy khi các cá nhân tổ chức đã sử dụng đất thì bắt buộc phải đăng
ký với cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký sử dụng đất. Việc đăng ký đất được
thực hiện đối với mọi loại đất trên phạm vi cả nước trong những trường hợp sau:
Khi Nhà nước giao quyền sử dụng, chuyển đổi, hoặc chuyển mục đích sử dụng…
và khi thực hiện các hợp đồng về đất…đăng ký sử dụng đất nó sẽ xác lập mối quan
hệ giữa bên sử dụng đất và cơ quan có thẩm quyền tạo điều kiện cho quá trình quản
lý đất đai được tốt hơn.
Việc đăng ký đất là phải diễn ra thường xuyên và liên tục để kịp thời bổ sung
24
25
và nắm bắt được những biến động về đất đai và bổ sung vào hồ sơ địa chính của các
cấp. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền phát hành và thống nhất từ trung ương đến địa phương được quy định tại
Luật đất đai năm 2003.
2.2.5 Thống kê, kiểm kê đất đai
-Thống kế đất đai là việc Nhà nước tổng hợp, đánh giá trên hồ sơ địa chính về
hiện trạng sử dụng đất tại thời điểm thống kế và tình hình biên động đất đai giữa
hai lần thống kê. Thống kê đất đai thường phải diễn ra thường xuyên lien tục, còn
kiểm kê đất đai thì diễn ra 5 năm một lần để kịp thời bổ sung biến động về đất đai.
-Kiểm kê đất đai là việc Nhà nước tổng hợp, đánh giá trên hồ sơ địa chính
và trên thực địa về hiện trạng sử dụng đất tại thời điểm kiểm kê và tình hình biên
động đất đai giữa hai lần kiểm kê.( được quy đinh trong điều 22 Luật đất đai năm
2003)
2.3 Nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về đất đai
2.3.1 Cơ chế chính sách pháp luật.
* Cơ chế.
Trong xu thế vận động của nền kinh tế diễn ra theo kinh tế thị trường, các tổ
chức, cá nhân và các doanh nghiệp đều có mục đích riêng làm thế nào để tối đa hoá
lợi nhuận và lợi ích của mình do vậy nó sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích của người
khác dẫn đến các xung đột cá nhân và tập thể làm cho nền kinh tế bị ảnh hưởng
chậm phát triển khi đó đòi hỏi phải có một cơ quan, tổ chức đứng ra mà chỉ có cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền mới có thể giải quyết được các mâu thuẫn này.
Nước ta là một nước xuất phát từ nền nông nghiệp do vậy nền kinh tế còn có
nhiều hạn chế so với khu vực và thế giới, từ đai hội VI đã đề ra các phương châm
hành động để đưa đất nước ta lên một vị trí và tầm cao mới thì bên cạnh đó chúng ta
phải xây dựng nhà nước pháp quyền để quản lý mọi lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh
vực đất đai. Nhà nước giao đất cho các hộ gia đình sử dụng lâu dài ổn định, nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở. Khi tham gia
vào nền kinh tế thị trường, đất đai có sự thay đổi và nó trở thành tài sản vô cùng
25