Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

luận văn thạc sĩ quản lý thu bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.51 KB, 95 trang )

1

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư
liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thùy Dung


2

2

LỜI CẢM ƠN

Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong suốt
thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, tôi đã nhận được rất
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy Cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin gửi đến quý Thầy Cô Khoa Sau đại học –
Trường Đại Học Thương Mại đã cùng với tri thức và tâm huyết của mình để truyền
đạt vốn kiến thức quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường. Đặc biệt xin gửi
lời cảm ơn chân thành nhất tới Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Oanh đã khuyến khích, chỉ
dẫn tôi hoàn thành một cách tốt nhất đề tài được giao.
Xin chân thành cảm ơn các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đã hợp tác chia sẻ
thông tin, cung cấp cho tôi nhiều nguồn tư liệu, tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài


nghiên cứu. Và đặc biệt xin gửi lời cảm ơn đến Bảo hiểm Xã hội Thành phố Hà Nội
nói chung và Bảo hiểm Xã hội quận Cầu Giấy nói riêng đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong
quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình và những người bạn đã động viên,
hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành luận văn.
Dẫu vậy trong quá trình làm bài không thể tránh được những thiếu sót, rất
mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn.
Sau cùng xin kính chúc quý thầy cô trong khoa Sau đại học và toàn thể các
thầy cô của trường Đại học Thương Mại dồi dào sức khỏe, công tác tốt.
Trân trọng cảm ơn!


3

3

MỤC LỤC


4

4

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG

SƠ ĐỒ


5


5

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
BHXH

DIỄN GIẢI
Bảo hiểm xã hội

BHYT
BHTN
BHXHTP
CTQG
CCHC
CL
CNTT
CBCC
DNNN
DNNQD
HĐND
HCSN
HTX
HN
KBNN
KD
KH&ĐT
LD
NLĐ
LĐTB&XH

NSNN
SDLĐ
SXKD
TNLĐ – BNN
TS

Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm Xã hội thành phố
Chính trị quốc gia
Cải cách hành chính
Công lập
Công nghệ thông tin
Cán bộ công chức
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Hội đồng nhân dân
Hành chính sự nghiệp
Hợp tác xã
Hội nghề
Kho bạc nhà nước
Kinh doanh
Kế hoạch và đầu tư
Liên doanh
Người lao động
Lao động Thương binh và Xã hội
Ngân sách nhà nước
Sử dụng lao động
Sản xuất kinh doanh
Tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp

Tiến sĩ

VC
VPĐD
UBND

Viên chức
Văn phòng đại diện
Ủy ban nhân dân


6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, chính sách BHXH là chính sách lớn, là bộ phận quan trọng trong hệ
thống chính sách xã hội, đã được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện ngay từ
những ngày đầu thành lập.
Quỹ BHXH có nhiệm vụ đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ BHXH
cho NLĐ.
Thu BHXH ảnh hưởng trực tiếp đến chi và quá trình thực hiện chính sách
BHXH trong tương lai. BHXH cũng như các loại hình bảo hiểm khác đều dựa trên
cơ sở nguyên tắc có đóng, có hưởng đã đặt ra yêu cầu đối với thu nộp BHXH. Nếu
không thu được BHXH thì quỹ BHXH không có nguồn để chi trả các chế độ BHXH
cho NLĐ. Vì thế, thu BHXH ngày càng trở thành khâu quan trọng và quyết định
đến khả năng thực hiện chính sách BHXH, qua đó ảnh hưởng đến việc đảm bảo ổn
định cuộc sống cho NLĐ cũng như tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị, doanh
nghiệp hoạt động.
Do vậy, quản lý thu BHXH là nhiệm vụ quan trọng của ngành BHXH. Để thu
BHXH đạt hiệu quả cao thì quản lý thu BHXH phải được tổ chức chặt chẽ, thống

nhất, khoa học trong cả hệ thống, từ lập kế hoạch thu, phân cấp thu, ghi kết quả và
quản lý tiền thu BHXH…
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua quản lý thu BHXH ở nước ta còn bộc lộ
những hạn chế như: số đơn vị, số lao động chưa tham gia BHXH còn rất lớn, tỷ lệ
gia tăng về mức lương tham gia BHXH hàng năm chưa cao, số đơn vị nợ đọng
BHXH tăng nhanh,... gây ra những ảnh hưởng tiêu cực về quyền lợi đối với NLĐ.
Bên cạnh đó, tăng trưởng nguồn thu BHXH còn thấp, chưa tương xứng với tiềm
năng. Quản lý thu BHXH trên địa bàn Hà Nội cũng không tránh khỏi những hạn
chế trên.


7

Để khắc phục những hạn chế nói trên, nhằm mở rộng và tăng trưởng nguồn
thu BHXH, phát triển bền vững quỹ BHXH trên địa bàn thành phố Hà Nội, rất cần
có những giải pháp cụ thể.
Với lý do đó, đề tài “Quản lý thu bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội thành
phố Hà Nội” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề BHXH đã và đang được nhiều người quan
tâm nghiên cứu. Đã có một số công trình nghiên cứu về BHXH với những cách tiếp
cận khác nhau. Cụ thể như:
- Đề tài cấp bộ, Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện cơ chế vận hành và mô
hình tổ chức thực hiện chính sách BHXH, Chủ nhiệm đề tài TS Nguyễn Thị Lan
Hương, 2008.
- Đề tài cấp bộ, Các giải pháp đảm bảo cân đối quỹ BHXH bắt buộc khi thực
hiện Luật BHXH, Chủ nhiệm đề tài TS Phạm Đỗ Nhật Tân, 2007.
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam” mã số:
62.34.01.01, của Đỗ Văn Sinh, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2005. Luận án đã
góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học và thực tiễn của quản lý quỹ BHXH ở Việt

Nam; tổng kết mô hình và phương thức quản lý quỹ BHXH của một số nước trên
thế giới để rút ra một số bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong quản lý quỹ
BHXH ở Việt Nam; đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý quỹ
BHXH ở Việt Nam.
- Nguyễn Dương (2010), Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý thu BHXH
tại Bảo hiểm xã hội Thành phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường đại học
Kinh doanh và công nghệ Hà Nội. Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chất lượng quản lý thu BHXH tại BHXH Thành phố Hà Nội.
Các công trình nói trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh nhau của quản lý thu
BHXH. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về
quản lý thu BHXH tại BHXH Hà Nội.


8

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về quản lý thu BHXH tại BHXH trên địa bàn tỉnh (thành phố) ở nước ta trong
điều kiện hiện nay, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý
thu BHXH tại BHXH thành phố Hà Nội giai đoạn 2017 - 2025.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, luận
văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thu
BHXH tại BHXH trên địa bàn tỉnh (thành phố) trong điều kiện hiện nay.
Nghiên cứu kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố về quản lý thu BHXH
nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho BHXH thành phố Hà Nội.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý thu BHXH tại BHXH thành phố Hà
Nội.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý thu BHXH tại
BHXH thành phố Hà Nội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý thu
BHXH tại BHXH thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tác giả tập trung nghiên
cứu về quản lý thu BHXH bắt buộc. Do đó, tác giả nghiên cứu các vấn đề về thu,
nộp BHXH bắt buộc của người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan
BHXH, các yếu tố ảnh hưởng đến số thu BHXH, đối tượng nộp BHXH bắt buộc,
phương thức thu, quy trình tổ chức quản lý thu, nguyên nhân trốn đóng BHXH,
những biện pháp chống thất thu BHXH bắt buộc.
- Về không gian: Tác giả nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Đề tài giới hạn sử dụng dữ liệu thứ cấp, nghiên cứu thực trạng
trong 5 năm gần đây (2011-2015) và kết hợp sử dụng dữ liệu sơ cấp nghiên cứu
thực trạng. Đề tài định hướng giải pháp và kiến nghị hoàn thiện quản lý thu BHXH
bắt buộc trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2025.


9

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng những phương pháp khác nhau,
bổ sung cho nhau để giải quyết mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Cụ thể đề
tài sử dụng hai nhóm phương pháp là phương pháp thu thập dữ liệu và phân tích dữ
liệu:
*Nhóm phương pháp thu thập dữ liệu:
- Thu thập tìm kiếm các dữ liệu liên quan đến các cơ sở lý luận của đề tài ở
các giáo trình, luận án, luật, nghị định, thông tư…. được dùng để là cơ sở lý luận về
quản lý thu BHXH, nội dung, vao trò và sự cần thiết của quán lý thu BHXH.
- Thu thập, nghiên cứu văn bản pháp luật về BHXH, báo cáo tổng kết về
BHXH, các số liệu thống kê có liên quan… để làm cơ sở đánh giá thực trạng vấn đề

nghiên cứu. Các văn bản pháp luật về BHXH nhằm nghiên cứu thực trạng, ban hành
và tổ chức thực hiện pháp luật liên quan đến phát triển BHXH. Cùng các công tác
quản lý sẽ sử dụng trong việc nghiên cứu các nội dung quản lý thu BHXH trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
Để tài cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan, đồng
thời dựa vào các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của nhà nước về
quản lý thu BHXH.
*Nhóm phương pháp phân tích dữ liệu:
- Phương pháp phân tích thống kê: Phương pháp này được sử dụng để đưa ra
các số liệu, các thông tin cần thiết trong phạm vi thời gian nghiên cứu đề tài nhằm
đưa ra các nhận định về sự phát triển của dối tượng nghiên cứu cũng như tạo ra cơ
sở để dự đoán cho xu hướng phát triển trong tương lai của sự vật hiện tượng.
- Phương pháp tổng hợp dữ liệu: phương pháp này được sử dụng để tổng hợp
các kết quả điều tra, quan sát, các tài liệu thu thâp được từ nhiều nguồn để đưa ra
các kết luận, đánh giá sử dụng cho mục đích nghiên cứu của đề tài. Dựa vào các số
liệu đã thu thập được tiến hành tổng hợp dưới dạng văn bản word, excel, xây dựng
các bảng biể sơ đồ hình vẽ…


10

- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được thực hiện thông qua việc đối
chiếu giứa các sự vật hiện tượng với nhau để thấy được những điểm giống và khác
nhau giữa chúng.
- Phương pháp phân tích: Phân tích số liệu từ phương pháp so sánh cần thiết
cho các nội dung cần nghiên cứu như tình hình quản lý thu BHXH bắt buộc và giải
pháp hoàn thiện công tác quả lý thu BHXH tại thành phố Hà Nội.
- Phương pháp đánh giá: đánh giá thực trạng công tác quản lý thu BHXH bắt
buộc dựa trên việc phân tích dữ liệu. Từ đó đưa những ưu điểm và hạn chế trong
công tác quản lý thu BHXH, đưa ra nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện hơn nưa

công tác quản lý này.
6. Đóng góp về khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn sau đây:
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận và thực
tiễn cơ bản về quản lý thu BHXH tại BHXH trên địa bàn tỉnh (thành phố) trong điều
kiện hiện nay.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng quản lý thu BHXH tại BHXH thành phố
Hà Nội, chỉ ra được những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất được phương hướng và một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý
thu BHXH tại BHXH thành phố Hà Nội nhằm góp phần phát triển bền vững quỹ
BHXH của thành phố cũng như góp phần đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, thúc đẩy
phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương.


11

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH (THÀNH PHỐ)

1.1. Một số vấn đề cơ bản về thu bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội, các loại hình và chế độ bảo hiểm xã hội
* Khái niệm bảo hiểm xã hội
Hệ thống BHXH đầu tiên ra đời trên thế giới vào giữa thế kỷ XIX là công
trình của Chính phủ Đức dưới thời Thủ tướng Bismark (1883-1889) với cơ chế ba

bên (Nhà nước - giới chủ - giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho NLĐ trong
một số trường hợp họ gặp rủi ro. Chế độ BHXH này bao gồm: Chế độ bảo hiểm ốm
đau (1883); bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp (1884) và bảo hiểm tuổi già, tàn tật
(1889). Sau đó, trước tác dụng tích cực của BHXH trong quan hệ lao động nhiều
nước bắt đầu áp dụng hệ thống BHXH. Trong những năm 30 của thế kỷ XX, một số
nước còn mở rộng thêm những chế độ khác ngoài BHXH và xuất hiện khái niệm
mới: Social Security (an sinh, an toàn xã hội). Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã
có Công ước số 102 năm 1952 về an sinh xã hội. Hiện nay, trên thế giới nói chung
người ta coi BHXH là một bộ phận cấu thành của an sinh xã hội.
Ở nước ta, xét về mặt lịch sử, BHXH xuất hiện vào những năm 30 của thế kỷ
XX, một số chế độ được áp dụng khi đó là chế độ ốm đau, chế độ tai nạn, chế độ
hưu trí và cũng chỉ áp dụng cho một số đối tượng làm việc, phục vụ trong bộ máy
hành chính, quân đội của Pháp. Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, tại
văn bản pháp luật cao nhất đã có những quy định về BHXH, thể hiện sự quan tâm
và nhận thức của Nhà nước về vấn đề này. Điều 14 Hiến pháp năm 1946 quy định:
“Những người công dân già cả hoặc tàn tật, không làm được việc thì được giúp
đỡ…”. Sau đó, các sắc lệnh số 29-SL ngày 12-3-1947, Sắc lệnh số 76-SL ngày 205-1950, Sắc lệnh số 77-SL ngày 22-5-1950 ở các mức độ khác nhau quy định về


12

quyền hưởng BHXH của NLĐ thông qua các chế độ cụ thể. Song vì tình hình chính
trị - xã hội phức tạp khi đó cũng như những khó khăn về quỹ, về đối tượng tham gia
và hưởng BHXH… mà pháp luật BHXH chưa được áp dụng theo nghĩa đầy đủ về
mặt nội dung pháp lý cũng như xã hội của nó.
Pháp luật BHXH được chính thức áp dụng rộng rãi kể từ khi Chính phủ ban
hành Nghị định số 218/CP ngày 27-12-1961 kèm theo Điều lệ tạm thời về BHXH
đối với công nhân, viên chức nhà nước. Văn bản pháp luật này điều chỉnh tất cả các
vấn đề về BHXH ở nước ta trong suốt thời gian dài, từ khi được ban hành cho đến
những năm 80 của thế kỷ XX. Sau đó, với sự thừa nhận và phát triển của nền kinh

tế thị trường, pháp luật nói chung và pháp luật BHXH nói riêng đã có sự đổi mới về
chất. Điều 56 Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận:
“Nhà nước quy định… chế độ BHXH đối với viên chức nhà nước và những người
làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với
người lao động”. Trên cơ sở đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 43/CP ngày 226-1993 quy định tạm thời chế độ BHXH. Sau một thời gian thực hiện, trên cơ sở
đúc rút kinh nghiệm và từ yêu cầu của thực tế đời sống, pháp luật BHXH được xây
dựng thành một chương độc lập (chương XII) trong Bộ luật Lao động ngày 23-61994 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc đổi mới, cải cách chế độ BHXH. Để cụ thể
hóa các quy định của Bộ luật Lao động, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP
ngày 26-01-1995 kèm theo Điều lệ BHXH; Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 về
việc ban hành Điều lệ BHXH đối với sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ
quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân và Nghị định số 19/CP ngày
16-02-1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam. Với sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật
Lao động (tháng 4-2002) trong đó có các nội dung về BHXH, Nghị định của Chính
phủ số 01/2003/NĐ-CP ngày 09-01-2003 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26-01-1995 được ban
hành. Tiếp đó, trên cơ sở các cam kết của Chính phủ Việt Nam trong việc gia nhập
WTO về chính sách an sinh xã hội cùng với sự chín muồi về nhận thức, về điều
kiện kinh tế - xã hội đất nước, nhu cầu của đời sống xã hội… ngày 29-6-2006 tại kỳ


13

họp thứ 9, Quốc hội khóa XI nước ta đã thông qua Luật BHXH và có hiệu lực từ
ngày 01-01-2007 (riêng đối với BHXH tự nguyện có hiệu lực từ ngày 01-01-2008;
BHTN có hiệu lực từ ngày 01-01-2009). Như vậy, việc xây dựng và phát triển pháp
luật BHXH ở nước ta luôn phản ánh và song hành với các nhu cầu của đời sống trên
cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Tuy nhiên, khi bàn đến khái niệm BHXH thì tùy theo góc độ nhìn nhận mà
khái niệm BHXH được tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau. Theo Từ điển tiếng
Việt, BHXH là sự: “Bảo đảm những quyền lợi vật chất cho công nhân, viên chức

khi không làm việc được vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động…”
Theo Tiến sĩ Đỗ Văn Sinh, khái niệm BHXH là: “Bảo hiểm xã hội là biện
pháp Nhà nước sử dụng để đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
người tham gia bảo hiểm, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức
khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động, chết; gắn liền với quá
trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham gia bảo
hiểm xã hội đóng góp và việc sử dụng quỹ đó cung cấp tài chính nhằm ổn định đời
sống cho họ và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội”.
BHXH, kể từ khi xuất hiện đến nay luôn luôn phát huy tác dụng trong những
lúc NLĐ gặp khó khăn hiểm nghèo do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi
già… trên cơ sở những cam kết đóng góp của NLĐ và người SDLĐ cho một bên
thứ ba (cơ quan bảo hiểm) trước khi xảy ra những biến cố đó. Tuy nhiên, BHXH
không trực tiếp chữa bệnh cho người tham gia BHXH khi họ ốm đau, tai nạn, sắp
xếp việc làm cho người mất việc làm… mà chỉ giúp họ giữ thăng bằng phần thu
nhập bị giảm hay bị mất hoặc giúp họ trang trải phần chi tiêu bị tăng cao đột xuất
do gặp các rủi ro nói trên.
Vì vậy, dưới góc độ kinh tế: BHXH là phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự đảm
bảo thu nhập nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi bị giảm hoặc mất
khả năng lao động.
Sở dĩ khái niệm BHXH được tiếp cận với những nội dung đa dạng như trên
bởi trước khi có Luật BHXH thì không có văn bản pháp lý nào quy định một cách


14

cụ thể và chính thức về vấn đề này, hơn nữa sự đa dạng đó còn được giải thích bởi
góc độ tiếp cận và nhu cầu nghiên cứu khác nhau. Hiện nay, theo quy định tại
Khoản 1 Điều 3 Luật BHXH thì BHXH được định nghĩa như sau: “BHXH là sự bảo
đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất

nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”.
* Các loại hình bảo hiểm xã hội
Hiện nay, có hai loại hình BHXH cơ bản: BHXH bắt buộc và BHXH tự
nguyện
+ BHXH bắt buộc là loại hình BHXH mà NLĐ và người SDLĐ phải tham gia.
+ BHXH tự nguyện là loại hình BHXH mà NLĐ tự nguyện tham gia, được lựa
chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng
BHXH.
* Các chế độ bảo hiểm xã hội
Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ
thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với
NLĐ. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối
tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể.
Hiện nay, tồn tại 9 chế độ BHXH, song tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, mà số lượng các chế độ được thực hiện ở mỗi nước
khác nhau. Ở nước ta, Điều 4 Luật BHXH quy định rõ các chế độ BHXH, gồm:
- BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ sau đây:
+ Ốm đau;
+ Thai sản;
+ Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
+ Hưu trí;
+ Tử tuất.
- BHXH tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây:
+ Hưu trí;


15

+ Tử tuất.
- BHTN bao gồm các chế độ sau đây:

+ Trợ cấp thất nghiệp;
+ Hỗ trợ học nghề;
+ Hỗ trợ tìm việc làm.
Nội dung của các chế độ nêu trên được quy định thống nhất trong Luật
BHXH. Mỗi một chế độ được xây dựng đều căn cứ vào những cơ sở như: điều kiện
kinh tế - xã hội, môi trường lao động, điều kiện sinh học…
1.1.1.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội
Thứ nhất,BHXH góp phần trợ giúp người lao động gặp rủi ro (ốm
đau,TNLĐ-BNN, thất nghiệp...) sớm trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu cũng như
sớm có việc làm trở lại...
Theo quy định của BHXH thì NLĐ khi có việc làm sẽ đóng góp một phần tiền
lương, thu nhập vào quỹ dự phòng. Quỹ này hỗ trợ NLĐ khi ốm đau, tai nạn, lúc
sinh đẻ và chăm sóc con cái, khi không làm việc, lúc già cả để duy trì và ổn định
cuộc sống của NLĐ và gia đình họ. Do vậy, hoạt động BHXH, một mặt, đòi hỏi
tính trách nhiệm cao của từng NLĐ đối với bản thân mình, với gia đình và đối với
cộng đồng, xã hội theo phương châm “mình vì mọi người, mọi người vì mình”
thông qua quyền và nghĩa vụ; mặt khác, thể hiện sự gắn kết trách nhiệm giữa các
thành viên trong xã hội, giữa các thế hệ kế tiếp nhau trong một quốc gia, tạo thành
một khối đoàn kết thống nhất về quyền lợi trong một thể chế chính trị - xã hội bền
vững.
Người SDLĐ cũng phải có trách nhiệm đóng góp BHXH cho NLĐ. Nếu theo
nhìn nhận ban đầu, việc đóng góp BHXH cho NLĐ có thể sẽ làm tăng chi phí sản
xuất, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng thực chất, về lâu dài, việc tham gia
BHXH đã chuyển giao trách nhiệm bảo vệ NLĐ khi gặp rủi ro về phía xã hội, rủi ro
được điều tiết trên phạm vi toàn xã hội, giúp cho chủ SDLĐ bớt những khó khăn, lo
lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp, yên tâm tổ chức SXKD.


16


Trong hoạt động BHXH, Nhà nước tiến hành xây dựng chính sách, chế độ, tổ
chức triển khai và giám sát quá trình thực hiện nhằm thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ
của người tham gia BHXH. Như vậy nhà nước giữ vai trò quản lý về BHXH, bảo hộ
cho quỹ BHXH mà không phải chi từ NSNN cho lĩnh vực này. Mặt khác, chính sách
BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, giúp Nhà nước điều tiết mối
quan hệ giữa chính sách kinh tế và xã hội trên phương diện vĩ mô, bảo đảm cho nền
kinh tế liên tục phát triển và giữ gìn ổn định xã hội trong từng thời kỳ cũng như trong
suốt quá trình.
Thứ hai,BHXH góp phần ổn định cuộc sống của NLĐ khi hết tuổi lao động
hoặc không còn khả năng lao động.
Theo quy định của Luật BHXH, NLĐ tham gia đóng BHXH từ 20 năm trở lên
khi hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động thì được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp
hằng tháng. Với nguồn lương hưu và trợ cấp BHXH, người cao tuổi có thu nhập ổn
định, bảo đảm cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Hiện nay, cả nước đã có khoảng hơn 2,5
triệu người đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hằng tháng với số tiền chi trả từ
quỹ BHXH hàng nghìn tỉ đồng mỗi tháng.
Trong nhiều năm qua, kể từ khi chính sách BHXH được thực hiện, cùng với
sự phát triển kinh tế, mức lương hưu cũng không ngừng được điều chỉnh cho phù
hợp với mức sống chung của toàn xã hội. Vào các thời điểm tăng mức lương tối
thiểu chung cũng như việc xem xét chỉ số giả cả, Nhà nước đều có sự điều chỉnh
lương hưu một cách hợp lý. Mức lương hưu không ngừng được điều chỉnh cho phù
hợp với mức sống chung toàn xã hội tại thời điểm hưởng lương hưu đã bảo đảm
cuộc sống của người nghỉ hưu, tạo sự an tâm, tin tưởng của người về hưu sau cả
cuộc đời lao động. Tương tự như vậy, các quyền lợi về BHYT, về chế độ ốm đau,
chế độ TNLĐ-BNN; mức trợ cấp tuất một lần... cũng được cải thiện rõ rệt.
Sở dĩ có được điều kiện nâng cao và mở rộng các quyền lợi của BHXH là do
phương thức tài chính được hình thành theo cách lập quỹ và có sự tính toán điều


17


chỉnh quan hệ đóng - hưởng trong phạm vi toàn xã hội theo những dự báo về các
yếu tố kinh tế - xã hội trong tương lai. Theo phương thức lập quỹ, người lao động,
trước hết phải có trách nhiệm với bản thân trong việc đóng góp lập quỹ BHXH. Mặt
khác, với việc lập quỹ BHXH đã gắn kết được trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp
trong cùng chính sách BHXH. Vì vậy, nguồn quỹ BHXH được Nhà nước bảo hộ và
phát triển cân đối bền vững sẽ là cơ sở để cải thiện không ngừng các chế độ BHXH
nói chung và đời sống của người nghỉ hưu nói riêng.
Thứ ba,BHXH góp phần ổn định và nâng cao chất lượng lao động, bảo đảm
sự bình đẳng về vị thế xã hội của NLĐ trong các thành phần kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển.
Chính sách BHXH hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản “đóng - hưởng”
đã tạo ra bước đột phá quan trọng về sự bình đẳng của NLĐ về chính sách
BHXH. Khi đó, mọi NLĐ làm việc ở các thành phần kinh tế, các ngành nghề, địa
bàn khác nhau, theo các hình thức khác nhau đều được tham gia thực hiện các
chính sách BHXH. Phạm vi đối tượng tham gia BHXH không ngừng được mở
rộng đã thu hút hàng triệu NLĐ làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau,
khuyến khích họ tự giác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi BHXH, tạo sự an tâm,
tin tưởng và yên tâm lao động, SXKD.
NLĐ tham gia BHXH, BHYT khi ốm đau sẽ được khám chữa bệnh và được
quỹ BHYT chi trả phần lớn chi phí; được nhận tiền trợ cấp khi ốm đau không đi
làm được, được nghỉ chăm con ốm; khi thai sản được nghỉ khám thai, được nghỉ khi
sinh đẻ và nuôi con, được nhận trợ cấp khi sinh con và trợ cấp thai sản; khi bị tai
nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp sẽ được nhận phần trợ cấp do giảm khả năng
lao động do TNLĐ-BNN gây ra. Ngoài ra, NLĐ còn được nghỉ dưỡng sức và phục
hồi sức khỏe sau khi ốm đau, sinh đẻ hay điều trị thương tật nhằm nâng cao thể lực.
Khi NLĐ mất việc làm sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp và được giới thiệu việc
làm hoặc gửi đi học nghề để có cơ hội tìm kiếm việc làm mới.
Với những quyền lợi của NLĐ khi tham gia BHXH đã góp phần thu hút nguồn
lao động vào nền sản xuất xã hội, giữ gìn và nâng cao thể lực cho NLĐ trong suốt



18

quá trình lao động, sản xuất. Việc được tham gia BHXH khi đang làm việc và được
hưởng lương hưu sau này đã tạo ra cho NLĐ sự phấn khởi, tâm lý ổn định, an tâm
vào việc làm mà họ đang thực hiện. Thực tế là nhiều doanh nghiệp, khi tuyên truyền
quảng cáo tuyển dụng lao động, thì tiêu thức được tham gia BHXH cũng là một
quyền lợi quan trọng thu hút được nhiều lao động.
Sự an tâm của NLĐ cũng như việc bảo vệ sức lao động của họ thông qua
chính sách BHXH đã trở thành một chính sách thu hút nguồn lao động vào nền sản
xuất xã hội, bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ tư, BHXH góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công
bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư, đồng thời giảm chi cho NSNN, bảo đảm an
sinh xã hội bền vững.
Trên thị trường lao động, “tiền lương là giá cả sức lao động” được hình thành
tự phát căn cứ vào quan hệ cung cầu, vào chất lượng lao động cũng như các điều
kiện khung mà trong đó Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý thông qua những quy
định về mức lương tối thiểu và những điều kiện lao động cần thiết. Quá trình hình
thành tiền lương theo thỏa thuận giữa chủ SDLĐ và NLĐ là sự phân phối lần đầu
và phân phối trực tiếp cho từng NLĐ. Do vậy, NLĐ có tay nghề cao, có nghề
nghiệp thích ứng với nhu cầu của xã hội sẽ có thu nhập cao. Đó là sự hợp lý và
khuyến khích làm giàu chính đáng.
Sau khi đã thực hiện thuế thu nhập, Nhà nước sẽ tiến hành phân phối lại thông
qua chính sách BHXH. Khi đó, người có năng lực hơn, nhận được tiền lương cao
hơn sẽ đóng góp nhiều hơn cho xã hội để trợ giúp những người có mức lương thấp
hơn trong xã hội. Một bộ phận lao động khác do gặp phải rủi ro trong cuộc sống
như về sức khỏe, về năng lực, về hoàn cảnh gia đình... có việc làm và thu nhập thấp
hơn sẽ nhận được các quyền lợi BHXH để duy trì cuộc sống. Bên cạnh đó, chế độ
hưu trí, tử tuất với nguyên tắc tương đồng giữa mức đóng và mức hưởng đã khuyến

khích NLĐ khi làm việc có thu nhập cao và đóng góp ở mức cao, với thời gian dài
thì sau này sẽ được hưởng tiền lương hưu với mức cao, an tâm nghỉ ngơi khi tuổi
già.


19

BHXH được thực hiện theo nguyên tắc đóng - hưởng, có nghĩa là người tham
gia đóng góp vào quỹ BHXH thì người đó mới được hưởng quyền lợi về BHXH.
Như vậy, nguồn để thực hiện chính sách là do NLĐ đóng góp, Nhà nước không
phải bỏ ngân sách ra nhưng vẫn thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm thu bảo hiểm xã hội
1.1.2.1. Khái niệm thu bảo hiểm xã hội
Thu BHXH là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để bắt buộc các đối
tượng phải đóng BHXH theo mức phí quy định hoặc cho phép một số đối tượng tự
nguyện tham gia, lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập
của mình. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích bảo
đảm cho các hoạt động BHXH.
* Các đối tượng thu bảo hiểm xã hội
Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm
hoặc bị mất đi do NLĐ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các
nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy, đối tượng của BHXH
chính là thu nhập của NLĐ bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả
năng lao động, mất việc làm của những NLĐ tham gia BHXH. Còn đối tượng tham
gia BHXH là NLĐ và người SDLĐ. Tuy vậy, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những
NLĐ nào đó.
Ở nước ta, Điều 2, Luật BHXH quy định đối tượng áp dụng như sau:
NLĐ tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm:
- Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng
lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;

- Cán bộ, công chức, viên chức;
- Công nhân quốc phòng, công nhân công an;
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp
vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm cơ yếu hưởng
lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân;


20

- Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân
dân phục vụ có thời hạn;
- Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt
buộc.
Người SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức
khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho NLĐ.
* Chủ thể thu bảo hiểm xã hội
Theo Nghị định số 19-CP ngày 16-02-1995 của Chính phủ về việc thành lập
BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH hiện nay ở Trung ương
và địa phương; Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 06-12-2002 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam; Nghị định
số 94/2008/NĐ-CP ngày 22-8-2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam, BHXH Việt nam có nhiệm vụ tổ
chức thu BHXH theo quy định của Chính phủ.
BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung, thống
nhất từ Trung ương đến địa phương, gồm có:
+ Ở Trung ương là BHXH Việt Nam.

+ Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là BHXH tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là BHXH tỉnh) trực thuộc BHXH Việt Nam.
+ Ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là BHXH huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là BHXH huyện) trực thuộc BHXH tỉnh.
1.1.2.2. Đặc điểm thu bảo hiểm xã hội
+ Số đối tượng phải thu rất lớn và gia tăng theo thời gian nên thu BHXH rất
khó khăn và phức tạp.


21

Theo quy định của Luật BHXH, số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc rất
lớn. Do đó, quản lý thu BHXH phải đảm bảo để tất cả các đối tượng thuộc diện phải
tham gia BHXH đều phải tham gia BHXH nhằm bảo đảm quyền lợi cho NLĐ.
+ Thu BHXH mang tính chất định kỳ, lặp đi lặp lại, do đó khối lượng công
việc rất lớn, đòi hỏi nguồn nhân lực và cơ sở vật chất phục vụ cho thu cũng phải
tương ứng.
Theo quy định, hàng tháng, khi có phát sinh tăng giảm lao động hoặc tiền
lương, chủ SDLĐ lập danh sách gửi cơ quan BHXH để được tăng, giảm kịp thời. Số
đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng đòi hỏi nguồn nhân lực, cơ sở vật chất
phục vụ quản lý phải phù hợp. Chỉ có như vậy thì quản lý thu BHXH mới đảm bảo
kịp thời và chính xác.
+ Đối tượng thu là tiền nên dễ xảy ra sai phạm, vi phạm đạo đức và lạm dụng
quỹ BHXH.
Theo quy định, chậm nhất đến ngày cuối cùng của tháng, đơn vị trích tiền
đóng BHXH bắt buộc trên quỹ tiền lương, tiền công tháng của những NLĐ tham gia
BHXH bắt buộc, đồng thời trích từ tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt
buộc của từng NLĐ theo mức quy định, chuyển cùng một lúc vào tài khoản chuyên
thu của cơ quan BHXH mở tại ngân hàng hoặc Kho bạc nhà nước. Trong thực tế
hiện nay, số đơn vị thực hiện theo đúng quy định này không nhiều, một số đơn vị

còn nộp chậm BHXH, do vậy đòi hỏi trong thu BHXH phải sát sao, kịp thời.
1.1.3. Vai trò của thu bảo hiểm xã hội
Thứ nhất, vai trò của thu BHXH trong việc tạo lập quỹ BHXH và thực hiện
chính sách BHXH.
Thu BHXH là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH nhằm
đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt tập trung, thống nhất. Qua đó, đảm bảo sự
công bằng trong việc thực hiện và triển khai chính sách BHXH nói chung và giữa
những người tham gia BHXH nói riêng.
Thu BHXH ở hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến chi và quá trình thực hiện chính
sách BHXH trong tương lai. BHXH cũng như các loại hình bảo hiểm khác đều dựa
trên cơ sở nguyên tắc có đóng có hưởng BHXH đã đặt ra yêu cầu đối với thu nộp


22

BHXH. Nếu không thu được BHXH thì quỹ BHXH không có nguồn để chi trả các
chế độ BHXH cho NLĐ. Do đó, thu BHXH đóng một vai trò quyết định, then chốt
trong quá trình đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ.
Thứ hai, vai trò của thu BHXH trong mối quan hệ giữa các bên trong BHXH.
Để thực hiện chính sách BHXH thuận lợi thì thu BHXH có vai trò như một
điều kiện cần và đủ. Bởi thu BHXH là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản nhất
trong quá trình tạo lập quỹ BHXH. Đồng thời thu BHXH cũng là một khâu bắt buộc
đối với NLĐ và người SDLĐ tham gia BHXH.
Thứ ba, vai trò của thu BHXH trong việc đảm bảo sự công bằng trong BHXH.
BHXH không nhằm mục đích kinh doanh, không vì lợi nhuận, nhưng phân
phối trong BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại
thu nhập. BHXH dựa trên nguyên tắc NLĐ bình đẳng trong nghĩa vụ đóng góp và
hưởng quyền lợi BHXH thông qua hoạt động của mình. BHXH tham gia vào phân
phối và phân phối lại thu nhập xã hội giữa những NLĐ thế hệ trước với thế hệ sau,
giữa những ngành nghề sản xuất, giữa những người thu nhập cao và người có thu

nhập thấp, giữa những người khoẻ mạnh, may mắn có việc làm ổn định và những
người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc
sống. Vì vậy, BHXH góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người
nghèo đồng thời góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Thu BHXH là khâu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để BHXH thực hiện được
vai trò vừa nêu. Bởi lẽ, thu BHXH đảm bảo nguồn lực để thực thi chính sách
BHXH. Bên cạnh đó, ngoài việc đảm bảo cho quỹ BHXH tập trung về một mối, thu
BHXH còn đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người tham gia
BHXH ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương hoặc trên phạm vi toàn quốc. Bởi thu
BHXH cũng được tổ chức tập trung, thống nhất, có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên
xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính, đảm bảo độ chính xác trong ghi
chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan đơn vị cũng như của từng NLĐ. Hơn
nữa, hoạt động thu BHXH là hoạt động có tính kế thừa, số thu BHXH một phần dựa


23

trên số lượng người và số tiền lương, tiền công tham BHXH để tạo lập lên quỹ
BHXH - nguồn lực để thực hiện chính sách BHXH.
1.2. Quản lý thu bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh
(thành phố)
1.2.1. Khái niệm, mục tiêu và nguyên tắc quản lý thu bảo hiểm xã hội
1.2.1.1. Khái niệm quản lý thu bảo hiểm xã hội
Quản lý thu BHXH được hiểu là sự tác động có tổ chức, có tính pháp lý để
điều chỉnh các hoạt động thu. Sự tác động đó được thực hiện bằng hệ thống pháp
luật của nhà nước và bằng các biện pháp hành chính, tổ chức, kinh tế... của các cơ
quan chức năng nhằm đạt được mục tiêu thu đúng đối tượng, thu đủ số lượng và
đảm bảo thời gian theo quy định.
Do vậy, quản lý thu BHXH là nhiệm vụ quan trọng và khó khăn của ngành
BHXH. Để thu BHXH đạt hiệu quả cao thì phải có quy trình quản lý thu chặt chẽ,

hợp lý, khoa học… Vì vậy, quản lý thu BHXH phải được tổ chức chặt chẽ, thống
nhất trong cả hệ thống, từ lập kế hoạch thu, phân cấp thu, ghi kết quả và đặc biệt là
quản lý tiền thu BHXH.
1.2.1.2. Mục tiêu quản lý thu bảo hiểm xã hội
Thứ nhất, đảm bảo thu đúng đối tượng: Tức là tất cả các đối tượng theo quy
định của Luật BHXH đều phải được tham gia BHXH.
Thứ hai, đảm bảo thu đủ số lượng: Thu đủ số lượng ở đây gồm cả đủ về số
người và đủ số tiền phải đóng để đảm bảo quyền lợi cho NLĐ khi hưởng các chế độ
BHXH.
Thứ ba, đảm bảo thời gian theo Luật định: Theo quy định của luật những đối
tượng nào đóng theo tháng thì phải nộp theo tháng, những đối tượng nào nộp theo
quý hoặc 6 tháng một lần thì nộp theo quý hoặc 6 tháng, tránh tình trạng nộp không
đúng quy định.
1.2.1.3. Các nguyên tắc quản lý thu bảo hiểm xã hội
Quản lý thu BHXH được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, nguyên tắc thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch:


24

Chính sách, chế độ tạo lập và sử dụng quỹ được ban hành thực hiện thống nhất
trong toàn quốc. Chế độ đóng góp và hưởng thụ phải được thực hiện công bằng đối
với mọi đối tượng, không phân biệt đối xử theo giới tính, dân tộc, địa giới hành
chính… Bên cạnh đó, phải thực hiện chế độ công khai quỹ, có sự kiểm tra, thanh
tra, kiểm toán, giám sát quỹ từ phía các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã
hội (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại công nghiệp Việt
Nam…).
Tất cả các chế độ chính sách đối với mọi đối tượng phải được áp dụng và điều
chỉnh một cách thống nhất trong toàn ngành để đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho NLĐ,
đảm bảo công bằng, công khai, dân chủ.

Đây là nguyên tắc cao nhất trong quản lý thu BHXH cũng như trong hoạt
động BHXH nói chung. Bởi lẽ, chỉ có như vậy mới thực hiện được vai trò và mục
đích của thu BHXH, tạo ra được một nguồn lực to lớn để thực hiện các chế độ
BHXH cho NLĐ và cung cấp nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Trong quản lý thu BHXH, mục tiêu quan trọng và phải luôn hướng tới là mục
tiêu công bằng, công khai và dân chủ. Vì vậy, để đạt được mục tiêu này phải xây
dựng một cơ chế dựa trên một hệ thống tiêu thức phản ánh đầy đủ các nội dung cần
quản lý. Hệ thống đó phải được xây dựng một cách công khai, dân chủ, được mọi
người, mọi đơn vị tham gia thảo luận và thống nhất trước khi tổ chức thực hiện. Hệ
thống đó cũng phải được bổ sung, sửa đổi hoàn chỉnh từng bước trong quá trình tổ
chức, thực hiện để phù hợp với thực tiễn hoạt động của từng đơn vị tổ chức, cá nhân
và điều kiện, hoàn cảnh của đất nước.
Hai là, nguyên tắc hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần:
Quỹ ốm đau và thai sản, quỹ TNLĐ-BNN, quỹ hưu trí và tử tuất (của BHXH
bắt buộc), quỹ BHXH tự nguyện, quỹ BHTN được hạch toán độc lập theo các quỹ
thành phần. Chỉ có như vậy mới đảm bảo sự an toàn và cân đối lâu dài của quỹ
BHXH. Mặt khác, nguyên tắc này cũng nhằm tạo cơ sở điều chỉnh tỷ lệ đóng đối
với từng quỹ, đảm bảo phù hợp với từng giai đoạn.


25


×