Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

luận văn thạc sĩ quản trị nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại agribank thƣờng tín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.44 KB, 81 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, chưa công bố tại bất cứ nơi nào. Mọi số liệu sử dụng trong luận văn
này là thông tin xác thực.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Thường Tín, ngày 30 tháng 10 năm 2015
Học viên

Trần Thế Anh


ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN...............................................................................................................i
1.4. Kinh nghiệm quản trị nợ xấu ở một số NHTM Việt Nam.........................................27
3.2.6. Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng.........................................................................................64


iii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
NHNN
NHTM
NHNo&PTNT Việt Nam

: Ngân hàng Nhà nước
: Ngân hàng thương mại


: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn

(AGRIBANK)
RRTD
TCTD
NH
NQH
CIC

Việt Nam
: Rủi ro tín dụng
: Tổ chức tín dụng
: Ngân hàng
: Nợ quá hạn
: Trung tâm thông tin tín dụng

QDPRR

: Quỹ dự phòng rủi ro


iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ

LỜI CAM ĐOAN...............................................................................................................i
1.4. Kinh nghiệm quản trị nợ xấu ở một số NHTM Việt Nam.........................................27
3.2.6. Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng.........................................................................................64


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nợ xấu là vấn đề thường trực trong hoạt động của ngân hàng, được xem
như một nút thắt hay các “cục máu đông” đối với hệ thống ngân hàng nói riêng
và cả nền kinh tế nói chung. Trong thời gian qua, tỷ lệ nợ xấu ở Việt Nam đã
không ngừng tăng lên xuất phát từ nhiều nguyên nhân bên trong cũng như bên
ngoài. Trong đó, vấn đề nổi cộm là công tác quản trị rủi ro tín dụng của các
NHTM còn hạn chế, trực tiếp là công tác quản trị nợ xấu. Nhận thức được điều
đó, NHNN cũng như các NHTM đã chú trọng đến việc hoàn thiện công tác quản
trị nợ xấu. Đây là cơ sở để kiểm soát, hạn chế tối đa tổn thất trong hoạt động tín
dụng, đảm bảo hiệu quả hoạt động ngân hàng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế
đất nước. Do vậy, quản trị nợ xấu, hạn chế nợ xấu có nguy cơ phát sinh và xử lý
nợ xấu đã phát sinh là một yêu cầu cấp thiết, có vai trò quan trọng trong toàn bộ
hoạt động quản lý của Ngân hàng.
Nằm trong xu thế chung, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam - Chi nhánh Thường Tín (Agribank Thường Tín) mấy năm gần đây
cũng đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu gia tăng nhưng công tác quản trị nợ
xấu còn bộc lộ những hạn chế, quy trình quản trị vẫn còn một số bất cập, cần
được xây dựng một cách khoa học và thực hiện một cách thống nhất, chuyên
nghiệp nhằm hướng đến mục tiêu giảm tỷ lệ nợ xấu, hạn chế tối đa tổn thất và
góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh ngân hàng.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Quản trị nợ xấu
trong hoạt động tín dụng tại Agribank Thường Tín” để nghiên cứu trong luận
văn thạc sỹ này.
Trên cơ sở một số lý luận về nợ xấu của các Ngân hàng thương mại nói
chung và việc phân tích quản trị nợ xấu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Thường Tín nói riêng, luận văn hướng tới



2

việc đề xuất một số các giải pháp để hoàn thiện công tác quản trị nợ xấu trong
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện
Thường Tín.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Cho đến thời điểm hiện tại, chưa có đề tài nào nghiên cứu về Quản trị nợ
xấu trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn chi nhánh Huyện Thường Tín.
3. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quản trị nợ xấu của NHTM, nghiên
cứu thực trạng quản trị nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Agribank Thường
Tín để từ đó xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị nợ xấu
trong hoạt động tín dụng tại Agribank Thường Tín.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, đề tài xác định những nhiệm vụ sau
nghiên cứu sau đây:
- Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về vấn đề quản trị nợ xấu trong hoạt
động tín dụng của Ngân hàng Thương mại;
- Phân tích thực trạng về quản trị nợ xấu trong hoạt động tín dụng của
Agribank Thường Tín.
- Đề xuất một số các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn cho công tác quản trị
nợ xấu trong hoạt động tín dụng của Agribank Thường Tín.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nợ xấu và những giải pháp phòng ngừa, xử lý nợ
xấu được áp dụng trong công tác quản trị nợ xấu của Agribank Thường Tín.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
+ Về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện tại Agribank
Thường Tín.
+ Về thời gian nghiên cứu: Số liệu được thu thập tại Agribank Thường Tín



3

trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2014.
- Giác độ nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dưới giác độ từ một Chi
nhánh của một Ngân hàng thương mại.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp.
- Phương pháp logic học và lịch sử.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần lời mở đầu, kết luận thì luận văn được chia thành ba chương:
Chương I: Tổng quan về quản trị nợ xấu của Ngân hàng Thương Mại
Chương II: Thực trạng quản trị nợ xấu trong hoạt động tín dụng tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi nhánh huyện Thường Tin
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị nợ xấu trong hoạt
động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi
nhánh huyện Thường Tín.


4

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI

1.1.

Tổng quan về Ngân hàng thương mại

1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng trong nền kinh
tế. Tùy thuộc vào tính chất và mục tiêu hoạt động cũng như sự phát triển của nền
kinh tế mà hệ thống Ngân hàng bao gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng
phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các
loại hình Ngân hàng khác, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ
trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các Ngân hàng. Ngân
hàng thương mại được xem là nơi trực tiếp giao dịch với công chúng để nhận ký
thác, cho vay và cung ứng những dịch vụ tài chính. Chúng ta có thể xem xét một
số khái niệm về NHTM như sau:
Theo Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) của Việt Nam do Quốc hội khóa
XII thông qua ngày 16/06/2010: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này.
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân
hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
Trong đó, TCTD được định nghĩa: là doanh nghiệp thực hiện một, một số
hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ
chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.
Ngân hàng thương mại: là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này
nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nếu xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp
thì: NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục dịch vụ tài
chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực



5

hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
Như vậy NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh về tiền tệ với
hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung
cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. Ngoài ra, NHTM
còn là một định chế tài chính trung gian cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất. Nhờ vào hệ thống này mà các nguồn tiền nhàn rỗi vốn nằm rải rác
trong xã hội sẽ được huy động và tập trung lại với số lượng đủ lớn để cấp tín
dụng cho các Tổ chức kinh tế (TCKT), cá nhân nhằm mục đích phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Sự có mặt của NHTM trong hầu hết các mặt hoạt động của
nền kinh tế - xã hội đã cho thấy rằng: Ở đâu có một hệ thống NHTM phát triển
thì ở đó sẽ có sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và ngược lại.
1.1.2. Các hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Huy động vốn:
Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, hoạt động huy động vốn (huy động vốn nợ)
có ý nghĩa rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại trong việc tạo lập
nguồn vốn để hoạt động kinh doanh của mình. Hoạt động huy động vốn của
ngân hàng thương mại bao gồm: huy động tiền gửi (chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng nguồn vốn nợ của NHTM), huy động từ phát hành các công cụ nợ,
huy động từ vay các NHTM, huy động từ vay Ngân hàng Trung ương, huy động
từ nợ khác (các khoản uỷ thác; tiền ký quỹ; các khoản nợ thuế chưa nộp, lương
chưa trả ...).
1.1.2.2.Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động tạo nên tài sản có của ngân hàng nó có ý
nghĩa quan trọng đối với khả năng tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng trong
giai đoạn từ trước đến nay. Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại thu nhập
chính cho NHTM và là hoạt động không thể thiếu để làm nền tảng nhằm thu hút
các dịch vụ khác cho NHTM, nhưng ngược lại đây cũng là hoạt động chứa nhiều



6

tiềm ẩn rủi ro, gây ảnh hưởng lớn đến tình hình tài chính của ngân hàng, thậm
chí dẫn đến sự sụp đổ của NHTM. NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức và cá
nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá,
bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, bao gồm:
- Dịch vụ cung ứng các phương tiện thanh toán
- Dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
- Dịch vụ thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý
- Thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ các tổ chức và cá nhân
- Phát triển các sản phẩm ngân hàng điện tử
- Các sản phẩm khác như giữ hộ tài sản, thanh toán séc...
1.1.2.4. Các hoạt động khác:
- Các hoạt động góp vốn đầu tư, mua cổ phần của các doanh nghiệp, tổ
chức tín dụng khác từ nguồn vốn tự có để đa dạng các danh mục đầu tư, nhằm
hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Tham gia thị trường tiền tệ: Thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị
trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn khác
theo quy định của ngân hàng nhà nước.
- Hoạt động uỷ thác và đại lý liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả
việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng
- Các hoạt động khác như cho thuê két, dịch vụ cầm đồ và các dịch vụ khác
theo quy định của Pháp luật.
1.2. Những vấn đề cơ bản về quản trị nợ xấu trong hoạt động tín dụng
của Ngân hàng Thương mại
1.2.1. Đặc điểm tín dụng của Ngân hàng Thương mại
1.2.1.1. Bản chất của tín dụng Ngân hàng

Tín dụng là một phạm trù kinh tế, là hình thái đặc thù trong quá trình vận
động của tiền tệ. Trong quá trình vận hành nền kinh tế dòng tài sản thể hiện dưới


7

hình thái tiền tệ sẽ dịch chuyển từ chỗ tạm thời nhàn rỗi sang chỗ tạm thời thiếu
hụt để cân bằng cung cầu vốn của thị trường.
Về mặt hình thức, tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng
giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định
từ người sở hữu sang người sử dụng và khi đến hạn, người sử dụng phải hoàn trả
lại cho người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn. Khoản giá trị dôi ra này được gọi
là lợi tức tín dụng.
Ẩn dưới sự di chuyển các luồng vốn tạm thời từ người có vốn và người cần
vốn là quan hệ vay mượn. Hay nói rõ hơn, bản chất của tín dụng là quan hệ vay
mượn giữa người cho vay và người đi vay. Họ là những người khác nhau trong
nền kinh tế, gặp nhau ở điểm cân bằng giữa nhu cầu vay vốn tiền tệ và khả năng
đáp ứng nhu cầu này theo những tổ chức của pháp luật và những nguyên tắc tín
dụng tương ứng.
Vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hàng hóa. Quá trình
vận động của vốn tín dụng có thể được khái quát qua ba giai đoạn sau:
• Giai đoạn 1: Phân phối vốn tín dụng dưới hình thức cho vay. Theo đó, vốn
tiền tệ hoặc giá trị vật tư hàng hóa được chuyển từ người cho vay sang đi vay.
• Giai đoạn 2: Sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. Sau khi
nhận được giá trị vốn tín dụng, người đi vay được quyền sử dụng giá trị đó để
thỏa mãn một mục đích nhất định. Tuy nhiên, người đi vay không có toàn quyền
sở hữu giá trị đó, mà chỉ được quyền sử dụng trong một thời gian nhất định.
• Giai đoạn 3: Sự hoàn trả của tín dụng. Đây là quá trình quay trở về của giá
trị và kết thúc vòng tuần hoàn của tín dụng. Sự vận động đó không phải với tư
cách là phương tiện lưu thông, mà với tư cách một lượng giá trị được vận động.

Sự hoàn trả trong tín dụng luôn luôn phải được bảo tồn về mặt giá trị và có phần
tăng thêm dưới hình thức lợi tức tín dụng.
Về bản chất, tín dụng là một công cụ của NHTM trong việc thực hiện chức
năng trung gian tài chính trong quá trình vận hành vốn của nền kinh tế.


8

NHTM hoạt động như là cầu nối của thị trường vốn. Trong mối quan hệ
này NHTM là con nợ của doanh nghiệp, cá nhân có tiền gửi nhàn rỗi gửi tại
NHTM và là chủ nợ của các doanh nghiệp, cá nhân có nhận vay vốn tại Ngân hàng.
Như vậy, bản chất của tín dụng Ngân hàng được thể hiện đầy đủ khi nó
thực hiện các chức năng: Chức năng dịch chuyển nguồn vốn, chức năng phát
hành, chức năng giám soát hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế.
Về bản chất kinh tế của thị trường vốn, hoạt động tín dụng chứa ẩn nhiều
yếu tố rủi ro không chỉ với Ngân hàng mà còn với chủ nợ của Ngân hàng, nên
việc quản lý tín dụng, quản lý rủi ro là yêu cầu quan trọng và cấp thiết trong
quản trị Ngân hàng.
1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ: Cho vay bằng
tiền tệ là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng mọi đối tượng trong
nền kinh tế quốc dân. Tín dụng ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn đi vay của
các thành phần trong xã hội chứ không phải hoàn toàn là vốn chủ sở hữu của
chính mình như tín dụng nặng lãi hay tín dụng thương mại. Tín dụng ngân hàng
có một số ưu điểm là:
+ Tín dụng có thể thỏa mãn một cách tối đa nhu cầu về vốn của các tác
nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vì nó có thể huy động nguồn vốn bằng
tiền nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều hình thức và khối lượng lớn.
+ Tín dụng ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú, có thể cho vay ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn do ngân hàng có điều chỉnh giữ các nguồn vốn với

nhau để đáp ứng nhu cầu về thời hạn cho vay.
+ Tín dụng ngân hàng có phạm vi lớn vì nguồn vốn bằng tiền là thích hợp
với mọi đối tượng trong nền kinh tế, do đó nó có thể cho nhiều đối tượng tín
dụng vay.
1.2.2. Những vấn đề cơ bản về nợ xấu trong hoạt động tín dụng của


9

NHTM
1.2.2.1. Khái niệm nợ xấu
•Theo khái niệm của ngân hàng thế giới (World Bank):
Nợ xấu là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả
năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này xảy ra khi các con nợ
tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản.
•Khái niệm nợ xấu của Tổ chức Tiền tệ Thế giới (IMF)
Trong hướng dẫn tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính tại các
quốc gia (IFRS)2, IMF đưa ra định nghĩa về nợ xấu như sau: “một khoản vay
được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; khi
các khoản lãi suất đã quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại,
hoặc trì hoãn theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày
nhưng có thể nhận thấy những dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay sẽ không thể
hoàn trả nợ đầy đủ (người vay phá sản).
Sau khi khoản vay được xếp vào danh mục nợ xấu, nó hoặc bất cứ khoản
vay thay thế nào cũng nên được xếp vào danh mục nợ xấu cho tới thời điểm phải
xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và gốc của khoản vay đó hoặc thu hồi được khoản
vay thay thế.
•Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc
Một khoản nợ xấu được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/ hoặc gốc trên
90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái

cấp vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90
ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được
thanh toán đầy đủ. Về cơ bản, nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá
hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ.

•Theo định nghĩa của Việt Nam.


10

Theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Thống đốc
NHNN Việt Nam, nợ xấu được định nghĩa là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4 và 5
quy định tại Điều 10 hoặc Điều 11 của Thông tư này. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư
nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
•Khái niệm nợ xấu của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS)
BCBS không đưa ra định nghĩa cụ thể về nợ xấu. Tuy nhiên, trong các
hướng dẫn về thông lệ tại nhiều quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS xác
định, việc khoản nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả khi một trong hai hoặc
cả hai điều kiện sau xảy ra: ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ
đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi; người vay
đã quá hạn trả nợ quá 90 ngày.
Từ những định nghĩa trên có thể thấy được sự tương đồng trong cách nhận
thức về nợ xấu giữa các định chế tài chính trên thế giới. Theo đó, một khoản nợ
được coi là nợ xấu khi nó xuất hiện 1 hoặc cả 2 dấu hiệu sau: Quá hạn trả nợ gốc
và lãi; khi khách hàng vay vốn bị tổ chức tín dụng (TCTD) hoặc ngân hàng coi
là không có khả năng trả nợ. Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà
chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị xóa sổ khỏi danh sách các
khoản nợ phải thu của chủ nợ. Đối với các ngân hàng, nợ xấu tức là các khoản
tiền cho khách hàng vay mà không thể thu hồi lại được.
1.2.2.2. Phân loại nợ xấu

Phân loại nợ xấu được hiểu là quá trình các ngân hàng xem xét các danh
mục cho vay và đưa khoản vay vào các nhóm khác nhau dựa trên rủi ro và điểm
tương đồng của khoản vay. Việc thường xuyên xem xét và phân loại nợ giúp các
ngân hàng có thể kiểm soát chất lượng danh mục cho vay và trong trường hợp
cần thiết, sẽ có các biện pháp xử lý các vấn đề phát sinh trong chất lượng tín
dụng các danh mục cho vay.
 Trên cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng đối với từng khoản
vay trong hiện tại và tương lai, không phân biệt khoản vay hiện tại có quá hạn


11

hay chưa, người ta chia nợ xấu thành:
+ Nợ xấu thông thường: là những khoản nợ đảm bảo thu hồi đầy đủ trong
một khoảng thời gian nhất định.
+ Nợ xấu khó đòi: là những khoản nợ chỉ có khả năng thu hồi được một
phần hoặc thu hồi đầy đủ nhưng thời gian thu hồi kéo dài.
+ Nợ xấu mất trắng: là nhưng khoản nợ không có khả năng thu hồi.
 Căn cứ nguyên nhân gây ra nợ xấu có thể chia nợ xấu thành:
+ Những khoản nợ xấu do nguyên nhân bất khả kháng: do thiên tai, dịch
bệnh, do thay đổi cơ chế chính sách, ốm đau, ...
+ Những khoản nợ xấu do lỗi của người vay: do trình độ quản lý yếu kém,
khả năng cạnh tranh yếu kém dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh; cố tình chây ỳ
không trả nợ…
+ Những khoản nợ xấu do lỗi của người cho vay: do trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ yếu kém dẫn đến không quản lý, theo dõi và phát hiện sớm sai phạm
của khách hàng; thông đồng với những sai phạm của khách hàng.
 Căn cứ việc xử lý khoản nợ bằng quỹ DPRR tín dụng chia các khoản nợ
xấu thành:
+ Các khoản nợ xấu chưa được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng –các khoản

nợ hạch toán nội bảng.
+ Các khoản nợ xấu đã được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng –các khoản nợ
hạch toán ngoại bảng.
 Theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà
nước ngày 21/01/2013 quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp
trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt
động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Nợ xấu được xác
định dựa trên cả yếu tố thời hạn nợ và khả năng thu hồi (theo điều 10 và điều
11). Theo đó, nợ xấu bao gồm 03 Nhóm:
- Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): Nợ xấu thuộc nhóm này được coi là các


12

khoản nợ có khả năng thu hồi cao nhất. Ngân hàng sẽ trích lập một tỷ lệ DPRR
cho nợ xấu nhóm này là 20% dư nợ của nhóm.
- Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): Nợ xấu thuộc nhóm này được đánh giá là có khả
năng thu hồi thấp hơn so với các khoản nợ của nhóm 3. Các khoản nợ này được
xếp vào những khoản nợ mà Ngân hàng có sự nghi ngờ về khả năng trả nợ. Tỷ lệ
trích lập DPRR cho nợ xấu thuộc nhóm này là 50% tổng dư nợ của nhóm.
- Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): Khả năng thu hồi nợ của nhóm này
được coi như bằng 0, do vậy tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tương ứng là 100%
tổng dư nợ của nhóm.
1.2.2.3.

Bản chất của nợ xấu

Bản chất của nợ xấu luôn gắn liền với bản chất của mối quan hệ tín dụng.
Quan hệ tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay,
giữa họ có quan hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được

biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và hàng hóa từ người cho vay chuyển sang người
đi vay và sau một thời gian nhất định quay về với người cho vay với giá trị lớn
hơn lượng giá trị ban đầu. Do đó, tín dụng được tạo nên từ 3 yếu tố chính là:
lòng tin, thời hạn của quan hệ tín dụng và sự hứa hẹn sẽ hoàn trả. Người ta chỉ
cho vay khi người ta tin rằng việc sử dụng giá trị đó sẽ thu được giá trị lớn hơn,
có hiệu quả hơn sau một thời gian nào đó.
Như vậy, ta có thể thấy bản chất nợ xấu là kết quả của mối quan hệ tín dụng
không hoàn hảo, vì nó vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời hạn, vi
phạm đến đặc trưng thứ hai là tính hoàn trả đầy đủ, và gây nên sự mất lòng tin
của người cung cấp tín dụng đối với khách hàng nhận tín dụng.

1.2.2.4. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh tình hình nợ xấu của NHTM
- Tổng số nợ xấu: Đây là chỉ tiêu phản ánh giá trị tuyệt đối của toàn bộ
khoản nợ xấu của ngân hàng. Về mặt quản trị rủi ro, chỉ số này càng nhỏ, càng tốt.


13

- Tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ:
Tỷ lệ nợ xấu = Tổng dư nợ xấu/Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết cứ
100 đơn vị tiền tệ khi Ngân hàng cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà
Ngân hàng xác định khó có khả năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn
tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng rủi ro càng cao. Tuy
nhiên các con số được sử dụng để tính chỉ số này được đo tại một thời điểm nhất
định nên chưa phản ánh hoàn toàn chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ khó đòi/tổng dư nợ và nợ khó đòi/nợ xấu: Đây là các chỉ số
tương đối phản ánh về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng. Tỷ lệ này càng
lớn thì khả năng mất vón của ngân hàng càng cao.
- Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi

ro có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành
các khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro
đủ bù đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh koanh của
Ngân hàng càng cao và ngược lại.
1.2.3. Quản trị nợ xấu
Quản trị nợ xấu là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính
sách quản lý, kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả
và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp nhằm phòng ngừa và
hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh từ
đó làm tăng doanh thu, giảm chi phí nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.2.3.1. Sự cần thiết phải quản trị nợ xấu
NHTM là một trung gian tài chính có chức năng dẫn vốn từ nơi có khả
năng cung ứng vốn đến những nơi có nhu cầu về vốn nhằm tạo điều kiện cho đầu
tư, phát triển kinh tế. Do đó, một sự biến động của Ngân hàng sẽ ảnh hưởng xấu
đến chính hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế mà nợ xấu là một trong những
nguyên nhân chủ yếu gây ra. Tác hại của nợ xấu thể hiện trên hai nội dung sau:


14

- Đối với nền kinh tế:
+ Nợ xấu làm việc điều tiết vĩ mô kinh tế thông qua các NHTM cũng trở
nên kém hiệu quả.
+ Nợ xấu không chỉ gây mất vốn, mất khả năng thanh toán dẫn tới sự sụp
đổ không chỉ của một Ngân hàng mà còn kéo theo ảnh hưởng dây truyền làm
chao đảo toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Điều đó gây rối loạn lưu thông tiền tệ
trong nước, gây ứ đọng vốn, đình trệ sản xuất, làm giảm sự tăng trưởng kinh tế
và khủng hoảng kinh tế .
- Đối với Ngân hàng:
Thứ nhất - Ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và kế hoạch kinh doanh:

Các khoản vay của khách hàng không được thanh toán đúng hạn, hay khi chuyển
sang quá hạn thì việc thu nợ đã không đúng theo kế hoạch của Ngân hàng gây ra
thiếu hụt so với dự tính của kế hoạch. Sự việc này chỉ trong một giới hạn nhất
định, song nếu vượt qua một giới hạn cho phép Ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng
mất khả năng thanh toán, và không có kế hoạch cho tương lai.
Thứ hai – làm mất uy tín của Ngân hàng: Những ảnh hưởng của nợ xấu dẫn
đến lợi nhuận giảm, khả năng thanh toán giảm… nó có tác động sâu sắc đến tâm
lý khách hàng “hiệu ứng khách hàng” kể cả là khách hàng cá thể, doanh nghiệp
hay các Ngân hàng đối tác. Trong lĩnh vực Ngân hàng uy tín tuyệt đối quan
trọng, nó quyết định sự sống còn, tồn tại và phát triển một Ngân hàng.
Thứ ba – không duy trì được đội ngũ nhân viên: khi một Ngân hàng làm ăn
không hiệu quả, hay để tình trạng nợ xấu nhiều sẽ gây tâm lý hoang mang cho
không những khách hàng mà còn cho chính nhân viên Ngân hàng, sẽ không giữ
được những người làm việc hiệu quả ở lại, đây là một chi phí rất lớn cho Ngân hàng.
Thứ tư – làm giảm lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu cuối cùng của Ngân
hàng, lợi nhuận được hình thành từ những khoản thu của Ngân hàng mà những
khoản thu này chủ yếu thu từ lãi cho vay. Khi phát sinh nợ xấu thường đi kèm
theo đó là khó hoặc không thu hồi được lãi tiền vay. Chính vì vậy sẽ làm giảm


15

lợi nhuận của ngân hàng.
Tóm lại, nợ xấu không những tác động đối với Ngân hàng mà còn nguy hại
đối với cả nền kinh tế, trật tự xã hội. Do đó, quan tâm quản trị nợ xấu không còn
là việc riêng của các NHTM mà là sự quan tâm chung của cả NHNN, Chính phủ
và xã hội.
1.2.3.2.

Nội dung của quản trị nợ xấu


Nội dung của quản trị nợ xấu bao gồm các biện pháp phòng ngừa và “điều
trị” nợ xấu nhằm kiểm soát tỷ lệ nợ xấu ở mức độ mong muốn. Cụ thể:
•Phòng ngừa nợ xấu phát sinh
“Phòng bệnh” luôn luôn có chi phí thấp hơn và dễ thực hiện hơn “chữa
bệnh”. Do đó, công tác phòng ngừa nợ xấu luôn đóng một vai trò quan trọng
trong quản trị nợ xấu. Để có được một tỷ lệ nợ xấu thấp, cần tập trung vào các
biện pháp ngăn chặn nợ xấu xuất hiện như:
- Thứ nhất, xây dựng các quy định, cơ chế, chính sách liên quan đến tín
dụng nói chung và nợ xấu nói riêng.
Tùy vào mục tiêu của mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia, tổ chức mà các quy định,
cơ chế, chính sách liên quan đến tín dụng và nợ xấu lại khác nhau. Những quy
định lại chính là các quy định hướng dẫn các TCTD, ngân hàng trong hoạt động
tín dụng và xác định tỷ lệ nợ xấu và các biện pháp xử lý với các khoản nợ xấu.
Do đó, xây dựng được một chính sách về tín dụng, nợ xấu đúng đắn không chỉ
giúp các TCTD, ngân hàng định hướng được hoạt động của mình mà còn giúp
họ tích cực thực hiện các biện pháp phòng ngừa nợ xấu phát sinh để từ đó gia
tăng hiệu quả hoạt động, đem lại lợi ích tích cực cho nền kinh tế.
Bản thân các TCTD, Ngân hàng cũng phải nghiêm túc thực hiện các quy
định của Nhà nước liên quan đến quản lý Tài sản có, nhất là nợ xấu. Đặc biệt,
các ngân hàng cũng cần xây dựng các quy định, hướng dẫn nội bộ và tích cực áp
dụng nhằm thống nhất cách thức thực hiện trong hệ thống và đặt được mục tiêu
về nợ xấu đã đề ra theo quy định của Nhà nước.


16

- Thứ hai, chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng cả về
chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp.
Phần lớn những rủi ro tín dụng xảy ra xuất phát từ nguyên nhân chủ quan

của ngân hàng là do sự yếu kém về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ và
đạo đức của nhân viên gây ra như: cán bộ ngân hàng không nắm được các quy
định trong hoạt động cho vay hoặc nắm rõ các quy định nhưng cố ý lợi dụng
những sơ hở của các quy định hoặc làm sai để chuộc lợi cá nhân, gây ra nợ xấu
và ảnh hưởng nghiêm trọng cho hoạt động của ngân hàng. Nghề ngân hàng là
một nghề nhiều áp lực nhưng cũng có nhiều cám dỗ nên đòi hỏi cán bộ ngân
hàng không chỉ giỏi nghiệp vụ mà còn phải có đạo đức nghề nghệp, bản lĩnh
thương trường. Vì vậy, việc đào tạo đội ngũ nhân viên ngân hàng nắm chắc, nắm
rõ các quy định về tín dụng và đạo đức nghề nghiệp là một trong những biện
pháp cần thiết trong nội dung của quản trị nợ xấu.
- Thứ ba, xây dựng mô hình kinh doanh phù hợp, đảm bảo kiểm soát chặt
chẽ hoạt động tín dụng.
Trước đây, hầu hết các ngân hàng đều tổ chức mô hình tín dụng theo kiểu
“một tay”, tức là cán bộ tín dụng vừa là người đề xuất cho vay, vừa là người đề
xuất giải ngân và lãnh đạo phê duyệt cho vay cũng là người đề xuất giải ngân.
Trước những bấp cập và rủi ro của mô hình này, hiện nay, hầu hết các ngân hàng
đã áp dụng mô hình tín dụng theo kiểu “ba tay”, tức là bộ phận tín dụng chỉ là
người đề xuất cho vay, sau đó sẽ có bộ phận quản lý rủi ro tái thẩm định lại và
sau khi khoản vay được phê duyệt thì sẽ chuyển cho bộ phận quản trị tín dụng
giải ngân. Do đó, việc cho vay được chuyển qua nhiều “tay” kiểm soát sẽ giúp
giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Mô hình kinh doanh, đặc biệt là mô hình tín dụng đóng một vai trò quan
trọng trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng của ngân hàng, góp phần quản trị nợ
xấu trong ngân hàng.
Bên cạnh việc xây dựng mô hình kinh doanh phù hợp, cần phải xây dựng


17

quy chế xử lý trách nhiệm rõ rằng, cụ thể đối với từng cá nhân, tập thể khi rủi ro

xảy ra.
- Thứ tư, xây dựng hệ thống thông tin tín dụng mang tính quốc gia và quốc tế.
Vấn đề “quả chanh” trong hoạt động tín dụng luôn là nguyên nhân hàng
đầu dẫn đến rủi ro tín dụng của ngân hàng. Do đó, cần thiết phải xây dựng một
hệ thống thông tin tín dụng mang tính quốc gia và quốc tế (tương tự như Trung
tâm thông tin tín dụng CIC của Việt Nam hiện nay) để các ngân hàng có thể tìm
hiểu được thông tin, lịch sử vay mượn của khác hàng, từ đó có quyết sách tín
dụng phù hợp với từng khách hàng, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, các TCTD và Ngân hàng cũng phải nghiêm túc khai báo
thông tin khoản vay, khách hàng trên hệ thống này để giúp các ngân hàng khác
nói riêng và nền kinh tế nói chung phòng tránh các rủi ro khi cấp tín dụng.
-

Thứ năm, nâng cao chất lượng quản trị tín dụng

Ngân hàng phải tiến hành hoạt động thẩm định, kiểm tra, đánh giá đối với
dự án vay, khách hàng vay trước khi cho vay, trong cho vay và sau khi cho vay.
Ngân hàng dùng các biện pháp để kiểm tra tính khả thi và sinh lợi của dự án,
kiểm tra khả năng tài chính của khách hàng đi vay, theo dõi thường xuyên tình
hình hoạt động của dự án, khách hàng sau khi giải ngân để từ đó đưa ra những
nhận xét, đánh giá về khả năng thu hồi vốn.
- Thứ sáu, hoàn thiện hệ thống báo cáo, phân tích và đánh giá rủi ro.
Yêu cầu các tổ chức tín dụng phân tích, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra
trong từng quy trình nghiệp vụ để triển khai ngay các biện pháp phòng ngừa,
ngăn chặn rủi ro, đồng thời rà soát, lựa chọn cán bộ có đủ năng lực, trình độ,
phẩm chất đạo đức để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ; có cơ chế uỷ quyền,
quy định trách nhiệm đối với cán bộ phụ trách và tác nghiệp. Theo chức năng
nhiệm vụ của mình, các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện cơ chế
thông tin, báo cáo, kiểm soát, xây dựng hệ thống cảnh báo rủi ro để nâng cao khả
năng quản lý, kiểm soát thị trường ngoại hối, phát hiện kịp thời những rủi ro



18

tiềm ẩn để có biện pháp xử lý thích hợp.
- Thứ bảy, thực hiện trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ, nghiêm túc
Trong một số trường hợp, mặc dù ngân hàng đã áp dụng đầy đủ các quy
định trong quá trình cho vay nhưng rủi ro vẫn xảy ra do các nguyên nhân khách
quan như thiên tai, tai nạn,…..Lúc này, việc sử dụng Quỹ dự phòng rủi ro là điều
cần thiết, nhằm bù đắp lại nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, tránh gây ảnh
hưởng đến kết quả hoạt động và lợi nhuận của ngân hàng.
- Thứ tám, tham gia bảo hiểm tín dụng, bảo hiềm khách hàng vay
Bảo hiểm tín dụng là một trong những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín
dụng được áp dụng từ lâu trên thế giới nhưng ở Việt Nam vẫn chưa được áp
dụng phổ biến do chưa nhiều đơn vị bảo hiểm cung cấp dịch vụ này. Việc tham
gia bảo hiểm sẽ phát sinh thêm phí nhưng mức đền bù chỉ giảm thiểu được phần
nào tổn thất cho ngân hàng.
- Thứ

chín, xây dựng danh mục tài sản, xác định mức độ rủi ro tối đa, giới

hạn tỷ lệ nợ xấu
Bất kể Ngân hàng nào, phải xây dựng cho mình danh mục tài sản với các
rủi ro có thể chấp nhận được và danh mục nguồn vốn với chi phí hợp lý, phù hợp
với khả năng thanh khoản của Ngân hàng và thực tế ngành kinh tế,vùng kinh tế
và cả nền kinh tế. Ngân hàng đưa ra những sản phẩm, dịch vụ thu hút khách
hàng với các chính sách về lãi suất, phí, khách hàng… hợp lý trên cơ sở nghiên
cứu kỹ khách hàng và thị trường.
Các hoạt động của Ngân hàng một mặt phải đảm bảo khả năng sinh lời,
mang lại thu nhập cho Ngân hàng, mặt khác phải đảm bảo khả năng thanh

khoản. Trong hệ thống các hoạt động của Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín
dụng, hoạt động mang lại hơn 70% thu nhập cho Ngân hàng, Ngân hàng phải xác
định mức độ rủi ro tối đa, giới hạn tỷ lệ nợ xấu. Rủi ro luôn đi kèm với hoạt
động của bất kì một Ngân hàng nào, chúng ta có thể làm hạn chế tổn thất của
chúng, chứ không thể ngăn ngừa chúng xuất hiện. Hoạt động Ngân hàng nằm


19

trong giới hạn rủi ro, đó là một thành công lớn của Ngân hàng.
- Thứ mười, liên tục cập nhập và triển khai công cụ kiểm soát rủi ro mới.
Trước đây các ngân hàng thường quan tâm về lãi, thu nhập cao thì gần đây
họ bắt đầu ý thức hơn về vấn đề an toàn của ngân hàng. Nhất là sau sự sụp đổ
của một số ngân hàng lớn trên thế giới trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Một trong những công cụ kiểm soát rủi ro mới được các ngân hàng áp dụng
để trở nên an toàn chính là tuân thủ Basel - Hiệp ước vốn do Ủy ban Basel về
giám sát ngân hàng thiết lập. Basel gồm các bộ tiêu chuẩn khắt khe về vốn, giúp
ngân hàng đảm bảo an toàn trong hoạt động. Hiện nay, trên thế giới đã áp dụng
Basel III nhưng ở Việt Nam mới chỉ áp dụng Basel I và II.
• Xử lý nợ xấu
Khi nợ xấu xảy ra, Ngân hàng thường áp dụng các biện pháp:
- Yêu cầu tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và tái cơ cấu lại nợ
Đối với các khoản nợ xấu của khách hàng là doanh nghiệp, sau khi phân
tích thực trạng tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu đánh giá khách
hàng có khả năng phát triển để thanh toán nợ xấu cho Ngân hàng thì Ngân hàng
sẽ áp dụng biện pháp cấu trúc lại hay tái cơ cấu doanh nghiệp.
Nói chung, đề xuất xử lý nợ xấu theo giải pháp cấu trúc lại chỉ được áp
dụng cho các khoản nợ thuộc nhóm 3 và nhóm 4 và đối với các khách hàng được
quyết định tiếp tục duy trì quan hệ. Khi đã có quyết định tiếp tục duy trì quan hệ
với đối tượng khách hàng này, khoản nợ có thể được quản lý thông qua việc

giám sát chặt chẽ, nhằm đảm bảo rằng bên vay thực thi các hành động cần thiết
để cải thiện tình hình của họ và sửa chữa sai sót. Đặc biệt, trong trường hợp
không trả được nợ lần đầu, Ngân hàng cần có hành động kiên quyết để thuyết
phục khách hàng trong việc thực thi các biện pháp cứng rắn để củng cố vị thế
của khách hàng. Ngân hàng duy trì mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng để giám
sát quá trình xử lý nợ. Trên cơ sở đó, Ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp:
Thứ nhất, điều chỉnh kỳ hạn nợ: Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ thông thường


20

được thực hiện thông qua việc hoãn hoặc/ và giảm khối lượng nợ gốc phải thanh
toán của kỳ hạn trả nợ, nhưng không được giảm tổng số dư nợ phải trả. Nếu
được sử dụng một cách cẩn thận, việc điều chỉnh kỳ hạn nợ là một hình thức
được chấp nhận khi thực hiện tái cơ cấu lại nợ.
Thứ hai, gia hạn nợ: Đây là phương án tránh áp lực trả nợ cho khách hàng
để hỗ trợ khách hàng tiếp tục kinh doanh. Ngân hàng cũng có thể xem xét cấp
thêm tín dụng giúp khách hàng vượt qua khó khăn đồng thời tạo khả năng thu
hồi các khoản nợ trước. Đây không phải là biện pháp tốt vì nó mang tính mạo
hiểm cao.
Thứ ba, giảm, miễn một phần nợ lãi vay phải trả: Giải pháp này có thể
được xem xét áp dụng tùy thuộc vào thiện chí trả nợ vay của khách hàng và tuân
thủ theo các quy định hiện hành của Nhà nước và của từng Ngân hàng. Việc
giảm, miễn lãi đối với khách hàng coi như sự hy sinh một phần doanh thu của
Ngân hàng để có thể tận thu hồi được nguồn vốn đã cho vay.
- Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu – Biến nợ thành chứng khoán
Hiện nay, một kỹ thuật mới trong công tác xử lý nợ xấu đang được áp dụng
rộng rãi trên thế giới là chứng khoán hóa các khoản nợ. Một cách đơn giản,
chứng khoán hóa là quá trình tập hợp và tái cấu trúc các tài sản thiếu tính thanh
khoản nhưng lại có thu nhập bằng tiền cao trong tương lai như các khoản phải

thu, các khoản nợ rồi chuyển đổi chúng thành trái phiếu và đưa ra giao dịch trên
thị trường tài chính. Chứng khoán hóa các khoản nợ là chuyển đổi một tập hợp
có chọn lọc các khoản vay có thế chấp của Ngân hàng mà trước đó không có thị
trường thứ cấp để giao dịch thành các chứng khoán khả mại, có thể bán trên thị
trường thứ cấp. Ngân hàng có thể dùng kỹ thuật này để xử lý các khoản nợ xấu
của mình nhưng cần có sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán cùng
giao dịch mua bán nợ. Đối mặt với áp lực rủi ro tín dụng và yêu cầu tăng vốn
chủ sở hữu, công cụ quản lý rủi ro chứng khoán hóa các khoản cho vay đã giúp
Ngân hàng hạn chế một cách có hiệu quả rủi ro tín dụng.


21

Công nghệ chứng khoán hóa hấp dẫn nhiều Ngân hàng, bởi vì thông qua đó
mà Ngân hàng có thể rút ngắn được thời gian xử lý nợ xấu, tăng khả năng thanh
khoản của tài sản, cung cấp một phương tiện tài trợ mới, giảm được các chi phí
có tính chất thuế cũng như tăng thu nhập từ thuế. Nó giúp bổ sung, làm đa dạng
hóa hàng hóa giao dịch trên sàn, giúp mở rộng quy mô thị trường. Chứng khoán
hóa mở ra thêm một kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp, mở cơ hội tiếp
cận thị trường vốn và làm giảm chi phí tài trợ lẫn tối ưu hóa việc sử dụng vốn.
Chứng khoán hóa tạo ra một nguồn tài trợ vốn dài hạn và có hiệu quả thông qua
việc có thể được phát hành với kỳ hạn dài hơn các loại tài sản liên kết so với các
khoản nợ của Ngân hàng hoặc các loại tín phiếu. Ngoài ra, chứng khoán hóa còn
là phương thức giúp làm tăng thu nhập của các tổ chức phát hành và là công cụ
đa dạng hóa rủi ro tốt nhất
Bên cạnh những tích cực mà chứng khoán hóa mang lại, còn có những rủi
ro đi kèm, đó là: Công bố thông tin không bảo vệ được, những hạn chế của định
mức tín nhiệm, các tài sản không giống như mong đợi, dữ liệu giao dịch không
sẵn có, nhược điểm của chế độ báo cáo sản phẩm phái sinh và sản phẩm thu
nhập cố định, tính thanh khoản yếu của công cụ nợ...

- Xử lý tài sản đảm bảo, đòi nợ bên bảo lãnh
Đối với những khoản nợ xấu không thể cơ cấu lại nợ, khách hàng không có
khả năng phát triển, chây ỳ trong việc trả nợ… NHTM chủ động xử lý các tài
sản đảm bảo nợ vay kể cả là bất động sản bao gồm đất đai, tài sản gắn liền với
đất thuộc quyền định đoạt của Ngân hàng theo các hình thức sau: Bên bảo đảm
trực tiếp bán tài sản cho người mua, NHTM trực tiếp bán tài sản cho người mua,
bán thông qua tổ chức đấu giá.
NHTM nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ
được bảo đảm. Trong trường hợp này, việc quyết định nhận tài sản để sử dụng
thay thế thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện theo thủ tục mua tài sản của NHTM.
NHTM nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ: người thứ ba trong


×