A. MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, xu hướng quốc tế hoá sản xuất và đời sống
ngày càng một gia tăng, cách mạng khoa học – kỹ thuật trên thế giới diễn ra
như vũ bão thì công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, với việc đổi mới
và nâng cao trình độ văn hoá - giáo dục, khoa học – công nghệ. Đó cũng là
nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam, trong đó vai trò của khoa học, công nghệ được Đảng Cộng sản Việt
Nam coi là nền tảng, là động lực. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết
định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của mỗi quốc gia. Phần thắng
trong cuộc chiến “ai thắng ai” trên thị trường, suy cho cùng là do trí tuệ và
năng lực sáng tạo của cả dân tộc, biết học hỏi một cách khôn ngoan kinh
nghiệm và thành tựu tri thức của nhân loại, tận dụng được lợi thế của người đi
sau, đề ra được những chủ trương, biện pháp thích hợp với đất nước trong
hoàn cảnh mới, giải quyết có hiệu quả các vấn đề kinh tế – xã hội, khoa học,
công nghệ, kỹ thuật, môi trường, sinh thái.
Ngày nay, không một quốc gia nào lại không nhận thức được vai trò
then chốt của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển đất nước. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rằng: “phát triển khoa học và công nghệ
cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Điều đó nói
lên vai trò to lớn của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, cả về lý
luận và thực tiễn, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thời kỳ quan trọng nhất của sự nghiệp cách mạng Việt Nam trên con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, thực hiện sự lãnh đạo đối với khoa
học và công nghệ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Để tìm hiểu thêm về quan điểm đó nên tôi đã chọn nghiên cứu
“Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và việc áp dụng nó vào công
cuộc CNH-HĐH ở Việt Nam và liên hệ với sự phát triển của ngành giáo
dục” làm đề tài tiểu luận môn học của mình. Vì hạm chế về thời gian và trình
độ hiểu biết nên tiểu luận chắc chắn còn nhiều sai sót, rất mong nhận được sự
góp ý của thầy, cô và bạn học. Tôi xin chân thành cảm ơn.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ.
1. Vị trí, vai trò của khoa học công nghệ.
Khoa học với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ra đời vào thời kỳ
chế độ chiếm hữu nô lệ, khi xã hội đã có sự phân công lao động thành lao
động trí óc và lao động chân tay. Có thể nói khoa học là kết quả tất yếu của
phân công lao động xã hội, khoa học xuất hiện khi hình thức lao động trí óc
đã hình thành và tách biệt hẳn với hình thức lao động chân tay.
Khoa học về một phương diện nào đó, có thể hiểu là một tập hợp những
hiểu biết về tự nhiên, xã hội, tư duy và quy luật khách quan của sự phát triển
của chúng trên cơ sở thực tiễn xã hội.
Công nghệ, hiểu một cách chung nhất là một tập hợp những tri thức
hướng vào cải tạo tự nhiên, phục vụ nhu cầu của con người. Các công nghệ
sản xuất là một tập hợp các phương pháp, quy tắc, kỹ năng và kỹ xảo được sử
dụng trong quá trình tác động vào đối tượng lao động để tạo ra một dạng sản
phẩm nào đó. Sự tác động đó thường phải thông qua các phương tiện vật chất
như: máy móc, công cụ, v.v.
Xem xét vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh
tế, xã hội, văn hoá nói chung và phát triển kinh tế nói riêng, các nhà khoa học
cho rằng, khoa học và công nghệ vừa là kết quả của sự phát triển kinh tế, xã
hội, văn hoá, vừa là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi tích cực
về mặt xã hội và nâng cao giá trị văn hoá của dân tộc, của vùng và thế giới.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng kiến những bước
ngoặt cách mạng của khoa học và công nghệ. Sau mỗi bước ngoặt đó, những
biến đổi trong tri thức khoa học, trong cách thức sản xuất kéo theo những biến
động to lớn trong đời sống chính trị – xã hội, làm thay đổi mạnh mẽ trong các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội .. dẫn đến sự thay đổi về chất của xã hội cũ,
hình thành nền văn minh mới với những đặc trưng hoàn toàn khác. Đặc biệt,
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tác động đến tất cả các
lĩnh vực khoa học, đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm cho bộ mặt
thế giới đổi thay kỳ diệu.
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của khoa
học và công nghệ.
Là một Đảng vô sản, mác-xít, Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành
lập đến nay, đều lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chi Minh làm
kim chỉ nam cho mọi cương lĩnh hành động của mình. Đảng luôn quán triệt
những tư tưởng của các nhà kinh điển mác-xít, của Hồ Chí Minh trong mọi
lĩnh vực, thẩm nhuần trong những chủ trương, chính sách thực tiễn phù hợp
với điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ cách mạng cụ thể. Trong lĩnh vực
khoa học và công nghệ cũng vậy, cơ sở lý luận để hình thành quan điểm của
Đảng chính là những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về khoa học và
công nghệ.
C. Mác nói: “Khoa học là động lực của sự phát triển xã hội, khoa học
đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, còn công nghệ được đổi mới hết
sức nhanh chóng”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chủ nghĩa xã hội cộng với
khoa học chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận”(2). Trình độ dân
trí, tiềm lực khoa học, công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và
vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới. Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại trên thế giới đang phát triển hết sức mạnh mẽ, tác động
sâu sắc đến sự phát triển của tất cả các nước, đến mọi lĩnh vực của xã hội loài
người. Khoa học và công nghệ càng có vai trò quan trọng đối với các nước
chậm phát triển trong việc xây dựng nền tảng vật chất cho chế độ mới.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm đến giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ. Đảng đã ra một loạt nghị quyết, trong đó xác định vị trí,
vai trò, phương hướng và nhiệm vụ của khoa học và công nghệ.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: khoa học và công nghệ là nền
tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chỉ ra thực chất
của công nghiệp hoá là thực hiện một cuộc cách mạng kỹ thuật nhằm chuyển
nền kinh tế từ tình trạng năng suất thấp, hiệu quả thấp sang nền kinh tế có
năng suất cao, hiệu quả cao dựa trên sản xuất công nghiệp, sử dụng khoa học
và công nghệ. Để công nghiệp hoá phải đổi mới công nghệ trong tất cả các
lĩnh vực, phát triển những ngành mới, nhất là những ngành công nghệ cao, tạo
sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển nhanh các ngành có giá
trị gia tăng cao. Để làm được điều đó, không thể không dựa vào khoa học và
công nghệ. Khoa học, công nghệ có phát triển mạnh thì mới có thể đẩy nhanh
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cùng với quá trình nhận thức của Đảng về vai trò của khoa học và công
nghệ, các chủ trương, đường lối của Đảng vạch ra ngày càng đúng đắn hơn,
hoàn thiện hơn. Có thể nói, với sự ra đời của Nghị quyết hai Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII, vai trò, vị trí của khoa học, công nghệ được Đảng
Cộng sản Việt Nam nhìn nhận và trình bày theo một hệ thống chỉnh thể các
quan điểm hết sức rõ ràng:
1. Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế – xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ
vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học, công nghệ. Đảng
và Nhà nước có chính sách đầu tư khuyến khích, hỗ trợ phát triển khoa học và
công nghệ.
2. Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động
của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và củng cố quốc phòng – an ninh.
Khoa học và công nghệ gắn với giáo dục và đào tạo, khoa học tự nhiên
và kỹ thuật gắn với khoa học xã hội và nhân văn.
3. Phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn
dân. Phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng, của các tập thể khoa
học và công nghệ, của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các tổ chức
chính trị – xã hội và của mỗi công dân trong hoạt động khoa học, công nghệ.
4. Phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ kết hợp với
tiếp thu thành tựu khoa học, công nghệ thế giới.
5. Phát triển khoa học, công nghệ gắn liền với bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái, bảo đảm phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững.
3. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với khoa học và công nghệ.
Mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ được Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ hai (khoá
VIII) và được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh:
“Tăng cường tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý để khoa học và công nghệ
thực sự trở thành động lực phát triển đất nước”(1).
Để đạt mục tiêu đó, nội dung lãnh đạo của Đảng đối với khoa học và
công nghệ trong thời gian tới cần tập trung vào các vấn đề sau:
Một là, Đảng lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển
khoa học và công nghệ gắn với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước:
Phát triển khoa học và công nghệ phải đáp ứng yêu cầu nâng cao mặt
bằng dân trí để tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Khoa học và công nghệ phải bảo
đảm luộn cứ khoa học cho việc xây dựng các chủ trương, đường lối phát triển
đất nước; lựa chọn, tiếp thu và làm chủ các công nghệ từ bên ngoài kết hợp
với cải tiến công nghệ truyền thống, nâng cao trình độ công nghệ trên tất cả
các lĩnh vực sản xuất đảm bảo năng suất, chất lượng và hiệu quả đạt trình độ
công nghệ trung bình trong khu vực ở những ngành sản xuất và dịch vụ chủ
yếu.
Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ trên cơ sở xây dựng đội ngũ
tri thức đông về số lượng, mạnh về chất lượng; tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật cho khoa học và công nghệ, tập trung xây dựng một số ngành khoa học
và công nghệ tiên tiến trên các lĩnh vực công nghệ trọng điểm.
Hai là, Đảng lãnh đạo đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động
khoa học và công nghệ bằng việc:
Kiện toàn tổ chức và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà
nước về khoa học và công nghệ từ trung ương đến cấp huyện, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ quản lý khoa học và công nghệ, tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra hoạt động.
Đổi mới cơ chế đầu tư cho khoa học và công nghệ theo hướng lấy hiệu
quả kinh tế – xã hội làm mục tiêu và kiểm tra chặt chẽ nguồn kinh phí đầu tư
của Nhà nước cho khoa học và công nghệ.
Ban hành và từng bước hoàn thiện luật khoa học và công nghệ trên tinh
thần Nhà nước quản lý thống nhất các hoạt động khoa học và công nghệ,
đồng thời có sự phân cấp quản lý và phát huy tính chủ động của các cơ quan
khoa học và công nghệ.
Củng cố và tăng cường hoạt động của các hội khoa học và công nghệ,
khuyến khích thành lập các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài khu vực nhà
nước. Tăng cường hoạt động của các hội khoa học trong việc phổ biến, triển
khai và ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, nâng cao
vai trò chính trị – xã hội của các tổ chức đó và tạo điều kiện thuận lợi cho các
tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động có hiệu quả cao.
Ba là, Đảng lãnh đạo việc đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên
truyền, phổ cập kiến thức khoa học và công nghệ, trong đó cần tập trung:
Đẩy mạnh các dịch vụ tư vấn, thông tin khoa học và công nghệ về lãnh
đạo, quản lý, nghiên cứu khoa học; đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp,
đặc biệt là công nghệ thông tin.
Phát triển và quản lý tốt mạng lưới thu thập, xử lý thông tin và khoa
học và công nghệ nước ngoài.
Phát động phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học, phát huy
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh, ứng dụng các tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất và đời sống.
Bốn là, Đảng lãnh đạo tạo lập thị trường và đổi mới chính sách khoa
học và công nghệ.
Tạo lập thị trường và đổi mới chính sách khoa học và công nghệ sẽ tạo
động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ. Vì
vậy, sự lãnh đạo của Đảng cần tập trung các nội dung sau:
+ Sử dụng các công cụ thích hợp trên cơ sở pháp luật để cho các doanh
nghiệp có điều kiện ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất kinh doanh,
trong đó đặc biệt ưu tiên cho các doanh nghiệp nhà nước và các lĩnh vực yêu
cầu ứng dụng công nghệ cao.
+ Tạo điều kiện cho các cơ quan nghiên cứu, triển khai khoa học và
công nghệ hoạt động một cách nhanh nhạy, đáp ứng được yêu cầu thị trường;
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho họ và tạo điều kiện cho các sản phẩm trí tuệ
được lưu thông trên thị trường như là một thứ hàng hoá đặc biệt.
+ Có chính sách thoả đáng cho cán bộ khoa học và công nghệ cả về vật
chất và tinh thần, điều kiện và môi trường làm việc, cập nhật thông tin; biểu
dương và tôn vinh những người có đóng góp lớn, những chuyên gia hàng đầu;
tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học và công
nghệ cả về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và trình độ trí tuệ; khuyến
khích và tạo điều kiện cho trí thức Việt kiều về nước tham gia hoạt động khoa
học và công nghệ; xây dựng và đảm bảo quy chế dân chủ trong hoạt động
khoa học và công nghệ; mở rộng hợp tác quốc tế và tăng đầu tư cho khoa học
và công nghệ từ nhiều nguồn khác nhau.
4. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với khoa học và công nghệ.
Một là, Đảng đề ra các chủ trương, đường lối, chiến lược về khoa học
và công nghệ gắn với điều kiện thực tiễn của đất nước và xu hướng phát triển
của thời đại. Cấp uỷ đảng ở địa phương, các ngành đề ra những chủ trương
công tác cụ thể về hoạt động của lĩnh vực này. Trên cơ sở những quan điểm,
những nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về khoa học và công nghệ, các
cấp chính quyền và đoàn thể chính trị – xã hội cụ thể hoá thành pháp luật,
thành các quy chế, quy định để tổ chức thực hiện trong thực tiễn phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ, với từng giai đoạn lịch sử, với từng địa phương, đơn vị
cụ thể.
Hai là, Đảng lãnh đạo xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước về khoa học và công nghệ thật sự trong sạch, vững mạnh để các tổ chức
này có đủ khả năng và uy tín chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ
trương, đường lối của Đảng về khoa học và công nghệ. Xây dựng cơ chế quản
lý hợp lý trên tinh thần từng bước xoá bỏ sự hành chính hoá trong khoa học
và công nghệ và tạo môi trường thuận lợi để phát huy cao nhất tính chủ động
sáng tạo trong lĩnh vực này. Các cơ quan quản lý điều tiết, kiểm tra, giám sát
sự đầu tư của Nhà nước vào lĩnh vực này một cách chặt chẽ, hợp lý, có hiệu
quả.
Ba là, Đảng kiểm tra việc quán triệt và thực hiện các quan điểm,
nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo thông qua các tổ chức đảng và đảng viên hoạt
động trong các cơ quan khoa học và công nghệ; đồng thời kiểm tra qua các tổ
chức quần chúng, sự giám sát của nhân dân trên lĩnh vực đó. Các tổ chức
đảng phải tăng cường củng cố tổ chức để thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo
trong các cơ quan khoa học và công nghệ; tích cực phát triển đảng viên trong
lĩnh vực hoạt động này. Mỗi đảng viên của Đảng phải thật sự có năng lực trí
tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, tiên phong gương mẫu, thực sự
có uy tín trong tập thể, được quần chúng tin tưởng.
Bốn là, Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra các quan điểm về cán bộ, công
tác cán bộ và chính sách cán bộ. Trên cơ sở đó các cơ quan quản lý nhà nước
và các tổ chức trong lĩnh vực khoa học và công nghệ lập chương trình, kế
hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ theo yêu cầu, nhiệm vụ của tổ chức mình.
Đảng không can thiệp trực tiếp vào công việc của các cơ quan đó, nhưng
Đảng cử những cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất, đạo đức tốt nắm giữ
các cương vị lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong các cơ quan đó, trên cơ sở uy
tín cán bộ và bầu cử dân chủ.
Nói cách khác, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với khoa học và
công nghệ là bằng đường lối, chính sách; bằng vai trò tiên phong gương mẫu
của các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan đó; băng công tác tư
tưởng, công tác tổ chức và cán bộ; bằng phát huy tinh thần trách nhiệm, tính
chủ động, sáng tạo trong hoạt động của các tổ chức trong lĩnh vực khoa học
và công nghệ; bằng vai trò làm chủ của quần chúng nhân dân.
II. VÀI NÉT VỀ THỰC TRẠNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Sự phát triển của khoa học và công nghệ trong thời gian qua.
Qua hơn 20 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm trở lại đây, Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã đặc biệt chú trọng đẩy mạnh hoạt động khoa học và
phát triển công nghệ của đất nước, trên thực tế, hoạt động này đã đạt được
nhiều kết quả đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 2 triệu công nhân kỹ thuật, trên
2.250.000 người có trình độ đại học và cao đẳng, trên 18.000 thạc sỹ và
16.000 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học, trong đó có 610 tiến sỹ khoa học. Bình
quân có 193 cán bộ khoa học công nghệ trên 10.000 dân.
Theo báo cáo phát triển con người năm 2004 của UNDP, ở Việt Nam
đang có khoảng 50.000 người làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ. Trong số này có hơn 37.000 người (72% có
trình độ đại học trở lên) làm việc trong các tổ chức nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ của Nhà nước, với 68,9% làm việc theo chế độ biên chế
và 31,1% làm việc theo chế độ hợp đồng.
Các kết quả hoạt động khoa học và phát triển công nghệ của Việt Nam
được thể hiện rõ ràng nhất thông qua số lượng các công trình khoa học được
công bố và số lượng các đăng ký sáng chế hằng năm ở Việt Nam.
Có thể nhận thấy trong 10 năm gần đây, số lượng bài báo đăng trên các
tạp chí khoa học và công nghệ trong nước đã tăng hơn gấp 3 lần. Tuy nhiên,
số công trình, bài báo khoa học của Việt Nam công bố ở nước ngoài mới đạt
khoảng 300 bài/ năm. Trong giai đoạn 1998 – 2002, tỷ lệ số bài báo khoa học
của Việt Nam trên tổng só của thế giới chỉ đạt 0,02%. Trong lúc đó ở Hàn
Quốc và Đài Loan: 0,77%; Xin-ga-po: 0.25%; Thái Lan: 0,11%; Ma-lai-xi-a:
0,08%; Phi-líp-pin: 0,05%; In-đô-nê-xi-a: 0,04%.
Số lượng đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích chủ yếu là do các
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đăng ký thông qua nhập khẩu công nghệ. Số
lượng đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích của người Việt Nam mới đạt
khoảng 10% trong một số năm gần đây. Số đăng ký sáng chế quốc tế của Việt
Nam trong 5 năm (2001 – 2005) chỉ có 11 đơn, trong khi đó của một số nước
trong khu vực và trên thế giới là: Ma-lai-xi-a: 147; Phi-líp-pin: 85; Thái Lan:
39; In-đô-nê-xi-a: 36; Hàn Quốc: 15.000; Nhật Bản: 87.620; Mỹ: 206.710.
Những con số trên cho thấy trình độ khoa học và công nghệ của Việt Nam
vẫn còn một khoảng cách lớn so với ngay cả các nước trong khu vực.
Năm 2006, tổng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công
nghệ đã tăng lên gần 5.890 tỉ đồng, đạt 2% chi ngân sách nhà nước. Nguồn
đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm đến 60% tổng đầu tư của xã hội cho khoa
học và công nghệ, trong đó 2/3 dành cho sự nghiệp khoa học và 1/3 dành cho
xây dựng cơ bản. Ở các nước, số đầu tư của doanh nghiệp cho khoa học và
công nghệ chiếm trên 60%, còn đầu tư của nhà nước chỉ chiếm 30%.
Tình hình phát triển công nghệ ở Việt Nam có thể đánh giá thông qua
giá trị nhập khẩu máy móc, trang thiết bị công nghệ trong thời gian gần đây.
Trong 5 năm giai đoạn 2001 – 2005, Việt Nam đã nhập khẩu 35.997 triệu
USD máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, chiếm khoảng 30% tổng kim
ngạch nhập khẩu. Năm 2006, con số này là 9.597 triệu USD, chiếm 21,8%
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam.
Đến nay, Việt Nam sử dụng công nghệ trung bình là phổ biến, tỷ lệ
nhôm ngành công nghệ cao của Việt Nam hiện nay mới đạt khoảng 20%. Tốc
độ đổi mới công nghệ của cả nước đạt khoảng 10%. Trong công nghiệp, tỷ lệ
doanh nghiệp tự động hoá chiếm khoảng 1,9%, bán tự động là 19,6%, cơ khí
hoá 26,6%, bán cơ khí hoá 35,7%, thủ công 16,2%.
Trên đây là một số kết quả hoạt động khoa học và phát triển công nghệ
của Việt Nam trong thời gian qua.
Trong báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ngày 10
tháng 4 năm 2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm
2006 – 2010 cũng đã chỉ ra những thành tựu và hạn chế về khoa học và công
nghệ.
2. Thành tựu:
Khoa học và công nghệ đã tập trung hơn vào nghiên cứu ứng dụng,
phục vụ các yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Nhiều thành tựu khoa học và
công nghệ mới được ứng dụng trong các ngành xây dựng, công nghiệp, nông
nghiệp…, đã tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ mới có chất lượng cao, có sức
cạnh tranh, phục vụ xuất khẩu và thay thế nhập khẩu.
Khoa học xã hội và nhân văn đã có tiến bộ trong việc điều tra, nghiên
cứu, cung cấp tư liệu và luận cứ khoa học và phục vụ hoạch định chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc.
Khoa học tự nhiên đã tăng cường các hoạt động điều tra nghiên cứu,
đánh giá tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và phòng,
tránh thiên tai.
Bước đầu đổi mới cơ chế quản lý, đa dạng hoá phương thức giao nhiệm
vụ nghiên cứu như đấu thầu cạnh tranh hoặc hỗ trợ một phần kinh phí nghiên
cứu ứng dụng cho các doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp liên kết
hoặc ký hợp đồng với các tổ chức khoa học và công nghệ. Tiềm lực và trình
độ khoa học, công nghệ trong nước đã có bước phát triển; hoạt động khoa học
và công nghệ được mở rộng và nâng cao hiệu quả.
Công tác bảo vệ môi trường đạt được những kết quả bước đầu. Hoạt
động điều tra cơ bản về môi trường được duy trì; việc ngăn ngừa và khắc
phục ô nhiễm môi trường có tiến bộ; đã ban hành một số chính sách về bảo vệ
môi trường.
3. Hạn chế:
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, kể cả khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội chậm đổi mới; chưa có chính sách và biện pháp tốt để huy
động các nguồn lực và để sử dụng có hiệu quả nguồn lực nhà nước đầu tư cho
khoa học và công nghệ; thiếu cơ chế gắn kết nghiên cứu khoa học và công
nghệ với đào tạo nhân lực, nhất là ở bậc đại học và với hoạt động sản xuất,
kinh doanh; chưa phát huy tác dụng tích cực đối với phát triển kinh tế – xã
hội.
Thị trường khoa học và công nghệ chậm được hình thành, hiệu quả ứng
dụng các công trình nghiên cứu khoa học thấp; thiếu chính sách và biện pháp
thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm đầu tư nghiên cứu và đổi mới công nghệ
để nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh.
Trình độ công nghệ trong nhiều ngành còn lạc hậu; việc chuyển giao
công nghệ còn rất chậm. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các tổ chức nghiên cứu
khoa học và công nghệ còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ và sử dụng kém hiệu
quả.
Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học còn hạn chế về trình độ, bất hợp
lý về cơ cấu; thiếu cán bộ đầu ngành và các tập thể khoa học và công nghệ
mạnh. Quyền sở hữu trí tuệ chưa được coi trọng đúng mức và còn bị xâm
phạm.
4. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế:
Những thành tựu đạt được và sự hạn chế của sự phát triển khoa học
công nghệ trong những năm qua là do rất nhiều nguyên nhân, nhưng có một
số nguyên nhân cơ bản sau đây:
4.1. Nguyên nhân của những thành tựu:
Có được những thành tựu trên đây, trước hết là do đường lối đúng đắn
của Đảng, do nhu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi đưa tiến bộ khoa học và công
nghệ vào sản xuất, nhờ sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, khoa học và công
nghệ. Mặt khác đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đã trưởng thành một
bước và có nhiều cố gắng và thích nghi với cơ chế mới; quan hệ đối ngoại,
hợp tác quốc tế, khoa học và công nghệ được mở rộng.
4.2. Nguyên nhân của những hạn chế:
Các cấp uỷ Đảng, các cấp chính quyền chưa thật sự coi phát triển khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, chưa tập trung trí tuệ, công sức cho
sự lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động khoa học và công nghệ. Nhiều chủ trương
đúng đắn về khoa học và công nghệ trong các văn kiện của Đảng chậm được
thể chế hoá về mặt nhà nước và chưa được thực hiện nghiêm túc:
+ Chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách thuế, chính sách tín dụng,
chính sách xuất nhập khẩu chưa khuyến khích và buộc các doanh nghiệp, nhất
là doanh nghiệp nhà nước, tích cực ứng dụng những thành tựu khoa học và
công nghệ. Môi trường đầu tư và cạnh tranh chưa thuận lợi, chưa tạo được
động lực cho việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất – kinh
doanh.
+ Chưa nhận thức đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư phát
triển. Đầu tư tài chính của Nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ
còn quá thấp. Việc phân bổ và sử dụng ngân sách cho khoa học và công nghệ
chưa hợp lý, chưa có hiệu quả. Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách phù hợp
nhằm huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách cho việc phát triển khoa học
và công nghệ.
+ Thiếu chiến lược quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nên còn mất
cân đối về đào tạo và sử dụng. Nhiều chính sách cán bộ chưa thoả đáng và
không kịp thời đổi mới. Chế độ tiền lương mang nặng tính bình quân, lao
động trí óc chưa được đãi ngộ xứng đáng.
+ Việc sử lý sản xuất, xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, quy chế giám
định công ngệ chưa chặt chẽ nên nhiều thiết bị, công nghệ lạc hậu được nhập
vào Việt Nam, gây tổn thất lớn cho nền kinh tế và gây tác hại xấu đến môi
trường.
Quản lý khoa học và công nghệ trong cơ chế thị trường còn lúng túng,
bất cập. Việc tổ chức phân bổ lực lượng còn phân tán. Việc quản lý các
chương trình còn mang nặng tính hành chính, còn dài trải; chưa gắn chương
trình nghiên cứu với chức năng và nhiệm vụ của cơ sở nghiên cứu, chưa đề
cao tinh thần trách nhiệm và phát huy tính chủ động của cơ sở; thiếu sự kết
hợp giữa chương trình kinh tế – xã hội với chương trình khoa học và công
nghệ. Nhiều cơ quan khoa học chưa gắn với khoa học sản xuất, chưa chủ
động phối hợp với địa phương để ứng dụng các tiến bộ khoa học và công
nghệ.
Công tác đảng, công tác chính trị – tư tưởng trong một số viện nghiên
cứu, trường đại học còn yếu. Tác dụng lãnh đạo của tổ chức đảng ở những nơi
này còn hạn chế. Việc phát triển đảng trong trí thức chưa được quan tâm đầy
đủ.
Để phát huy những ưu điểm và khắc phục những hạn chế của quá trình
phát triển khoa học và công nghệ trong thời gian qua, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra các phương hướng, chiến lược, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
phát triển khoa học và công nghệ trong các chỉ thị, nghị quyết của mình.
III. PHƯƠNG HƯỚNG, CHIẾN LƯỢC, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ
GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ.
1. Phương hướng phát triển khoa học và công nghệ:
Phát triển mạnh, kết hợp chặt giữa hoạt động khoa học và công nghệ
với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo
động lực đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri
thức. Thống nhất định hướng giữa phát triển khoa học và công nghệ với chấn
hưng giáo dục và đào tạo, phát huy quan hệ tương tác thúc đẩy lẫn nhau giữa
hai lĩnh vực quốc sách hàng đầu.
Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nhất là
công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin. Chú trọng tạo và sử
dụng giống cây, con có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Đưa nhanh công
nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp. ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi, trồng và chế
biến rau quả, thực phẩm. Hạn chế việc sử dụng hoá chất độc hại trong nông
nghiệp. Xây dựng một số khu nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cường đội
ngũ, nâng cao năng lực và phát huy tác dụng của các bộ khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư.
Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ,
tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong từng ngành, từng
lĩnh vực của nền kinh tế. Tăng nhanh năng lực khoa học và công nghệ nội
sinh đi đôi với tăng cường tiếp thu, làm chủ, ứng dụng thành tựu khoa học và
công nghệ thế giới. Nâng cao chất lượng và tính thương mại của các sản
phẩm khoa học và công nghệ; nâng cao ý thức chấp hành và hiệu lực thực thi
pháp luật về sở hữu trí tuệ. Cùng với việc đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động
khoa học và công nghệ, cần tập trung đầu tư của Nhà nước vào các chương
trình nghiên cứu quốc gia, phấn đấu đạt trình độ khu vực và thế giới; xây
dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm, công
nghệ cao. Chú trọng công tác đào tạo và bổ sung cơ chế, chính sách sử dụng,
đãi ngộ các bộ khoa học.
Đổi mới tổ chức và xây dựng quy chế liên kết giữa khoa học và công
nghệ với giáo dục và đào tạo, giữa giảng dạy và nghiên cứu với thực tiễn sản
xuất, kinh doanh. Xây dựng quy chế về nghiên cứu khoa học trong các trường
đại học và về công tác giảng dạy, đào tạo của các viện nghiên cứu không học,
công nghệ. Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới
và chuyển giao công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào
sản xuất và đời sống. Phát triển quan hệ liên kết, đặt hàng giữa các đơn vị sản
xuất, kinh doanh, các tổ chức và cá nhân có nhu cầu với các cơ sở nghiên cứu
khoa học, công nghệ. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp, trước hết là
các tổng công ty lớn, triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học, công
nghệ.
Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ
chế tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động
khoa học và công nghệ. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với
các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Chuyển các tổ chức nghiên cứu
ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp
dưới các hình thức phù hợp; phát triển mạnh các doanh nghiệp khoa học và
công nghệ thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành,
tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ
thuật có tay nghề cao.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ với nước ngoài, thu
hút nguồn lực bên ngoài phát triển khoa học và công nghệ. Khuyến khích tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư phát triển khoa học và công nghệ tại Việt
Nam. Thu hút chuyên gia nước ngoài, đặc biệt là chuyên gia giỏi người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, tham gia giảng dạy, phát triển khoa học và công
nghệ tại Việt Nam.
2. Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ:
Trước hết phải làm cho nền khoa học và công nghệ phải thực sự trở
thành chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; xây dựng cơ sở vật chất vững mạnh cho sự phát triển toàn diện của xã
hội cả về cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng, cả về tăng trưởng kinh tế
lẫn tăng trưởng văn hoá, xã hội cũng như củng cố và hiện đại hoá quốc phòng
an ninh.
Thứ ha là, quán triệt tư tưởng phát huy nội lực trong Nghị quyết Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai (khoá VIII) và lần thứ tư
(khoá VIII); phải đặt mục tiêu xây dựng và phát huy những yếu tố nội sinh về
khoa học và công nghệ, xây dựng thành công một hệ thống khoa học và công
nghệ hoạt động có động lực và hiệu quả.
Thứ ba là, Việt Nam có điểm xuất phát thấp về kinh tế, khoa học và
công nghệ, các nguồn lực còn rất hạn chế, do đó phải biết chọn lựa các vấn đề
ưu tiên của kinh tế – xã hội, yêu cầu nội tại của nền khoa học và công nghệ,
chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phải là vừa khai thác triệt để thế
mạnh vốn có của đất nước, vừa phải phục vụ có hiệu quả cho phát huy thế
mạnh đó.
Thứ tư là, nền nông nghiệp nhiệt đới; tài nguyên thiên nhiên phong
phú, đa dạng, vị trí địa lý thuận lợi cho giao lưu khu vực và quốc tế; tiềm
năng trí tuệ của con người Việt Nam là lợi thế vốn có cần phải phát huy và
khai thác có hiệu quả. Đặc biệt thế mạnh về tiềm năng trí tuệ con người Việt
Nam, chiến lược phát khoa học và công nghệ phải coi việc đào tạo nhân lực,
phát triển bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài là một nhiệm vụ chủ yếu, trọng
tâm.
Thứ năm, chiến lược phát triển khoa học công nghệ phải coi nhiệm vụ
đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý khoa học và công nghệ là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm. Trong thời gian trước mắt phải coi nhiệm vụ này là
nhiệm vụ cấp bách nhất để khắc phục hiện tượng yếu kém nhằm giải phóng
tiềm lực, tạo động lực mới cho sự phát triển khoa học và công nghệ.
Ngoài ra chiến lược khoa học và công nghệ còn phải đề cập đến vấn đề
xây dựng những yếu tố như các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, hệ
thống thông tin, cơ sở vật chất kỹ thuật cho nghiên cứu triển khai.
3. Mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ:
Phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam về cơ bản trở thành nền
tảng vững chắc và là lực lượng sản xuất hàng đầu của nền kinh tế đất nước,
phù hợp với xu thế của thời đại, góp phần xây dựng một xã hội phát triển bền
vững, an ninh quốc phòng vững chắc. Đến năm 2020, khoa học và công nghệ
có được những cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại, nhờ đó, khoa học và công
nghệ giữ vị trí chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đưa đất
nước hội nhập thành công và có vị thế thích đáng trong khu vực và trên thế
giới.
Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các
công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh
vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghẹ vật liệu mới,
công nghệ tự động hoá.
Đối với khoa học, phải đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và quốc tế
về một số hướng khoa học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn. Với trình độ
phát triển của khoa học như vậy, Việt Nam sẽ có hệ thống những luận cứ
khoa học cho các đường lối, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển.
Về công nghệ, trên cơ sở đẩy mạnh nghiên cứu triển khai trong nước
kết hợp với tiếp thu chuyển giao công nghệ nước ngoài, hướng vào nâng cao
trình độ công nghệ của sản xuất và dịch vụ. Một số ngành và lĩnh vực như sản
xuất chế biến lương thực, thực phẩm, bưu chính viễn thông, khai thác chế
biến dầu khí, giao thông vận tải, sản xuất và sử dụng năng lượng, tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
4. Nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ:
4.1. Về khoa học xã hội nhân văn:
Vận dụng sáng tạo kỹ thuật, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu phát triển chủ nghĩa xã hội
khoa học; nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa tư bản hiện đại, những biến đổi trong
quan hệ quốc tế; dự báo xu hướng phát triển của thế giới, khu vực và đất
nước. Xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam.
Nghiên cứu sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp. Nghiên cứu lý luận và
chính sách quản lý kinh tế – xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, đổi mới tổ chức và phương pháp hoạt động của hệ thống chính trị; xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; nghiên cứu vấn đề đảng
cầm quyền và xây dựng đảng trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và
cơ chế thị trường theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tổng kết thực tiễn sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, tham khảo
kinh nghiệm phát triển của thế giới, đề xuất luận cứ khoa học về mô hình và
các giải pháp quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghiên cứu các vấn đề lịch sử, dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ văn học,
nghệ thuật, tư tưởng, triết học và đặc điểm con người Việt Nam qua các thời
đại, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp thu
những tinh hoa văn hoá thế giới, hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức
mới, làm chỗ dựa cho việc giáo dục và bồi dưỡng truyền thống cách mạng,
lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính, ý thức tự lực, tự cường của
nhân dân Việt Nam. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm các cuộc chiến tranh cứu
nước, giữ nước trong lịch sử dân tộc; xây dựng, phát triển khoa học và nghệ
thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới.
Nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, kinh tế, chính trị, quân sự…của các
nước, nhất là các nước trong khu vực Đông Nam á, Chau á - Thái Binh
Dương.
4.2. Về khoa học tự nhiên:
Nghiên cứu cơ bản có định hướng, có trọng điểm các lĩnh vực khoa học
tự nhiên (toán học, tin học, cơ học, vật lý, hoá học, sinh học, các khoa học về
trái đất và biển…) nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý và bảo
về tài nguyên thiên nhiên và bảo về môi trường sinh thái, phòng chống, hạn
chế hậu quả thiên tai và nhằm xây dựng năng lực khoa học cho việc làm chủ
công nghệ tiên tiến được chuyển giao từ nước ngoài và sáng tạo ra công nghệ
mới. Chú trọng đúng mức những nghiên cứu lý thuyết hiện đại cần thiết để
đón đầu sự phát triển của khoa học và công nghệ.
4.3. Về khoa học kỹ thuật và công nghệ:
Đến năm 2020 đặt trình độ công nghệ tiên tiến trong khu vực ở các
ngành kinh tế trọng điểm như công nghệ sinh học, sản xuất lương thực, chế
biến nông - lâm - hải sản, cơ khí điển tử, công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông, khai thác và chế biến dầu khí, giao thông vận tải, xây dựng, vật
liệu cơ bản, sản xuất và sử dụng năng lượng, y dược. Phát triển một số ngành
công nghiệp biển. ứng dụng có chọn lọc các thành tựu khoa học hiện đại
nhằm tiếp cận với trình độ thế giới trong một số lĩnh vực quan trọng, làm cơ
sở vững chắc cho phát triển các ngành công nghiệp hiện đại.
4.4. Về tiềm lực khoa học và công nghệ:
Nâng cao năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ để có khả năng
tiếp thu các tri thức mới của thế giới. Thích nghi, làm chủ các công nghệ tiên
tiến từ nước ngoài; nghiên cứu giải quyết các vấn đề khoa học và công nghệ
do thực tiễn đặt ra trong quá trình phát triển; bảo đảm căn cứ khoa học cho
các quy hoạch, kế hoạch phát triển.
Đến năm 2020 có một số phòng thí nghiệm, viện nghiên cứu, trường
đại học đạt trình độ quốc tế. Đạt trình độ tiên tiến trong khu vực về các chỉ
tiêu đặc trưng cho tiềm lực khoa học và công nghệ như: tỷ lệ phần trăm tổng
thu nhập quốc dân đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, số lượng cán bộ
nghiên cứu triển khai trên 1 vạn dân, số phát minh, sáng chế được đăng ký
cấp giấy chứng nhận…
5. Một số giải pháp phát triển khoa học và công nghệ:
5.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khoa học và công
nghệ:
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định làm
cho khoa học và công nghệ trở thành nền tảng và động lực mạnh mẽ của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong chỉ đạo mọi lĩnh vực hoạt động, các cấp uỷ đảng cần chú trọng
nội dung khoa học và công nghệ; thường xuyên kiểm tra luận cứ khoa học,
trình độ công nghệ, hiệu quả kinh tế – xã hội của các chủ trương, chính sách,
dự án phát triển thuộc phạm vi mình phụ trách.
Các cấp uỷ đảng tiến hành kiện toàn các cơ quan tham mưu về khoa
học và công nghệ để nâng cao hiệu quả tổ chức, triển khai chiến lược khoa
học, công nghệ phù hợp với địa phương theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Các cấp uỷ đảng và mỗi đảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ
hiểu biết về khoa học và công nghệ, nắm chắc những mục tiêu chiến lược và
nhiệm vụ cụ thể để tổ chức.
Đảng bộ các cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ, các cơ sở đào
tạo có trách nhiệm phát triển đảng sâu rộng trong đội ngũ trí thức, đặc biệt đối
với những nhà khoa học hàng đầu và những trí thức trẻ.
Ban cán sự đảng cán bộ, ngành; đảng đoàn của các tổ chức kinh tế – xã
hội và các tổ chức xã hội – nghề nghiệp kịp thời cụ thể hoá chiến lược khoa
học và công nghệ thành các chủ trương, các biện pháp, bước đi cụ thể phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ tổ chức của mình; tổ chức các phong trào quần
chúng sâu rộng, phát huy sáng kiến, đổi mới kỹ thuật, công nghệ, sáng chế
phát minh, tiến quân mạnh mẽ vào khoa học và công nghệ.
5.2. Đổi mới quản lý và tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ:
Đổi mới quản lý và tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ gắn với
đổi mới và tổ chức quản lý kinh tế; bảo đảm sự gắn kết lợi ích của người sáng
tạo và lợi ích của các thành phần kinh tế – xã hội. Soát xét lại các cơ chế
chính sách quản lý kinh tế theo hướng sớm thu hẹp bao cấp, giảm độc quyền,
bảo hộ mậu dịch nhằm thúc đẩy cạnh tranh và hội nhập kinh tê, phát triển thị
trường khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá.
Mở rộng dân chủ, phát huy tự do tư tưởng, khai thác mọi tiềm năng
sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận, đồng thời tăng cường
quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo Luật khoa học và công nghệ.
Nghiên cứu tách các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ không
phụ thuộc việc quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ ra khỏi cơ quan Bộ.
Các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ hoạt động theo chế độ
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả và hiệu quả hoạt động của mình theo
quy định của pháp luật.
Từng bước chuyển các tổ chức khoa học và công nghệ thực hiện nhiệm
vụ nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang cơ chế tự trang trại kinh
phí, được hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp.
Kiện toàn cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.
Nhà nước đầu tư, bảo đảm kinh phí hoạt động cho các tổ chức khoa học
và công nghệ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu lý luận, khoa
học xã hội và nhân văn, quốc phòng, an ninh và những nhiệm vụ trọng điểm
khác theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước.
Tăng cường sự liên kết các trường đại học với các viện nghiên cứu và
các doan nghiệp.
Phát triển mạnh mẽ các tổ chức khuyến nông, khuyến tâm, khuyến ngư,
dịch vụ tư vấn, môi giới, chuyển giao công nghệ, đặc biệt là các doanh nghiệp
công nghệ.
Có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích đa dạng hoá nguồn vốn đầu
tư của các thành phần kinh tế, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho
nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới công nghệ và thu hút các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài cho phát triển khoa học và công nghệ.
Thành lập quý phát triển khoa học và công nghệ. Tăng mức đầu tư kinh
phí cho hoạt động khoa học và công nghệ trong hệ thống đại học.
Ra soát, bổ sung và đổi mới các chính sách thuế, tín dụng và chế độ tài
chính để khuyến khích mạnh mẽ các hoạt động sáng tạo khoa học và công
nghệ. Có chính sách bảo trợ ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ
được sáng tạo ở trong nước.
5.3. Tạo lập và phát triển thị trường khoa học và công nghệ:
Ra soát các cơ chế, chính sách hiện có và xây dựng cơ chế, chính sách
mới để hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp nghiên cứu khoa học và thường
xuyên đổi mới công nghệ, thúc đẩy các hoạt động thị trường khoa học và
công nghệ.
Hoàn thiện cơ sở pháp lý và nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về sở
hữu trí tuệ.
5.4. Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ:
Nâng cao chất lượng (về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn,
ngoại ngữ và tin học) của đội ngũ cán bộ khoa học; tăng số lượng để đạt số
lượng để đạt mức trung bình các nước công nghiệp mới của châu á, tăng
nhanh số lượng cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao.
Đẩy mạnh tốc độ gửi cán bộ khoa học và công nghệ đi đào tạo, bồ
dưỡng tại các nước có trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại.
Sớm hoàn thành xây dựng và đưa vào hoạt động khu công nghệ cao;
xây dựng và đưa vào hoạt động một số trung tâm phát triển phần mềm; đưa
vào khai thác các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, một số viện nghiên
cứu, trường đại học trọng điểm đạt trình độ tiên tiến khu vực.
Xây dựng cơ sở vật chất cho hệ thống đo lường chất lượng sản phẩm
đạt trình độ các nước trong khu vực.
Ban hành các văn bản pháp lý về công tác thống kê khoa học và công
nghệ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Tổ chức hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia, các thư
viện điện tử theo hướng hiện đại. Mở rộng mạng thông tin để đưa tri thức
khoa học đến với mọi người.
Xây dựng và triển khai chiến lược hợp tác quốc tế về khoa học và công
nghệ. Trong các dự án đầu tư nước ngoài có liên quan đến ứng dụng và phát
triển công nghệ tiên tiến cần có nội dung chuyển giao công nghệ.
Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn hỗ trợ phát triển chính thức cho
phát triển khoa học và công nghệ.
5.5. Tập trung chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ trọng điểm:
Đẩy mạnh nghiên cứu các lĩnh vực khoa học xã hội, tổng kết thực tiễn,
xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX, Nghị
quyết Trung ương 5 khoá IX “về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý
luận trong tình hình mới”.
Ứng dụng và chuyển giao khoa học và công nghệ phục vụ phát triển
nông nghiệp, nông thôn: ra soát, lồng ghép, gắn kết các chương trình kinh tế –
xã hội và khoa học – công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Ứng dụng và phát triển mạnh mẽ một số công nghệ cao: chú trọng phát
triển công nghệ thông tin; sớm xây dựng ngành công nghiệp công nghệ thông
tin làm sơ sở cho việc hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân, bảo đảm củng cố quốc phòng – an ninh. Phấn đấu nâng trình độ công
nghệ thông tin đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
C. KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức được rằng khoa học và công
nghệ là không thể thiếu và giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày nay đã có ảnh hưởng rộng lớn
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học đã tác động rộng lớn
đến cơ cấu và sự phát triển của nền kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho
mỗi nền kinh tế tham gia phân công lao động toàn cầu. Những thành tựu to
lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang đẩy
nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, làm
chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi sâu sắc
mọi mặt đời sống xã hội loài người. Trình độ dân trí, tiềm lực khoa học, công
nghệ đã trở thành nhân tố quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia
trên thế giới.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và xây dựng đất nước, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn luôn quan tâm đến khoa học và công nghệ. Đảng đã ra một
loạt nghị quyết, trong đó xác định vị trí, vai trò, phương hướng và nhiệm vụ
của khoa học và công nghệ.
Nhìn nhận cả chặng đường dài phát triển khoa học và công nghệ của
Việt Nam, có thể đi đến nhận định rằng tuy lâu nay Việt Nam chưa có một
chiến lược khoa học và công nghệ hoàn chỉnh và hiện nay chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ đến năm 2010 và 2020 của đất nước đang trong
quá trình xúc tiến xây dựng, song những chủ trương, chính sách, định hướng
của Đảng về khoa học và công nghệ là luôn luôn đúng đắn, phù hợp với từng
giai đoạn cụ thể và đó chính là cơ sở để hình thành một chiến lược khoa học
và công nghệ hoàn chỉnh.