ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ NGUYỆT
KINH TẾ, VĂN HÓA HUYỆN YÊN LẬP
TỈNH PHÚ THỌ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
THÁI NGUYÊN - 2016
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ NGUYỆT
KINH TẾ, VĂN HÓA HUYỆN YÊN LẬP
TỈNH PHÚ THỌ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN
THÁI NGUYÊN 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng
để bảo vệ một học vị nào. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Thái Nguyên, tháng 3 năm 2016
Tác giả
Hoàng Thị Nguyệt
Xác nhận của Trưởng Khoa
Xác nhận của cán bộ hướng dẫn
PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy
PGS.TS. Đàm Thị Uyên
i
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành với sự giúp đỡ của các cơ quan, tập thể, cá
nhân mà tôi không thể không bày tỏ lời cảm ơn chân thành.
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn tới Sở văn hóa Thể thao và Du lịch, Bảo tàng
Hùng Vương tỉnh Phú Thọ, Phòng Văn hóa Thể thao và du lịch, Phòng Dân tộc, Ủy
ban nhân dân huyện Yên Lập và nhân dân địa phương đã giúp đỡ tôi trong quá trình
khảo sát thực tế tại địa phương.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đàm Thị Uyên cùng
các thầy cô trong tổ Lịch sử Việt Nam – Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại
học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận tình, động viên, khích lệ tôi trong thời gian học tập
và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bạn bè, đồng nghiệp và những
người thân trong gia đình đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả
Hoàng Thị Nguyệt
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN.............................................................................................................. ii
MỤC LỤC .................................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG .......................................................................................... v
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 7
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................... 8
7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................... 8
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN LẬP TỈNH PHÚ THỌ ....................... 9
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ...................................................................... 9
1.1.1. Vị trí địa lý ................................................................................................. 9
1.1.2. Điều kiện tự nhiên .................................................................................... 10
1.2. Lịch sử hành chính huyện Yên Lập................................................................. 14
1.3. Các thành phần dân tộc ................................................................................... 17
1.4. Khái quát tình hình chính trị - xã hội huyện Yên Lập..................................... 23
Chương 2. KINH TẾ CỦA HUYỆN YÊN LẬP NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ........ 32
2.1. Tình hình sở hữu ruộng đất ở huyện Yên Lập nửa đầu thế kỉ XIX ................ 32
2.1.1. Sở hữu ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 năm (1805) ... 33
2.1.2. Sở hữu ruộng đất huyện Yên Lập theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ..... 39
2.1.3. So sánh sở hữu ruộng đất ở Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 (1805) và
Minh Mệnh 21 (1840) ........................................................................................ 45
2.2. Chế độ tô thuế .................................................................................................. 49
2.3. Tình hình kinh tế ............................................................................................. 51
iii
2.3.1. Nông nghiệp ............................................................................................. 51
2.3.2. Thủ công nghiệp, thương nghiệp ............................................................. 54
Chương 3. VĂN HÓA HUYỆN YÊN LẬP NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX ................. 57
3.1. Làng bản và nhà cửa ........................................................................................ 57
3.2. Ẩm thực ........................................................................................................... 60
3.3. Y phục và trang sức ......................................................................................... 62
3.4. Tục lệ xã hội .................................................................................................... 65
3.5. Lễ tết ................................................................................................................ 74
3.6. Quan hệ dòng họ, gia đình............................................................................... 78
3.7. Nghi lễ và tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp .......................................... 81
3.8. Tín ngưỡng, tôn giáo ....................................................................................... 83
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 92
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCH
: Ban chấp hành
Nxb
: Nhà xuất bản
PGS
: Phó giáo sư
QSQTN
: Quốc sử quán triều Nguyễn
TCN
: Trước công nguyên
Tr
: Trang
TS
: Tiến sĩ
TTLTQGI
: Trung tâm lưu trữ Quốc gia I
TƯ
: Trung Ương
UBND
: Uỷ ban nhân dân
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thành phần các dân tộc huyện Yên Lập .....................................................18
Bảng 2.1. Tổng diện tích các loại ruộng đất của Yên Lập theo địa bạ Gia Long 4 (1805). 33
Bảng 2.2. Sự phân hóa ruộng tư của Yên Lập .............................................................34
Bảng 2.3. Bình quân sở hữu và bình quân thửa ...........................................................35
Bảng 2.4. Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ năm 1805 .....................................36
Bảng 2.5. Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức sắc năm (1805) ..........................38
Bảng 2.6. Sự phân bố các loại ruộng đất .....................................................................40
Bảng 2.7. Quy mô tư hữu ruộng đất của chủ sở hữu năm 1840 ..................................41
Bảng 2.8. Bình quân sở hữu và bình quân thửa (năm 1840) .......................................42
Bảng 2.9. Sự phân bố ruộng đất của nhóm họ năm (1840) .........................................43
Bảng 2.10. Tình hình sở hữu ruộng tư của các chức sắc năm 1840 ............................44
Bảng 2.11. Bảng so sánh sự phân bố các loại ruộng đất .............................................45
Bảng 2.12. So sánh quy mô sở hữu ruộng tư ...............................................................46
Bảng 2.13. So sánh tình hình sở hữu của các dòng họ của 5 xã ..................................48
v
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phú Thọ là một tỉnh nằm ở khu vực miền núi trung du phía Bắc, vị trí địa lý
mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây - Đông - Bắc. Cũng là tỉnh có vị trí chiến
lược về chính trị, quốc phòng, kinh tế đối với cả nước. Có thể nói Phú Thọ là cái nôi
sinh thành của dân tộc Việt Nam - nơi mà cách đây hàng ngàn năm đã ra đời nhà
nước đầu tiên của người Việt, cũng là nhà nước sớm nhất của vùng Đông Nam Á Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Phú Thọ, nơi có Đền Hùng, cội nguồn linh
thiêng của cả dân tộc Việt Nam, với sức hút tâm linh không phải dân tộc nào cũng có.
Đây cũng là nơi cư trú của 21 dân tộc anh em. Ngay từ buổi sơ khai của lịch sử, Phú
Thọ đã có người nguyên thủy sinh sống. Hàng nghìn năm qua từ khi Vua Hùng dựng
nước Văn Lang cho đến nay mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này đã đón nhận nhiều
dòng người xuôi ngược về đây quần tụ sinh sống.
Yên Lập là một huyện miền núi nằm về phía Tây Bắc của tỉnh Phú Thọ, là
vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa. Cũng giống như các huyện
khác của tỉnh, với những điều kiện tự nhiên thuận lợi nên ngay từ rất sớm địa bàn
huyện đã là nơi cư trú của một bộ phận người Việt cổ, về sau là một phần của
quốc gia Văn Lang. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử các thế hệ người dân Yên Lập
đã kế tiếp nhau chung sức chung lòng cần cù sáng tạo trọng lao động, kiên trung
bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, cùng nhau xây dựng bảo vệ quê
hương ngày càng giàu đẹp.
Tình hình cộng cư của nhiều thành phần dân tộc gắn liền với quá trình phát
triển lâu dài của đất nước. Việc xây dựng cộng đồng chính trị - xã hội trong lịch
sử không tách rời việc xây dựng cộng đồng quốc gia dân tộc. Trong lịch sử, các
triều đại phong kiến Việt Nam rất coi trọng và có những chính sách cụ thể để phát
triển kinh tế, đoàn kết cư dân miền núi góp phần củng cố quốc gia, đẩy lùi các thế
lực xâm chiếm từ bên ngoài.
Công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng miền núi nói chung và Yên Lập
nói riêng luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm nhằm giảm dần sự cách biệt về đời sống
1
vật chất cũng như đời sống tinh thần giữa các dân tộc, giữa miền ngược với miền xuôi,
khai thác mọi tiềm năng của đất nước để đưa đất nước ta ngày một phát triển, vững
mạnh toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Ngày nay
trong công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, toàn Đảng,
toàn dân ta đang tích cực thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là sự nghiệp của toàn dân tộc, có sự chung tay
đóng góp không nhỏ của nhân dân các dân tộc anh em trên khắp mọi miền Tổ quốc.
Huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ cũng nằm trong dòng chảy lịch sử đó.
Việc nghiên cứu về một thời kì lịch sử của Yên Lập (nửa đầu thế kỷ XIX),
không những góp phần khôi phục lại bức tranh lịch sử về hoạt động kinh tế cũng như
đời sống văn hóa phong phú, độc đáo của các dân tộc nơi đây mà còn góp phần làm
cơ sở cho việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta: Đại đoàn kết
dân tộc, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, xây dựng con người mới, cuộc sống mới
trên mảnh đất Yên Lập
Là một người đang tìm hiểu về vai trò của lịch sử địa phương trong vận mệnh
của lịch sử dân tộc, được sự giúp đỡ, hướng dẫn của giảng viên hướng dẫn khoa học
là PGS.TS Đàm Thị Uyên cùng các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Lịch sử Việt Nam,
Ban Chủ nhiệm khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, tôi đã
quyết định chọn đề tài: “Kinh tế, văn hóa huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ nửa đầu thế
kỷ XIX” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong đề tài này, chúng tôi nghiên cứu một số tài liệu tham khảo có tính chất
gợi mở, định hướng và là cơ sở để người nghiên cứu thực hiện đề tài:
Trước hết phải kể đến cuốn Địa chí tỉnh Hưng Hóa, của Nxb Đông Dương tạp
chí, năm 1899. Do dịch giả Nguyễn Xuân Lân (thư viện tỉnh Vĩnh Phú) dịch. Cuốn
sách gồm 6 phần, lần lượt từng phần đã đề cập tới hầu hết các lĩnh vực như hình thế,
lịch sử chinh phục, cơ cấu xã hội - tổ chức chính trị và cai trị, vị trí kinh tế (nông
nghiệp, kỹ công nghệ - thương mại), lực lượng quân sự và dự báo về tương lai Hưng
Hóa. Sách viết rất ít về một châu miền núi như Yên Lập nhưng đây cũng là nguồn tư
liệu quan trọng để nghiên cứu về một địa phương của tỉnh Hưng Hóa xưa.
2
Năm 1986, Sở văn hóa và Thông tin Vĩnh Phú đã cho xuất bản tập địa chí Văn
hóa dân gian vùng Đất Tổ. Trong tập địa chí này các tác giả đã đề cập một cách chi
tiết về thiên nhiên con người Vĩnh Phú, cũng như những giá trị văn hóa dân gian từng
dân tộc từ ngàn xưa đã được cư dân vùng Đất Tổ gìn giữ phát huy cho đến tận ngày
nay. Sách mới chỉ giới thiệu những giá trị văn hóa vật chất, tinh thần tinh túy nhất của
vùng Đất Tổ chứ không đi sâu nghiên cứu về một địa phương cụ thể trong tỉnh,
nhưng đây là tư liệu quan trọng để tác giả hoàn thiện luận văn của mình.
Tiếp theo là cuốn Phú Thọ tỉnh địa chí của tác giả Phạm Xuân Bộ, địa chí gồm
4 chương đã lần lượt giới thiệu về tổng thuyết (danh xưng, duyên cách), tự nhiên,
nhân văn và các địa phương trong tỉnh Phú Thọ. Đây là cẩm nang để tìm hiểu về Phú
Thọ nói chung. Huyện Yên Lập tác giả có đề cập đến nguồn gốc tộc người, mật độ
dân cư, vùng đất dành cho di dân, khí hậu, kinh tế nông lâm nghiệp, thương mại của
huyện nhưng rất ngắn gọn và khái quát. Nhưng đây cũng là nguồn tài liệu quan trọng
giúp tác giả kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài của mình.
Luận án tiến sĩ Gia đình và hôn nhân của dân tộc Mường ở Phú Thọ của
Nguyễn Ngọc Thanh viết năm 1999. Luận án là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một
cách có hệ thống về cấu trúc, chức năng của gia đình và thể chế hôn nhân của người
Mường ở hai huyện Thanh Sơn và Yên Lập. Đây là dân tộc có số dân đông nhất ở
huyện Yên Lập. Đây là nguồn tư liệu gần gũi cho việc nghiên cứu về nguồn gốc tộc
người, văn hóa người Mường ở Yên Lập đồng thời định hướng cho các chính sách
văn hóa, gìn giữ và phát triển bền vững bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay.
Tác phẩm Tình hình ruộng đất, nông nghiệp và đời sống nông dân dưới
triều Nguyễn do Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang chủ biên của Nxb Thuận Hóa,
năm 1997 đã nghiên cứu một cách cụ thể về tình hình ruộng đất chủ yếu thông qua
tài liệu địa bạ. Bên cạnh đó tác phẩm còn nêu lên các chính sách về nông nghiệp
đặc biệt là các chính sách về ruộng đất dưới triều Nguyễn. Tác phẩm là nguồn tư
liệu quan trọng định hướng phương pháp nghiên cứu cho tác giả luận văn về ruộng
đất Yên Lập thông qua tư liệu địa bạ.
3
Luận văn thạc sĩ Kinh tế, văn hóa huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái thế kỷ XIX của
tác giả Trần Thị Thanh Xuyên, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, năm 2015.
Luận văn đã nghiên cứu đặc điểm tự nhiên, thành phần dân tộc, tình hình chính trị xã
hội, chế độ ruộng đất, kinh tế, cũng như văn hóa của nhân dân huyện Trấn Yên thế kỷ
XIX. Đây là một huyện cùng Phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa với huyện Yên Lập từ
thời Hậu Lê cho đến tận đầu thế kỷ XX. Luận văn này giúp người nghiên cứu thấy
được những nét tương đồng, khác biệt của các huyện trong phủ Quy Hóa ở nửa đầu
thế kỷ XIX.
Tập sách ảnh Người Mường trên đất Tổ Hùng Vương của nhà xuất bản Văn
hóa - Thông tin Hà Nội, phát hành năm 2001. Cuốn sách ảnh đã lưu lại những vẻ
đẹp còn rất Mường từ diện mạo đến kiến trúc, tập quán, lễ hội, hoạt động kinh tế,
cơ cấu xã hội xưa của người Mường, dân tộc thiểu số có số dân đông nhất ở Phú
Thọ cũng như ở Yên Lập. Tuy tác giả mới đề cập ở mức độ khái quát nhất và tập
trung vào phần hình ảnh của người Mường nhưng đây cũng là nguồn tài liệu
quan trọng giúp tác giả có thêm nhận thức trong nghiên cứu văn hóa huyện Yên
Lập nửa đầu thế kỷ XIX.
Cuốn tổng tập Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam do Sở Văn hóa thể
thao và du lịch tỉnh Phú Thọ xuất bản năm 2012. Cuốn sách đã trình bày khá đầy đủ
và chi tiết về các lễ hội trên địa bàn từng huyện, thị của tỉnh Phú Thọ, lịch một số lễ
hội dân gian, lễ hội lịch sử trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Trong cuốn sách, từ trang 853
đến trang 895 các tác giả đã trình bày rất chi tiết về các lễ hội của dân tộc Mường,
dân tộc Dao xã Hưng Long, xã Ngọc Đồng, xã Nga Hoàng huyện Yên Lập. Qua đó
thấy được những giá trị văn hóa tinh thần và đời sống vật chất của xã hội cổ xưa được
các thế hệ người dân vùng Đất Tổ bảo lưu và gìn giữ phát huy trong đời sống hiện tại.
Cuốn sách Văn hiến làng xã vùng đất Tổ Hùng Vương, của tác giả Vũ Kim
Biên, Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản,
năm 1999. Cuốn sách đã mô tả, thống kê khá kỹ về những làng cổ ở Phú Thọ từ thời
Hùng Vương cho đến nay, nêu lên những giá trị văn hóa vật chất cũng như những giá
trị văn hóa tinh thần ở làng xã từ ngàn xưa, diện mạo làng xã thay đổi ra sao qua mỗi
thời kì lịch sử. Đặc biệt tác giả còn đưa ra những kiến nghị, bài học cơ bản về chính
4
sách đối với làng xã trên cơ sở tôn trọng quyền tự quản và quyền làm chủ của làng xã.
Đây cũng là nguồn tài liệu tham khảo quý đối với tác giả trong quá trình hoàn thành
luận văn của mình.
Bản chúc thư bằng đồng của thổ lang Đinh Thế Thọ ở xã Tân Lập huyện
Thanh Sơn hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại bảo tàng Hùng Vương tỉnh Phú
Thọ. Chúc thư viết vào thời hậu Lê quy định 13 lệ của bản thôn đối với nhà lang như
cách cai trị của nhà lang và những quyền lợi mà nhà lang được hưởng từ dân bản của
mình. Chúc thư có 3 tấm với khoảng 1000 chữ Hán đã được dịch sang tiếng Việt.
Đây là nguồn tài liệu cổ ít ỏi còn lại và rất có giá trị cho người nghiên cứu khi tìm
hiểu về thiết chế chính trị, xã hội xưa của người Mường Phú Thọ. Bản chúc thư cho
thấy thiết chế chính trị của người Mường là chế độ tự trị, cha truyền con nối, chế độ
của công xã, làng chạ cổ xưa.
Ngày 28/12/ 2011 UBND huyện Yên Lập ban hành quyết định số 1697/ QĐUBND về Phát triển sự nghiệp Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch giai đoạn
2011 - 2015, trong đó có đề án “Điều tra, nghiên cứu, phục dựng và đề xuất giải
pháp bảo tồn, phát huy giá trị một số lễ hội dân gian tiêu biểu dân tộc Mường huyện
Yên Lập”. Người Mường có số dân đông nhất ở Yên Lập chiếm 67,76% dân số toàn
huyện, việc nghiên cứu về văn hóa dân gian dân tộc Mường có ý nghĩa quan trọng về
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đối với toàn huyện. Đề án chỉ đi sâu vào lễ hội
dân gian dân tộc Mường và đó là cơ sở cho tác giả tìm hiểu nghiên cứu về văn hóa
người Mường cũng như sự giao thoa, văn hóa giữa người Mường với các dân tộc
khác trên địa bàn huyện Yên Lập.
Cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Lập 1945-2005, xuất bản năm 2008 của
BCH Đảng bộ huyện Yên Lập. Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầy đủ và có
hệ thống về huyện Yên Lập trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế
quốc Mĩ, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay. Tác phẩm đã đề cập đến nhiều con người cụ thể, công việc cụ thể
của huyện Yên Lập. Đặc biệt trong phần đầu của chương 1 của tác phẩm đã nêu khái
quát về vị trí địa lý, lịch sử và địa giới huyện Yên Lập từ khi thành lập huyện cho đến
nay. Ngoài ra còn có nhiều tranh ảnh về di tích lịch sử, cán bộ lão thành cách mạng
5
của Yên Lập…Tuy nhiên, nội dung tập trung chủ yếu vào nghiên cứu lịch sử Đảng từ
sau cách mạng tháng Tám, vì thế nên lịch sử huyện Yên Lập trong giai đoạn trước,
nhất là thời kì trung đại chưa xuất hiện nhiều trong cuốn sách này.
Ngoài ra còn có các khóa luận, luận văn có liên quan đến đề tài của tác giả. Có
thể kể đến ở đây như: Biến đổi nhà ở của người Dao xã Nga Hoàng, huyện Yên Lập,
tỉnh Phú Thọ, của tác giả Trịnh Thị Ngọc, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Văn
hóa, Hà Nội, năm 2014. Luận văn thạc sĩ Kinh tế Nghiên cứu rủi ro trong sản xuất
nông nghiệp trên địa bàn huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ, Trường Đại học Kinh tế và
Quản trị kinh doanh Thái Nguyên, năm 2014.
Tóm lại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vùng Đất Tổ Phú Thọ nói
chung. Trong đó có huyện Yên Lập. Một số tác phẩm, dù không đề cập trực tiếp
đến huyện Yên Lập nhưng những công trình nêu trên đã giúp cho tác giả tiếp cận
nội dung, phương pháp luận, để làm sáng tỏ các vấn đề về huyện Yên Lập nửa
đầu thế kỷ XIX.
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một
cách toàn diện về huyện Yên Lập trong nửa đầu thế kỉ XIX. Do đó còn nhiều vấn đề
chưa được làm sáng tỏ như: vị trí địa lý, nguồn gốc dân tộc, chế độ sở hữu ruộng dất,
văn hóa các dân tộc ở Yên Lập…cũng như những biến động chính trị qua các thời kì
lịch sử. Mặc dù vậy tác giả luôn xem những thành quả của các nhà nghiên cứu đi
trước là những gợi mở quý báu, tạo điều kiện để tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích, chọn đề tài “Kinh tế, văn hóa huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ nửa
đầu thế kỷ XIX” để nghiên cứu, tác giả mong muốn nêu lên một cách chân thực, khoa
học về một thời kỳ lịch sử của huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX. Ngoài ra, có thể
bổ sung thêm nguồn tư liệu địa bạ góp phần lý giải một số vấn đề lịch sử Việt Nam
trung đại, vấn đề ruộng đất, kinh tế nông nghiệp và mối quan hệ giữa các dân tộc.
Đồng thời trên cơ sở tư liệu hiện có, vấn đề văn hóa của huyện Yên Lập cũng được
tác giả làm rõ.
- Nhiệm vụ, bước đầu đề tài nghiên cứu tương đối toàn diện, đầy đủ về các
mặt: kinh tế và văn hóa của huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ nửa đầu thế kỷ XIX để qua
6
đó thấy được bức tranh về một thời kì lịch sử trong quá khứ của mảnh đất và con
người Yên Lập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Bao gồm các chính sách về kinh tế, chế độ sở hữu
ruộng, hoạt động kinh tế, văn hóa của các dân tộc cùng chung sống ở Yên Lập tỉnh
Phú Thọ nửa đầu thế kỉ XIX.
- Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung bao gồm những vấn đề cơ bản như: tình hình sở hữu ruộng đất, chế
độ tô thuế, các loại hình kinh tế (nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương ngiệp), cấu
trúc làng bản, nhà cửa, ẩm thực, y phục trang sức, một số tục lệ xã hội, quan hệ dòng
họ gia đình, lễ tết và đời sống tôn giáo tín ngưỡng của tộc người Mường, Kinh, Dao ở
Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX.
Phạm vi thời gian: Tập trung nghiên cứu giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX, dưới
triều Nguyễn.
Phạm vi không gian: Huyện Yên Lập, phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa theo địa
giới hành chính nửa sau thế kỉ XIX với 5 tổng 23 xã thôn.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Nguồn tư liêu:
Trong luận văn tác giả đã khai thác và sử dụng một số sử sách và địa chí cổ:
Kiến Văn tiểu lục, Hưng Hóa phong thổ chí, Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống
chí, Đồng Khánh địa dư chí, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ…và nguồn tư liệu
địa phương gồm các sách: Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc kỳ, Địa chí tỉnh
Hưng Hóa, Phú Thọ tỉnh địa chí, Địa chí Vĩnh Phú Văn hóa dân gian vùng đất Tổ,
Người Mường trên đất Tổ Hùng Vương, Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam,
Văn hiến làng xã vùng Đất Tổ Hùng Vương…Những tư liệu trên đã ghi chép tên trấn,
tổng, xã, thôn thời Gia Long và Minh Mệnh, ghi lại số đinh tô thuế ở địa phương,
miêu tả vị trí địa lý, thổ sản, phong tục tập quán…qua đó làm rõ tình hình kinh tế, văn
hóa huyện Yên Lập nửa đầu thế kỉ XIX.
Nguồn tư liệu địa bạ được sử dụng trong luận văn gồm 17 địa bạ có niên đại
Gia Long 4 (1805) và 13 địa bạ thời Minh Mệnh 21 (1840) của huyện được khai thác
7
tại TTLTQG I (Hà Nội).
Ngoài ra tác giả còn sử dụng nguồn tư liệu thực địa, điền dã: Tác giả đã thu thập
được nhiều tài liệu do nhiều địa phương trên địa bàn huyện Yên Lập cung cấp, đến
những làng bản của cộng đồng cư dân thiểu số quan sát, ghi chép về các phong tục tập
quán của họ, thu thập các câu truyện dân ca, ca dao... để bóc tách những vấn đề lịch sử
có thật trong quá khứ.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong giới hạn của đề tài chúng tôi đặc biệt chú ý
khâu giám định tư liệu. Bên cạnh đó tác giả chú ý việc sử dụng phương pháp khai
thác tài liệu thành văn với phương pháp điền dã lịch sử. Đồng thời sử dụng phương
pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phân tích mô tả so sánh, đối chiếu các nguồn tài
liệu, phương pháp tổng hợp bằng hệ thống bảng biểu.
Chúng tôi đặt việc nghiên cứu lịch sử huyện Yên Lập trong mối quan hệ với
lịch sử dân tộc (nửa đầu thế kỷ XIX) để thấy được mối quan hệ tác động qua lại giữa
lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc và ngược lại.
6. Đóng góp của luận văn
Dựa trên những tài liệu có thể khai thác được, đề tài bước đầu khôi phục một
cách có hệ thống lịch sử huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX, mối quan hệ tộc người,
loại hình kinh tế, xã hội, thiết chế chính trị xã hội, những nét văn hóa tiêu biểu gắn
với môi trường sinh thái địa phương, những nhân tố thúc đẩy sự biến đổi kinh tế, văn
hóa địa phương…trong thời kì lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia
thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ.
Chương 2: Kinh tế của huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX.
Chương 3: Văn hóa huyện Yên Lập nửa đầu thế kỷ XIX.
Ngoài ra trong luận văn còn có phần phụ lục với 42 ảnh minh họa, 5 bản đồ, 3
trang địa bạ.
8
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN YÊN LẬP TỈNH PHÚ THỌ
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Yên Lập là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Phú Thọ, có tọa
độ địa lý 210 12’ đến 210 31’ vĩ độ Bắc, 1040 10’ kinh tuyến Đông, có độ cao trung
bình so với mực nước biển là 200m nơi cao nhất là 900m. Huyện nằm trong thung
lũng có chiều dài hơn 60km chiều rộng 8km. Phía Đông giáp huyện Cẩm Khê và
huyện Tam Nông (Phú Thọ), phía Tây giáp huyện Văn Chấn (Yên Bái), phía Nam
giáp huyện Thanh Sơn, Tân Sơn (Phú Thọ) và phía Bắc giáp huyện Hạ Hòa (Phú
Thọ). Theo sách Đại Nam nhất thông chí: “ Huyện Yên Lập:đông tây cách nhau 105
dặm, nam bắc cách nhau 181 dặm, phía đông đến địa giới huyện Cẩm Khê tỉnh Sơn
Tây 7 dặm, phía tây đến địa giới huyện Trấn Yên 98 dặm, phía nam đến địa giới
huyện Thanh Sơn 101 dặm ,phía bắc đến địa giới huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây 80
dặm” [21, tr. 236].
Sách Đồng Khánh địa dư chí cũng chép lại như sau: “Huyện Yên Lập do phủ
Quy Hóa thống hạt. Huyện lỵ ở xã Vân Bán tổng Vân Bán, chu vi 80 trượng, bốn
phía trồng rào tre, mở một cửa trước. Huyện hạt phía đông giáp huyện Cẩm Khê tỉnh
Sơn Tây, phía tây giáp huyện Văn Chấn, phía nam giáp huyện Thanh Sơn, phía bắc
giáp huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây. Đông tây cách nhau 105 dặm. Nam bắc cách nhau
181 dặm” [39, tr. 728].
Ngày nay, huyện Yên Lập có tổng diện tích tự nhiên là 43.783,62 ha chiếm
12,4% diện tích toàn tỉnh Phú Thọ. Trung tâm huyện lỵ cách thành phố Việt Trì
70km, cách thủ đô Hà Nội 150km. Do nằm ở vị trí khá xa trung tâm tỉnh lỵ, cùng với
hệ thống giao thông cơ bản chưa phát triển nên huyện Yên Lập có nhiều khó khăn,
bất lợi so với các huyện lận cận trong giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa đặc biệt là
phát triển các nghành công nghiệp và dịch vụ.
9
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Yên Lập là huyện miền núi cao có địa hình đa dạng và phức tạp, có nhiều dãy
núi cao độ dốc lớn, hệ thống suối, khe, ngòi hẹp và dốc lại phân bố không đều làm
cho địa hình bị phân cách mạnh. Địa bàn huyện có thể chia làm ba tiểu vùng chính:
- Tiểu vùng 1: Các xã vùng hạ huyện (vùng thấp): Là vùng địa hình núi
thấp, đồi cao bao gồm các xã: Minh Hòa, Đồng Lạc, Ngọc Đồng, Ngọc Lập,
Phúc Khánh. Tuy nhiên do địa hình phân cách, nên việc phát triển hệ thống thủy
lợi gặp nhiều khó khăn.
- Tiểu vùng 2: Các xã vùng trung huyện (vùng giữa): Gồm các xã Xuân Viên,
Xuân Thủy, Hưng Long, Đồng Thịnh, Thượng Long và thị trấn Yên Lập. Đây là
vùng thung lũng được tạo bởi hai sườn núi phía đông và phía tây của huyện.
- Tiểu vùng 3: Các xã vùng thượng huyện gồm: Mỹ Lung, Mỹ Lương, Xuân
An, Nga Hoàng và Trung Sơn. Đây là vùng địa hình bị phân cách mạnh, một số vùng
có độ dốc cao trên 250, về mùa mưa thường sảy ra lũ quét, về mùa khô lại hay bị hạn.
Trong huyện có một số dãy núi cao, hiểm trở sách Đại Nam nhất thống chí
chép như sau: “ Núi Quang Sơn: cách huyện Yên Lập hơn 10 dặm về phía bắc,
bốn bên đều khe ngòi. Núi Trầm Trĩ ở huyện Yên Lập: thế núi cao vót,tre gỗ um
tùm, là trấn sơn của huyện. Núi Tượng Khẩu: cách huyện Yên Lập 47 dặm về phía
nam.” [21, tr. 359].
Yên Lập nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Do điều kiện địa lý
cảnh quan quy định nên: “ Địa thế của huyện gần núi, thời tiết phần nhiều là mưa gió
lạnh rét. Mây đùn ngang sườn núi, sương mù sát ngọn cây. Mặt trời lên từ giờ Mão
nhưng khuất mây, mới sang giờ Thân mà sương mù đã che tối. Hơi lạnh bốc ào ào,
bao phủ cả cây cối, phần nào có khí lam chướng” [39, tr. 729].
Ngày nay, khí hậu Yên Lập nói riêng và tỉnh Phú Thọ nói chung mang những
đặc điểm chung của khí hậu miền Bắc đó là nhiệt đới, gió mùa xích đạo. Một năm có
4 mùa xuân, hạ, thu, đông, song hình thái hai mùa tương đối rõ rệt. Mùa đông lạnh và
khô hạn, kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 2 năm sau với nhiệt độ trung bình
là 140C - 180C, độ ẩm khoảng 62% thường vào tháng 12 hằng năm, thời tiết giá rét
kèm theo sương muối. Mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, kéo dài từ tháng 6 đến 9, với
10
nhiệt độ trung bình từ 280C - 300C. Mùa nóng cũng chính là mùa mưa nhiều, lượng
mưa trung bình đạt 1570mm / năm thường kèm theo dông, tố, lốc, gió giật mạnh gây
ra lũ ống, lũ quét ở vùng núi cao, ngập lụt ở vùng trũng thấp.
Sự chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa nóng lạnh tương đối lớn. Nhiệt độ trung
bình hàng năm vào khoảng 22,50 C (gió thịnh hành là gió mùa đông bắc và gió mùa
đông nam), nhiệt độ trung bình ở tháng nóng nhất (tháng 6) là 390 C ở tháng thấp nhất
là 50C. Độ ẩm trung bình trong năm là 86% - 89% [44, tr. 8].
Nơi có độ cao từ 1.500m trở lên hầu như không có mùa nóng, nhiệt độ trung
bình ổn định dưới 20ºC, có nơi có hiện tượng sương muối, băng tuyết, thường bị hạn
hán vào đầu mùa lạnh và cuối mùa thường có mưa phùn. .
Nhìn chung khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa đã tạo thuận lợi cho phát triển kinh
tế nhất là với sản xuất nông nghiệp. Lượng bức xạ phong phú nền nhiệt lượng cao là
thuận lợi đối với việc tạo ra sinh khối lớn giúp cho cây trồng phát triển, cây ăn quả và
cây lương thực ngắn ngày quay vòng nhanh, các ngành khai thác và chế biến gặp
nhiều thuận lợi, các ngành du lịch và giao thông có thể hoạt động quanh năm. Khí
hậu mát ở vùng cao (tiểu vùng 3) cho phép trồng cây dược liệu quý. Đặc biệt Yên
Lập là huyện miền núi cơ bản chưa bị ô nhiễm do khói bụi công nghiệp, cộng với
diện tích rừng trồng lớn có khả năng tự làm sạch tốt nên môi trường khí hậu rất trong
lành. Bên cạnh những thuận lợi kể trên, địa phương cũng chịu nhiều hậu quả do đặc
điểm của thời tiết gây ra. Mùa đông nhiều đợt gió lạnh buốt tràn về gây ra sương
muối, đầu mùa hè những đợt gió tây nóng tràn sang ảnh hưởng đến sức khỏe con
người súc vật và cây trồng. Các tai biến thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt, mưa đá,
sương muối đã gây ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của nhân dân trong huyện,
đặc biệt là đối với nông, lâm nghiệp.
Chế độ thủy văn phụ thuộc vào cấu tạo địa hình. Mực nước trong các suối, khe,
ngòi, hồ chứa nước trong địa bàn huyện lên xuống thất thường, đột ngột phụ thuộc vào
các trận mưa lớn trong mùa mưa. Mực nước tại các suối hằng năm là +25,45m, mực
nước lũ lịch sử từng đạt đến +56,62m [44, tr. 8]. Hằng năm thường xảy ra lũ ống gây
ngập lụt cục bộ, có thể kéo dài đến hai ngày tùy thuộc vào từng trận mưa lớn.
Trên địa bàn huyện không có sông chảy qua, chủ yếu là các suối nhỏ đổ ra
ngòi. Toàn huyện có sáu suối và ngòi chính. Ngòi Lao bắt nguồn từ mũi Kim (tỉnh
11
Yên Bái) chảy qua địa phận các xã Mỹ Lung, Mỹ Lương. Ngòi Giành bắt nguồn từ
Nghĩa Tâm (tỉnh Yên Bái) chảy qua địa phận các xã Trung Sơn, Xuân An, Xuân
Viên, Lương Sơn sang xã Phượng Vĩ (huyện Cẩm Khê) rồi đổ ra sông Thao. Ngòi Cỏ
bắt nguồn từ xã Minh Hòa chảy qua xã Đồng Lạc. Ngoài ra còn có Suối Cái bắt
nguồn từ xã Trung Sơn qua xã Thượng Long, thị trấn Yên Lập. Tất cả các ngòi trên
rồi đều đổ ra sông Thao ở Cẩm Khê. Nhìn chung các ngòi, suối vùng này thường
nông, nước trong, chảy xiết. Do địa hình bị chia cắt đã tạo nên những thác lớn và đẹp
như: thác Đá Thờ, thác Khỉ Dòm, thác Khe Châu…Đây cũng là nguồn cung cấp nước
sinh hoạt cho đồng bào và tưới tiêu đồng ruộng. Như vậy, tài nguyên nước của Yên
Lập không lớn phụ thuộc phần lớn vào tự nhiên.
Tài nguyên đất ở Yên Lập có nhiều loại, đất feralit màu vàng nhạt trên núi,
chủ yếu các dãy núi cao, có độ ẩm lớn, độ mùn cao, phù hợp với cây lâm nghiệp, cây
lấy gỗ và cây đặc sản có giá trị kinh tế cao. Loại đất này phát triển chủ yếu ở các xã
tiểu vùng 3 như: Trung Sơn, Nga Hoàng, Mỹ Lung, Mỹ Lương, Xuân An. Đất được
hình thành do bồi tụ trong quá trình phong hóa có thành phần cơ giới chủ yếu là đất
thịt trung bình và thịt nặng, chủ yếu ở các xã tiểu vùng 2 Xuân Viên, Xuân Thủy,
Hưng Long, Đồng Thịnh, Thượng Long. Loại đất này phù hợp cho phát triển sản xuất
cây lương thực như: lúa, ngô theo hướng chuyên canh và thâm canh cao, phát triển
những giống lúa chất lượng cao như xôi nếp Gà Gáy. Ngoài ra còn có đất phù sa suối,
ngòi ở các xã Mỹ Lung, Mỹ Lương, Trung Sơn, Lương Sơn phù hợp với trồng cây
lúa nước, lạc, mía.
Hiện nay Yên Lập có tổng diện tích đất tự nhiên là 43.783,62ha bao gồm: đất
nông nghiệp là 36.778,82 ha chiếm 84,07% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong tổng
diện tích đất nông nghiệp, đất sản xuất nông nghiệp là 8382,54 ha chiếm 22,79%, đất
lâm nghiệp là 27.987,99 ha chiếm 76,09% và đất nuôi trồng thủy sản là 408,17 ha
chiếm 1,1%. Trong diện tích đất sản xuất nông nghiệp, đất trồng cây hằng năm là
4334,19 ha chỉ chiếm 51,7% (và chiếm 9,9% tổng diện tích đất tự nhiên), còn lại là
đất trồng cây lâu năm [44, tr. 9].
12
Với quỹ đất như trên, huyện Yên Lập có nhiều thuận lợi trong phát triển nông
nghiệp, đặc biệt là cây lâm nghiệp và cây công nghiệp lâu năm. Quỹ đất chưa sử dụng
còn nhiều, có thể đáp ứng nhu cầu mở rộng quỹ đất chuyên dùng để xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội của huyện trong tương lai.
Đất đai vùng Yên Lập do các loại đá trầm tích phong hóa yếu cấu tạo, thảm
mục chứa nhiều mùn, giàu đạm. Từ chất đất còn rất tốt ấy, từ thuận lợi mưa nhiều
độ ẩm cao ấy, đã sinh thành nên một “rừng vàng” của Phú Thọ. Tiềm năng về tài
nguyên rừng của Yên Lập chỉ đứng sau huyện Tân Sơn. Trong tập đoàn cây rừng
trên địa bàn, có một số loài có giá trị kinh tế cao như đinh, lim, sến,táu, chò, lát,
gỗ xưa, gỗ hương, cây dược liệu quý như: đẳng sâm, sơn trà, hà thủ ô, hoài sơn, sa
nhân… động vật hiếm (hổ, báo, cày hương, lợn rừng, hươu, khỉ, trăn) cùng nhiều
khu rừng có cọ, măng, nấm hương, mộc nhĩ, trẩu, quế, chè. Sản vật ở Yên Lập
được nhắc đến trong sách Đồng Khánh dư địa chí như sau: “ Rừng nhiều gỗ tạp,
tre nứa. Chim thú như gà rừng, hổ, hươu thi thoảng cũng có” [39, tr. 729]. Đặc
biệt là gà rừng có rất nhiều ở vùng núi rừng Yên Lập. Sách Đại Nam nhất thống
chí có chép: “.Gà rừng: có tên nữa là “Trường Thanh”. Châu Thuận và huyện Yên
Lập có rất nhiều”[21, tr. 387].
Điều kiện tự nhiên đã đem lại cho Yên Lập nhiều lợi thế về tài nguyên khoáng
sản cũng như thế mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp. Trên địa bàn huyện Yên Lập có 19
mỏ và điểm quặng với trữ lượng không lớn, nằm rải rác ở các xã trong huyện, trong đó
có 10 mỏ đá, 2 mỏ than bùn, 3 mỏ quặng sắt, 3 mỏ chì kẽm, 1 mỏ chì bạc. Ngoài ra
trên địa bàn huyện còn có một số khoáng chất công nghiệp, khoáng sản làm vật liệu
xây dựng (như Đôlomit, Pirit, cát, sỏi…).
Về giao thông, Yên Lập không có đường quốc lộ, sông lớn chạy qua nên từ
trước Cách mạng Tháng Tám, địa bàn Yên Lập ít có điều kiện giao lưu với các vùng
khác. Việc đi lại của nhân dân chủ yếu là những con đường mòn, vắt qua những sườn
thung lũng để giao lưu với những vùng khác. Trong đó:
“ Một đường nhỏ từ huyện lỵ đi về phía đông, qua xã Vân Bán đến giáp huyện
Cẩm Khê tỉnh Sơn Tây, dài 3 dặm 83 trượng, rộng 5 thước. Một đường nhỏ từ huyện
13
lỵ đi về phía tây bắc, qua các xã Vân Thê, Quế Sơn, Yên Sào đến giáp huyện Văn
Chấn, dài 33 dặm 115 trượng, rộng 4 thước. Một đường nhỏ từ huyện lỵ đi về phía
tây nam, qua các xã Vân Lung, Đông Lỗ, Ngọc Lập, Thu Ngạc đến giáp huyện Thanh
Sơn, dài 307 dặm 100 trượng, rộng 4 thước .” [39, tr. 730].
Các tuyến đường này giữ vai trò quan trọng trong việc thông thương đi lại của
cư dân Yên Lập cũng như buôn bán trao đổi hàng hóa, tiếp xúc và giao lưu văn hóa
của cư dân trong huyện với các địa phương lân cận. Các tuyến đường này đều là
đường đất nhỏ hẹp.
Ngày nay Yên Lập có hệ thống giao thông đường bộ khá phát triển với 5 tuyến
đường tỉnh lộ chạy qua, là các tuyến đường 313, 321, 321B, 313D, 321C. Toàn bộ
các tuyến đường tỉnh lộ ở Yên Lập có chiều dài 107,1 km tạo điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế, văn hóa của huyện. Các tuyến đường liên huyện, liên xã phát
triển mạnh, 100% các xã đã có đương rải nhựa tới Ủy ban. Với chương trình Xây
dựng nông thôn mới, các con đường bê tông đang được triển khai xây dựng tới tận
thôn, xóm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục của các bản làng, góp
phần nâng cao đời sống nhân dân trong huyện.
Với điều kiện tự nhiên đặc thù của mình, Yên Lập đã sớm trở thành nơi sinh
sống của cư dân Mường, và trong lịch sử là nơi đón nhận cư dân nhiều nơi đổ về
quần tụ, sinh cơ lập nghiệp.
1.2. Lịch sử hành chính huyện Yên Lập
Trong quá trình tồn tại, vùng đất Yên Lập có nhiều biến đổi. Yên Lập trước
khi trở thành một huyện của tỉnh Phú Thọ là một vùng đất nằm trong tỉnh Hưng Hóa một tỉnh lớn về diện tích, trải rộng khắp vùng trung du và thương du Bắc Kỳ (khu vực
Tây Bắc). Trong tiến trình lịch sử dân tộc, Hưng Hóa nói chung và huyện Yên Lập
nói riêng đã nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới hành chính. Theo sách Đại Nam
nhất thống chí, mục tỉnh Hưng Hóa “đời Hùng Vương xưa là bộ Tân Hưng” [21, tr.
308] là một trong 15 bộ hợp thành nhà nước Văn Lang. Những dấu tích của thời đại
kim khí ở Yên Lập rất phong phú và khá độc đáo trong đó nổi bật lên là những trống
đồng (loại II Hergo) mang phong cách Văn hóa Đông Sơn tại các xã Đồng Thịnh,
14
Phúc Khánh, Ngọc Lập và Tân Long (nay là thị trấn Yên Lập) là những hiện vật
thuộc thời đại Hùng Vương, thời đại đầu tiên ở nước ta thuộc nhà nước Văn Lang.
Trên trống đồng khắc hình người đánh trống, đánh chiêng, gõ mõ, nhảy múa và một
số hình ảnh khác phản ánh cảnh sinh hoạt văn hóa của cư dân thời đó. Như vậy các di
chỉ khảo cổ học đã chứng minh nền văn minh sông Hồng của thời đai Hùng Vương
đã có mặt trên các vùng đất mà sau này hình thành nên huyện Yên Lập.
Sau thất bại của Thục Phán An Dương Vương, nước ta rơi vào tay của Triệu Đà,
mở đầu thời kì Bắc thuộc kéo dài 1117 năm mà lịch sử gọi là 1000 năm Bắc thuộc ( từ
179 TCN đến 938). Từ năm 179TCN, dưới sự thống trị của các triều đại phương Bắc:
Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường tên địa danh hành chính
của cả nước và các bộ có những thay đổi và tên gọi khác nhau. Theo sách Đại Nam
nhất thống chí: “Bộ Tân Hưng thời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc Nam Trung,
đời Ngô là đất huyện Tây Đạo của Lâm Tây, thuộc quận Tân Hưng. Đời Đường là
huyện Tân Xương lệ vào Châu Phong” [21, tr. 308-309]. Trong chính sách cai trị đối
với nước ta lúc bấy giờ, một số bộ lạc ở miền núi phía bắc và tây bắc nước ta, nhà
Đường vẫn để cho các tù trưởng cũ giữ bộ lạc của họ, châu Quy Hóa là một trong 40
châu “ky my” (ràng buộc lỏng lẻo). Sau khi họ Khúc khôi phục nền tự chủ, trải qua các
đời Ngô, Đinh, Tiền Lê, các địa danh hành chính của nước ta hầu như không thay đổi.
Nhà Lý lên thay nhà Tiền Lê đã kế thừa những thành tựu của các triều đại trước, đồng
thời bắt tay ngay vào việc củng cố, xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền định đô ở Thăng Long, năm 1054 đổi tên nước là Đại Việt, chia nước làm 12 lộ.
Tỉnh Hưng Hóa đời Lý là đất đạo Lâm Tây và Châu Đằng. Đời Trần đặt làm đạo Đà
Giang, lại đặt làm trấn. Cuối đời Trần lại đổi làm Trấn Thiên Hưng.
Thời thuộc Minh, đặt 2 châu Quy Hóa và Gia Hưng. “Đến thời Lê Thuận
Thiên đặt hai lộ Gia Hưng và Quy Hóa thuộc tây đạo. Bản đồ đời Hồng Đức, đổi 2 lộ
làm phủ... Năm Thuận Thiên thứ 5 đặt Hưng Hóa thừa tuyên, cũng gọi là xứ Hưng
Hóa lãnh 3 phủ, 4 huyện, và 17 châu. Trong đó phủ Quy Hóa lĩnh 3 huyện: Trấn Yên,
Yên Lập, Văn Chấn và hai châu Văn Bàn, Thủy Vĩ” [21, tr. 309]. Theo đó, huyện
Yên Lập xưa là đất Đăng Châu đời Lý. Tên huyện Yên Lập đã có từ thời Trần, thuộc
châu Quy Hóa, trấn Hưng Hóa lúc đầu có 23 sách, sau hợp lại còn 21 sách. Thời nhà
Nguyễn, địa giới hành chính các cấp có một số thay đổi. Đời vua Gia Long (còn gọi
15
là sách và chưa có tổng), huyện Yên Lập có 20 sách, thôn: Huyện An Lập thuộc phủ
Quy Hóa, trấn Hưng Hóa có 20 sách, thôn, sách Đông Lỗ (có 2 thôn Văn Lũng và
Hương Lan), sách Thu Ngạc, Hạ Lung, Sa Lung, Thượng Long, Mộ Lan, Quế Sơn,
Quắc Thước, Vân Hoàng, An Sào, Bạn Lữ, Vân Bán, Nga My, Phượng Vỹ, Phục Cổ,
An Dưỡng, Đoài Lỗ, Sơn Lương, Khổng Tước, Đồ Thủy. Năm Minh Mệnh thứ 12
(1831), trấn Hưng Hóa đổi thành tỉnh Hưng Hóa, năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), đổi
sách thành xã (làng) và đặt tên tổng: huyện Yên Lập có 23 xã [3, tr. 11]
Sau khi đánh chiếm nước ta, thực dân Pháp lập ra các tỉnh mới trên cơ sở chia
cắt các tỉnh cũ thời phong kiến. Năm 1903 chính quyền thực dân điều chỉnh địa giới
tỉnh Hưng Hóa, chuyển tỉnh lỵ từ làng Trúc Phê (huyện Tam Nông) lên làng Phú Thọ
và sau đổi thành tỉnh Phú Thọ; còn các huyện miền núi trong tỉnh gọi là châu. Châu
Yên Lập trong thời kì Pháp thuộc có thay đổi vì có thêm, bớt một số làng. Thời điểm
năm 1903, châu Yên Lập có 3 tổng, 13 làng; năm 1931 có 1 phố, 3 tổng, 15 làng;
năm 1939 có 16 làng. Như vậy cho đến thời điểm này, châu Yên Lập giữ nguyên con
số 1 phố, 3 tổng, 16 xã, đó là tổng Đông Lỗ có 6 xã gồm Đoài Lỗ, Đông Phú, Phục
Cổ, Đồng Lạc, Đông Lỗ, Ngọc Lập; tổng Sơn Lương có 5 xã gồm Nga Mỹ, Sa Lung,
Sơn Lương, Quế Sơn, Yên Sào; tổng Thượng Long có 5 xã gồm Đồ Thủy, Hạ Long,
Mộ Xuân, Thượng Khê, Thượng Long và phố Tân An (cụ thể xem phụ lục).
Từ sau cách mạng tháng Tám đến nay, huyện Yên Lập tiếp tục có một số thay
đổi về đơn vị hành chính. Sau khi đất nước được độc lập, nhà nước Việt nam quyết
định xóa bỏ một số cấp trung gian như phủ, châu, tổng gọi chung là huyện, hợp nhất
các làng nhỏ thành xã lớn. Thực hiện chủ trương của chính phủ, châu Yên Lập đổi
thành huyện Yên Lập; từ 16 xã cũ nhập thành 8 xã mới gồm xã Mỹ Lung, xã Minh
Hòa, xã Ngọc Lập, xã Lương Sơn, xã Xuân Thủy, xã Thượng Long, xã Đồng Thịnh
và xã Phúc Khánh.
Từ cuối năm 1953 đến đầu năm 1964, 8 xã của Yên Lập lại được chia thành 17
xã mới, trong đó xã Mỹ Lung chia thành 2 xã là Minh Hòa và Đồng Thịnh; xã Xuân
Thủy chia thành 3 xã là xã Xuân An, xã Xuân Viên và xã Xuân Thủy. Riêng xã
Thượng Long chia thành 4 xã đó là: xã Thượng Long, xã Tân Long, xã Hưng Long
16
và xã Trung Sơn; xã Đại La chia thành hai xã gồm xã Địch Quả (huyện Thanh Sơn)
và xã Ngọc Đồng. Đến cuối năm 1964 xã Đồng Minh đổi tên thành xã Đồng Lạc.
Về cấp huyện, ngày 05/7/1977, Hội đồng chính phủ ban hành quyết định số
178/CP về việc sáp nhập một số huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phú, trong đó huyện Cẩm
Khê hợp nhất với huyện Yên Lập và 10 xã của huyện Hạ Hòa thành lập huyện mới có
tên là huyện Sông Thao. Sau đó không lâu, ngày 22/12/1980 , Hội đồng Chính phủ ra
tiếp Nghị quyết số 377/CP sửa đổi một số đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Vĩnh
Phú, trong đó chia huyện Sông Thao thành hai huyện như cũ là huyện Sông Thao và
huyện Yên Lập. Năm 1997 tỉnh Phú thọ được tái lập, huyện Yên Lập chính thức là
một huyện trực thuộc tỉnh Phú Thọ cho đến nay. Ngày 28/5/1997, Chính phủ ra Nghị
định số 55/CP về việc thành lập thị trấn Yên Lập. Phạm vi thị trấn bao gồm toàn bộ
đất đai xã Tân Long. Từ tháng 5 năm 1997, đơn vị hành chính huyện Yên Lập gồm
16 xã và 1 thị trấn Yên Lập. Huyện lỵ: thị trấn Yên Lập, các xã: xã Mỹ Lung, xã Mỹ
Lương, xã Lương Sơn, Xã Xuân An, xã Xuân Viên, xã Xuân Thủy, xã Trung Sơn, xã
Hưng Long, xã Nga Hoàng, xã Đồng Lạc, xã Thượng Long, xã Đồng Thịnh, xã Phúc
Khánh, xã Minh Hòa, xã Ngọc Lập và xã Ngọc Đồng.
1.3. Các thành phần dân tộc
Cũng như các huyện khác của tỉnh Phú Thọ, Yên Lập là vùng đất sớm có
người Việt cổ đến sinh sống. Các nhà khảo cổ đã phát hiện được ở một số địa phương
trong huyện nhiều hiện vật bằng đồng, trong đó có trống đồng Tân Long, Đồng
Thịnh, Ngọc Lập (loại II Hergơ) là những hiện vật thuộc thời đại hùng Vương. Trên
trống đồng có khắc hình người đánh trống, đánh chiêng, gõ mõ, nhảy múa và một số
hình ảnh khác phản ánh cảnh sinh hoạt văn hóa của con người thời đó. Trải qua hàng
vạn năm, bằng bàn tay lao động và khối óc thông minh sáng tạo của mình, những cư
dân sống ở Yên Lập ra sức khai phá đồi nương, dũng cảm chống chọi với thiên nhiên,
thú dữ, giặc ngoại xâm để duy trì cuộc sống bảo vệ và xây dựng làng bản đông vui
như ngày nay. Chứng tỏ Yên Lập nằm trong địa bàn sinh tồn và phát triển liên tục của
người Việt cổ trên đất nước ta. Buổi đầu thưa thớt rồi sinh sôi nảy nở ngày một đông
thêm. Về sau lại tiếp nhận thêm các dòng người từ bốn phương tụ lại cứ như thế đến
đầu thế kỷ XIX trên dải đất Yên Lập đã có nhiều tộc người cùng sinh sống. Sự phân
17