Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thực trạng và giải pháp xây dựng nông thôn mới ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 83 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THANH BÌNH

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI TẠI HUYỆN ĐIỆN BIÊN,
TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Thái Nguyên - 2016


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nông thôn mới (NTM) là bước đầu tiên để tiến tới công nghiệp
hóa và hiện đại hóa. Hội nghị lần thứ 7 của ban chấp hành trung ương Đảng
khóa X đã ban hành nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 về vấn đề nông
nghiệp, nông dân và nông thôn. Nghị quyết đã xác định mục tiêu xây dựng nông
thôn mới đến năm 2020. Ngày 16/4/2009, Thủ Tướng Chính phủ đã có quyết
định số 491/QĐ-TTg ban hành bộ tiêu chí quốc gia (bao gồm 19 tiêu chí) về
nông thôn mới. Đây là cơ sở để chỉ đạo xây dựng mô hình nông thôn mới nhằm
thực hiện các mục tiêu quốc gia về nông thôn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước [20].
Xây dựng NTM là mục tiêu quốc gia, là vấn đề lớn, nhằm tạo ra sự
chuyển biến về mọi mặt trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng


cao chất lượng sống của người dân, đồng thời cũng là để rút ngắn khoảng cách
giữa nông thôn và thành thị. Trong quá trình đó, thực hiện chủ trương của đảng
về phát triển nông thôn, Bộ NN - PTNT đã phối hợp với các địa phương tiến
hành xây dựng thí điểm một số mô hình nông thôn mới ở quy mô xã, thôn, ấp,
bản. Nhưng do nhận thức chưa thống nhất, chỉ đạo, đầu tư còn phân tán cho nên
kết quả đạt được còn hạn chế. Đối chiếu với yêu cầu, mục tiêu xây dựng giai cấp
nông dân, phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM trong thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH theo chủ trương của đảng, Nhà nước ta thì việc xây dựng nông thôn mới
hiện nay còn rất nhiều vấn đề khó khăn đặt ra cần phải giải quyết.
Tại tỉnh Điện Biên, trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh
đã tích cực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, quan tâm chú trọng
đầu tư nhiều cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn, trong đó lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện gắn liền với việc xây dựng nông thôn mới, chính quyền và nhân
dân các địa phương tích cực hưởng ứng, thực hiện phong trào xây dựng nông
thôn mới. Huyện Điện Biên là là một trong những địa phương đã tích cực hưởng


3

ứng và thực hiện chủ trương, phong trào xây dựng nông thôn mới sớm so với
nhiều huyện trong tỉnh. Kết quả đạt được đã dần góp phần làm thay đổi diện
mạo nông thôn. Tuy nhiên, sau 5 năm triển khai thực hiện Chương trình NTM
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện còn chậm, hạ tầng kinh tế - xã hội nông
thôn chưa được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo còn cao (chiếm 14,56%), thu nhập bình
quân đầu người thấp (đạt 12,5 đồng/người/năm), mức độ đạt được so với các
tiêu chí NTM còn thấp (bình quân đạt 7,6 tiêu chí/xã, huyện mới chỉ có 01 xã
đạt chuẩn NTM)... Nguyên nhân đó là: xuất phát điểm các xã còn thấp, việc
triển khai còn lúng túng, hạ tầng KT - XH cũ, xuống cấp, nhu cầu kinh phí đầu
tư xây dựng lớn, việc huy động nguồn kinh phí đầu tư trong xây dựng nông thôn
mới khó khăn, vai trò tham gia của cộng đồng còn hạn chế, tiến độ triển khai
thực hiện chưa đảm bảo yêu cầu, việc xây dựng NTM tại một số xã còn dàn trải,

kém hiệu quả...
Xuất phát từ những yêu cầu về phát triển nông thôn mới và giải quyết
những khó khăn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải
pháp xây dựng nông thôn mới ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên”.
2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn mới tại huyện Điện Biên, tỉnh
Điện Biên.
- Phân tích những thuận lợi khó khăn, cơ hội và thách thức trong quá trình
xây dựng nông thôn mới ở huyện Điện Biên.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng
nông thôn mới tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
3. Ý nghĩa của đề tài

- Kết quả nghiên cứu của đề tài xác định được những thành công, bất cập
trong quá trình triển khai thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới”, đề xuất các giải pháp có tính khả thi góp phần thúc đẩy
quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Điện Biên nói chung. Vì vậy, đây là
luận cứ khoa học phục vụ cho sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quản lý của huyện


4

Điện Biên và UBND các xã Mường Phăng, Thanh Chăn, xã Thanh Xương trong
việc thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới”
của Đảng và Nhà nước.
- Đề tài góp phần quan trọng trong việc đánh giá quá trình xây dựng nông
thôn mới và đề xuất các giải pháp có cơ sở khoa học góp phần đẩy mạnh quá
trình xây dựng Nông thôn mới ở huyện Điện Biên đảm bảo nhanh và bền vững.



5

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lý luận của xây dựng nông thôn mới
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Nông thôn
Hiện nay trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về nông thôn. Có
quan điểm cho rằng cần dựa vào chỉ tiêu phát triển cơ sở hạ tầng, có nghĩa vùng
nông thôn có cơ sở hạ tầng không phát triển bằng vùng đô thị. Quan điểm khác
lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường phát triển hàng hóa
và khả năng tiếp cận thị trường. Một số quan điểm khác nêu ra, vùng nông thôn
là vùng có dân cư làm nông nghiệp là chủ yếu, tức là nguồn sinh kế chính của cư
dân trong vùng là sản xuất nông nghiệp. Những ý kiến này chỉ đúng khi đặt
trong bối cảnh cụ thể của từng nước.
Nông thôn là khái niệm chỉ hệ thống cộng đồng xã hội lãnh thổ được hình
thành trong quá trình phân công lao động xã hội mà ở đó dân cư tương đối thấp;
lao động nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao, mối quan hệ cộng đồng chặt chẽ; do
vậy, lối sống, phương thức sống của cộng đồng dân cư nông thôn khác biệt cộng
đồng dân cư thành thị (Nguyễn Chí Dũng, 2010) [14].
Như vậy, khái niệm về nông thôn chỉ có tính chất tương đối, thay đổi
theo thời gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia trên
thế giới. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, nhìn nhận dưới góc độ quản lý,
có thể hiểu nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có nhiều
nông dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã
hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của
các tổ chức khác (Nguyễn Văn Tâm, 2010) [15].
1.1.1.2. Phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn là một phạm trù rộng được nhận thức với rất nhiều
quan điểm khác nhau. Đã có nhiều nghiên cứu và triển khai ứng dụng thuật ngữ
này ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, thuật ngữ này được đề cập và có sự



6

thay đổi nhận thức qua các thời kỳ. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa có sự tổng hợp
lý luận về thuật ngữ này. Nhiều tổ chức phát triển quốc tế đã nghiên cứu và vận
dụng thuật ngữ này ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Phát triển là một quá trình làm thay đổi liên tục làm tăng trưởng mức sống
của con người và phân phối công bằng những thành quả trong xã hội.
Phát triển nông thôn là một chiến lược nhằm cải thiện các điều kiện sống
về kinh tế và xã hội của một nhóm người cụ thể - người nghèo ở vùng nông
thôn. Nó giúp những người nghèo nhất trong những người dân sống ở các vùng
nông thôn được hưởng lợi từ sự phát triển (Vũ Thị Bình, 2006) [23].
Trong điều kiện của Việt Nam tổng hợp các quan điểm từ các chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ, thuật ngữ này được hiểu như sau: Phát
triển nông thôn là quá trình cải thiện có chủ ý một cách bền vững về kinh tế, xã
hội, văn hóa và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân
nông thôn và có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và các tổ chức khác (Nguyễn
Văn Tâm, 2010) [13].
1.1.1.3. Nông thôn mới
Trong Nghị quyết số 26-NQ/TW đưa ra mục tiêu: Xây dựng nông thôn
mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các
hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông
thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được
bảo vệ; an ninh trật tự xã hội được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của
người dân ngày càng nâng cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, nông thôn mới trước tiên nó phải là nông thôn, không phải là thị
tứ, thị trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay, có
thể khái quát theo 5 nội dung cơ bản sau: Làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng

hiện đại; sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời
sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được nâng cao;


7

bản sắc văn hóa dân tộc được gìn giữ và phát triển; xã hội nông thôn an ninh tốt,
quản lý dân chủ [10].
Nông thôn mới chính là nông thôn tiến bộ, cơ sở hạ tầng đồng bộ, đời
sống văn hóa phong phú. Song, có điều không bao giờ thay đổi là nông thôn mới
cũng phải giữ được tính truyền thống, những nét đặc trưng nhất, bản sắc từng
vùng, từng dân tộc và nâng cao giá trị đoàn kết của cộng đồng, mức sống của
người dân.
Trước hết NTM phải là nơi sản xuất nông nghiệp, tạo ra các sản phẩm có
năng suất, chất lượng cao theo hướng sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó nông thôn
mới phải đảm nhận được vai trò gìn giữ văn hóa truyền thống dân tộc. Làng quê
nông thôn Việt Nam khác hẳn so với các nước xung quanh, ngay cả ở Việt Nam,
làng quê dân tộc Thái khác với dân tộc H’Mông, khác với dân tộc Êđê, Bana,
người Kinh. Nếu quá trình xây dựng NTM làm phá vỡ chức năng này là đi
ngược lại với lòng dân và làm xóa nhòa truyền thống văn hóa muôn đời của
người dân Việt Nam. NTM phải giữ được môi trường sinh thái hài hòa.
Mô hình nông thôn mới được quy định bởi các tính chất: Đáp ứng yêu cầu
phát triển; có sự đổi mới về tổ chức, vận hành và cảnh quan môi trường; đạt hiệu
quả cao nhất trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; tiến bộ hơn so
với mô hình cũ; chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ biến và vận dụng
trên cả nước. Như vậy, có thể quan niệm: Mô hình nông thôn mới là tổng thể
những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí
mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông thôn trong điều kiện hiện nay, là kiểu
nông thôn được xây dựng so với mô hình nông thôn cũ (truyền thống, đã có) ở
tính tiên tiến về mọi mặt (Phan Xuân Sơn, 2008) [18].

* Một số đặc trưng của mô hình nông thôn mới:
- Nông thôn là lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị
xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Uỷ ban nhân dân xã [11].
- Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại.


8

- Cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch.
- Xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc.
- Dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính
trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
- Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa [1].
Ngày 16/4/2009 Thủ tướng Chính Phủ đã ký Quyết định số 491/QĐ-TTg
về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới gồm 19 tiêu
chí áp dụng riêng cho từng vùng của Việt Nam. Bộ tiêu chí cụ thể hóa đặc tính
của xây dựng NTM thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH.
Bộ tiêu chí cũng là căn cứ để xây dựng nội dung chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng NTM, là chuẩn mực để xác lập kế hoạch phấn đấu đạt 19
tiêu chí nông thôn mới. Ngoài ra nó còn là căn cứ để chỉ đạo và đánh giá kết quả
thực hiện xây dựng NTM của các địa phương trong từng thời kỳ; đánh giá công
nhận xã, huyện, tỉnh đạt nông thôn mới [19].
1.1.2. Vai trò nông thôn mới trong phát triển kinh tế xã hội
1.1.2.1.Về kinh tế
Nông thôn có nền sản xuất hàng hóa mở, hướng đến thị trường và giao
lưu, hội nhập. Để đạt được điều đó, cơ sở hạ tầng của nông thôn phải hiện đại,
tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng sản xuất, giao lưu buôn bán, chăm sóc sức

khỏe cộng đồng.
Thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh, kích thích mọi người
tham gia vào thị trường, hạn chế rủi ro cho nông dân, điều chỉnh, giảm bớt sự
phân hóa giàu nghèo, chênh lệch về mức sống giữa các vùng, giữa nông thôn và
thành thị.


9

Phát triển các hình thức sở hữu đa dạng, trong đó chú ý xây dựng mới các
HTX theo mô hình kinh doanh đa ngành. Hỗ trợ các HTX ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ phù hợp với các phương án sản xuất, kinh doanh, phát
triển ngành nghề ở nông thôn.
Sản xuất hàng hóa với chất lượng sản phẩm mang nét độc đáo, đặc sắc
của từng vùng, địa phương. Tập trung đầu tư vào những trang thiết bị, công
nghệ sản xuất, chế biến nông sản sau thu hoạch vừa có khả năng tận dụng nhiều
lao động vừa đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
1.1.2.2.Về chính trị
Phát huy dân chủ với tinh thần tôn trọng pháp luật, gắn lệ làng, hương ước
với pháp luật để điều chỉnh hành vi con người, đảm bảo tính pháp lý, phát huy
tính tự chủ của làng xã.
Phát huy tối đa Quy chế dân chủ cơ sở, tôn trọng hoạt động của các hội,
đoàn thể, các tổ chức hiệp hội vì lợi ích cộng đồng, nhằm huy động tổng lực vào
xây dựng nông thôn mới.
1.1.2.3.Về văn hóa - xã hội
Tăng cường dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò tự chủ trong thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu.
1.1.2.4.Về con người
Xây dựng nhân vật trung tâm của mô hình NTM, đó là người nông dân

sản xuất hàng hóa khá giả, giàu có; là nông dân kết tinh các tư cách: công dân,
thể nhân, dân của làng, người con của các dòng họ, gia đình.
Có kế hoạch, chương trình, lộ trình xây dựng người nông dân nông thôn
thành người nông dân sản xuất hàng hóa trong kinh tế thị trường, thành nhân vật
trung tâm của mô hình nông thôn mới, người quyết định thành công của mọi cải
cách ở nông thôn.


10

Người nông dân và các cộng đồng nông thôn là trung tâm của mọi chiến
lược phát triển NN, NT. Đưa nông dân vào sản xuất hàng hóa, doanh nhân hóa
nông dân, doanh nghiệp hóa các cộng đồng dân cư, thị trường hóa nông thôn.
1.1.2.5.Về môi trường
Môi trường sinh thái phải được bảo tồn xây dựng, củng cố, bảo vệ. Bảo vệ
rừng đầu nguồn, chống ô nhiễm nguồn nước, môi trường không khí và chất thải
từ các khu công nghiệp để nông thôn phát triển bền vững.
Các nội dung trên trong cấu trúc vai trò mô hình nông thôn mới có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, tổ chức điều hành quá
trình hoạch định và thực thi chính sách, xây dựng đề án, cơ chế, tạo hành lang
pháp lý, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, tạo điều kiện, kích thích tinh thần.
Nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi và hoạch định chính sách.
Trên tinh thần đó, các chính sách kinh tế - xã hội ra đời tạo hiệu ứng tổng (Hồ
Văn Thông, 2005) [13].
1.2. Cơ sở thực tiễn xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Tình hình xây dựng nông thôn mới trên thế giới
1.2.1.1. Trung Quốc
Nông thôn Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nét tương đồng. Trung
Quốc đã thực hiện nhiều chính sách cải cách ở nông thôn. Đến năm 2009, thu
nhập bình quân của cư dân nông thôn lần đầu tiên đạt mức trên 5.000 NDT tăng

8,5% so với năm trước. Cũng trong năm 2009, Trung Quốc đầu tư làm mới và
sửa chữa khoảng 300.000 km đường bộ nông thôn; hỗ trợ trên 46 triệu người
nghèo đảm bảo đời sống tối thiểu; triển khai thí điểm ở 320 huyện về bảo hiểm
dưỡng lão xã hội nông thôn (Phạm Anh - Văn Lợi, 2011) [16].
Việc chỉ đạo của Chính phủ trước kia cũng theo kiểu mệnh lệnh hành
chính, nên việc thực hiện khá miễn cưỡng. Sau đó, việc thực hiện xây dựng
NTM linh hoạt hơn, dựa trên quy hoạch tổng thể (ngân sách nhà nước và địa
phương). Căn cứ tình hình cụ thể ở các địa phương, đặc điểm tự nhiên, xã hội,
để đưa ra chính sách, biện pháp thích hợp. Ngân sách nhà nước chủ yếu dùng


11

làm đường, công trình thủy lợi,… một phần dùng để xây nhà ở cho dân. Đối với
nhà ở nông thôn, nếu địa phương nào ngân sách lớn, nông dân chỉ bỏ ra một
phần, còn lại là tiền của ngân sách.
Nhà nước đầu tư nhiều hơn vào nông nghiệp. Đầu tiên là đầu năm 2006
Trung Quốc xoá bỏ thuế nông nghiệp đã tồn tại 2.600 năm, đã cắt 120 tỷ nhân
dân tệ (15 tỷ USD) gánh nặng thuế của nông dân. Việc xoá bỏ thuế làm cho
ngân sách các xã giảm nhiều, nhất là ở các vùng không có hoạt động phi nông
nghiệp. Ngân sách cho phát triển nông thôn tăng lên. Xây dựng một cơ chế để
công nghiệp và đô thị thúc đẩy phát triển nông thôn. Sự phân phối thu nhập quốc
dân sẽ được điều chỉnh để cho việc tiêu thụ thuế và đầu tư ngân sách và tài sản
cố định và tín dụng sẽ tăng cho nông nghiệp và nông thôn. Hỗ trợ từ vốn nhà
nước sẽ lớn và tăng liên tục. Phần lớn trái phiếu và vốn ngân sách sẽ đi về phát
triển nông thôn. Đặc biệt đầu tư để cải tiến sản xuất và điều kiện sống sẽ trở
thành một luồng ổn định để tăng vốn cho xây dựng. Năm 2005, Nhà nước đã chi
297,5 tỷ nhân dân tệ cho tam nông, năm 2006: 339,7 tỷ nhân dân tệ và năm
2007: 391,7 tỷ nhân dân tệ (Đào Thế Tuấn, 2008) [12].
Công cuộc cải cách nông thôn của Trung Quốc trải qua nhiều dấu mốc.

Trong đó, những mốc quan trọng là xóa bỏ công xã nhân dân; xác lập thể chế
kinh doanh hai tầng kết hợp, lấy kinh doanh bao thầu gia đình làm cơ sở; mở
cửa toàn diện thị trường nông sản; xóa bỏ thuế nông nghiệp, và thực hiện trợ cấp
trực tiếp cho nông dân. Trung Quốc thực hiện nội dung hai mở, một điều chỉnh
là mở cửa giá thu mua, thị trường mua bán lương thực; một điều chỉnh là chuyển
từ trợ cấp gián tiếp qua lưu thông thành trợ cấp trực tiếp cho nông dân trồng
lương thực.
Định hướng phát triển tài chính hỗ trợ tam nông ở Trung Quốc là nông
nghiệp hiện đại, nông thôn đô thị hóa và nông dân chuyên nghiệp hóa. Trong
chính sách tài chính, để tăng thu nhập cho nông dân, Trung Quốc tăng đầu tư hỗ
trợ về giá mua giống, hỗ trợ thu mua lương thực không thấp hơn giá thị trường,
mua máy móc thiết bị nông nghiệp và vốn. Cùng đó, Trung Quốc cũng tập trung


12

xây dựng cơ chế hướng nghiệp, đào tạo kỹ năng làm việc, đặc biệt là lao động
trẻ. Ngoài ra, bên cạnh giảm thu phí và thuế với nông dân, Trung Quốc còn có
chủ trương, đảm bảo trong vòng 3 năm xóa bỏ tình trạng các xã, thị trấn không
có dịch vụ tài chính tiền tệ cơ bản. Đồng thời, thúc đẩy việc mua đồ gia dụng, ô
tô, xe máy tại các xã, bằng cách nhà nước trợ cấp 13% trên tổng giá trị hàng hoá
khi nông dân mua sản phẩm do nhà nước định hướng (Phạm Anh - Văn Lợi,
2011) [16].
1.2.1.2. Hàn Quốc: Phong trào làng mới
Sau trận lụt lớn năm 1969, người dân Hàn Quốc phải tu sửa lại nhà cửa,
đường sá, ruộng vườn mà không có sự trợ giúp của chính phủ. Trong khi đi thị
sát tình hình dân chúng, Tổng thống Hàn Quốc lúc bấy giờ là Park Chung Hy
nhận ra rằng viện trợ của chính phủ cũng là vô nghĩa nếu người dân không nghĩ
cách tự cứu lấy mình. Hơn thế nữa, khuyến khích người dân tự hợp tác và giúp
đỡ nhau là điểm mấu chốt để phát triển nông thôn.

Những ý tưởng này chính là nền tảng của phong trào “Saemaul Undong”
được đích thân Tổng thống Park phát động vào ngày 22/4/1970. “Saemaul” theo
nghĩa tiếng Hàn là “sự đổi mới của cộng đồng” được ghép với “undong” có nghĩa
là một phong trào và cụm từ “Saemaul Undong” có nghĩa là phong trào đổi mới
cộng đồng. Vì phong trào bắt đầu từ nông thôn nên “Saemaul Undong” được hiểu
là “phong trào đổi mới nông thôn”. Sự ra đời kịp thời của “Saemaul Undong” vào
đúng lúc nông thôn Hàn Quốc đang trì trệ trong đói nghèo cần có sự bứt phá
mạnh mẽ và những kết quả khả quan đạt được ngay sau đó đã làm nức lòng nông
dân cả nước. Tới năm 1974, chỉ sau 4 năm phát động “Saemaul Undong”, sản
lượng lúa tăng đến mức có thể tự túc lương thực, phổ biến kiến thức nông nghiệp
đã tạo nên một cuộc cách mạng trong phương pháp canh tác, thu nhập một năm
của hộ nông dân (674 nghìn won tương đương 562 USD) cao hơn so với hộ ở
thành thị (644 nghìn won tương đương 537 USD). Vào năm 1980, bộ mặt nông
thôn có thể nói đã hoàn toàn thay đổi với đầy đủ điện, đường, nước sạch, công
trình văn hóa… “Saemaul Undong” từ một phong trào ở nông thôn đã lan ra


13

thành một phong trào đổi mới toàn xã hội Hàn Quốc (Phạm Xuân Liêm, 2011)
[17].
Bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kỳ diệu. Trong
8 năm từ 1971-1978, Hàn Quốc đã cứng hóa được 43.631km đường làng nối với
đường của xã, trung bình mỗi làng nâng cấp được 1.322m đường; cứng hóa
đường ngõ xóm 42.220km, trung bình mỗi làng là 1.280m; xây dựng được
68.797 cầu (Hàn Quốc là đất nước có nhiều sông suối), kiên cố hóa 7.839km đê,
kè; xây 24.140 hồ chứa nước và 98% hộ có điện thắp sáng. Đặc biệt, vì không
có quỹ bồi thường đất và các tài sản khác nên việc hiến đất, tháo dỡ công trình,
cây cối, đều do dân tự giác bàn bạc, thỏa thuận, ghi công lao đóng góp và hy
sinh của các hộ cho phong trào.

Nhờ phát triển giao thông nông thôn nên các hộ có điều kiện mua sắm
phương tiện sản xuất. Cụ thể là năm 1971 cứ 3 làng mới có 1 máy cày thì đến
năm 1975 trung bình mỗi làng đã có 2,6 máy cày, rồi nâng lên 20 máy vào năm
1980. Từ đó tạo phong trào cơ khí hóa trong sản xuất nông nghiệp, áp dụng công
nghệ cao, giống mới lai tạo đột biến, công nghệ nhà lưới, nhà kính trồng rau,
hoa quả đã thúc đẩy năng suất, giá trị sản phẩm nông nghiệp tăng nhanh. Năm
1979, Hàn Quốc đã có 98% số làng tự chủ về kinh tế.
Ông Le Sang Mu, cố vấn đặc biệt của Chính phủ Hàn Quốc về nông, lâm,
ngư nghiệp cho biết: Chính phủ hỗ trợ một phần đầu tư hạ tầng để nông thôn tự
mình vươn lên, xốc lại tinh thần, đánh thức khát vọng tự tin. Thắng lợi đó được
Hàn Quốc tổng kết thành 6 bài học lớn.
Thứ nhất, phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng
nông thôn phương châm là nhân dân quyết định và làm mọi việc “Nhà nước bỏ
ra 1 vật tư, nhân dân bỏ ra 5-10 công sức và tiền của”. Dân quyết định loại công
trình, dự án nào cần ưu tiên làm trước, công khai bàn bạc, quyết định thiết kế và
chỉ đạo thi công, nghiệm thu công trình. Năm 1971, Chính phủ chỉ hỗ trợ cho
33.267 làng, mỗi làng 335 bao xi măng. Năm 1972 lựa chọn 1.600 làng làm tốt
được hỗ trợ thêm 500 bao xi măng và 1 tấn sắt thép. Sự trợ giúp này chính là


14

chất xúc tác thúc đẩy phong trào nông thôn mới, dân làng tự quyết định mức
đóng góp đất, ngày công cho các dự án.
Thứ hai, phát triển sản xuất để tăng thu nhập. Khi kết cấu hạ tầng phục vụ
sản xuất được xây dựng, các cơ quan, đơn vị chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, giống
mới, khoa học công nghệ giúp nông dân tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, xây
dựng vùng chuyên canh hàng hóa. Chính phủ xây dựng nhiều nhà máy ở nông
thôn để chế biến và tiêu thụ nông sản cũng như có chính sách tín dụng nông
thôn, cho vay thúc đẩy sản xuất. Từ năm 1972 đến năm 1977 thu nhập trung

bình của các hộ tăng lên 3 lần.
Thứ ba, đào tạo cán bộ phục vụ phát triển nông thôn Hàn Quốc, xác định
nhân tố quan trọng nhất để phát triển phong trào “làng mới” là đội ngũ cán bộ cơ
sở theo tinh thần tự nguyện và do dân bầu. Hàn Quốc đã xây dựng 3 trung tâm
đào tạo quốc gia và mạng lưới trường nghiệp vụ của các ngành ở địa phương. Nhà
nước đài thọ, mở các lớp học trong thời gian từ 1-2 tuần để trang bị đủ kiến thức
thiết thực như kỹ năng lãnh đạo cơ bản, quản lý dự án, phát triển cộng đồng.
Thứ tư, phát huy dân chủ để phát triển nông thôn. Hàn Quốc thành lập hội
đồng phát triển xã, quyết định sử dụng trợ giúp của Chính phủ trên cơ sở công
khai, dân chủ, bàn bạc để triển khai các dự án theo mức độ cần thiết của địa
phương. Thành công ở Hàn Quốc là xã hội hóa các nguồn hỗ trợ để dân tự quyết
định lựa chọn dự án, phương thức đóng góp, giám sát công trình.
Thứ năm, phát triển kinh tế hợp tác từ phát triển cộng đồng Hàn Quốc đã
thiết lập lại các hợp tác xã (HTX) kiểu mới phục vụ trực tiếp nhu cầu của dân,
cán bộ HTX do dân bầu chọn. Phong trào “làng mới” là bước ngoặt đối với sự
phát triển của HTX hoạt động đa dạng, hiệu quả trong dịch vụ tín dụng, cung
cấp đầu vào cho sản xuất, tiếp thị nông sản, bảo hiểm nông thôn và các dịch vụ
khác. Trong vòng 10 năm, doanh thu bình quân của 1 HTX tăng từ 43 triệu won
lên 2,3 tỉ won.
Thứ sáu, phát triển và bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường bằng sức mạnh
toàn dân. Chính phủ quy hoạch, xác định chủng loại cây rừng phù hợp, hỗ trợ


15

giống, tập huấn cán bộ kỹ thuật chăm sóc vườn ươm và trồng rừng để hướng dẫn
và yêu cầu tất cả chủ đất trên vùng núi trọc đều phải trồng rừng, bảo vệ rừng.
Nếu năm 1970 phá rừng còn là quốc nạn thì 20 năm sau rừng xanh đã che phủ
khắp nước và đây được coi là một kỳ tích của phong trào“làng mới” (Tuấn Anh,
2012) [21].

1.2.1.3. Nhật Bản: “Mỗi làng một sản phẩm”
Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, ở tỉnh Oita (miền tây nam Nhật Bản) đã
hình thành và phát triển phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”, với mục tiêu phát
triển vùng nông thôn của khu vực này một cách tương xứng với sự phát triển
chung của cả nước Nhật Bản. Trải qua gần 30 năm hình thành và phát triển,
Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” ở đây đã thu được nhiều thắng lợi rực rỡ.
Sự thành công của phong trào này đã lôi cuốn sự quan tâm không chỉ của nhiều
địa phương trên đất nước Nhật Bản mà còn rất nhiều khu vực, quốc gia khác
trên thế giới. Một số quốc gia, nhất là những quốc gia trong khu vực Đông Nam
Á đã thu được những thành công nhất định trong phát triển nông thôn của đất
nước mình nhờ áp dụng kinh nghiệm phong trào “Mỗi làng một sản phẩm”.
Những kinh nghiệm của phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” được
những người sáng lập, các nhà nghiên cứu đúc rút để ngày càng có nhiều người,
nhiều khu vực và quốc gia có thể áp dụng trong chiến lược phát triển nông thôn,
nhất là phát triển nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa đất nước
mình (Tuấn Anh, 2012) [21].
1.2.1.4. Thái Lan: sự trợ giúp mạnh mẽ của nhà nước
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn
chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền
nông nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò
của cá nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh
phong trào học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở
các lớp học và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông
thôn; tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề


16

nợ trong nông nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo hiểm rủi ro
cho nông dân.

Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức cạnh
tranh với các hình thức, như tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy
mạnh công tác tiếp thị; phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa
học và hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi
và kịp thời phục hồi những khu vực mà tài nguyên đã bị suy thoái; giải quyết
những mâu thuẫn có liên quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm, thủy hải sản,
đất đai, đa dạng sinh học, phân bổ đất canh tác. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng,
Nhà nước đã có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công trình
thủy lợi lớn phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho
hầu hết đất canh tác trên toàn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại
cây trồng khác trong sản xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn
với việc xây dựng các trạm thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả
nước…
Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chính phủ Thái Lan đã tập
trung vào các nội dung sau: Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công
nghiệp nông thôn, đồng thời cũng xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ
năng truyền thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và tiếp thị song
song với việc cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng
nông nghiệp, thủy, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp
chế biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất là các nước công
nghiệp phát triển. Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm ở Thái Lan phát triển
rất mạnh nhờ một số chính sách sau:
- Chính sách phát triển nông nghiệp: Một trong những nội dung quan
trọng nhất của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2000-2005 là kế hoạch
cơ cấu lại mặt hàng nông sản của Bộ Nông nghiệp Thái Lan, nhằm mục đích
nâng cao chất lượng và sản lượng của 12 mặt hàng nông sản, trong đó có các


17


mặt hàng: gạo, dứa, tôm sú, gà và cà phê. Chính phủ Thái Lan cho rằng, càng có
nhiều nguyên liệu cho chế biến thì ngành công nghiệp chế biến lương thực thực
phẩm mới phát triển và càng thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Nhiều sáng
kiến làm gia tăng giá trị cho nông sản được khuyến khích trong chương trình
Mỗi làng một sản phẩm và chương trình Quỹ làng.
- Chính sách bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm: Chính phủ Thái Lan
thường xuyên thực hiện chương trình quảng bá vệ sinh an toàn thực phẩm. Năm
2004, Thái Lan phát động chương trình “Năm an toàn thực phẩm và Thái Lan là
bếp ăn của thế giới”. Mục đích chương trình này là khuyến khích các nhà chế
biến và nông dân có hành động kiểm soát chất lượng vệ sinh thực phẩm để bảo
đảm an toàn cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, Chính
phủ thường xuyên hỗ trợ cho doanh nghiệp cải thiện chất lượng vệ sinh an toàn
thực phẩm. Do đó, ngày nay, thực phẩm chế biến của Thái Lan được người tiêu
dùng ở các thị trường khó tính, như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU, chấp nhận.
- Mở cửa thị trường khi thích hợp: Chính phủ Thái Lan đã xúc tiến đầu tư,
thu hút mạnh các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh với các nhà sản xuất
trong nước để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, thông qua việc
mở cửa cho các quốc gia dù lớn hay nhỏ vào đầu tư kinh doanh. Trong tiếp cận
thị trường xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan là người đại diện thương lượng với
chính phủ các nước để các doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong xuất
khẩu thực phẩm chế biến. Bên cạnh đó, Chính phủ Thái Lan có chính sách trợ
cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến và đầu tư trực tiếp vào kết cấu hạ tầng
như: Cảng kho lạnh, sàn đấu giá và đầu tư vào nghiên cứu và phát triển; xúc tiến
công nghiệp và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xúc tiến công nghiệp là
trách nhiệm chính của Cục Xúc tiến công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp, nhưng
việc xúc tiến và phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm ở Thái Lan do nhiều
cơ quan cùng thực hiện. Chẳng hạn, trong Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã, cùng
với Cục Xúc tiến nông nghiệp, Cục Hợp tác xã giúp nông dân xây dựng hợp tác
xã để thực hiện các hoạt động, trong đó có chế biến thực phẩm; Cục Thủy sản



18

giúp đỡ nông dân từ nuôi trồng, đánh bắt đến chế biến thủy sản. Cơ quan Tiêu
chuẩn sản phẩm công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp xúc tiến tiêu chuẩn hoá và
hệ thống chất lượng; Cơ quan Phát triển công nghệ và khoa học quốc gia xúc
tiến việc áp dụng khoa học và công nghệ cho chế biến; Bộ Đầu tư xúc tiến đầu
tư vào vùng nông thôn (Tuấn Anh, 2012) [21].
1.2.2. Tình hình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
1.2.2.1. Những bài học kinh nghiệm trong xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2015.
- Bài học kinh nghiệm trong xây dựng NTM của cả nước: Qua 5 năm thực
hiện chương trình xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015 đã làm thay đổi nhận
thức của đa số người dân, lôi cuốn người dân tham gia xây dựng NTM. Cả nước
có 1.298 xã (14,5%) được công nhận đạt chuẩn NTM; số tiêu chí bình quân/xã
là 12,9 tiêu chí (tăng 8,2 tiêu chí so với 2010); số xã khó khăn nhưng có nỗ lực
vươn lên (xuất phát điểm dưới 3 tiêu chí, nay đã đạt được 10 tiêu chí trở lên) là
183 xã [2].
Chương trình xây dựng mô hình nông thôn mới trong giai đoạn 2010 2015 đã rút ra năm bài học kinh nghiệm:
Từ thực tế chỉ đạo, triển khai thực hiện chương trình trong 5 năm qua,
nhiều bài học kinh nghiệm quý đã được rút ra, như: Xây dựng nông thôn thực
chất là thực hiện các nội dung cụ thể để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn. Do đó, phải gắn xây dựng NTM với tái cơ cấu nông nghiệp
và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Phải thực sự phát huy vai trò chủ thể của người dân. Công tác tuyên
truyền, vận động quần chúng phải là giải pháp quan trọng hàng đầu. Làm cho
dân hiểu, dân tin, dân hưởng ứng bằng sự tham gia bàn bạc, hiến kế, đóng góp
công, của và chủ động thực hiện các nhiệm vụ của mình là yếu tố quyết định sự
thành công trong xây dựng nông thôn mới.
Phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên sâu sát, quyết liệt của

các cấp ủy, chính quyền, sự tham gia tích cực và phối hợp chặt chẽ của các ban,
ngành, đoàn thể.


19

Có cách làm phù hợp với điều kiện của từng địa phương thông qua lựa
chọn nội dung, nhiệm vụ ưu tiên, vận dụng sáng tạo cơ chế chính sách. Có
phương thức huy động các nguồn lực phù hợp. Phải có hệ thống chỉ đạo, đồng
bộ, hiệu quả; có bộ máy giúp việc đủ năng lực, chuyên nghiệp, sát thực tế sẽ là
yếu tố quan trọng đảm bảo cho công tác chỉ đạo có hiệu quả.
Lồng ghép sử dụng có hiệu quả sự hỗ trợ ngân sách của Nhà nước và các
nguồn lực đa dạng; việc huy động, đóng góp của người dân phải được thực hiện
trên cơ sở thực sự tự nguyện, bàn bạc dân chủ, không gượng ép quá sức dân [2].
- Tăng cường huy động nguồn lực trong xây dựng NTM: Thực hiện Nghị
quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010-2020. Báo cáo tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới trong 3 năm (2011- 2013) đã huy động được hơn 485.000 tỷ đồng.
Trong đó, NSNN chiếm 33,4%, vốn tín dụng 47,7%, vốn huy động từ các DN
6% và dân đóng góp chiếm 12,9%. Bên cạnh những ưu điểm trong quá trình
triển khai chương trình, một số hạn chế cũng đã bộc lộ, bao gồm:
Quy mô huy động nguồn lực giữa các năm không ổn định, cơ cấu các
nguồn lực huy động chưa đạt mục tiêu đề ra:
+ Quy mô huy động giữa các năm không ổn định: Năm 2012, huy động
tăng 40% so với năm 2011 nhưng sang năm 2013 quy mô huy động lại giảm
17,6% so với năm 2012.
+ Xét về cơ cấu nguồn lực, nguồn huy động từ NSNN và từ DN đạt thấp
so với mục tiêu đề ra. Hai nguồn vốn còn lại là nguồn vốn tín dụng và huy động

từ dân cư có tỷ lệ huy động đạt cao hơn so với mục tiêu đề ra. Nguồn vốn tín
dụng chiếm tỷ lệ cao nhất (47,7%), cao hơn so với mục tiêu (30%).
Khi xem xét cơ cấu của từng nguồn vốn theo năm cho thấy, nguồn NSNN
trong 3 năm 2011-2013 cơ bản ổn định trong khi vốn lồng ghép và vốn huy
động từ DN, đóng góp của cộng đồng dân cư vào Chương trình có xu hướng


20

giảm. Riêng chỉ vốn tín dụng là có xu hướng tăng rõ rệt trong cơ cấu nguồn vốn
huy động cho Chương trình.
Nguồn ngân sách trung ương bố trí cho Chương trình trong 3 năm qua còn
chưa đảm bảo theo cam kết. Nguồn ngân sách trung ương mới đạt khoảng 30%
so với kế hoạch phân bổ được Quốc hội thông qua cho cả giai đoạn 2011-2015),
nguồn vốn hỗ trợ chuyển về còn chậm đã ảnh hưởng tới kế hoạch và tiến độ
triển khai thực hiện.
Cơ chế lồng ghép các nguồn lực từ các chương trình, dự án chưa rõ ràng
và chưa quan tâm tới đặc thù từng địa phương. Thực tế các địa phương mới chỉ
tiến hành ghép vốn đối với các công việc, mục tiêu có cùng nội dung. Tuy nhiên,
điều này lại gây khó trong tổng hợp kết quả đạt được của từng dự án, chương
trình từ việc ghép các nguồn vốn của các chương trình, dự án trên địa bàn.
Ngoài ra, thực tế mức độ lồng ghép vốn giữa các địa phương cũng khác nhau
như đồng bằng sông Hồng tỷ lệ vốn lồng ghép trong tổng vốn huy động được 3
năm qua đạt 12,86% nhưng ở vùng Đông Nam Bộ thì con số này chỉ là 1,82%.
Nguyên nhân của những hạn chế:
+ Chương trình được triển khai thực hiện trong bối cảnh kinh tế thế giới
có nhiều biến động phức tạp, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn do tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những yếu kém nội tại chưa được giải
quyết, dẫn đến khả năng huy động vốn hạn chế.
+ Năng lực tham gia thị trường tín dụng nông thôn của nông dân còn hạn

chế do trình độ và khả năng tiếp cận nguồn vốn. Các tổ chức tín dụng chưa quan
tâm, chú trọng đến phát triển hoạt động tín dụng ở thị trường nông thôn.
+ Việc cải thiện môi trường đầu tư ở khu vực nông thôn còn hạn chế. Hệ
thống kết cấu hạ tầng mặc dù đã được quan tâm nhưng nhiều nơi còn yếu kém,
trình độ lao động khu vực nông thôn chưa cao nên việc thu hút vốn đầu tư cũng
như sự tham gia của DN vào xây dựng nông thôn mới còn hạn chế.
+ Sự phối hợp của các cấp, các ngành còn thiếu kịp thời, chặt chẽ nên ảnh
hưởng đến định hướng đầu tư và huy động vốn (TS. Vũ Như Thăng, 2015) [22].


21

1.2.2.2. Kết quả xây dựng nông thôn mới ở một số tỉnh TDMN phía Bắc giai
đoạn 2011 - 2015
Ở Lai Châu: Qua 5 năm triển khai thực hiện, đến nay tỉnh ta đã triển khai
xây dựng nông thôn mới tại 96 xã, với sự nỗ lực quyết tâm của các cấp, các
ngành, các tổ chức đoàn thể chính trị và Nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh,
Chương trình mục tiêu Quốc gia XDNTM đạt được nhiều kết quả tích cực. Tính
đến ngày 30/6/2015, toàn tỉnh có 91/93 xã có đường ô tô đến trung tâm xã, liên
xã, có 22/96 xã đạt tiêu chí giao thông; 38/93 xã có hệ thống thủy lợi cơ bản đáp
ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh. Bình quân tiêu chí chung toàn tỉnh đến hết
năm 2015 đạt 11 tiêu chí/xã, tăng 8,12 tiêu chí so với năm 2011. Tính hết năm
2015, toàn tỉnh có 15 xã đạt 19 tiêu chí; 5 xã đạt 15-18 tiêu chí; 33 xã đạt 10-14
tiêu chí; 43 xã đạt 5-9 tiêu chí.
Tuy nhiên, chương trình còn những hạn chế, yếu kém như: Việc triển khai
thực hiện các nội dung trọng tâm về XDNTM ở nhiều xã còn hạn chế, chưa đảm
bảo đủ nguồn lực để thực hiện các nội dung theo kế hoạch, chưa có nhiều giải pháp
hay, sáng tạo trong tổ chức thực hiện; việc phát triển sản xuất nâng cao thu nhập
cho người dân ở nhiều địa phương chưa được quan tâm đúng mức; việc thực hiện
lồng ghép các chương trình, dự án trong XDNTM chưa được đẩy mạnh…[2].

Ở Lào Cai: Sau 5 năm triển khai thực hiện, Chương trình đã đạt được
những kết quả sau:
Về tuyên truyển vận động, các Sở, ban, ngành đoàn thể và các đơn vị đã
ban hành 3.099 văn bản các loại chỉ đạo nông thôn mới (các huyện, thành phố
ban hành 2.958 văn bản các loại về công tác tuyên truyền) ban hành 3.800 cuốn
gương người tốt việc tốt trong xây dựng NTM. 5.000 cuốn Sổ tay hướng dẫn xây
dựng nông thôn mới; 1.000 cuốn tài liệu hỏi đáp xây dựng nông thôn mới; Ban
Tuyên vận đã thực hiện 8.700 hội nghị tuyên vận cơ sở, trên 400 cuộc khảo sát,
kiểm tra, tổ chức 92 lớp tập huấn cho trên 6.000 lượt cán bộ tuyên vận, tổ tuyên
vận, chỉ đạo 854 hội nghị tuyên vận các cấp, kiểm tra công tác tuyên vận. Tổ
chức được 5.438 hội nghị tuyên truyền, truyền thông về công tác xây dựng nông


22

thôn mới; 1.200 buổi diễn văn nghệ, 1.000 giải thể thao thu hút đông đảo nhân
dân tham gia. Tổ chức được 3.060 buổi tuyên truyền bằng hình thức biểu diễn
văn hóa, văn nghệ; in sao phát cho cơ sở 3.284 đĩa CD có nội dung tuyên truyền
về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM. Tổ chức 2 cuô ̣c thi về sáng
tác tranh tuyên truyề n NTM (thu hút 31.934 bài dự thi và 1.433 tác phẩm dự thi).
Tổ chức trên 40 lễ hội văn hóa dân gian ở các địa phương lồng ghép nội dung
tuyên truyền xây dựng NTM. Cấp phát 102.882 tờ rơi, khẩ u hiêu,
̣ áp phić h tuyên
truyề n về xây dựng NTM của các cơ quan, đơn vị cấp phát cho nhân dân trên điạ
bàn toàn tin
̉ h. Ngoài ra, 9 huyện, thành phố đã treo 14.078 băng zôn, khẩ u hiê ̣u,
dựng 3.141 pa nô và cụm pa nô (lớn và nhỏ), in và phát hành 92.733 tờ rơi, tờ
gấp...; Xây dựng đươ ̣c cổng chào kiên cố, bán kiên cố tại các xã, thôn, bản để
tuyên truyền trực quan về xây dựng NTM. Các địa phương còn có các hiǹ h thức
tuyên truyền đa da ̣ng như: Chiếu bóng lưu động, sáng tác tiểu phẩm, làm phim

phóng sự, tuyên truyền miệng, tuyên truyền bằng xe lưu động ...
Về huy động và sử dụng nguồn lực đầu tư thực hiện Chương trình: Tổng
nguồn vốn đã bố trí thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM trên địa bàn
tỉnh Lào Cai giai đoạn 2011-2015 là 9.860,258 tỷ đồng, vượt 11,36% so Đề án.
Trong đó: Vốn trực tiếp cho Chương trình: 1.956,397 tỷ đồng (19,84% tổng
nguồn). Vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án khác: 6.394,986 tỷ đồng
(64,86%). Vốn Tín dụng 220 tỷ đồng; Doanh nghiệp 461,739 tỷ đồng. Dân góp
827,136 tỷ đồng, bao gồm (công lao động, hiến đất, tiền mặt và các hiện vật xây
dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; giá trị của các tiêu chí do nhân dân làm như nhà
ở, chỉnh trang nhà cửa, vệ sinh môi trường, chuồng trại chăn nuôi...).
Về tiêu chí xây dựng nông thôn mới: Số xã đạt chuẩn nông thôn mới
20/143 (Xã Mường Khương lên Thị trấn) đạt 13,9%; Thành phố Lào Cai hoàn
thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (5/5 xã đã hoàn thành); Bình quân số
tiêu chí đạt chuẩn/xã: 9,63 tiêu chí, tăng 6,33 so với năm 2010; Bình quân thu
nhập đầu người khu vực nông thôn đạt 13,11 triệu đồng, tăng 5,67 triệu
đồng/người/năm so với năm 2010 (2010 là 7,44 triệu đồng). Tỷ lệ hộ nghèo khu


23

vực nông thôn năm 2014 là 22,4%, giảm 31,07% so với năm 2010 (Số liệu Niên
giám thống kê tỉnh Lào Cai ban hành tháng 7/2015). Hết năm 2015, toàn tỉnh có
31/144 xã đạt tiêu chí hộ nghèo, tăng 14 xã so với năm 2010 [4].
1.2.2.3. Tình hình xây dựng NTM ở tỉnh Điện Biên giai đoạn 2011 - 2015
Qua 05 năm (2011-2015) thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới, mặc dù điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh còn gặp nhiều
khó khăn, nguồn lực đầu tư cho Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới
còn hạn chế. Song, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ của các Bộ,
ngành Trung ương, đặc biệt sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị cùng toàn thể
nhân dân các dân tộc trong tỉnh; Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới

tỉnh Điện Biên đã đạt được một số kết quả bước đầu như sau:
* Công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng NTM:
- Công tác lập quy hoạch: tính đến nay đã có 116/116 xã hoành thành phê
duyệt quy hoạch chung, đạt 100% so với kế hoạch. Tuy nhiên, trong quá trình
triển khai công bố quy hoạch còn chậm so với tiến độ, một số quy hoạch chất
lượng chưa đáp ứng được theo yêu cầu.
- Lập đề án xây dựng NTM: đến nay 100% số xã hoàn thành việc xây
dựng đề án. Công tác lập đề án xây dựng NTM cấp xã chưa đảm bảo về thời
gian, tiến độ theo kế hoạch do năng lực cán bộ xã, cán bộ huyện một số nơi còn
hạn chế, các xã vùng cao địa hình phức tạp, giao thông đin lại khó khăn, nhận
thức người dân còn hạn chế nên việc khảo sát đánh giá thực trạng và lấy ý kiến
tham gia của người dân còn gặp nhiều khó khăn.
* Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân:
Thực hiện các Chương trình, Dự án phát triển sản xuất và xóa đói giảm
nghèo. Nhiều tiến bộ kỹ thuật được thử nghiệm, mở rộng trong sản xuất bằng
nhiều hình thức như tập huấn cho nông dân gắn liền với xây dựng các mô hình ở
tất cả các lĩnh vực snr xuất nông nghiệp, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau. Nông
dân từ bước tiếp thu các tiến bộ khoa học áp dụng vào sản xuất, tạo ra những
chuyển biến trong sản xuất nông lâm nghiệp, nâng cao thu nhập, phát triển sản


24

xuất của hộ gia đình.
- Về thu nhập và tỷ lệ hộ nghèo: đời sống nhân dân không ngừng được cải
thiện, thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng qua các năm; Tỷ lệ hộ nghèo
trong toàn tỉnh giảm từ 50,01% năm 2010 xuống còn 28,01% năm 2015 (giảm
22,0%). Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2015 đạt 10,1
triệu đồng/người/năm tăng 4,6 triệu đồng so với năm 2010, có 10/116 xã đạt tiêu
chí số 10 về thu nhập.

- Về tỷ lệ lao động có việc làm: tổng số lao động khu vực nông thôn được
hỗ trợ đào tạo nghề theo chính sách của Đề án 1956 là 30.928 người, tỷ lệ lao
động qua đào tạo khu vực nông thôn đạt 26,4%. Tỷ lệ lao động nông thôn có
việc làm sau khi học nghề đạt 71,72%, chủ tyếu thông qua hình thưc tự tạo việc
làm. Năm 2015, toàn tỉnh có 64/116 xã đạt tiêu chí 12 về tỷ lệ lao động có việc
làm thường xuyên.
- Về hình thức tổ chức sản xuất: đến nay, toàn tỉnh có 97 HTX nông
nghiệp tăng 34 HTX so với năm 2011, trong đó 20% số HTX nông lâm nghiệp
tổng hợp, HTX thủy sản hoạt động khá hiệu quả. Các HTX hoạt động tạo sự liên
kết hợp tác sản xuất trong nông nghiệp, một số HTX-THT hoạt động có hiệu quả
được các hội viên tín nhiệm. Các HTX nông lâm nghiệp, thủy sản đang có xu
hướng chuyển dần sang hoạt động dịch vụ tổng hợp để giải quyết những khó
khăn trước mắt trong sản xuất nông nghiệp. Có 20/116 xã đạt tiêu chí số 13
chiếm 15,5%.
* Về xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu:
Xây dựng cơ sở hạ tầng là khâu đột phá, thúc đẩy tiến độ xây dựng NTM.
Trong điều kiện nguồn lực đầu tư còn hạn chế, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp,
các ngành thực hiện việc rà soát, lựa chọn những danh mục công trình cấp bách,
thiết thực để đầu tư. Sau 5 năm triển khai, cơ sở hạ tầng được xây dựng khang
trang, diện mạo nông thôn đã có nhiều thay đổi.
- Giao thông: đến nay có 96/116 xã có đường ô tô đến trung tâm xã, đảm
bảo cho nhân dân đi lại được các mùa trong năm. Tổng chiều dài các tuyến


25

đường xã, thôn, bản được xây dựng trong giai đoạn 2011-2015 là 288,13 km.
Toàn tỉnh có 22,5% đường trục xã đạt chuẩn; 10,1% đường trục thôn, bản được
nhựa hóa hoặc bê tông hóa; 6,75% đường ngõ xóm sạch và không bị lầy lội vào
mùa mưa; 8,3% đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại

thuận tiện; có 01/116 xã đạt tiêu chí số 2 (xã Thanh Chăn huyện Điện Biên).
- Thủy lợi: số công trình do xã quản lý được cải tạo, nâng cấp, xây mới là
112 công trình; 86,96 km kênh mương nội đồng đã được cứng hóa. Số xã đạt
tiêu chí số 3 về thủy lợi là 33/116 xã chiếm 13% tổng số xã.
- Điện: việc phát triển lưới điện trên địa bàn tỉnh được thực hiện bằng
nhiều nguồn vốn (vốn vay ADB, WB, Chương trình 135, Ngân sách địa phương
...). Đến nay, 10/10 huyện, thị, thành phố đã có điện; 114/116 xã có điện đạt tỷ lệ
98,27%. Số xã đạt tiêu chí về điện là 34/116 xã.
- Trường học: hệ thống trường học phát triển khá toàn diện từ mầm non
đến phổ thông và chuyên nghiệp. Toàn tỉnh có 491 trường học các cấp, trong đó
246/491 trường đạt chuẩn quốc gia. Số xã đạt tiêu chí số 5 là 32/116 xã.
- Cơ sở vật chất văn hóa: đến nay, có 27/116 xã có nhà văn hóa. Tuy
nhiên,trang thiết bị thiếu và chưa đồng bộ; đội ngũ cán bộ kiêm nghiệm chưa qua
đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh phí hoạt động thấp nên chưa phát huy
được hiệu quả. Năm 2015, có 01/116 xã đạt tiêu chí số 6 (xã Thanh Chăn).
- Chợ: đến năm 2015, tổng số chợ trong quy hoạch phát triển chợ là 20
chợ (xây mới 04 chợ). Số xã đạt tiêu chí số 7 là 12/116 xã.
- Bưu điện: toàn tỉnh có 116 xã có điểm phục vụ bưu chính, viễn thông;
93/116 xã có internet đến thôn, bản; 93/116 xã đạt tiêu chí số 8.
- Nhà ở dân cư: chất lượng nhà ở của tỉnh Điện Biên có xu hướng tăng lên,
đến nay nhà ở kiên cố và bán kiên cố khu vực nông thôn đạt 76,97%. Số xã đạt
tiêu chí số 9 là 5/116 xã.
* Về phát triển giáo dục, y tế và bảo vệ môi trường:
- Về giáo dục: chất lượng giáo dục từ mầm non đến phổ thông được nâng
lên mọi mặt. Năm học 2014 - 2015, tỷ lệ học sinh các cấp lên lớp đạt 99%, tỉnh


×