Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận cao học môn các chuyên đề kinh tế toàn cầu hóa về kinh tế, vấn đề chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam và giải pháp chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.15 KB, 24 trang )

A. Lời mở đầu
Trong xu thế Toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế đang trở thành một xu thế khách quan với hầu
hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Việt Nam cũng đang từng bước tham gia
hội nhập cùng với nền kinh tế quốc tế mà mở đầu rõ nhất bằng sự kiện chúng
ta đã gia nhập vào WTO tháng 11/2007. Đây cũng là thời cơ nhưng cũng là
thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay.
Ở Việt Nam “Hội nhập kinh tế quốc tế” còn là một khái niệm mới mẻ,
được sử dụng nhiều từ giữ thập niên 1990 trở lại đây. Thuật ngữ hội nhập có
chung gốc tiếng Anh là Inteqration.
Hội nhập kinh tế thế giới là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị
trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự
do hóavà mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương.
Như vậy, hội nhập thực chất cũng là sự chủ động tham gia vào quá trình
toàn cầu hóa, khu vực hóa.
Hải Dương là một tỉnh nằm ở đồng bằng sông Hồng, thuộc Vùng kinh tế
trộng điểm phía Bắc, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải
Dương nằm cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía Đông, cách thành phố Hải
Phòng 45 km về phía Tây. phía Tây Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía Bắc giáp
tỉnh Bắc Giang, phía Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía đông giáp thành
phố Hải Phòng, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình và Phía giáp tỉnh Hưng Yên.
Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dương hiện là đô thị loại 2.
Theo quy hoạch năm 2007, Hải Dương nằm trong Vùng thủ đô với vai
trò là một trung tâm công nghiệp của toàn vùng. Đây cũng là thời cơ nhưng
cũng là thách thức không nhỏ đối với Hải Dương trong xu thế toàn cầu hoá
hiện nay. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài:
“Toàn cầu hóa về kinh tế, vấn đề chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam và giải pháp chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế của tỉnh Hải
Dương”
1



B. Nội dung
Chương I. Toàn cầu hoá
1.1. Khái niệm chung về toàn cầu hoá
Toàn cầu hóa là một quá trình phát triển (cho đến nay) không cưỡng lại
được, vừa có thể đem lại sự tăng trưởng kinh tế, sự phồn vinh cho nhiều nơi,
nhiều người nhưng lại vừa gây ra những xáo động to lớn trong lối sống của
nhiều người khác. Nhà nước, với vai trò là chủ thể quan trọng trong quá trình
toàn cầu hóa không thể tránh khỏi những tác động, ảnh hưởng từ xu thế tất
yếu đó.
Toàn cầu hoá là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng
giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá kinh tế v.v...
trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như
được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hoá thương
mại hay “tự do thương mại” nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ
thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương
mại kĩ thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
1.2. Các nhân tố dẫn đến tiến trình toàn cầu hoá kinh tế và quá trình
phát triển của nó
a. Các nhân tố dẫn đến tiến trình toàn cầu hoá kinh tế
Một là, Sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất
Thực tiển của nền kinh tế thế giới đang cho thấy bước quá độ từ nền kinh
tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, điều này được thể hiện rõ ở các quốc
gia phát triển. Cùng với nó các quốc gia đang phát triển cũng đã kết hợp bước
chuyển nông nghiệp lên công nghiệp kết hợp những bước nháy tắt để rút ngắn
quá trình xây dựng những cơ sở của nền kinh tế tri thức.
Sự phát triển của kinh tế tri thức dự trên các công nghệ có hàm lượng
khoa hoc kỹ thuật cao, nhất là công nghệ thông tin đã mở ra điều kiện thuận lợi
cho sự đẩy nhanh xu thế toàn cầu hoá, ví dụ như: các công nghệ mới làm tăng

2


tốc độ giao dịch kinh doanh, rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian.
Công nghệ thông tin đồng thời cũng góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo
điều kiện cho dân chủ phát triển, thúc đẩy nhu cầu mở của, giao lưu hội nhập.
Hai là, Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thi trường
Qua trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá có sự gắn bó chặt chẽ với tiến trình
phát triển của kinh tế thi trường. Kinh tế thị trường phát triển đã mở ra điều
kiện cho sự gia tăng xu thế quốc tế hoá, thể hiện trên hai khía cạnh chính: Thứ
nhất, kính tế thị trường mở ra cơ sở, điều kiện cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất, làm cho quy mô sản xuất không bó hẹp trong phạm vi cua từng quốc
gia mà mang tầm quốc tế, như vậy cũng có nghĩa là thúc đẩy quá trình phân
công lao động quốc tế, gắn các quố gia vào sự ràng buộc của sản xuất và tiêu
thụ. Thứ hai, nền kinh tế thi trường phát triển của các quốc gia đưa lại cơ chế
thống nhất cho sử lý các mối quan hệ, đó là cơ chế thị trường.
Có thể nói, ngày nay nền kinh tế thế giới thống nhất với cơ chế vận hành
cơ chế thi trường.
Kinh tế thi trườngcàng phát triển thì sự giao thoa thâm nhập lẫn nhau
giữa các nền kinh tế càng tăng. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường
không chỉ ở sự mở rộng qui mô về không gian, về sự xâm nhập ràng buộc lẫn
nhau giữa các quốc gia mà còn thể hiện ở sự phát triển theo chiều sâu. Đó là
sự bùng nổ phát triển của thi trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện của
một loạt công cụ mới trong thanh toán giao dịch. Thi trường sản phẩm hàng
hoá cũng gia tăng mạnh mẽ thể hiện ở qui mô chưa từng có của khối luqongj
giao dich thương mại và ở sự phát triển của các dang giao dịch mới như
thương mại dịch vụ và điện tử.
Như vậy có thể thấy sư phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trường chínhlà
cơ sở, điều kiệncho quá trình quốc tế hoá. Nhìn chung các quốc gia trên thế
giới ngày nayđèu dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các phương tiện và công

cụcủa kinh tế thị trường trong hoạt động kinh doanh, đưa lại một không gian

3


rộng lớn, không gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lưu chuyểncác
yếu tố của chính quá trình sản xuất ấy,
Ba là, Sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết
thúc chiến tranh lạnh bước vào thời kì hoà bình hợp tác và phát triển.
Trong vài thập niên trở lại đây nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ
nhưng kéo theo đó là những vấn đề mang tính chất toàn cầunhư sự phân hoá
giàu nghèo, sự ô nhiễm môi trường, dịch bệnh...Những vấn đề này liên quan
đến mọi quốc gia, có tác động trên phạm vi toàn thế giới, nó quyết định sự
phát triển tồn vong của toà thể cộng đồng nhân loại.
Do đó khi giải quyết các vấn đề mang tính chất toàn cầu phải có sự nỗ
lực của mọi quốc gia, sự liên kết sức lực của cả cộng đồng. Bản thân mỗi
quốc gia cho dù tiềm lực mạnh đến đâu cũng không thể giải quyết nổi vấn đề
liên quan đến toàn thế giới. Đây chính là cơ sở khách quan qui định , thúc đẩy
cho việc tiến tới thống nhất những qui phạm chung cho quá trình phát triển
kinh tế.
Bốn là, Sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia
Với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất trong chủ nghĩa tư bản tất yếu
dẫn đến sự tâp trung sản xuất và dẫn đến độc quyên. Trong lịch sử của nền
sản xuất thế giớivào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và những năm đầu của thế
kỷ 21 này dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuậtđã đưa lại
sự phát triển chưa từng có của các công ti xuyên quốc gia.
Các công ty xuyên quốc gia đã đóng vai trò rất lớn trong việc tăng mức
xuất khẩu, gia tăng mạnh mẽ vốn đầu tư trực tiếp nứoc ngoài vào các nước
đang phát triển đẩy mạnh tiến trinhf hội nhập của nền kinh tế này vào nền
kinh tế thế giới nói chung.

Như vậy sự phát triển và xâm nhập ngày càng mạnh của các công ty
xuyên quốc gia vào các nền kinh tế dân tộc đã góp phần xoá bỏ sự ngăn cách
biệt lập trong phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc gia dân tộc
từng bước thamm gia, thích ứng với các chuẩn mực của nền kinh tế quốc tế
4


đồng thời nó cũng đem lại nét mới từ những bản sắc riêng, bổ sung vào nền
kinh tế toàn cầu làmm gia tăng tính đa dạng của nó.
Năm là, Sự hình thành và phát triển của các định chế toàn cầu và khu
vực.
Các định chế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc tế
hoá, toàn cầu hoá kinh tế. Sự tồn tại và hoạt động của các định chế toàn cầu
và khu vực lại góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của xu thế toàn cầu
hoá.
Tác động của các tổ chức toàn cầu và đặc biệt là các tổ chức khu vực đến
xu thế toàn cầu hoá kinh tế thể hiện ở hai điểm chính:
Thứ nhất, việc tham gia vào các tổ chức này cho phép các quốc gia đựoc
hưỏng những ưu đãi của hoạt động kinh doanh khu vực; thúc đẩy các quốc gia
trong khu vực tiến đến những chuẩn mực chung trong quá trình sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở các thoã thuận hợp tác song phương và đa
phươngđã làm tăng lên sự gắn bó tuỳ thuộc lân nhau giữa các nền kinh tế,
thực chất nó đã thúc đẩy phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc trong
nội bộ tổ chức.
Thứ hai hoạt động của các tổ chức này từ thấp đến cao sẽ đẩy đến hình
thành một thị trường thống nhất trong khu vực buộc các quốc gia tham gia
phải có lịch trình hội nhập tích cực để hoà đồng vào khu vực.
Nói tóm lại các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực vừa là kết quả vừa là
động lực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Sáu là, Vai trò của chính phủ và sự chuyển đổi trong chính sách phát

triển.
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu song tốc độ của toàn cầu hoá phụ
thuộc rất nhiều vào chính sách của các quốc gia. Sau chiến tranh thế giới thứ
nhất thì việc đóng cửa đất nước không giao lưu thông thương với nưocs ngoài
của các quốc gia đã làm cho lưu thông quốc tế bị hạn chế nền kinh tế thế giới
suy thoái mạnh.Nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ haithì các quốc gia phát
5


triển đã nhận thấy vấn đề cần phải tự do háo thương mại, giảm các hàng rào
thuế quan nhằm bành trướng thế lực ra bên ngoài. Và cho đến naythì hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều tiến hành cải cách mở cửa, thực hiện tư nhân
hoá và tự do hoá mở ra không gian mới cho sự gia tăng xu thế toàn cầu hoá.
Đặc biệt trong quá trình cải cách nhiều quốc gia đã chuyển hướng phát triển
kinh tế từ hướng nội sang hướng ngoại mà cốt lõi là chuyển từ công nghiệp
hoá thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Với chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu buộc các quốc gia
phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế không chỉ phải
dựa vào nhu cầu bên trong mà phải căn cứ vào nhu cầu thị trường thế giới,
sản xuất sản phẩm và dịch vụ phù hợp với yêu cầu chuẩn mực của thị trường
quốc tế. Muốn vậy đòi hỏi các quốc gia phải mở cửa nền kinh tế, cho nhập
các thành tựu công nghệ, thu hút vốn đầu tư để xây dựng và phát triển một cơ
cấu ngành kinh tế phù hợp. Như vậy với chiến lược hướng về xuất khẩu, trên
thực tế đã đẩy đến xu thế gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, giữa
các nền kinh tế thông qua thực hiện phân công lao động quốc tế dựa trên thế
mạnh của từng nền kinh tế đân tộc.
Ngoài những nhân tố đã nêu trên thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu
hoá trong những năm gần đây chúng ta còn có thể kể đến một số nhân tố khác
xem như xung lực đẩy mạnh thêm cho xu thế toàn cầu hoá. Đó là sự phát triển
về dân chủ, văn hoá...

b. Quá trình diễn ra toàn cầu hoá kinh tế.

6


Toàn cầu hóa kinh tế khởi nguồn từ trao đổi thương mại, dần dần phát
triển sang nhiều lĩnh vực khác như sản xuất, dịch vụ, đầu tư, môi trường, xã
hội. Nó thu hút tất cả các nền kinh tế của các quốc gia, không phân biệt giàu,
nghèo, phát triển hay chưa phát triển, quốc gia lớn và cả quốc gia bé, các
nước có chế độ chính trị khác nhau.
Toàn cầu hóa kinh tế làm cho các mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia
gắn bó với nhau, phụ thuộc vào nhau, tác động lẫn nhau. Thông qua toàn cầu
hóa mà nền kinh tế các nước tạo ra những lợi thế mới để thúc đẩy lực lượng
sản xuất, kỹ thuật công nghệ phát triển từ đó làm cho nền kinh tế của từng
nước có thể vượt qua các thế yếu của mình mà tạo ra lợi thế mới và thế mạnh
mới. Nhưng ngược lại toàn cầu hóa cũng có thể làm cho nền kinh tế của từng
nước, từ chỗ có lợi thế so sánh, từ chỗ có thế mạnh lại trở thành nền kinh tế
yếu kém, không có lợi thế, nếu bỏ lỡ thời cơ.
Toàn cầu hóa kinh tế cũng dẫn đến xu thế khu vực hóa kinh tế. Khu vực
hóa kinh tế thực chất là sự tập hợp lực lượng của các nền kinh tế khu vực để
hỗ trợ nhau tạo ra sức mạnh của từng khu vực kinh tế thích ứng với toàn cầu
hóa kinh tế. Hiện tượng này chính là sự thể hiện sinh động, đa dạng mà thống
nhất của toàn cầu hóa. Chúng ta có thể kể ra đây rất nhiều khu vực kinh tế
như : ASEAN, Đại Tây Dương, EU, Bắc Phi, APEC, FTAA, Ấn Độ Dương ...
Xu thế toàn cầu hóa kinh tế được thể chế hóa thành nhiều văn bản mang
tính quốc tế như các công ước, hiệp định quốc tế và được tổ chức thành các tổ
chức kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ. Đây là một quá trình đấu tranh
gay gắt kéo dài của các nền kinh tế của các quốc gia, giữa nước nghèo và
nước giàu nhằm vừa bảo vệ lợi ích kinh tế của quốc gia mình vừa hòa thuận
để cùng phát triển, cạnh tranh và sinh tồn.

1.3. Những mặt tích cực tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế
Nhìn ở góc độ tích cực, toàn cầu hóa với những áp lực của nó sẽ thúc
đẩy các quốc gia tăng cường, củng cố hơn nữa vai trò, vị trí của mình để
chống chọi lại với sự cạnh tranh khốc liệt trên các phương diện đời sống
7


chính trị, kinh tế xã hội. Nhà nước với quyền lực to lớn của mình sẽ điều
chỉnh, sửa đổi những chế định pháp luật, những đường lối, chính sách…cho
phù hợp với xu thế chung của thế giới. Trong lĩnh vực kinh tế, để phù hợp với
nền kinh tế chung của thế giới, nước ta đã tiến hành đàm phán, ký kết các
điều ước, các hiệp ước quốc tế, các hiệp định song phương, đa phương với
các quốc gia khác để hình thành nên hành lang pháp lý, những cách xử sự
chung cho các quốc gia trong hoạt động kinh tế. Để gia nhập WTO, Việt Nam
đã phải đàm phán, ký kết rất nhiều hiệp định như: Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại 1994 (GATT 1994), Hiệp định chung về Thương mại
Dịch vụ (GATS), Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của
Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPS), Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan
đến Thương mại (TRIMS), Hiệp định về Nông nghiệp (AoA), Hiệp định về
Hàng Dệt may (ATC), Hiệp định về Chống bán Phá giá...Trong khuôn khổ
khu vực và quốc gia, nước ta đã tiên hành đàm phán, ký kết nhiều hiệp định
để thỏa thuận cách xử sự chung, hợp lý, có lợi cho các bên trong hoạt động
kinh tế.
Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan đối với tất cả các nước trên
thế giới. Tính tất yếu khách quan của Toàn cầu hóa kinh tế được thúc đẩy bởi
các tiến bộ mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc
biệt là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa kinh tế
có sức hấp dẫn vì nó làm cho nền kinh tế của các quốc gia nếu khéo vận dụng
trong chiến lược hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế của mình, được bổ sung
những yếu tố mới, hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả hơn, thúc

đẩy sự tăng trưởng kinh tế trong nước. Toàn cầu hóa kinh tế đang ngày càng
lôi cuốn nhiều dân tộc, quốc gia có trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị
- xã hội khác nhau tham gia. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay và trong
nhiều năm tới Toàn cầu hóa kinh tế chưa phải là công thức tối ưu cho tất cả
các quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa kinh tế chưa phải là môi trường tốt đẹp
mà vào đó ai cũng thắng, ai cũng có lợi như nhau và không ai phải trả giá. Xu
8


thế Toàn cầu hóa kinh tế diễn ra không trôi chảy, dễ dàng mà phải thông qua
quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa hai nhóm nước: các nước phát triển
và các nước đang phát triển, trong sự thống nhất và mâu thuẫn giữa Toàn cầu
hóa và liên kết khu vực, giữa tự do hóa và bảo hộ mậu dịch...
a. Tích cực
- Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy tự do hoá mậu dịch phát triển. Nhìn lại
tình hình buôn bán của các nước trên thế giới hiện nay, hầu như không còn
tồn tại tình trạng thị trường đơn nhất ngay cả ở cường quốc kinh tế phát triển.
Giờ đây, hầu như thị trường nội địa của các nước đều gắn với thị trường thế
giới, là bộ phận của thị trường thế giới. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước
cũng như ngành ngoại thương đóng vai trò rất lớn đối với tăng trưởng tổng
sản lượng quốc nội (GDP). Năm 2004, mức độ phụ thuộc của GDP Mỹ vào
ngành ngoại thương tới 25,9%, năm 2005, mức độ phụ thuộc của GDP Trung
Quốc với ngành ngoại thương và buôn bán đối ngoại tới 61%. Do tính phụ
thuộc vào ngành ngoại thương ngày càng cao, nên mức độ tự do hoá mậu dịch
của các nước trong khu vực Đông Nam Á cao hơn của các nước ở Mỹ Latinh.
Bởi vì, tới nay sự phát triển kinh tế của các nước Mỹ Latinh chủ yếu dựa vào
nội thu, trong khi nhân tố nhu cầu nước ngoài thấp hơn nhiều so với các nước
Đông Á.
b. Tiêu cực hay là mặt trái của quá trình toàn cầu hoá kinh tế
Những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa kinh tế bắt nguồn từ

nguyên nhân cơ bản là các nước công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ hiện còn
chiếm ưu thế trong nền kinh tế thế giới, thao túng quá trình toàn cầu hóa kinh
tế, lợi dụng quá trình toàn cầu hóa kinh tế để tăng cường bóc lột các nước
nghèo thu lợi nhuận độc quyền cao. Có thể nêu ra một số tác động tiêu cực
sau đây của quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
- Toàn cầu hóa kinh tế thông qua tự do hóa thương mại thường đem lại
lợi ích lớn hơn cho các nước công nghiệp phát triển vì sản phẩm của họ có
chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp, do đó có sức cạnh tranh cao dễ

9


chiếm lĩnh thị trường. Mặt khác, tuy nói là tự do hóa thương mại song các
nước công nghiệp phát triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ công khai
(như áp dụng hạn ngạch) hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động, môi
trường...). Tuy có chuyển giao công nghệ song các nước công nghiệp phát
triển thường không chuyển giao những thành tựu mới nhất mà thậm chí là
chuyển giao những công nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết giá trị vào các
nước chậm phát triển. Điều này tác động xấu đến sự phát triển kinh tế ở các
nước chậm phát triển và dẫn đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế ở các nước
này.
- Toàn cầu hóa kinh tế tác động trực tiếp đến lĩnh vực chính trị và an
ninh quốc gia. Nó tạo ra nguy cơ cho các nước chậm và đang phát triển bị lệ
thuộc vào kinh tế, từ đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị, gây nguy hại đến chủ
quyền dân tộc và an ninh quốc gia. Thông qua con đường trao đổi, hợp tác
kinh tế, đầu tư, viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hóa, các
thế lực đế quốc đứng đầu là Mỹ muốn áp đặt hệ tư tưởng tư sản vào các nước
khác, thực hiện "diễn biến hòa bình" thay đổi chế độ xã hội theo hướng thân
phương Tây. Đối với các nước XHCN, chúng tìm cách xóa bỏ chế độ XHCN
và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản...

- Toàn cầu hóa kinh tế làm trầm trọng thêm những bất công xã hội, làm
sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Những
nước được hưởng lợi nhiều nhất trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế là những
nước có nền kinh tế thị trườngphát triển (Mỹ, EU, Nhật...), những nước chịu
nhiều thiệt thòi nhất trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế là những nước có
nền kinh tế đang và chậm phát triển, các yếu tố của kinh tế thị trường chưa
được hình thành đồng bộ.
1.4. Kết luận chung về toàn cầu hoá
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu của thế giới vì vậy không có một
quốc gia nào có thể đừng ngoài xu thế đó và nước ta cũng không ngoại lệ.
Toàn cầu hóa tác động vừa tiêu cực, vừa tích cực lên mọi mặt của đời sống
10


kinh tế xã hội. Điều qua trọng là chúng ta phải biết tận dụng thời cơ thuận lợi
đồng thời khắc phục những hạn chế, mặt trái của toàn cầu hóa để phát triển
đất nước, nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Nhận rõ mặt tích cực và mặt hạn chế của toàn cầu hóa kinh tế, tất cả các
quốc gia đều phải biết chủ động để bơi theo dòng chảy, nếu không sẽ bị vùi
lấp và nhấn chìm. Hiện nay các nước chậm phát triển đã và đang tập hợp để
đấu tranh chống o ép, chống lại sự đè nén của các nước lớn, cố gắng bằng mọi
cách giành lấy từng phần quyền lợi cho dân tộc, đất nước mình. Từ đó cho
thấy sự đoàn kết đấu tranh quốc tế của những người nghèo, của các quốc gia
nghèo trên thế giới cũng như từng khu vực hơn lúc nào hết, giờ đây được đặt
ra một cách khẩn thiết.
Trình độ vận dụng, mức độ khai thác mặt tích cực của toàn cầu hóa kinh
tế, khả năng hạn chế mặt tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế ở từng nước rất
khác nhau. Tất cả đều phụ thuộc vào chính chủ quan của mỗi nước, đó là bản
lĩnh vững vàng của mỗi dân tộc. Vai trò và khả năng của Đảng cầm quyền và
sự quản lý của nhà nước ở mỗi quốc gia. Ở đây nổi trội lên là sự chủ động,

sáng tạo trong đường lối, chính sách phát triển, chiến lược và chiến thuật dẫn
dắt nền kinh tế của từng quốc gia.

11


Chương II. Hội nhập Quốc tế và tính tất yếu của hội nhập.
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt
của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu
rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự
hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền
kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự
phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới
như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu
hoá đem lại.
Bất cứ một quốc gia nào, khi đặt mục tiêu xây dựng nền kinh tế phát
triển nhanh và mạnh thì quốc gia đó đồng thời phải xây dựng một hệ thống
thanh toán hiện đại với những tiêu chuẩn cao về mức độ an toàn, bảo mật,
nhanh chóng chính xác… Để đáp ứng được những tiêu chuẩn này, việc sử
dụng một hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt là bước đầu tiên để tiến
tới xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử giữa ngân hàng, doanh nghiệp,
cá nhân, Chính phủ cũng như các thành phần kinh tế khác”.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố
gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu
nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế
Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nứoc mà đi ngược với xu
hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước
đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát

triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập
kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong
quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời

12


cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu,
thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên
tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được
môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ
cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất
nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách.
Nhưng theo chủ trương của Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước “, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội
nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam.
2.1. Điều kiện để Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố
gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu
nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế
Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nước mà đi ngược với xu
hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước
đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát
triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt… thì việc chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ
hết. Trong xu hướng chung đó, Việt Nam có nguồn nội lực dồi dào đủ mạnh
đề có thể đẩy mạnh phát triển nền kinh tế quốc gia và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế.
2.2. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam
a). Quan điểm, mục tiêu của đảng về hội nhập kinh tế quốc tế

Quan điểm
Nhận thức được xu thế và yêu cầu chung về toàn cầu hoá của thời đại,
đại hội VI của Đảng (12/1996) trong khi ký quyết định chuyển từ mô hình
kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN; thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải
tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao đông quốc tế, tích cực phát
13


triển quan hệ kinh tế và khoa học kĩ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và
tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Trong nghị quyết 07, Bộ Chính Trị đã nêu ra quan điểm chỉ đạo về chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế .
+ Quán triệt chủ trương được xác định tại đại hội Đảng IX: Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao, hiệu quả hợp tác kinh tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng
XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc, bảo vệ môi trường.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp toàn dân, quá trình vừa hợp tác
vừa đấu tranh; vừa đề phòng tư tưởng thụ động vừa phải chống tư tưởng đơn
giản, nôn nóng...
+ Đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý phù hợp với trình độ phát triển của
đất nước.
Mục tiêu
Bộ Chính Trị: “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị
trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN; thực hiện dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, trước mắt là thực hiện kế hoạch
nhiệm vụ đưa ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và kế
hoạch 5 năm 2001 – 2005.”

b). Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế
Để thực hiện những mục tiêu theo những quan điểm trên, chính phủ đã
ban hành những chính sách nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập.
+ Nhà nước ban hành hệ thống luật đồng bộ bao gồm: luật đầu tư, luật
lao động, luật thương mại, luật ngân hàng, luật hải quan, luật bưu chính viễn
thông, luật xây dựng, luật khoa học công nghệ, luật tài nguyên...Sửa đổi và bổ
sung pháp luật và pháp lệnh hiện hành về thuế, khuyến khích đầu tư trong
14


nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam...Cải tiến việc ban hành văn bản
pháp luật...
+ Đối với những chính sách: Nhà nước ban hành chính sách thương
mại, tài chính, tiền tệ, đầu tư...để kích thích mở rộng thị trường, nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp...tạo điều kiện cho nước ta hội nhập
kinh tế quốc tế.
c). Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Con Đường hội nhập.
Theo quan điểm của đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần
dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Một lộ trình “ quá nóng” về mức độ
%, thời hạn mở của thị trường vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế
sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát
của nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Tuy nhiên, điều đó không
có nghĩa là lộ trình càng dài càng tốt, bởi kéo dài quá trình hội nhập sẽ đi liền
với duy trì quá lâu chính sách bảo hộ bao cấp của nhà nước, gây tâm lý trì trệ,
ỷ lại, không dốc sức cải tiến quản lý công nghệ, kéo dài tình trạng kém hiệu
quả, yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng. Đây không chỉ là xác định
thời gian mở cửa thị trường trong nước mà còn là xác định mục tiêu nền kinh

tế nước ta: phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên
thương trường quốc tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường các nước cả
về hàng hoá và đầu tư dịch vụ.
Tháng 12/1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại các quan hệ với quỹ tiền tệ
quốc tế và ngân hàng tài chính thế giới, đến tháng 10/1993 đã bình thường
hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính tiền tệ lớn nhất thế giới.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam từ đổi mới đến nay

15


Hoạt động của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
luôn luôn là một chủ đề nóng hổi bởi vì trước hết các doanh nghiệp là nền
tảng của nền kinh tế quốc gia và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trực tiếp
tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp. Việc nắm vững các cam kết hội
nhập hiện nay của ta và nhìn thấy trước triển vọng của tiến trình này trong
tương lai có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp, bởi vì nó là cơ sở
để các doanh nghiệp định hướng chiến lược phát triển và kế hoạch hoạt động
phù hợp với tình hình đan xen giữa những cơ hội và thách thức, đặc biệt là sự
cạnh canh ngày càng tăng từ nhiều phía và ngay cả trên thị trường trong nước.
Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thực sự bắt đầu cùng
với sự nghiệp đổi mới được Đại hội Đảng lần thứ 6 khởi xướng. Đây là quá
trình từng bước tiến hành tự do hoá các hoạt động kinh tế, mở cửa thị trường
và tham gia vào các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và thế giới. Điều này có
nghĩa là chúng ta từng bước tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các
hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế kinh tế mới dựa trên những
nguyên tắc của thị trường có định hướng XHCN, mở cửa và tạo thuận lợi cho
các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn, giảm và đi đến xoá bỏ các hàng rào
thuế quan và phi quan thuế và các rào cản khác để việc trao đổi hàng hoá,

dịch vụ, vốn, công nghệ, nhân công… giữa Việt Nam và các nước được dễ
dàng, phù hợp với những quy định của các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và
thế giới mà Việt Nam tham gia.
Đồng thời việc đổi mới kinh tế trong nước, mở rộng và phát triển quan
hệ kinh tế-thương mại với các nước (đến nay, nước ta đã ký kết trên 70 hiệp
định thương mại song phương, trong đó đáng chú ý nhất và toàn diện nhất là
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ ký năm 2001), Việt Nam đã lần lượt tham gia
vào nhiều tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế.

16


Chương III. Tỉnh Hải Dương đã làm gì để hội nhập kinh tế quốc tế
sau khi Việt Nam gia nhập WTO?
3.1. Chủ trương chung
Ngay sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) vào tháng 01/2007. Tại Hội nghị lần thứ 4 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tháng 02/2007, Đảng ta đã ban hành
Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương chính sách lớn để nền kinh
tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới”. Để triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng, Chính
phủ đã có Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ban hành Chương trình hành động
cụ thể hóa các nhóm nhiệm vụ lớn của Nghị quyết số 08-NQ/TW. Sau hơn 5
năm triển khai thực hiện, ngày 14/8/2012 Hội nghị toàn quốc đánh giá thực
hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết 16/2007/NQ-CP đã được tổ
chức tại Hà Nội dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ. Hội nghị đánh giá,
hầu hết các nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số
16/2007/NQ-CP đều đã được hoàn thành, góp phần vào phát triển kinh tế - xã
hội chung của cả nước, với một số điểm nổi bật như: Đã hình thành được một
hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với các quy định của

WTO; Nhận thức chung về chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và
Nhà nước đã được nâng lên; Các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cơ bản
được hoàn thành; Kinh tế vĩ mô dần đi vào ổn định, bước đầu tạo được lòng
tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước; An sinh xã hội được đảm bảo và
duy trì được ổn định chính trị và ổn định xã hội...
Về phía tỉnh Hải Dương, kết quả triển khai thực hiện các Nghị quyết trên
cũng đã đạt được những kết quả bước đầu, góp phần tích cực vào phát triển
kinh tế - xã hội tại địa phương, tiêu biểu như: Tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân đạt trên 9%/năm; Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; Thị
trường xuất nhập khẩu ngày càng được mở rộng; Thu hút mạnh mẽ đầu tư
nước ngoài; An ninh chính trị được giữ vững và Đời sống nhân dân được đảm
17


bảo. Trong giai đoạn tới, Việt Nam nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng
bước vào giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh khu vực và quốc tế có nhiều
thay đổi. Để tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác hội nhập kinh tế
quốc tế trên địa bàn tỉnh, góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội trong
những năm tới chúng ta cần tích cực triển khai một số nhóm giải pháp:
3.2. Giải pháp thực hiện.
a). Nhóm giải pháp chung:
Cải thiện và nâng cao chất lượng tăng trưởng, hiệu quả đầu tư, khuyến
khích tiết kiệm, thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế vào đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng. Triển khai thực hiện tốt các chương trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn và nông dân, đặc biệt là đẩy nhanh tiến độ thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư vốn trong nước cần đổi
mới cách tư duy, quan niệm và có quan điểm về thu hút các dự án đầu tư nước
ngoài, đầu tư vốn trong nước; gắn kết giữa thu hút đầu tư với việc kiểm tra
giám sát trong quá trình hoạt động; từng bước loại bỏ những dự án đầu tư

nước ngoài và các dự án có vốn đầu tư trong nước đem lại hiệu quả kinh tế xã hội thấp, gây ô nhiễm môi trường. Khuyến khích các dự án đem lại hiệu
quả kinh tế - xã hội, có trình độ khoa học kỹ thuật cao, thu hút nhiều lao động
và đảm bảo môi trường. Xây dựng và tổ chức triển khai tốt các chính sách
khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ thu hút các dự án đầu tư vào những vùng nông
thôn, đặc biệt là các dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, chế biến hàng nông
sản thực phẩm, phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư và xúc tiến thương mại, nhất là đối
với đầu tư và phát triển thị trường trực tiếp nước ngoài; đặc biệt là thu hút đầu
tư đối với các đối tác trọng điểm có công nghệ tiên tiến như: EU, Nhật Bản,
Mỹ… Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, quán triệt nhận thức về hội
nhập kinh tế quốc tế trong toàn đảng, toàn dân; đa dạng hóa các hình thức và
nội dung thông tin truyền thông cho phù hợp với từng đối tượng. Đẩy mạnh
18


việc nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý và công tác
chuyên môn liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới hội nhập kinh tế quốc tế
trong giai đoạn tới.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức và ý thức trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh đối với công tác hội nhập
kinh tế quốc tế. Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức
đồng thời củng cố tổ chức làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong việc triển khai thực hiện các
chương trình, kế hoạch để thực hiện công tác hội nhập kinh tế quốc tế; bên
cạnh đó phải thường xuyên theo dõi, đánh giá kết quả đạt được của tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế, kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc để có
những giải pháp điều chỉnh bổ sung cho phù hợp.
b). Nhóm giải pháp ngành và doanh nghiệp:
Đẩy mạnh việc nâng cao năng lực cạnh tranh của tất cả các ngành kinh tế
trong tỉnh, đặc biệt là các ngành có năng lực cạnh tranh thấp. Đối với các mặt

hàng xuất khẩu chủ lực, cần tăng cường chính sách hỗ trợ xuất khẩu và
chuyển dần từ gia công sang sản xuất trực tiếp và xuất khẩu.
Tăng cường chính sách thúc đẩy tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong
các ngành thông qua cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ
khoa học kỹ thuật, cải tiến mẫu mã sản phẩm... Tuyên truyền, vận động,
khuyến khích các doanh nghiệp trong tỉnh khai thác tối đa thị trường trong
tỉnh, trong nước; tận dụng các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế để thâm
nhập, mở rộng ra các thị trường nước ngoài. Tăng cường các hoạt động liên
doanh, liên kết có chọn lọc với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Chú trọng, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho
sản xuất công nghiệp trong tỉnh, giảm dần phụ thuộc vào các nguồn nguyên
liệu nhập khẩu. Từng bước xây dựng mạng lưới phân phối ổn định, xuyên
suốt tới tận người tiêu dùng; lựa chọn tham gia các hội chợ, triển lãm thương
mại do các đơn vị, tổ chức thực hiện trong tỉnh, trong nước và ngoài nước để
19


quảng bá sản phẩm của mình, mở rộng thị trường tiêu thụ. Tâp trung đầu tư
có trọng tâm, trọng điểm; tập trung vào các sản phẩm có thế mạnh, bên cạnh
đó cần tìm kiếm nguồn cung nguyên liệu trong nước để có thể thay thế dần
nguyên liệu nhập khẩu. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần đa dạng hóa
nguồn vốn vay như huy động từ các tổ chức, thành phần trong xã hội, liên
doanh liên kết để cùng nhau hội nhập và phát triển.
c). Nhóm giải pháp xã hội:
Tập trung phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội, nhất là đào tạo nguồn nhân lực lao động trẻ có tay nghề giỏi, trình
độ khoa học kỹ thuật để thu hút các dự án có trình độ công nghệ cao, giá trị
gia tăng lớn. Tăng cường các chính sách đào tạo nghề cho lao động khu vực
nông thôn, trước mắt đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất để xây
dựng phát triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động, cải

thiện thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân. Tiếp tục tập trung phát triển thị
trường lao động, đặc biệt là khu vực nông thôn, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh
các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án, chính sách đã ban hành để
giảm nghèo bền vững, ổn định đời sống nhân dân trên địa bàn tỉnh. Tăng
cường các chính sách đảm bảo cuộc sống cho các hộ dân khi nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp.
d) Nhóm giải pháp thể chế:
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản pháp quy đảm bảo phù
hợp với tình hình thực tế tại địa phương và các văn bản của Trung ương. Đẩy
nhanh và nâng cao chất lượng cải cách thủ tục hành chính theo hướng minh
bạch, thông thoáng, loại bỏ các thủ tục không cần thiết, đặc biệt là các thủ tục
liên quan đến doanh nghiệp. Nâng cao năng lực và tính chuyên nghiệp của
các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó cần nâng cao trình độ chuyên
môn và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức trong
việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn.

20


Tăng cường minh bạch các loại thông tin, nhất là các thông tin liên quan
đến doanh nghiệp, người dân. Tăng cường xây dựng mối quan hệ phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh; giữa các cơ
quan quản lý nhà nước các cấp với nhau; giữa các cơ quan quản lý và cộng
đồng doanh nghiệp, cộng đồng dân cư./

21


KẾT LUẬN
Đường lối đổi mới đã đưa đất nước ta vào một thời kỳ mới, thời kỳ mở

rộng quan hệ quốc tế theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá, đẩy
mạnh hội nhập với thế giới. Hoà vào xu thế chung của đời sống quốc tế, Việt
Nam tích cực và chủ động tham gia tiến trình hội nhập quốc tế nhằm đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh.
Qua nội dung trình bày trên, có thể thấy rõ là cơ hội và thách thức là
hai mặt của qúa trình toàn cầu hoá. Như vậy thì: ai là người đóng vai trò điều
tiết hai mặt trên trong quá trình hội nhập quốc tế và làm thế nào để tranh thủ
tận dụng các cơ hội và đối phó với những thách thức? Chúng tôi nghĩ rằng
không ai khác mà chính là Nhà nước phải phát huy vai trò và hiệu quả trong
quản lý vĩ mô. Và trong tiến trình hội nhập cần quán triệt những quan điểm,
nguyên tắc của Đảng về hội nhập mà cốt lõi là hội nhập quốc tế nhưng giữ
vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Bằng các bước đi vững
chắc chúng ta đang từng bước tiến vào thị trường thế giới, và đang trở thành
một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thế giới. Qua thực tiễn 20 năm
đổi mới đã chứng minh con đường đổi mới theo hướng hội nhập kinh tế quốc
tế của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng. Tuy còn một số hạn chế trong
khi thực hiện, nhưng về căn bản đã đưa nước ta từ một nền kinh tế tập trung
bao cấp kém phát triển, trở thành một nền kinh tế thị trường đang trên đà phát
triển mạnh mẽ.

22


Danh mục tài liệu tham khảo
- Giáo trình triết học Mác – Lênin / NXB Chính Trị Quốc Gia
- Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin / NXB Chính Trị Quốc Gia
- Văn kiện đại hội đảng VI, VII,VIII, IX, X
- Bài tham luận: “đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - vấn đề
giải pháp” – Thứ trưởng bộ thương mại: Lương Văn Tư

- Bài tham luận: “Hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam” – PGS.TS Trần
Nguyễn Tuyên.
- “Tác động của việc gia nhập các tổ chức thương mại thế giới và hội
nhập kinh tế quốc tế đến phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam – Một năm
nhìn lại” – Bộ trưởng bộ thương mại: Trương Đình Tuyển
- “Hội nhập kinh tế quốc tế với phát triển bền vững” – Lê Thế Giới, Võ
Xuân Tiến, Trương Bá Thanh / NXB hành chínhh quốc gia
- “Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” – Ngô Văn
Điểm / NXB Chính Trị Quốc Gia
- “Toàn cầu hoá, tăng trưởng và nghèo đói: Xây dựng một nền kinh tế
thế giới hội nhập” : sách tham khảo/ Vũ Hoàng Linh dịch / NXB Văn Hoá
Thông Tin
- Tạp chí cộng sản số 34/2002, 65/2002, 12/2007, 785/2008
- Tổng cục thống kê Việt Nam
- Website Sở Công Thương Hải Dương:

23


MỤC LỤC

24



×