Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế trong quá trình thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở việt nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.61 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HẢI NINH

KIỂM SOÁT THU NHẬP CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 62 38 01 07

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2016


Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Văn Tuyến
2. PGS.TS. Nguyễn Thị Ánh Vân

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:



Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp
trường, họp tại Trường Đại học Luật Hà Nội, vào
hồi…..….ngày…….. tháng…….. năm 2016

Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Quốc Gia;
2. Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21/11/2007,
chính thức có hiệu lực từ 01/01/2009 và được sửa đổi bổ sung một số điều năm 2012; Quá trình này
không chỉ đánh dấu sự hoàn thiện trong hệ thống pháp luật thuế mà còn thể hiện bước đổi mới quan
trọng trong tư duy lập pháp ở Việt Nam theo hướng ngày càng tiệm cận với thông lệ quốc tế. Việc triển
khai Luật thuế TNCN vào thực tiễn cuộc sống đã bước đầu góp phần kiểm soát được các nguồn thu
nhập của người dân, tạo điều kiện cho các cơ quan chức năng có một công cụ hữu hiệu để kiểm tra,
kiểm soát thu nhập của dân cư. Trải qua 6 năm thực hiện Luật thuế TNCN đã thu được những thành tựu
và kết quả đáng khích lệ; trong công tác quản lý thuế, cơ sở dữ liệu quản lý thông tin người nộp thuế
(NNT) đã được xây dựng; số lượng NNT được cấp mã số thuế cá nhân (MSTCN) cùng với số tiền thuế
TNCN thu được qua mỗi năm đều tăng cao; về cơ bản, các khoản thu nhập từ tiền công tiền lương đã
được kiểm soát …. Tuy nhiên, tỷ lệ thất thoát NSNN do chưa thể kiểm soát được nguồn thu của cá
nhân người nộp thuế TNCN vẫn còn không nhỏ. Trên thực tế, các cơ quan chức năng ở Việt Nam mới
chỉ có thể kiểm soát thu nhập (KSTN) của những người làm công ăn lương có thu nhập rõ ràng, ổn định
thông qua cơ quan chi trả thu nhập, còn một số lượng không nhỏ những cá nhân kinh doanh ẩn thuế,
tránh thuế do pháp luật thuế TNCN hiện tại mới chỉ có thể kiểm soát được các khoản thu nhập trên
bảng lương (thu nhập danh nghĩa) mà chưa thể kiểm soát được tổng nguồn thu (thu nhập thực tế) của

NNT. Thực tế này cho thấy hiện đang tồn tại một khoảng trống lớn trong các quy định pháp luật về
kiểm soát thu nhập cá nhân (KSTNCN). Dù còn nhiều vấn đề gây tranh cãi xung quanh việc thực thi
đạo luật này nhưng có lẽ việc KSTN của cá nhân NNT như thế nào để khắc phục tình trạng trốn, lậu
thuế để xác định đúng mức thuế phải nộp nhằm thu đúng, thu đủ số thuế TNCN và đảm bảo công bằng
giữa những NNT vẫn là vấn đề nổi cộm nhất, cần được nghiên cứu một cách thấu đáo. Những lý do nêu
trên cho thấy sự cấp bách và cần thiết phải có những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề KSTNCN của
người nộp thuế TNCN, dưới cả hai giác độ lý luận và thực tiễn pháp lý. Xuất phát từ nhận thức như
vậy, NCS cho rằng với việc lựa chọn vấn đề “Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế trong quá
trình thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ là thực sự
cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
NCS tiến hành phân tích, đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống về mặt lý luận và thực
tiễn những vấn đề pháp luật về KSTN của người nộp thuế TNCN ở Việt Nam; đưa ra được những luận
giải khoa học để xác định được hướng tiếp cận phù hợp đối với pháp luật về KSTNCN trong các hướng
tiếp cận khác nhau hiện nay. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về KSTN của người nộp thuế
TNCN để từ đó tìm kiếm các giải pháp phù hợp hoàn thiện pháp luật về KSTN của người nộp thuế
TNCN ở Việt Nam.
Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ của luận án được đặt ra nghiên cứu cụ thể các vấn
đề: Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về KSTN của NNT trong quá trình thực
hiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam; Thứ hai, đánh giá tính hiệu quả của các quy định hiện hành về
KSTNCN trong thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN thông qua phân tích thực trạng pháp luật và
thực tiễn áp dụng pháp luật thuế TNCN thời gian qua, trên cơ sở so sánh, đối chiếu với kinh nghiệm
KSTN của NNT theo pháp luật một số nước. Từ đó tìm ra biện pháp KSTNCN phù hợp và hiệu quả đối

Comment [VN1]: Em ơi, ý tứ loanh quanh quá!
Viết lại ý này!


2


với Việt Nam trong điều kiện hiện tại; Thứ ba, đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện cơ chế
KSTN của NNT TNCN ở Việt Nam trên cả hai phương diện: (i) hoàn thiện cơ sở pháp lý; (ii) tổ chức
thực hiện pháp luật vì mục tiêu phòng, chống thất thoát thuế, trốn thuế, lậu thuế TNCN đảm bảo nguồn
thu cho NSNN và đảm bảo sự công bằng giữa những NNT ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu của đề tài: Luận án tập trung nghiên cứu các quan điểm lý luận về
KSTN của NNT trong pháp luật thuế TNCN và các quy định pháp luật có liên quan; các quy định pháp
luật về KSTNCN của Việt Nam và của một số quốc gia phát triển; thực tiễn pháp luật về KSTN của
NNT trong quá trình thực thi pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu của đề tài: Vấn đề KSTNCN là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành
và lĩnh vực khác nhau như: Kinh tế học, tài chính học và luật học. Trong lĩnh vực luật học, vấn đề
KSTNCN cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành luật khác nhau như: luật kinh tế; luật hành
chính công, công pháp quốc tế. Tiếp cận dưới góc độ chuyên ngành luật kinh tế, phạm vi nghiên cứu
của đề tài này tập trung vào các vấn đề pháp luật về KSTN của người nộp thuế TNCN ở Việt Nam. Về
nội dung, luận án tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật về KSTNCN của người nộp thuế
TNCN, để từ đó đánh giá được thực trạng KSTN của NNT TNCN ở Việt Nam. Những quy định pháp
luật nghiên cứu thuộc pháp luật về thuế TNCN, bao gồm luật về nội dung là luật thuế TNCN và luật về
thủ tục là luật quản lý thuế; các quy định pháp luật có liên quan về: Ngân hàng, tín dụng, thuế tài sản,
thanh toán KDTM, trả lương qua tài khoản … Về không gian, luận án sẽ giới hạn tập trung chủ yếu
nghiên cứu các quy định pháp luật trong nước, bên cạnh đó tham khảo nghiên cứu một số quy định về
KSTNCN ở nước ngoài, phân tích, bình luận các quy định này để rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết
cho quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về KSTN của người nộp thuế TNCN ở Việt Nam; Về
thời gian, luận án tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về KSTN của NNT hiện hành, qua đó
làm cơ sở đánh giá chính xác thực trạng pháp luật về KSTN của người nộp thuế TNCN ở Việt Nam. Để
đảm bảo tính khả thi cho các kiến nghị, luận án cũng nghiên cứu quá trình thực hiện những quy định về
KSTN của NNT trong thực tiễn cuộc sống.
4. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp tiếp cận: Luận án tiếp cận nghiên cứu vấn đề KSTNCN từ góc độ pháp luật
kinh tế. Là công trình nghiên cứu khoa học mang tính lý thuyết pháp lý và ứng dụng về KSTNCN qua
phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam qua đó đề xuất những giải

pháp phù hợp nhằm KSTNCN của NNT
Về phương pháp nghiên cứu: Là một đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học pháp lý, để đạt
được mục tiêu nghiên cứu, NCS đã sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu phù hợp với yêu cầu
của đề tài như: phương pháp hệ thống hóa, phân tích và tổng hợp; luật học so sánh; thống kê…Các
phương pháp này được vận dụng để nghiên cứu làm rõ từng nội dung cụ thể, nhằm đạt được những
nhiệm vụ đã xác định của luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Là công trình nghiên cứu về một chủ đề mới và chuyên sâu của khoa học pháp lý, luận án có
những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn như sau:
Thứ nhất, về mặt lý luận. Luận án đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về KSTN của NNT
trong quá trình thực hiện pháp luật thuế TNCN như: Từ những cách tiếp cận khác nhau để nghiên cứu
bản chất của KSTN, luận án đã (i) xây dựng được khái niệm về KSTNCN bao quát đầy đủ các dấu hiệu

Comment [vt2]: Em kiểm tra lại xem có đúng em
n/c học thuyết về vđề này ko nhé! Nếu ko có thì bỏ ý
này!

Comment [vt3]: Thực ra tôi nghĩ, đề tài của em
thiên về chuyên ngành luật hành chính thì đúng hơn
là c/ngành LKT vì em n/c về qlý NN đ/v KSTN của
NNT. Vì vậy, em chuẩn bị tinh thần để bảo vệ quan
điểm của mình trước HĐ, phòng khi có thầy cô nào
đó vặn vẹo.

Comment [vt4]: Lưu ý cách chọn từ!

Comment [vt5]: Diễn đạt!


3


cũng như phương thức thực hiện của KSTNCN; (ii) Nhận diện và làm rõ những vấn đề thuộc bản chất
pháp lý về KSTNCN; (iii) Nhận diện và xác định rõ pháp luật về KSTN của người nộp thuế TNCN là
một bộ phận quan trọng cấu thành của pháp luật quản lý thuế TNCN; Nhận diện và làm rõ các bộ phận
cấu thành pháp luật về KSTNCN; (iv) Nhận diện và chỉ rõ các phương thức KSTNCN của NNT ở Việt
Nam; (v) Làm rõ các yếu tố chi phối, tác động đến pháp luật về KSTNCN của NNT trong quá trình
thực thi pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam;
Thứ hai, về mặt thực tiễn, luận án chỉ ra những thành tựu đạt được và làm rõ những bất cập, hạn
chế trong thực tiễn KSTNCN của NNT ở Việt Nam; chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các
hạn chế đó. Đây là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về KSTNCN của
NNT ở Việt Nam phù hợp với điều kiện thực tiễn trong nước.
Thứ ba, luận án đề xuất được định hướng và các giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật
về KSTN của NTT phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam; đảm bảo yêu cầu kiểm soát nguồn thu
và chống thất thoát thuế. Các giải pháp này tập trung vào các vấn đề trọng tâm như: ban hành một đạo
luật riêng về KSTNCN của NNT; áp dụng biện pháp KSTN của NNT thông qua tài khoản cá nhân duy
nhất tại ngân hàng gắn liền với MST cá nhân NNT; KSTNCN thông qua quy định hạn mức thanh toán
bằng tiền mặt và TTKDTM; KSTNCN thông qua khấu trừ tại nguồn tại đơn vị chi trả thu nhập;
KSTNCN thông qua hệ thống quản lý thông tin dữ liệu NNT tập trung; KSTNCN thông qua quy định
nghĩa vụ giải trình và chứng minh thu nhập đối với cá nhân NNT…
Thứ tư, những phát hiện, đóng góp mới của luận án còn thể hiện ở chỗ, đây cũng là công trình
khoa học đầu tiên ở cấp độ luận án tiến sĩ Luật học nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về
vấn đề KSTNCN của người nộp thuế TNCN ở Việt Nam cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn
pháp lý.
Thứ năm, Các kết quả nghiên cứu và kết luận khoa học trong luận án có thể coi là nguồn tư liệu
tham khảo cho các cơ quan chức năng trong hoàn thiện pháp luật về KSTNCN người nộp thuế ở Việt
Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được thiết kế gồm 4
chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.

Chương 2: Những vấn đề lý luận về kiểm soát thu nhập cá nhân và pháp luật về kiểm soát thu
nhập của người nộp thuế thu nhập cá nhân.
Chương 3: Thực trạng kiểm soát thu nhập của người nộp thuế trong quá trình thực hiện pháp
luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.
Chương 4: Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát thu nhập của người nộp thuế trong quá
trình thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thực tế, những công trình có đề cập đến các vấn đề về KSTNCN không nhiều; trong đó, có
thể kể đến một số công trình tiêu biểu đề cập đến vấn đề KSTNCN như:


4

Thứ nhất, cuốn sách: “Thuế ở các nước đang phát triển” do các tác giả Richard M.Bird và
Oliver Oldman biên soạn và công bố năm 1990. Tại chương 36 về “cải thiện tuân thủ thuế”, đã khẳng
định:“trốn thuế không chỉ là vấn đề hạn chế trong một số ít các quốc gia kém phát triển; và tình trạng
chỉ thu được một nửa hay ít hơn số thuế thu nhập tiềm năng không phải là tình trạng cá biệt. Tại nhiều
nước, người ta đã nghe nhiều đến vấn đề có vô số những người giàu có - các nhà buôn, các nhà chuyên
môn... lại hoàn toàn nằm ngoài phạm vi quản lý của thuế thu nhập. Trong trường hợp này, biện pháp
chế ngự các tác giả đưa ra là cần phải ra sức nâng cao ý thức tuân thủ của những người hiện đang là
“người đóng thuế danh nghĩa”. Đóng góp của nghiên cứu là đã chỉ ra thực trạng chung ở các nước đó
là có không ít những NNT mới chỉ đóng thuế dựa trên thu nhập danh nghĩa, trên thực tế cơ quan thuế
vẫn chưa thể xác định được thu nhập thực tế của họ để đánh thuế; NCS cho rằng việc cải thiện sự tuân
thủ thuế của những NNT là một việc làm rất quan trọng giúp NNT kê khai đúng số thuế phải nộp qua
đó tạo thuận lợi cho cơ quan quản lý thuế trong việc KSTNCN. Lý thuyết này cũng tạo cơ sở lý luận
giúp cho NCS nghiên cứu những nội dung thuộc về bản chất pháp lý của vấn đề KSTCN.
Thứ hai, bài báo “Kiểm soát thu nhập của các cá nhân ở Lát-vi-a”, của tác giả Anita Brauna

được đăng trên trang: www.policy.lv, tháng 3 năm 2005; Tiếp cận dưới góc độ pháp lý, những đóng
góp của nghiên cứu này trong lý luận pháp lý về KSTNCN được thể hiện: tác giả đã chỉ ra các nguyên
nhân dẫn đến việc KSTNCN thiếu hiệu quả là : (i) Do cơ quan quản lý thuế (SRS) không có thẩm
quyền kiểm soát và áp đặt thuế, nộp thuế, phạt thuế đối với những người kê khai không trung thực, trốn
thuế trong thời hạn 3 năm; (ii) Do các cá nhân không phải nộp tờ khai thuế và cũng không có nghĩa vụ
phải lưu giữ tất cả các tài liệu, chứng từ chứng minh thu nhập; (iii) Các biện pháp trừng phạt đối với
hành vi trốn thuế, kê khai không trung thực được phát hiện là quá khoan dung; (iv); Các cá nhân không
có nghĩa vụ phải chứng minh tính hợp pháp đối với thu nhập của mình. Tuy nhiên, kể từ khi ban hành
Luật về KSTNCN thì tình trạng này đã từng bước được khắc phục; cơ quan quản lý thuế đã kiểm soát
được thu nhập của một bộ phận lớn dân cư. Kết quả nghiên cứu là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích
giúp NCS trong quá trình nghiên cứu đề xuất các biện pháp KSTN của NNT. Tuy nhiên, do tiếp cận
nghiên cứu vấn đề KSTNCN dưới góc độ pháp luật hành chính công cho nên tác giả chưa đưa ra được
những kết luận về mặt khoa học pháp lý luật kinh tế.
Thứ ba, tiếp cận dưới phương diện pháp luật hành chính công, cuốn sách: Phân tích và Kiến
nghị cho Cộng hòa Latvia “Chế độ kiểm soát thu nhập đối với công chức và tự nhiên nhân” của tác
giả Stephan Vasak ESQ, 6/2006. Là công trình nghiên cứu thuộc nhóm dự án cải cách chính sách thuế
do Ngân hàng thế giới World Bank tài trợ. Nghiên cứu có đóng góp rất lớn như: (i) đi sâu phân tích,
đánh giá về thực trạng cơ chế KSTNCN ở Latvia (các chương III về KSTN của các quan chức, chương
V về khai báo thu nhập và kê khai tài sản thu nhập; chương VI về KSTN của các tự nhiên nhân), (ii)
đưa ra những khuyến nghị cho việc điều chỉnh cơ chế KSTNCN của người dân Latvia. Do tiếp cận
nghiên cứu dưới phương diện pháp luật hành chính công nên nhiều vấn đề pháp lý về KSTNCN được
tác giả tập trung phân tích kỹ, có chất lượng và giá trị tham khảo, với nhiều bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam khi hoàn thiện pháp luật về KSTNCN của NNT. Tuy nhiên cuốn sách chưa đưa ra được
những nhận định khoa học về vấn đề KSTNCN dưới góc độ pháp luật kinh tế.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về vấn đề KSTNCN được đề cập khá mờ nhạt ở cả góc độ luật thực
định cũng như trong NCKH. Cho đến thời điểm NCS thực hiện luận án, các nghiên cứu được công bố
đáng chú ý nhất gồm có:

Comment [vt6]: Em cần cân nhắc chọn từ khi

diễn đật: “cải thiện sự tuân thủ” nên chăng thay bằng
“nâng cao nhận thức của NNT về sự cần thiết phải
tuân thủ...” hay ngắn gọn hơn là “nâng cao ý thức
tuân thủ của NNT..”


5

Thứ nhất, luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Công Phương “Kiểm soát thuế thu nhập cá nhân đối
với thu nhập từ tiền lương, tiền công tại các tổ chức chi trả do cục thuế TP Đà Nẵng thực hiện” vào
năm 2011. Nghiên cứu này đã góp phần làm rõ ý nghĩa của công tác kiểm soát thuế TNCN nói chung,
thuế TNCN từ tiền lương, tiền công nói riêng.
Thứ hai, bài viết “Quản lý thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương tiền công” của tác giả Nguyễn
Thành Phúc đăng trên Tạp chí Tài chính số ngày 09/9/2013.Tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ kinh tế, đã
có những đóng góp: chỉ ra thực tế ở Việt Nam hiện chưa có biện pháp hữu hiệu để kiểm soát các khoản
giảm trừ, đặc biệt là GTGC của NNT. Tác giả đã đề xuất giải pháp quản lý thu nhập chịu thuế như: (i)
Các cục, chi cục thuế cần phối hợp chặt chẽ với các đội thuế phường, xã để theo dõi sát thu nhập từ tiền
lương, tiền công, nắm chắc nguồn thu, các khoản giảm trừ của cá nhân. (ii) tiếp tục hoàn thiện hệ thống
quản lý thông tin cá nhân NNT và hồ sơ GTGC cho NPT, sử dụng đồng bộ, liên thông trên toàn quốc,
kết hợp với tăng cường rà soát, đối chiếu để ngăn chặn gian lận. (ii) đề xuất ban hành các văn bản cụ thể
hóa trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân chi trả tiền lương, tiền công trong việc kê khai thu nhập từ tiền
lương, tiền công của NNT, kiểm soát, quản lý và trách nhiệm xác minh các trường hợp NNT được
GTGC. Nhiều biện pháp KTSNCN được tác giả phân tích, đánh giá kỹ và có chất lượng; nhiều nội dung
trong nghiên cứu được NCS tham khảo kế thừa, tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu hơn về thực trạng
KSTNCN của NNT.
Tuy nhiên do các nghiên cứu trên được thực hiện ở cấp độ luận văn thạc sĩ và khuôn khổ một
bài báo và đều tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ kinh tế được giới hạn trong phạm vi KSTN từ tiền lương
tiền công cho nên cách giải quyết vấn đề và nội dung nghiên cứu còn sơ sài, hầu hết các kết luận khoa
học cũng chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu cơ bản. Mặt khác, các công trình này nghiên cứu tiếp cận
KSTN dưới góc độ kinh tế nên chưa đưa ra được những kiến nghị về vấn đề KSTNCN dưới góc độ

khoa học pháp lý.
Thứ ba, Đề án “Xây dựng quy chế trao đổi thông tin giữa cơ quan Thuế và cơ quan BHXH
trong việc thu thuế thu nhập cá nhân và thu các khoản BHXH, BHYT” được công bố năm 2014.
Theo đề án này, người lao động sẽ chỉ sử dụng một mẫu tờ khai, một mã số quản lý để nộp cả thuế và
BHXH. Theo đó, hai bên sẽ trao đổi thông tin về tổ chức và cá nhân trả thu nhập tham gia đóng các
khoản BHXH bắt buộc và nộp thuế, để phối hợp quản lý thu các khoản BHXH, BHYT và quản lý thu
thuế…và Tổng cục Thuế triển khai cấp MST đối với các tổ chức trả thu nhập theo quy định và phối hợp
trao đổi để cơ quan BHXH sử dụng trong quản lý các đơn vị tham gia BHXH. NCS nhận thấy, do cả
hai ngành đều có chung một nhóm đối tượng quản lý là các tổ chức chi trả và các cá nhân làm công ăn
lương; do đó, cơ quan thuế có thể căn cứ vào khoản tiền lương, tiền công được chi trả để tính thuế
TNCN, còn BHXH căn cứ vào khoản tiền lương, tiền công để quản lý các khoản đóng góp BHXH. Hơn
nữa, kết quả của sự phối hợp này đã đặt nền móng và tạo cơ sở cho những sự phối hợp giữa ngành thuế
và các cơ quan chức năng có liên quan trong quản lý thuế trong tương lai.
Thứ tư, “Đề án kiểm soát thu nhập của người có chức vụ quyền hạn” do Bộ Nội Vụ công bố
năm 2009. Đề án đã đề xuất các phương thức và cơ chế KSTN bằng kê khai tài sản thu nhập và biện
pháp bắt buộc người có chức vụ quyền hạn phải mở tài khoản tại ngân hàng, kho bạc để tiếp nhận các
khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công, ngoài lương… Tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ pháp luật
hành chính công, tài liệu này có những đóng góp rất lớn và có nhiều nội dung được NCS tham khảo kế
thừa và tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu trong quá trình viết đề tài luận án. Theo tìm hiểu của NCS, đây
chính là một trong những công trình đầu tiên tiếp cận và nghiên cứu vấn đề KSTNCN dưới góc độ pháp


6

lý tại Việt Nam.
Thứ năm, Đề tài cấp Bộ của Thanh tra Chính Phủ về “Kiểm soát thu nhập của người có chức
vụ quyền hạn” do tác giả Phạm Trọng Đạt là chủ nhiệm, được nghiệm thu tháng 11 năm 2012. Kết quả
nghiên cứu đã góp phần: (i) làm rõ một số vấn đề cơ bản về KSTN của người có chức vụ quyền hạn ở
Việt Nam; đưa ra khái niệm về KSTN; (ii) xác định phạm vi KSTN theo điều 3 Luật thuế TNCN; (iii)
phân tích, đánh giá một số biện pháp KSTN được áp dụng tại Việt Nam; (iv) làm rõ thực trạng quy định

của pháp luật liên quan đến KSTN của người có chức vụ quyền hạn...
Cả hai tài liệu trên đã có nhiều đóng góp và có nhiều giá trị tham khảo trong vấn đề KSTNCN
và được tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ pháp lý, tuy nhiên các tác giả chỉ tiếp cận dưới góc độ pháp
luật hành chính công để nghiên cứu vấn đề KSTNCN với mục đích là ngăn ngừa những nguồn thu nhập
bất hợp pháp để phòng chống tham nhũng, với đối tượng nghiên cứu hẹp, chỉ bao gồm những người có
chức vụ quyền hạn trong BMNN mà hoàn toàn chưa có sự tiếp cận nghiên cứu vấn đề KSTNCN đối
với NNT dưới góc độ khoa học luật kinh tế.
Thứ sáu, Năm 2015, tác giả Hoàng Nam Hải đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ Luật học
với đề tài “Pháp luật về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ quyền hạn ở Việt Nam hiện nay”, tại
Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội; và bài báo Vũ Công Giao, Hoàng Nam Hải (2016)“Vấn đề kiểm
soát thu nhập của người có chức vụ quyền hạn trong Luật Quốc tế và gợi mở cho Việt Nam” đăng trên
tạp chí Dân chủ và Pháp luật [119]. Các nghiên cứu nêu trên đã phân tích và bàn luận về vấn đề
KSTNCN dưới góc độ pháp lý, đưa ra được khái niệm về KSTN của người có chức vụ quyền hạn; tuy
nhiên, cũng như các nghiên cứu được công bố trước đó ở Việt Nam, các nghiên cứu này mới chỉ là
những tiếp cận vấn đề KSTNCN ở mức độ cơ bản và cũng chỉ tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ lý luận
về Luật hành chính công và công pháp quốc tế.
Như vậy, với những tư liệu thu thập hiện có, NCS nhận thấy: (i) nhìn vào các công trình nghiên
cứu nêu trên, có thể thấy rằng các kết quả nghiên cứu về vấn đề KSTNCN của NNT còn rất khiêm tốn;
(ii) hầu hết các nghiên cứu về vấn đề KSTNCN đều được tiếp cận dưới góc độ pháp luật hành chính
công và chỉ mới là những gợi mở ban đầu về các nội dung cần nghiên cứu chuyên sâu mà chưa đưa ra
được những kết luận khoa học cụ thể; (iii) cho đến nay, chưa có công trình nào ở các cấp độ luận văn
thạc sĩ, luận án tiến sĩ luật học nghiên cứu về vấn đề lý luận và thực tiễn về KSTNCN của NNT TNCN
được công bố; (vi) chưa có bất kỳ cuốn sách chuyên khảo nào về đề tài này được xuất bản. Việc tham
khảo, kế thừa và tiếp tục phát triển các kết quả nghiên cứu đã được công bố trong và ngoài nước còn
đặt ra cho NCS nhiều vấn đề cần phải tìm hiểu, trong đó vấn đề quan trọng mà NCS cố gắng đi tìm câu
trả lời xác đáng, đó là tại sao các học giả ở Việt Nam và cả trên thế giới lại thiếu mặn mà với việc
nghiên cứu vấn đề KSTNCN nói chung và KSTNCN của NNT thu nhập cá nhân nói riêng? Giải pháp
khả thi nào được đề xuất về việc KSTNCN của NNT được cho là sẽ phù hợp với Việt Nam, có tính khả
thi và mang lại hiệu quả cao?
1.2. Giả thuyết nghiên cứu của luận án và các câu hỏi nghiên cứu

1.2.1. Về giả thuyết nghiên cứu
Luận án được triển khai với các giả thuyết nghiên cứu sau :
- Ở Việt Nam hiện nay thu nhập cá nhân của NNT chưa được kiểm soát tốt dẫn đến tình trạng
trốn thuế và thất thu thuế do Nhà nước chưa có các biện pháp KSTNCN hiệu quả; do đó cần thiết phải
nghiên cứu xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ về KSTNCN cùng với việc đề xuất các biện pháp
KSTNCN phù hợp với thực tiễn Việt Nam để việc KSTNCN của NNT trở lên hiệu quả hơn.

Comment [vt7]: Tôi ko hiểu iý em lăm ở đây??
Giả thuyết n/c chỉ đặt ra ban đầu để tìm hướng n/c.
Còn giờ em đã nghiên cwú xong thì em phải x/đ rõ
em đã dùng giả thuyêt nào trong 2 giả thuyết chứ?
Hơn nữa, sau khi n/c xong, em cần chỉ ra được sthông
điệp của CTNC của em đem lại cho đọc giả là gì chứ
ko phải là giả sthuyết vì GT chỉ pihục vụ cho em tìm
hướng n/c (ở g/đoạn đầu n/c) thôi em!


7

- Hiện vẫn chưa có lý thuyết pháp lý về KSTNCN ở Việt Nam do vậy cần nghiên cứu để làm rõ
những vấn đề lý thuyết thuộc về bản chất pháp lý của KSTNCN của NNT, qua đó tạo cơ sở để cơ quan
chức năng đưa ra những giải pháp KSTNCN phù hợp, hiệu quả.
1.2.2. Về câu hỏi nghiên cứu
Để làm rõ các giả thuyết nghiên cứu, luận án đặt ra và sẽ giải quyết các câu hỏi nghiên cứu sau
đây: KSTNCN của người nộp thuế TNCN là gì? Vai trò của KSTN của người nộp thuế TNCN? Bản
chất pháp lý của vấn đề KSTNCN? Có những biện pháp KSTNCN nào được thực hiện trên thế giới và
ở Việt Nam? Hiệu quả thực hiện các biện pháp này trên thực tế ra sao? Tại sao cần phải điều chỉnh
bằng pháp luật đối với vấn đề KSTNCN của người nộp thuế? Cơ sở lý luận và thực tiễn nào cho việc đề
xuất xây dựng pháp luật về KSTNCN ở Việt Nam? Tại sao ở Việt Nam thời gian qua, các quy định
pháp luật về KSTNCN tương đối đầy đủ nhưng trên thực tế ngoài các khoản thu nhập từ tiền lương tiền

công có nguồn gốc rõ ràng, các cơ quan chức năng lại chưa thể kiểm soát được thu nhập của NNT mà
các biện pháp KSTN được thực hiện chủ yếu vẫn là khoán và khấu trừ tại nguồn? Cần phải làm gì để
những quy định về KSTN của NNT trong pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam được thực thi có hiệu quả
trong thực tiễn? Cần phải sửa đổi, bổ sung những quy định về KSTNCN như thế nào để đảm bảo tính
khả thi và hiệu quả trong quá trình thực thi trong thực tiễn?
Kết luận chương 1
1. Cho đến nay ở Việt Nam, những vấn đề lý luận pháp lý về KSTN nói chung và KSTNCN của
NNT còn chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo ở cả góc độ luật thực định và các tranh luận khoa
học trong giới học thuật. Mặc dù đã xuất hiện một số bài báo lên tiếng về sự cần thiết phải KSTNCN để
việc thu thuế được chính xác; tuy nhiên những bài báo này thuần túy chỉ là sự phản ánh thông tin về
nhu cầu cần thiết phải KSTN đối với các khoản chi tiêu trong xã hội nhằm đảm bảo công bằng giữa
những NNT mà chưa phải là những nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ khoa học pháp lý.
2. Do KSTNCN luôn được coi là vấn đề nhạy cảm, đụng chạm nhiều mối quan hệ cho nên
trong suốt một thời gian dài các việc nghiên cứu các vấn đề pháp lý về KSTN nói chung và KSTNCN
của NNT TNCN nói riêng còn bị bỏ ngỏ và hầu như không có công trình nghiên cứu nào trong khoa
học pháp lý được công bố; và thiếu vắng những tranh luận tại các diễn đàn khoa học của giới chuyên
môn về đến vấn đề này. Sự thiếu mặn mà trong nghiên cứu vấn đề KSTN nói chung và KSTNCN của
NNT nói riêng là nguyên nhân lý giải việc thiếu vắng những công trình nghiên cứu về KSTN nói chung
và KSTNCN của NNT nói riêng. Thực tế đó đã cho thấy còn một khoảng trống lớn cần nghiên cứu về
vấn đề KSTNCN của NNT để nâng cao hiệu quả của pháp luật thuế TNCN.
3. Việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý về KSTNCN của NNT TNCN ở Việt Nam dưới góc
độ lý luận, đánh giá thực trạng thực hiện những quy định về KSTNCN trong pháp luật TNCN và đề
xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về KSTNCN trong quá trình thực hiện pháp
luật thuế TNCN ở Việt Nam là cần thiết và không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã
được thực hiện và công bố trước đây.


8

Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SOÁT THU NHẬP CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
2.1. Những vấn đề lý luận về kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thu nhập cá nhân
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kiểm soát thu nhập cá nhân
2.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của kiểm soát thu nhập cá nhân
Từ các tiếp cận khác nhau về khái niệm KSTN, NCS đưa ra định nghĩa khái quát về KSTNCN
của người nộp thuế như sau: “KSTNCN của người nộp thuế là việc cơ quan có thẩm quyền của nhà
nước, hoặc cơ quan, tổ chức được nhà nước ủy quyền bằng các biện pháp nghiệp vụ được giao nắm bắt
chính xác toàn bộ sự luân chuyển dòng tiền ra, vào tài khoản của mỗi cá nhân tại ngân hàng hoặc
thông qua từng hoạt động của cá nhân có thể tạo ra thu nhập, hoặc các con đường khác, mục đích là
để xác định chính xác số thuế thu nhập cá nhân phải nộp của những người có thu nhập chịu thuế, đồng
thời để hạn chế được tệ nạn tham nhũng, rửa tiền, những nguồn thu nhập bất hợp pháp khác”.
2.1.1.2. Đặc điểm của kiểm soát thu nhập cá nhân
Về phương diện lý thuyết, KSTNCN có những đặc trưng cơ bản sau đây: Một là, KSTNCN là
hoạt động có tính chất quản lý của Nhà nước; Hai là, KSTNCN có ảnh hưởng đến các quyền và nghĩa
vụ cơ bản của các cá nhân; Ba là, KSTNCN luôn gắn liền với mục đích bảo vệ lợi ích chung và trật tự
công cộng (trong đó có mục đích quản lý thuế TNCN). Bốn là, KSTNCN đòi hỏi Nhà nước phải áp dụng
phối hợp nhiều biện pháp quản lý khác nhau.
2.1.1.3. Vai trò của kiểm soát thu nhập của người nộp thuế trong thực hiện pháp luật thuế thu
nhập cá nhân
Mục đích của việc thực thi pháp luật thuế TNCN là xác định chính xác thu nhập chịu thuế của
NNT dựa vào đó cơ quan quản lý thuế có cơ sở tính đúng, tính đủ số thuế TNCN người nộp thuế phải
nộp, mà việc này chỉ có thể làm được nếu cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm soát tốt thu nhập của
NNT. KSTNCN chính là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong thực thi những quy định
của pháp luật thuế TNCN vào thực tiễn đời sống. Thể hiện ở những khía cạnh sau đây: Thứ nhất, nếu
việc KSTNCN được thực hiện tốt thì sẽ đảm bảo tính khách quan, minh bạch, công khai về số thu nhập
của mỗi cá nhân và do đó mới có căn cứ chính xác để xác định nghĩa vụ thuế cho NNT; Ngược lại, nếu
việc KSTN được thực hiện không có hiệu quả thì việc xác định nghĩa vụ thuế cho mỗi cá nhân sẽ không
chính xác. Thứ hai, việc KSTNCN tốt còn là cách để Nhà nước phát hiện ra những cá nhân ẩn thuế
hoặc có những nguồn thu nhập bất hợp pháp để từ đó áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời. Thứ ba,

việc KSTCN góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật và trách nhiệm công dân của mỗi cá nhân.
Khi các khoản thu nhập của cá nhân bị giám sát chặt chẽ, mỗi NNT sẽ có thái độ tích cực hơn trong
việc tuân thủ pháp luật.
2.1.2. Những điều kiện để thực hiện kiểm soát thu nhập cá nhân
Để thực hiện KSTNCN một cách hiệu quả, cần chuẩn bị và đảm bảo tốt các điều kiện sau đây:
(i) điều kiện về cơ sở pháp lý; (ii) điều kiện về nguồn nhân lực và tổ chức bộ máy thực thi pháp
luật;(iii) điều kiện về ý thức pháp luật, sự nhận thức của người nộp thuế;(iv) điều kiện về kỹ thuật và
công nghệ quản lý thu nhập cá nhân.
2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc kiểm soát thu nhập của người nộp thuế trong quá
trình thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân
Trên thực tế thực thi pháp luật thuế TNCN về KSTN chịu thuế, luôn chịu sự chi phối của những


9

yếu tố sau: Thứ nhất, sự ảnh hưởng của yếu tố kinh tế. Thứ hai, sự ảnh hưởng của yếu tố chính trị; bởi
lẽ, đường lối chính trị của Đảng cầm quyền có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thực thi chính sách và
cơ chế KSTNCN, bất kể hoạt động đó diễn ra ở quốc gia nào. Thứ ba, sự ảnh hưởng của yếu tố xã hội
và văn hóa; điều này thể hiện ở chỗ, nếu trình độ dân trí của NNT được nâng lên thì họ sẽ thực hiện nghĩa
vụ đóng thuế đầy đủ, đúng hạn. Thứ tư, sự ảnh hưởng của yếu tố pháp luật; pháp luật không chỉ quy
định rõ, chức trách, quyền hạn của từng cơ quan đơn vị trong thực thi nhiệm vụ mà còn đảm bảo sự
phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức đó với cơ quan thuế trong việc quản lý KSTNCN phát sinh và trong
quá trình thu thuế.
2.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thu nhập
cá nhân và thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân
2.2.1. Những vấn đề lý luận pháp luật về kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thu nhập
cá nhân
2.2.1.1. Khái niệm và các bộ phận cấu thành của pháp luật về kiểm soát thu nhập của người
nộp thuế thu nhập cá nhân
Về lý thuyết, các quy định pháp luật về KSTN của người nộp thuế TNCN là một bộ phận của

pháp luật quản lý thuế của các quốc gia. Xét ở khía cạnh này, pháp luật về KSTNCN của NNT có thể
được hiểu là tổng hợp các QPPL do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước thực hiện quyền giám sát mọi dòng tiền của mỗi tổ chức, cá
nhân NNT một cách chính xác nhất; nhằm hạn chế tình trạng trốn thuế, thất thu thuế; nhằm mục đích
thu đúng thu đủ số thuế thu nhập đối với các cá nhân có thu nhập chịu thuế; đem lại sự công bằng giữa
những người nộp thuế TNCN.
Về phương diện hình thức, pháp luật về KSTN của người nộp thuế TNCN có thể tồn tại dưới
các hình thức văn bản QPPL như: Các quy định về KSTN của người nộp thuế trong Luật thuế TNCN;
Luật quản lý thuế; Các quy định pháp luật có liên quan đến KSTNCN trong các đạo luật khác cùng hệ
thống các văn bản quy định hướng dẫn chi tiết thi hành…
Về phương diện nội dung, pháp luật về KSTNCN của NNT được cấu thành bởi các nhóm quy
định cơ bản sau đây:
Nhóm các quy định về chủ thể kiểm soát thu nhập cá nhân
Việc xác định chủ thể KSTN, nếu nhìn nhận một cách cảm tính, có thể dễ dàng cho rằng chủ
thể KSTNCN chỉ có thể là Nhà nước và chủ thể bị KSTN chính là cá nhân NNT. Trên thực tế chỉ có
người nắm giữ hay trực tiếp quản lý thu nhập của cá nhân mới có khả năng KSTN đó một cách hiệu
quả nhất, chính xác nhất. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, trong việc thực hiện KSTNCN của NNT ngoài chủ
thể chính là cơ quan quản lý thuế có thẩm quyền KSTNCN, còn có vai trò rất quan trọng của các chủ thể
khác được nhà nước trao quyền hoặc ủy quyền trong KSTNCN của NNT. NCS nhận thấy, chính việc trao
quyền/ủy quyền của nhà nước cho một số tổ chức trực tiếp quản lý thu nhập của NNT sẽ góp phần giúp cho
việc KSTNCN của NNT đạt hiệu quả hơn.
Nhóm các quy định về phạm vi kiểm soát thu nhập cá nhân
Thực tế cho thấy, tùy thuộc vào quan điểm lập pháp của mỗi quốc gia mà nhà soạn luật xác
định phạm vi KSTNCN là khác nhau. Có quốc gia áp dụng phương pháp kiểm soát hết sức chặt chẽ
bằng cách yêu cầu người có nghĩa vụ kê khai phải nêu con số chính xác về thu nhập và xác định rõ
nguồn gốc của các khoản thu nhập đó. Việc xác định phạm vi KSTNCN thực chất là xác định những
loại thu nhập nào của cá nhân cần phải được kiểm soát. Ở Việt Nam hiện nay, các quy định trong pháp


10


luật thuế TNCN đã phần nào thể hiện được các hoạt động chủ yếu có thể tạo ra thu nhập cá nhân, mặc
dù chưa phải là toàn bộ.
Nhóm các quy định về phương thức kiểm soát thu nhập cá nhân
Về lý thuyết, việc xác định những phương thức KSTNCN thực chất là Nhà nước xác định
những cách thức, biện pháp nào được cho là hiệu quả nhất cần áp dụng để KSTNCN. Nhóm quy phạm
này có nhiệm vụ quy định về những cách thức, phương pháp cơ bản, hiệu quả nhằm KSTNCN khi thực
hiện pháp luật thuế TNCN.
2.2.2. Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân
2.2.2.1. Thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân
Đối với mỗi nhà nước vấn đề quan trọng không chỉ là ban hành thật nhiều văn bản QPPL mà
còn phải tổ chức thật tốt để chúng được thực hiện trong thực tế, vì vậy thực hiện pháp luật là giai đoạn
không thể thiếu và vô cùng quan trọng của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Thực hiện pháp luật do nhiều
chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều cách thức khác nhau. Thực hiện pháp luật thuế TNCN còn cho
phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật thực định để từ đó có thể đưa ra những giải
pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế TNCN hiện hành và cơ chế
đưa pháp luật thuế TNCN vào thực tiễn cuộc sống. Thực hiện pháp luật thuế TNCN nghiêm minh sẽ
tạo ra cơ sở cho việc KSTNCN của NNT.
2.22.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến tính hiệu quả thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân
Trên thực tế, tính hiệu quả của việc thực thi pháp luật thuế TNCN phụ thuộc vào những yếu tố
cơ bản sau đây: Thứ nhất, mức độ minh bạch về thu nhập của cá nhân. Thứ hai, chính sách của Nhà
nước và tính nghiêm minh của luật pháp. Thứ ba, vấn đề hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quản lý thuế.
Thứ tư, tình trạng phát triển của nền kinh tế- xã hội.
2.2.3. Một số mô hình về điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động kiểm soát thu nhập cá nhân
trên thế giới và bài học cho Việt Nam
Trên thế giới, có nhiều nước đã vận dụng thành công các phương thức KSTCN, tuy nhiên trong
nghiên cứu này NCS lựa chọn tham khảo kinh nghiệm của một số các quốc gia tiêu biểu có cơ chế
KSTNCN rất phát triển, gồm có: Thứ nhất, kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về kiểm soát thu nhập cá
nhân ở Singapore. Tại Singapore, mỗi người từ lúc sinh ra đến khi trưởng thành được cấp một MSTCN
và mã số thuế này không thay đổi trong suốt cả cuộc đời, mọi khoản thanh toán, chi trả hay thu nhập

nhận được đều thông qua MST này. Cục thuế Singapore đã xây dựng chế độ làm việc nội bộ có hiệu
quả thể hiện qua cơ chế ràng buộc lẫn nhau. Với trình tự làm việc chặt chẽ làm tăng thêm sự giám sát,
hỗ trợ lẫn nhau của nhân viên thuế, đồng thời ngăn chặn được quan hệ riêng tư, triệt để phòng ngừa
hành vi sai trái của nhân viên thuế. Thứ hai, Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về kiểm soát thu nhập
cá nhân ở Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, mỗi năm tất cả các cá nhân được yêu cầu phải báo cáo nguồn thu nhập
cho nhà nước bằng cách nộp tờ khai thuế thu nhập. Luật thuế TNCN của Hoa Kỳ không những giới hạn
mà còn quy định công dân có nghĩa vụ phải kê khai tất cả các nguồn thu nhập (cả hợp pháp và bất hợp
pháp), nhằm tránh công dân “né thuế” và phát hiện sự bất hợp lý giữa việc kê khai tài sản, thu nhập và
thực tế… NCS nhận thấy, quy định này mang tư tưởng rất tiến bộ và hợp lý mà Việt Nam có thể tham
khảo trong hoàn thiện những quy định về KSTN của NNT. Luật thuế TNCN Hoa kỳ đòi hỏi đối tượng
nộp thuế cần lưu giữ đầy đủ chứng từ để chứng minh thu nhập của mình. Mọi người dân ở Hoa Kỳ đều
phải khai thuế, kể cả những người không có việc làm. Báo cáo hàng năm của các ngân hàng về tài
khoản và các giao dịch thu chi của NNT sẽ giúp cơ quan quản lý thuế đánh giá được sự trung thực


11

trong khai báo của NNT. Đối với cơ quan quản lý thuế, giao dịch qua các ngân hàng giúp cơ quan này
kiểm soát được chi tiết các giao dịch của các cá nhân, đánh giá chính xác thu nhập, cũng như các hoạt
động tài chính khác. Từ đó, cơ quan quản lý có cơ sở để tính chính xác số thuế mỗi cá nhân phải trả cho
chính phủ và thu nhập thực sự của người dân. Thứ ba, Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về kiểm soát
thu nhập cá nhân ở Hà Lan. Theo đánh giá của các chuyên gia, Hà Lan là một trong những quốc gia có
hệ thống thuế nói chung và hệ thống KSTNCN nói riêng được coi là ưu việt nhất trong số các quốc gia
phát triển. Trong đó, không thể phủ nhận được vai trò của CNTT trong kiểm soát các nguồn dữ liệu
thông tin về thu nhập của các cá nhân. Hệ thống thông tin của cơ quan thuế hiện nay bao gồm nhiều
kênh thông tin mà cụ thể là các hệ thống IBS, BVR, RIS và ELDO. Hệ thống thông tin của các cơ quan
này có sự gắn kết với nhau, theo đó, ngân hàng phải gửi tất cả các thông tin liên quan đến tiền gửi tiết
kiệm và đầu tư của các cá nhân cho cơ quan thuế trước ngày 1 tháng 3 hàng năm. Đồng thời, các chủ sử
dụng lao động cũng bị buộc phải thông báo cho cơ quan thuế các thông tin như số lượng lao động, tiền
lương và hợp đồng lao động của từng lao động. MSCN được sử dụng trong tất cả các tài liệu liên quan

đến việc nhận diện một cá nhân. Cơ quan thuế sử dụng mã số này để tìm kiếm tất cả các thông tin có
liên quan đến cá nhân trong các hệ thống thông tin trên và kiểm tra tính chính xác của tờ khai thuế.
Tóm lại, qua tìm hiểu, trên thế giới có nhiều hình thức KSTNCN, có thể thấy ở các nước tiên
tiến đều áp dụng chung các biện pháp KSTNCN sau: một là, KSTNCN thông qua các tài khoản mở tại
ngân hàng, gắn với MSTCN; hai là, KSTNCN thông qua việc áp dụng hình thức khấu trừ tại nguồn thu
nhập tại các cơ quan chi trả thu nhập; ba là, KSTNCN thông qua quản lý mã số thuế TNCN; bốn là,
xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung, thống nhất, có tính đồng bộ về NNT nhằm KSTN đối với cá nhân
NNT; năm là, quy định về hạn mức được thanh toán bằng tiền mặt trong các giao dịch dân sự, kinh tế;
sáu là, KSTCN thông qua thực hiện TTKDTM; bảy là, quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân
trong việc lưu giữ và cung cấp minh chứng để chứng minh nguồn tài sản, thu nhập của mình là hợp pháp;
tám là, luôn có sự ứng dụng những ưu việt của công nghệ thông tin trong công tác quản lý thuế; chín
là, các chế tài áp dụng đối với những người vi phạm nghĩa vụ thuế, các hành vi trốn thuế, luôn rất
nghiêm khắc và có tính răn đe cao.
Bài học rút ra cho Việt Nam từ kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật đối với kiểm soát thu nhập
cá nhân ở các nước
Một là, về phạm vi kiểm soát thu nhập. NCS cho rằng Luật thuế TNCN Việt Nam cần quy định,
khi xác định thu nhập chịu thuế thì cần phải kiểm soát đối với tất cả các loại thu nhập chịu thuế của cá
nhân; và NNT có nghĩa vụ phải kê khai tất cả các nguồn thu nhập (cả hợp pháp và bất hợp pháp), nhằm
tránh việc người nộp thuế “né thuế” và phát hiện sự bất hợp lý giữa việc kê khai tài sản, thu nhập và
thực tế…vì bất cứ khoản thu nhập nào của cá nhân cũng rất dễ bị NNT tìm cách che dấu hoặc gian lận.
Điều này giúp giảm thiểu tối đa sự mập mờ, gian lận trong kê khai thuế TN để trốn thuế. Hai là, về
phương thức kiểm soát thu nhập. Kinh nghiệm các nước cho thấy, các biện pháp KSTNCN nói trên
chỉ hiệu quả và phát huy tác dụng tốt nhất nếu được sử dụng phối hợp trong quá trình thực thi pháp luật
thuế TNCN. Ba là, về chủ thể kiểm soát thu nhập. NCS nhận thấy, ngoài chủ thể là Nhà nước, có thể
xem xét ủy quyền cho một số tổ chức trực tiếp quản lý thu nhập của cá nhân và có khả năng kiểm soát
các nguồn thu nhập đó một cách đầy đủ và chính xác.

Comment [vt8]: Tôi nhớ là đa góp ý cho em về
việc đưa kin hnghiệm NN vào chương n/c thực trạng
PL. Ở chươgn này, em chưa n/c thực trạng PL VN ntn

thì làm sao e biết được VN cần những bài học nào từ
kinhnhgiệm NN! Vì vậy bài học em rút ra ở đây dựa
vào đâu? Chắc gì VN đã cần...!!!
Kết cấu như thế này ko logic. Tôi đa góp ý mà em ko
sửa thì ko hiểu em nhờ tôi đọc để làm gì hả em ơi!!!


12

Kết luận chương 2
Qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về KSTN của người nộp thuế và pháp luật về
KSTNCN, luận án rút ra một số kết luận sau đây:
1. Thực hiện pháp luật thuế TNCN là giai đoạn không thể thiếu và vô cùng quan trọng của cơ
chế điều chỉnh pháp luật về thuế TNCN. Thông qua việc thực hiện pháp luật thuế TNCN đã góp phần
làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật thực định về thuế TNCN để từ đó có thể đưa ra
những giải pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế TNCN nói
chung, pháp luật về KSTNCN nói riêng nhằm đưa pháp luật thuế TNCN vào thực tiễn cuộc sống.
2. Việc nhận diện các vấn đề pháp lý về KSTNCN dưới góc độ khoa học luật kinh tế là một việc
làm quan trọng và cần thiết tạo cơ sở để NCS đánh giá thực trạng và tính hiệu quả của những quy định
pháp luật về KSTNCN của NNT ở Việt Nam trong thời gian qua.
3. Để thực hiện hiệu quả việc KSTNCN không chỉ có hệ thống pháp luật tốt mà còn phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố khác chi phối như nền tảng xã hội, cơ sở hạ tầng, quan điểm của tầng lớp lãnh đạo,
ý thức của người dân, vì vậy vấn đề này rất khó có thể đưa ra một giải pháp trọn vẹn.
4. Việc tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về KSTNCN và vận dụng nó một cách sáng
tạo, linh hoạt và phù hợp với thực tế điều kiện và hoàn cảnh của đất nước luôn là yếu tố quyết định để
thực hiện thành công các biện pháp KSTNCN đối với NNT ở Việt Nam.
Chương 3
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT THU NHẬP CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THUẾ THU NHẬP
CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thu nhập cá
nhân ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Các quy định về chủ thể kiểm soát thu nhập cá nhân
Thực tế cho thấy ở Việt Nam hiện nay nhóm quy định về chủ thể KSTNCN được thể hiện khá
tản mạn ở nhiều văn bản QPPL khác nhau. Mặt khác, mức độ rõ ràng, minh bạch của quy định về chủ
thể KSTNCN trong các văn bản này cũng rất khác nhau. Cụ thể là:
(i) Luật quản lý thuế 2006: Đây là đạo luật quy định trực tiếp về vấn đề quản lý thuế nói chung,
trong đó có vấn đề KSTN của người nộp thuế TNCN nhưng thực tế cho thấy tại điểm a khoản 2 Điều 2
đạo luật này, nhà làm luật chỉ quy định về các cơ quan quản lý thuế (gồm Tổng cục thuế, Cục thuế, Chi
cục thuế) chứ không quy định rõ các cơ quan này chính là chủ thể KSTN của người nộp thuế. Chính vì
vậy, nếu muốn khẳng định chủ thể quản lý thuế đồng thời là chủ thể KSTNCN ở Việt Nam thì cũng chỉ
là sự suy đoán có tính logic, chứ không phải là một quy định rõ ràng, minh bạch của pháp luật về quản
lý thuế.
(ii) Luật phòng chống tham nhũng 2005 và các văn bản quy định cụ thể hoặc hướng dẫn thi
hành. Tương tự như Luật quản lý thuế, các văn bản QPPL này cũng chỉ quy định (tại các Điều 5, Điều
54, Điều 59 Luật phòng chống tham nhũng 2005 và các Điều 17, Điều 18 Nghị định số 78/2013/NĐ-CP
của Chính phủ) về chủ thể có thẩm quyền quản lý việc kê khai tài sản và thu nhập, chứ không quy định
rõ ràng đây chính là chủ thể KSTNCN.
Như vậy, ngoài các quy định có tính cách gián tiếp trong các văn bản QPPL đã dẫn trên đây,
hầu như chưa có văn bản nào ở Việt Nam quy định rõ về chủ thể KSTNCN của người nộp thuế TNCN.

Comment [vt9]: Tên chương này cũng ko ổn em
ạ. Thực trạng PL về KSTN...” lại đặt trong “quá trình
t/h PL...” là thế nào hả em? Em đã bàn với thày
Tuyến về tên chương chưa?


13

NCS nhận thấy, đây chính là một trong những thiếu sót/lỗ hổng khá lớn của khung pháp luật hiện hành

về KSTNCN. Chính điều này khiến cho quá trình KSTN của NNT TNCN trở nên khó khăn và phức tạp
hơn, bởi lẽ cả Nhà nước lẫn người nộp thuế đều không rõ chủ thể KSTN là ai và thẩm quyền KSTN của
các chủ thể đó như thế nào.
3.1.2. Các quy định về phạm vi kiểm soát thu nhập cá nhân
Về vấn đề này, có thể nhận thấy pháp luật hiện hành ở Việt Nam đã có những quy định khá chi
tiết và tương đối rõ ràng, đầy đủ. Cụ thể là:
- Luật thuế TNCN 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định 65/2013/NĐ-CP; Thông
tư số 111/2013/TT-BTC): Trong đó, phạm vi KSTNCN được quy định tại Điều 3, Điều 10, Điều 11,
Điều 12, Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 17, Điều 18 Luật thuế TNCN; Sau đó tiếp tục được
quy định cụ thể tại Điều 3 và các Mục 1, Mục 2, Mục 4, Mục 5 chương 2 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP
của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thuế TNCN và Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế
TNCN và Điều 2 Thông tư số111/2013/TT-BTC của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Luật thuế TNCN
về thu nhập chịu thuế.
- Nghị định số 78/2013/NĐ-CP của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập có hiệu lực từ
ngày 5/9/2013: Tại Điều 8 của văn bản này có quy định về phạm vi các tài sản thu nhập thuộc diện phải
kê khai gồm: các tài sản là BĐS, quyền tài sản, tiền mặt và tổng thu nhập trong năm của cá nhân NNT
…Quy định này đã gián tiếp đề cập đến phạm vi thu nhập cá nhân cần phải kiểm soát. Với nhiều quy
định điều chỉnh việc kê khai, tài sản thu nhập của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, Nghị định này cùng
với Luật phòng chống tham nhũng trên thực tế đã góp phần đáng kể trong nỗ lực của Nhà nước nhằm KSTN
của một bộ phận dân cư là những người làm việc trong BMNN, góp phần thực hiện có hiệu quả pháp luật
thuế TNCN [110]. So sánh với các quy định tương ứng trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới như
Singapore, Hoa Kỳ, Hà Lan, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, có thể khẳng định pháp luật hiện hành ở Việt
Nam đã có những quy định khá tương đồng với pháp luật của nhiều nước trên thế giới về phạm vi TNCN
cần được kiểm soát.
3.1.3. Các quy định về phương thức kiểm soát thu nhập cá nhân
- Luật thuế TNCN 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành: (ví dụ: Nghị định số 65/2013/NĐCP; Thông tư số 84/2008/TT-BTC; Thông tư số 111/2013/TT-BTC…); Luật quản lý thuế 2006 (được
sửa đổi, bổ sung một số điều vào các năm 2012, 2016) và các văn bản hướng dẫn thi hành đều thống
nhất quy định các biện pháp KSTNCN bao gồm: KSTNCN thông qua phương thức khấu trừ thuế tại
nguồn bởi cơ quan, tổ chức chi trả thu nhập; KSTNCN thông qua việc cấp MST và quản lý thông tin về
người nộp thuế TNCN bằng hệ thống cơ sở dữ liệu thuế; KSTNCN thông qua việc thực hiện cơ chế “tự

kê khai, tự nộp thuế” của người nộp thuế; KSTNCN thông qua cơ chế thanh tra, kiểm tra, điều tra thuế
TNCN; KSTNCN thông qua quản lý tài khoản cá nhân ở ngân hàng…
- Các văn bản dưới luật bao gồm Nghị định số 161/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính
phủ quy định về hạn mức thanh toán bằng tiền mặt; Thông tư số 01/2007/TT-NHNN ngày 7/3/2007 của
Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Ðiều 4 và Ðiều 7 của Nghị định số 161; Quyết định số
291/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai
đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020 tại Việt Nam; Quyết định số 2453/QĐ–TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 27/12/2011 phê duyệt đề án đẩy mạnh TTKDTM giai đoạn 2011- 2015; Chỉ thị
số 20/2007/CT-TTg ngày 24/8/2007 về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ
NSNN: Theo các văn bản này, mỗi cá nhân bắt buộc phải mở một tài khoản tại một ngân hàng nhất


14

định và mọi dòng tiền tệ, giao dịch đều được thanh toán thông qua tài khoản này và phải được kiểm
soát. Ngoài ra, bằng việc quy định trả lương qua tài khoản đối với NNT là người lao động trong khu
vực nhà nước và đơn vị sử dụng NSNN, biện pháp này cũng giúp đơn giản hóa quy trình trả lương, tạo
tiền đề thuận lợi để nhà nước áp dụng các phương thức, biện pháp quản lý thuế TNCN và quản lý xã
hội một cách hiện đại hơn trong tương lai.
3.2. Các biện pháp kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam
hiện nay
3.2.1. Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thông qua công cụ kiểm soát là pháp luật thuế
thu nhập cá nhân
Pháp luật thuế TNCN là một công cụ quan trọng trong KSTNCN đối với NNT thông qua các quy
định về KSTN trong kê khai số thuế phải nộp, khấu trừ tại nguồn tại cơ quan chi trả thu nhập, GTGC, các
loại thu nhập phải chịu thuế, … Pháp luật thuế TNCN đi vào thực tiễn cuộc sống đã góp phần thực hiện
KSTN của dân cư. Thông qua các cá nhân, cơ quan chi trả được cấp MST ngành thuế nắm được số
NNT, số người chưa phải nộp thuế đối với thu nhập từ tiền lương tiền công và từ thu nhập khác, số thuế
thu được từ các loại thu nhập của cá nhân theo phương thức khấu trừ tại nguồn và theo phương thức tự
kê khai, tự nộp thuế. Tuy nhiên, trong thực tiễn KSTNCN của NNT thời gian qua cũng đã nảy sinh

nhiều vướng mắc, bất cập là nguyên nhân làm giảm hiệu quả của công tác KSTN, giảm số thuế TNCN.
Thứ nhất, Luật thuế TNCN chưa có khả năng kiểm soát chính xác, hiệu quả đối với thu nhập ngoài tiền
công, tiền lương của cá nhân. Đối với những khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công thì cơ quan thuế có
thể kiểm soát qua đơn vị trực tiếp chi trả thu nhập; nhưng đối với các khoản thu nhập của các HKD cá
thể, các cá nhân hành nghề độc lập… thì cơ quan thuế khó có thể kiểm soát nguồn thu nhập một cách
chính xác, điều này, dẫn đến bất bình đẳng trong việc đóng thuế. Đối với những khoản quà biếu bằng
vàng hoặc tiền lại chưa được xác định là thu nhập chịu thuế nên với những khoản này, cá nhân không
phải kê khai thu nhập với cơ quan thuế, mà chỉ phải kê khai tài sản hàng năm theo pháp luật công chức,
viên chức và pháp luật về phòng chống tham nhũng là không thực sự hợp lý. Trên thực tế, NNT có thể
dễ dàng “ẩn” thu nhập thực tế của mình qua dạng quà biếu bằng vàng và tiền để lách thuế thu nhập.
Điều 3 Luật thuế TNCN ở Việt Nam lại ấn định thu nhập chịu thuế bao gồm 10 loại mà không quy định
linh hoạt như các nước phát triển, vì vậy, luật chưa dự liệu hết các tình huống có thể phát sinh loại thu
nhập mới cần điều chỉnh bằng luật trong thực tế cuộc sống. Hơn nữa, trong chuyển nhượng BĐS, do
người chuyển nhượng thường không đủ hoá đơn, chứng từ chứng minh giá mua và các chi phí liên quan
dẫn đến việc xác định giá chuyển nhượng làm cơ sở tính thuế TNCN gặp nhiều khó khăn do người bán,
người mua thanh toán với nhau bằng tiền mặt, vàng, ngoại tệ; khi kê khai thuế thường khai giá chuyển
nhượng thấp xa so với giá chuyển nhượng thực tế. Tồn tại bất cập này là do bảng khung giá đất do các
địa phương quy định trên thực tế thấp hơn rất nhiều giá trị thực của giá đất ngoài thị trường tự do cũng
là nguyên nhân xác định số thuế phải nộp không chính xác, gây thất thoát thuế TNCN. Thứ hai, pháp
luật thuế TNCN hiện chưa có quy định về kiểm tra, đối soát các thông tin kê khai về người phụ thuộc.
Một trong những nội dung liên quan đến KSTN chịu thuế là xác định đối tượng được GTGC có thu
nhập để trở thành NPT hay không? hiện nay, luật không hạn chế số lượng NPT nên việc đối soát xác
định đối tượng GTGC còn phụ thuộc vào ý thức tự giác của NNT chính điều này đã tạo kẽ hở trong việc
kê khai số NPT.
Trên thực tế, việc xác định mức thu nhập để làm căn cứ coi như không có thu nhập chịu thuế hầu như
không có tính khả thi vì NNT chỉ tập trung kê khai tiêu thức có NPT mà chưa chú ý đến mức có thu


15


nhập là bao nhiêu vì chưa có văn bản hướng dẫn biện pháp kiểm tra, đối soát. Do đó, hành vi trốn thuế
là không thể tránh khỏi.
3.2.2. Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thông qua thực hiện quy định khấu trừ tại
nguồn tại cơ quan chi trả thu nhập
Không chỉ ở Việt Nam mà cả những nước phát triển số thuế TNCN thu được từ khấu trừ tại nguồn tại
cơ quan, đơn vị chi trả thu nhập luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu từ thuế TNCN. Thực hiện quy
định này, cơ quan chi trả thu nhập khấu trừ thuế trước khi chi trả thu nhập đối với nhiều khoản thu nhập
chịu thuế như: Thu nhập tiền lương, tiền công, đầu tư vốn... Tuy nhiên, việc kiểm tra kiểm soát việc
khấu trừ thuế chưa chặt chẽ cùng với việc sử dụng tiền mặt khá phổ biến nên dẫn đến tình trạng chưa
bình đẳng trong thu thuế. Hơn nữa, để đảm bảo việc thu thuế được đơn giản hóa, pháp luật thuế TNCN quy
định tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập có trách nhiệm khấu trừ thuế thu nhập và nộp vào NSNN trước khi
chi trả. Đối với những khoản chi phí mua ngoài như thù lao tư vấn, tiền công sửa chữa. ., việc khấu trừ
được xác định là 10% trên khoản thu nhập từ hai triệu đồng trở lên. Quy định như vậy tránh được việc
trốn thuế; tuy nhiên, do việc cá nhân không trực tiếp kê khai nộp thuế TNCN nên sẽ khó khăn trong việc xác
định chính xác thu nhập chịu thuế khi cá nhân có thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau. Khoản 6, Điều 1 của
Luật thuế TNCN sửa đổi 2012 cũng đã sửa đổi quy định về trách nhiệm kê khai, khấu trừ thuế của các
tổ chức chi trả thu nhập, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp thông tin, khai thu nhập
và NPT. Thông tư số 111/2013/TT-BTC và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính Phủ hướng dẫn chi
tiết một số điều của Luật thuế TNCN 2012 đã có những quy định rất rõ ràng về vấn đề khấu trừ tại
nguồn đối với các tổ chức cá nhân là người có thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, trong điều kiện KT-XH ở
Việt Nam, vẫn còn những khoản thu nhập không thể thực hiện khấu trừ tại nguồn như thu nhập từ
chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản giữa các cá nhân, đặc biệt là thu nhập tự doanh cơ quan chức năng
rất khó có khả năng kiểm soát và áp thuế TNCN. Nguyên nhân được chỉ ra là do thiếu vắng quy định
pháp lý và cơ chế phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan liên quan và các tổ chức chi trả thu nhập
thường không hiểu rõ nghĩa vụ nộp thuế và không tự giác hợp tác với cơ quan thuế trong việc thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế.
3.2.3. Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thông qua quản lý mã số thuế và xây dựng cơ
sở dữ liệu người nộp thuế tập trung, thống nhất, đồng bộ
3.2.3.1. Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thông qua quản lý MSTCN
Để triển khai Luật Thuế TNCN, việc cấp MST cho người nộp thuế TNCN và những NPT luôn

được đánh giá là biện pháp quản lý thuế rất hiệu quả, vì chỉ có cấp MST đầy đủ thì mới quản lý được
các đối tượng nộp thuế và từ đó KSTN chịu thuế của họ. Với quy định này, cá nhân NNT tự giác kê
khai thu nhập chịu thuế và cơ quan thuế cũng có thể giám sát được việc khai đó có trung thực hay
không thông qua kiểm tra thông tin tại MST của người nộp thuế. Tổ chức quản lý thu thuế TNCN
những năm qua đã giúp Nhà nước từng bước KSTNCN thông qua biện pháp quản lý và sử dụng
MSTCN. Theo quy định hiện hành tại Thông tư số 80/2012/TT-BTC thì cá nhân thuộc diện nộp thuế
TNCN thực hiện các thủ tục và hồ sơ đăng ký thuế được cấp “Thẻ MSTCN” duy nhất để sử dụng suốt
cuộc đời NNT.Với quy định trên,Thông tư 80/2012/TT-BTC đã giúp cơ quan thuế quản lý tốt hơn việc
đăng ký thuế và KSTN của NNT. Trong những năm gần đây, công tác quản lý đối tượng nộp thuế
TNCN ngày càng được thực hiện hiệu quả và kết quả thể hiện qua việc cấp MST không ngừng tăng lên…
3.2.3.2. Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thông qua xây dựng cơ sở dữ liệu người nộp
thuế tập trung, thống nhất, đồng bộ


16

Một hệ thống thông tin về NNT tập trung, thống nhất và đồng bộ sẽ là cơ sở cho việc quản lý
thuế hiện đại. Từ thời điểm tháng 11 năm 2015 hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS) sau một thời
gian ngắn thí điểm đã được triển khai áp dụng trong toàn quốc và bước đầu đã mang lại những kết quả
tích cực trong KSTNCN của NNT. Thông qua hệ thống quản lý thuế tập trung TMS đã hình thành và
thiết lập được một cơ chế phối hợp thông tin giữa các cơ quan liên quan như cơ quan quản lý thuế, ngân
hàng, cơ quan chi trả thu nhập, chính quyền địa phương, cơ quan quản lý về BHXH, cơ quan quản lý về
mua bán giao dịch BĐS… trong KSTNCN của NNT. Nhờ khai thác hiệu quả một hệ thống quản lý dữ
liệu tập trung thống nhất trong toàn quốc nên cơ quan chức năng đã KSTN được nguồn thu của một bộ
phận lớn NNT có thu nhập ngoài tiền lương tiền công, thu nhập từ các nguồn vãng lai cũng bước đầu
được kiểm soát. Số thuế TNCN được truy thu trong cả nước tăng cao; nhiều cá nhân sau khi được
KSTN thông qua hệ thống quản lý thuế tập trung đã bị truy thu thuế với số tiền lớn.
3.2.4. Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thông qua quy định hạn mức sử dụng tiền mặt và
thanh toán không dùng tiền mặt.
3.2.4.1. Kiểm soát thu nhập thông qua quy định hạn mức sử dụng tiền mặt

Nghị định số 161/2006/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư 01/2007 của NHNN về hạn mức
thanh toán bằng tiền mặt trong suốt 8 năm thực hiện đã bước đầu tạo cơ sở để minh bạch trong thanh
toán đối với các giao dịch có liên quan đến sử dụng nguồn vốn từ NSNN qua đó góp phần KSTN. Tuy
nhiên, việc quy định hạn mức trong sử dụng tiền mặt thời gian qua chưa thực sự hợp lý; các quy định về
hạn mức sử dụng tiền mặt mới chỉ được áp dụng đối với một bộ phận nhỏ đối tượng là các cơ quan, tổ
chức hưởng lương từ NSNN mà chưa được nhân rộng để áp dụng với các cơ quan, đơn vị, tổ chức khác
trong nền kinh tế quốc dân…chính điều này đã gián tiếp giúp duy trì thói quen sử dụng tiền mặt trong
giao dịch thanh toán của các đối tượng, các lĩnh vực không sử dụng NSNN. Thói quen này cũng đang
gây ra không ít khó khăn trong công tác KSTN của cơ quan chức năng,.
3.2.4.2. Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thông qua quy định mở tài khoản, trả lương qua
tài khoản và thanh toán các giao dịch thông qua hệ thống ngân hàng
Thứ nhất, kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thông qua quy định mở tài khoản và trả lương
qua tài khoản đối với người lao động. Ở Việt Nam thời gian qua việc trả lương qua tài khoản đã đem
lại lợi ích to lớn đối với nhà nước và người sử dụng dịch vụ. Bởi vậy số lượng các đơn vị hưởng lương
từ NSNN thực hiện trả lương qua tài khoản và số người lao động nhận lương qua tài khoản không
ngừng tăng lên. Chỉ thị 20/2007/CT-TTg về trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ
NSNN đã và đang làm thay đổi dần thói quen, tâm lý sử dụng tiền mặt của người dân. Tuy nhiên, đối
với nhiều người dân, trả lương qua tài khoản vẫn còn là một phương thức khá mới mẻ. Bên cạnh đó,
việc quy định mở tài khoản và thanh toán qua tài khoản đối với người lao động thời gian qua mới chỉ
được áp dụng với đối tượng khá hẹp là các cơ quan đơn vị sử dụng NSNN mà chưa được áp dụng rộng
rãi đối với tất cả những cá nhân là NNT. Vì vậy còn một số lượng lớn NNT làm việc trong khu vực
ngoài nhà nước vẫn chưa được điều chỉnh bởi quy định pháp lý này.
Thứ hai, kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thông qua các quy định về thanh toán không
dùng tiền mặt. Một hệ thống thanh toán hiện đại với việc thanh toán phi tiền mặt sẽ góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế và KSTN dân cư. Với những cố gắng nỗ lực của nhà nước trong thời gian qua,
TTKDTM đã được triển khai trong thực hiện chi trả lương và các khoản phụ cấp cho một bộ phận dân
cư. Những kết quả đạt được ở trên là cơ sở để khẳng định sử dụng TTKDTM và trả lương qua tài khoản của
nhà nước góp phần tạo tiền đề để cơ quan quản lý thuế có thể KSTN của NNT, hạn chế việc khai man thuế,



17

trốn thuế.. … Tuy nhiên, vẫn còn một lượng tiền trong các giao dịch kinh tế, dân sự khác chiếm tỷ lệ
cao hơn thì hầu như vẫn được thực hiện theo phương thức thanh toán bằng tiền mặt. Việc sử dụng tiền
mặt phổ biến là nguyên nhân làm cho công tác KSTN đối với NNT của các cơ quan chức năng bị hạn
chế, đồng thời tạo cơ hội cho các chủ thể che giấu nguồn thu nhập hoặc sự dịch chuyển tài sản, khai
báo không đầy đủ hoặc không khai báo để trốn thuế do đó đã làm giảm tính hiệu quả của pháp luật thuế
TNCN.
3.2.5. Kiểm soát thu nhập của người nộp thuế thông qua các quy định về kê khai, minh bạch
tài sản, thu nhập đối với những người nộp thuế là người có chức vụ quyền hạn
Nghị định 37/2007/NĐ-CP và Nghị định số 68/2011/NĐ-CP về minh bạch tài sản thu nhập,
việc kê khai tài sản của cán bộ công chức đã bước đầu được thực hiện; Quy định này đã tạo cơ sở pháp
lý ban đầu về kê khai và xác minh việc kê khai tài sản, thu nhập trong cán bộ, công chức, viên chức. Có
thể nhận thấy, trong điều kiện khung pháp lý hiện nay chưa thực sự đầy đủ cho nên dù có khai rõ nguồn
gốc thu nhập thì cơ quan có thẩm quyền vẫn rất khó đánh giá, chứng minh được nguồn thu nhập nào là
chính đáng, nguồn thu nào là không chính đáng; hiện tại, cũng chưa có cơ sở pháp lý nào buộc cá nhân
phải giải trình về nguồn gốc, tài sản, thu nhập, do vậy, trên thực tế các cơ quan chức năng gặp rất khó
khăn trong việc KSTN và tài sản của cá nhân. Những khoản thu nhập ngầm được phát sinh trong một
nền kinh tế tiền mặt là phổ biến khiến cho mọi nỗ lực của các cơ quan chức năng nhằm KSTNCN của
những người này trên thực tế hầu như không khả thi.
Kết luận chương 3
1. Công tác KSTNCN trong thực hiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam thời gian qua đã đạt
được những thành công đáng khích lệ, bước đầu đã hình thành một cơ chế KSTNCN, cùng một hệ thống
văn bản QPPL về KSTN ở nhiều ngành, lĩnh vực; hệ thống các văn bản QPPL này đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc xây dựng cơ sở pháp lý về KSTN của người nộp thuế TNCN và phát huy hiệu
quả tích cực trong công tác KSTNCN.
2. Một số biện pháp KSTNCN đã được quy định trong một vài các văn bản QPPL chuyên ngành
và pháp luật liên quan ở Việt Nam bước đầu đã phát huy được những hiệu quả tích cực. Đặc biệt là khi
Luật thuế TNCN chính thức đi vào thực tiễn cuộc sống, cơ quan quản lý thuế đã có thể KSTN của
người nộp thuế, nắm được khá đầy đủ thông tin về thu nhập từ tiền lương, tiền công của người lao

động. Việc hoàn thiện những quy định pháp luật về kiểm KSTN của người nộp thuế TNCN cũng tạo cơ
sở cho cơ quan chức năng có một công cụ hữu hiệu trong KSTNCN của người nộp thuế.
3. Ở Việt Nam, hiện nay, cơ quan thuế khó xác minh và thẩm tra những kê khai về thu nhập của
đối tượng nộp thuế khi thu nhập của người lao động được chi trả dưới hình thức tiền mặt lại hầu như
không có một chứng từ nào xác nhận việc chi trả, thanh toán. Do đó, trong khá nhiều trường hợp thu
nhập được cơ quan quản lý thuế lấy làm cơ sở tính thuế chỉ là thu nhập danh nghĩa mà không phải thu
nhập thực tế của của NNT dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ đóng thuế TNCN.
Hơn nữa, còn nhiều hạn chế, bất cập trong những quy định của pháp luật về KSTNCN và trong thực
tiễn tổ chức thực hiện đã làm giảm hiệu quả của công tác KSTN của các cơ quan chức năng.
4. Các kết quả nghiên cứu thu được ở chương 3 cũng là những căn cứ quan trọng góp phần định
hướng những giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện tính hiệu quả KSTN của người nộp thuế trong quá trình
thực hiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam trong thời gian tới.


18

Chương 4
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT THU NHẬP
CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM
4.1. Mục tiêu và những yêu cầu cơ bản của việc xây dựng nhóm giải pháp hiệu quả trong
công tác kiểm soát thu nhập cá nhân của người nộp thuế
4.1.1. Mục tiêu kiểm soát thu nhập trong quá trình thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở
Việt Nam:
Theo NCS, các mục tiêu của công tác kiểm soát thu nhập cần hướng tới là: (i) Xác định các loại
thu nhập và giá trị thực tế của từng loại thu nhập nhận được của mỗi cá nhân trong kỳ tính thuế; (ii)
Xác định nguồn gốc hợp pháp của từng loại thu nhập nhận được của mỗi cá nhân trong kỳ tính thuế;
(iii) Bao quát nguồn hình thành thu nhập của người nộp thuế TNCN nhằm đảm bảo thu đúng thu đủ số
thuế TNCN mà người nộp thuế phải nộp; (iv) Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan
trong việc quản lý, kiểm soát dữ liệu người nộp thuế;
4.1.2. Những yêu cầu cơ bản của việc xây dựng nhóm giải pháp hiệu quả trong công tác kiểm

soát thu nhập cá nhân của người nộp thuế
Từ mục tiêu nêu trên, NCS cho rằng việc xây dựng các giải pháp hiệu quả trong công tác
KSTNCN cần đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau đây: Một là, đảm bảo nguyên tắc tuân thủ pháp luật; Hai
là, đảm bảo nguyên tắc công bằng trong quản lý thuế; Ba là, đảm bảo nguyên tắc minh bạch trong KSTN;
Bốn là, đảm bảo nguyên tắc thuận tiện, tiết kiệm và hiệu quả quản lý thuế; Năm là, đảm bảo tôn trọng bí
mật thông tin cá nhân của NNT; Có nhiều câu hỏi cần được giải quyết thỏa đáng: có phải mọi thông tin
về NNT đều được giữ bí mật hay chỉ một nhóm các thông tin cần thiết?. Việc giữ bí mật thông tin về
NNT đối với cơ quan quản lý thuế là trách nhiệm đương nhiên hay phải theo yêu cầu của NNT, người
cung cấp thông tin? Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, cán bộ, công chức thuế, người có liên quan
như thế nào khi vi phạm quy định về bảo mật thông tin của NNT?.
4.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm soát thu nhập của người nộp thuế
trong quá trình thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam
4.2.1. Các giải pháp về phương diện hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân và kiểm
soát thu nhập cá nhân
Thứ nhất, cần sớm nghiên cứu ban hành một đạo luật về kiểm soát thu nhập cá nhân để có thể
kiểm soát được thu nhập của dân cư nói chung và KSTN của những người nộp thuế TNCN nói riêng.
Việc ban hành một đạo luật riêng về kiểm soát thu nhập cá nhân nhằm hướng tới mục đích: thông qua
việc KSTNCN một cách chặt chẽ, Nhà nước có thể nắm bắt chính xác thu nhập thực tế của mỗi cá nhân
tạo cơ sở để cơ quan thuế tính đúng, tính đủ số thuế thu nhập phải nộp. NSC đề xuất xây dựng nội dung
của luật về kiểm soát thu nhập cá nhân, bao gồm những vấn đề cơ bản sau đây: (i) Các chủ thể có thẩm
quyền KSTNCN; chủ thể được ủy quyền thực hiện KSTNCN; (ii) Các quy định về đối tượng cần
KSTNCN; (iii) Phạm vi KSTNCN; (iii) Các hình thức, biện pháp pháp KSTNCN; (iv) Quy trình, thủ
tục cần áp dụng để KSTCN; (v) Các yêu cầu về minh bạch thu nhập và KSTNCN; (vi) Cơ chế phối hợp
thông tin giữa các cơ quan liên quan trong việc KSTNCN. (vii) Trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc KSTNCN;(viii) Quyền và nghĩa vụ của cá nhân bị KSTN và
trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong quá trình KSTNCN; (ix) Bí mật thông tin về người bị
KSTN; (x) Các chế tài đối với chủ thể vi phạm quy định pháp luật về KSTNCN...


19


Thứ hai, cần phải bổ sung quy định bắt buộc phải kiểm tra, đối soát đối với những người được
kê khai là người phụ thuộc trước khi cấp mã số thuế. Việc đặt ra quy định đối soát các trường hợp được
kê khai là NPT về đối tượng, mức thu nhập thực tế để được công nhận là NPT của NNT trước khi cấp
MST cho NPT là rất quan trọng và cần thiết nhằm hạn chế những thất thoát thuế, trốn thuế qua kê khai
sai đối tượng NPT để được hưởng GTGC của NNT. Cơ quan quản lý thuế cũng cần tiếp tục hoàn thiện
hệ thống quản lý thông tin cá nhân NNT và hồ sơ GTGC cho NPT, sử dụng đồng bộ, liên thông trên
toàn quốc, kết hợp với tăng cường rà soát, đối chiếu các trường hợp NPT được kê khai để ngăn chặn
gian lận. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quy định này, nhà nước cần xem xét ban hành các văn
bản QPPL nhằm cụ thể hóa trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân chi trả thu nhập trong việc kê khai thu
nhập từ tiền lương, tiền công của NNT, kiểm soát, quản lý và có trách nhiệm xác minh các trường hợp
NNT được GTGC. Về mặt quản lý, cơ quan thuế sẽ kết hợp chặt chẽ với các đơn vị chi trả thu nhập và
hội đồng tư vấn thuế phường, xã để nắm chắc thông tin về NPT, trên cơ sở đó kiểm soát trở lại việc kê
khai của cá nhân nộp thuế. Theo kinh nghiệm của nhiều chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực này thì việc
sử dụng mã nhận diện sẽ cho phép loại bỏ gần như hoàn toàn những trường hợp khai trùng về NPT.
Thứ ba, cần sớm bổ sung và hoàn thiện những quy định pháp luật về TTKDTM; đẩy mạnh phát
triển TTKDTM trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hướng tới việc quản lý thu nhập của cá nhân qua hệ
thống ngân hàng. Một trong những biện pháp có thể giúp việc KSTN của NNT hiệu quả hơn đó là tăng
cường vai trò hệ thống ngân hàng trong thực hiện TTKDTM, trả lương và các khoản thu nhập khác của
NNT qua tài khoản cá nhân duy nhất. Cần thiết phải luật hóa quy định đối với các tổ chức, cá nhân khi
thực hiện những giao dịch, hợp đồng có giá trị từ 1.000 USD trở lên (tương đương 20 triệu VNĐ) các
bên tham gia giao dịch bắt buộc phải thực hiện thanh toán qua tài khoản cá nhân tại các ngân hàng.
Thực hiện quy định này cần thiết bổ sung quy định tất cả những giao dịch của mọi chủ thể trong xã hội
có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên nếu không thực hiện qua ngân hàng thì được coi là giao dịch bất hợp
pháp. Ở các nước phát triển, hầu hết các giao dịch đều được kiểm soát qua ngân hàng và kiểm soát qua
cơ quan thuế. Kinh nghiệm KSTNCN nước ngoài cho thấy, hầu hết các nước phát triển đều đã có
những quy định cấm thanh toán bằng tiền mặt giá trị lớn. Riêng ở Hoa Kỳ và một số nước châu Âu còn
khống chế cả mức rút tiền mặt. Ví dụ như có nước rút tiền trên 10.000 USD là có thể bị đưa vào giao
dịch đáng ngờ và các thông tin sẽ được gửi đến trung tâm dữ liệu của cơ quan phòng chống rửa tiền để
xem xét.

Thứ tư, Để khắc phục thực trạng cho dù thanh toán bằng tiền mặt hay thanh toán qua ngân
hàng với số lượng tiền nhiều hay ít thì cá nhân tổ chức cũng không cần phải chứng minh, nguồn tiền đó
từ đâu mà có. Cần thiết phải bổ sung các quy định pháp luật về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong
việc cung cấp các minh chứng để chứng minh nguồn tài sản thu nhập là hợp pháp khi thực hiện các
giao dịch quan trọng; cần bổ sung quy định cơ quan chi trả thu nhập có trách nhiệm bắt buộc phải cung
cấp thông tin của người thụ hưởng cho cơ quan thuế. Cần thiết quy định trong luật các cá nhân có nghĩa
vụ phải lưu giữ tất cả các tài liệu để chứng minh thu nhập của họ là hợp pháp. Mặt khác, pháp luật cũng
cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc xác định nguồn gốc hợp pháp hoặc bất
hợp pháp của các khoản TNCN, thông qua các bằng chứng thu thập được về từng loại thu nhập của cá
nhân đã phát sinh trong kì tính thuế. Bên cạnh đó cần xem xét chuyển quy định nghĩa vụ chứng minh
thu nhập của NNT từ cơ quan KSTN sang quy định nghĩa vụ chứng minh, giải trình thu nhập thuộc về
NNT. Để thực hiện quy định này, đòi hỏi mọi cá nhân khi mua, bán, chuyển nhượng, tặng cho tài sản
phải xuất trình được những hoá đơn, chứng từ hợp lệ như: bảng lương; các khoản thu nhập khác ngoài


20

lương… để chứng minh nguồn thu nhập hoặc tài sản đang thuộc quyền sở hữu của mình.
Thứ năm, cần nghiên cứu xây dựng một chính sách thuế đồng bộ với khung pháp lý về quản lý
thu thuế với một hệ thống tự khai, tự tính, tự nộp thuế được áp dụng rộng khắp, trong đó chú trọng triển
khai phương thức khấu trừ tại nguồn và đẩy mạnh cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế TNCN nhằm
giảm thiểu hiện tượng trốn thuế, ẩn thuế gây thất thu thuế cho NSNN. Bài học kinh nghiệm từ quản lý
thuế TNCN của Hoa Kỳ và các nước, chỉ khi xây dựng được một chính sách thuế đồng bộ với khung
pháp lý về quản lý thu và hệ thống tự khai, tự tính, tự nộp được áp dụng rộng khắp thì mới có thể tránh
được hiện tượng trốn thuế, giảm thiểu thất thu thuế cho NSNN.
Thứ sáu, cơ quan chức năng cần xem xét sửa đổi, bổ sung một số quy định không còn phù hợp
trong luật thuế thu nhập cá nhân như: Một là, sửa đổi, bổ sung phạm vi, đối tượng chịu thuế; theo
hướng quy định rõ ràng hơn các khoản thu nhập chịu thuế, không chịu thuế, cụ thể: (i) Nghiên cứu bổ
sung thêm thu nhập vào diện chịu thuế TNCN đối với khoản thu nhập quà biếu bằng tiền, hiện vật của
các DN tổ chức chi cho cá nhân ngoài đơn vị. (ii) Cần làm rõ thêm, minh bạch hơn các khoản thu nhập

chịu thuế và không chịu thuế dựa trên nguyên tắc: Nếu chưa đưa vào thu nhập chịu thuế thì có nghĩa là
không thu thuế TNCN hoặc ngược lại; Cần xác định quan điểm, đánh thuế TNCN là đánh vào tổng thu
nhập chứ không phải đánh vào từng khoản thu nhập. Việc trong Luật phân chia nguồn thu nhập thành
nguồn thu nhập chịu thuế (Điều 3) và nguồn thu nhập không chịu thuế (Điều 4) như hiện nay sẽ làm
xuất hiện nguy cơ trốn thuế mà cơ quan quản lý thuế không kiểm soát được. Bởi vì, trong xã hội không
chỉ có những nguồn thu nhập được liệt kê trong luật mà còn có nhiều nguồn thu nhập khác. Vì vậy pháp
luật sẽ xử lý như thế nào đối với những nguồn thu nhập chưa có trong luật? chúng ta không thể cứ phải
sửa đổi luật mỗi khi xuất hiện nguồn thu nhập mới hoặc khi phát hiện đã bỏ sót nguồn thu nhập nào
đó?. Để bao quát các khoản thu nhập chịu thuế NCS đề xuất bổ sung thêm khoản 10 của Điều 3 quy
định: các loại thu nhập phát sinh khác nếu có; bổ sung một số khoản phụ cấp, trợ cấp không tính vào
thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công (điểm b khoản 2 Điều 3 Luật Thuế TNCN), nhằm bao quát
được các khoản phụ cấp, trợ cấp mới phát sinh theo quy định của các văn bản pháp luật về lao động, về
BHXH ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung sau này. Hai là, sửa đổi quy định về mức GTGC (Điều 19 Luật
Thuế TNCN), theo hướng quy định ngưỡng khởi điểm tính thuế theo một tỷ lệ phần trăm nhất định so
với mức tiền lương, tiền công tối thiểu; có như vậy khi nhà nước điều chỉnh tiền lương, tiền công tối
thiểu sẽ không ảnh hưởng đến luật thuế TNCN. Đây cũng chính là một trong những căn cứ quan trọng
để tạo ra sức sống lâu bền cho Luật thuế TNCN.
Thứ bảy, để thu nhập từ tiền lương của mỗi người nộp thuế không còn là thu nhập danh nghĩa,
nhà nước cần có những điều chỉnh chính sách tiền lương, tiền công cho phù hợp với thực tế, đưa các
khoản thu nhập ngoài lương vào thu nhập chịu thuế, để các nguồn thu nhập của mỗi cá nhân NNT đều
nằm trong tầm kiểm soát của cơ quan quản lý thuế. Để thực hiện được điều này, theo NCS, chính sách
tiền lương, tiền công cần được xây dựng theo hướng sát với tình hình đời sống thực tế, đảm bảo mức
sống cơ bản của mỗi cá nhân NNT; đặc biệt chính sách tiền lương cần tuân thủ vị trí việc làm của mỗi
cá nhân đã được xây dựng để tiền lương, tiền công phải phản ánh đúng năng lực làm việc và sức lao
động của mỗi cá nhân NNT. Nên chăng, Bộ Tài chính cần ban hành Thông tư quy định cụ thể, chi tiết
các khoản thu nhập chịu thuế và thu nhập không chịu thuế, đảm bảo mọi cá nhân khi kê khai thuế
TNCN từ tiền lương, tiền công đều dễ hiểu và kê khai đầy đủ tạo cơ sở thuận lợi để cơ quan chức năng
theo dõi sát tình hình thu nhập từ tiền lương, tiền công của các cá nhân, nắm chắc tình hình nguồn thu,
các khoản giảm trừ của cá nhân theo quy định pháp luật, kịp thời đưa vào kiểm soát, quản lý những đối



21

tượng thuộc diện nộp thuế.
Thứ tám, cần sớm xem xét xây dựng Luật thuế tài sản để góp phần khắc phục những khiếm
khuyết và hỗ trợ cho Luật thuế TNCN đặc biệt trong những trường hợp cá nhân trốn thuế mà số thu
nhập có được từ việc bán những tài sản có giá trị lớn… Bài học kinh nghiệm từ các nước tiên tiến cho
thấy, việc ban hành Luật thuế về tài sản cũng sẽ góp phần khắc phục và bổ sung cần thiết cho Luật thuế
TNCN vì ngay cả trong những trường hợp những cá nhân trốn thuế mà cơ quan chức năng không phát hiện
được nhưng khi số tiền trốn thuế này được hiện thực hoá bằng việc xây dựng, chuyển nhượng tài sản,
BĐS…thì đối với những tài sản có giá trị lớn, buộc họ phải nộp thuế tài sản đối với nguồn tài sản này.
Thứ chín, cần xem xét xây dựng một hệ thống các quy định pháp lý cần thiết để minh bạch thu
nhập cá nhân, tạo cơ sở cho việc giám sát, KSTNCN của các cơ quan chức năng được thuận lợi hơn. Để
có cơ sở thực hiện có hiệu quả các biện pháp KSTNCN, nhà nước cần xem xét sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện một số văn bản pháp luật liên quan nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và đồng bộ hơn
tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc KSTNCN; như hệ thống pháp luật về ngân hàng, tín dụng, đất đai, pháp
luật về đăng ký tài sản, quản lý hộ tịch, đối soát NPT, TTKDTM, hạn mức sử dụng tiền mặt, chính sách tiền
lương…Thực hiện quy định này, hệ thống pháp luật về ngân hàng và tín dụng cần sửa đổi theo hướng nâng
cao và gắn trách nhiệm của các tổ chức này trong việc giám sát nguồn thu nhập của mỗi cá nhân trong mọi
giao dịch. Tính đồng bộ và khả năng hỗ trợ lẫn nhau giữa các lĩnh vực pháp luật khác nhau sẽ là cơ sở,
tiền đề quan trọng để KSTNCN được thuận lợi.
Thứ mười, cần bổ sung thêm những hành vi vi phạm và mức độ vi phạm nghĩa vụ nộp thuế sẽ
bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự nhằm mục đích răn đe và nâng cao tính tuân thủ trong nghĩa vụ
nộp thuế của mọi người dân. Nếu luật pháp không nghiêm minh với các trường hợp vi phạm luật sẽ làm
giảm tính răn đe của luật và không tạo ra sức ép để thực thi luật. Những trường hợp trốn thuế bị phạt vi
phạm phải được công bố công khai về mức độ vi phạm, hình phạt xử phạt để mang tính chất răn đe với
đông đảo người dân, chỉ bằng cách xử lý nghiêm minh như vậy, số đối tượng trốn thuế khai gian thuế
mới có thể giảm xuống.
4.2.2. Các giải pháp về phương diện tổ chức thực thi pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả
kiểm soát thu nhập của người nộp thuế trong quá trình thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở

Việt Nam
Thứ nhất, tiếp tục đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống CSDL về người nộp thuế tập trung đầy
đủ, đồng bộ; các thông tin của NNT cần phải được cập nhật thường xuyên về một đầu mối cơ quan
quản lý thuế ở Trung ương. Cùng với việc thiết lập và duy trì cơ chế phối hợp thông tin giữa các cơ
quan liên quan trong thực thi KSTN của NNT như: Cơ quan quản lý thuế, Ngân hàng, đơn vị chi trả thu
nhập, bảo hiểm xã hội, chính quyền địa phương… trong KSTNCN. Bài học kinh nghiệm quản lý thuế
TNCN của Hoa Kỳ cho thấy, cơ quan quản lý thuế cần tập trung xây dựng CSDL tập trung về NNT, hỗ
trợ việc đối chiếu chéo thông tin từ các nguồn thu nhập khác nhau nhằm kiểm tra thông tin kê khai mà
không cần phải đến trụ sở NNT. Đây là biện pháp quan trọng để cơ quan quản lý thuế có thể giám sát
được thu nhập của NNT hiệu quả. Thứ hai, tiếp tục đẩy nhanh việc đăng ký và cấp MST cho NNT và
những NPT cùng với việc đối soát các thông tin trung thực về NNT và NPT đảm bảo tính công bằng
trong thực hiện nghĩa vụ thuế giữa những NNT. Trong tương lai, sẽ tiến tới mỗi công dân đều có một
MST để theo dõi quản lý, không phân biệt có thu nhập chịu thuế hay không có thu nhập chịu thuế. Bài
học kinh nghiệm từ các nước tiên tiến là cần có sự kết hợp quản lý với các cơ quan khác như quản lý hộ tịch,
bảo hiểm xã hội để quản lý hiệu quả NPT. Thứ ba, cơ quan quản lý thuế cần tăng cường công tác kiểm


22

tra, kiểm soát các khoản thu nhập không được phản ánh trên các sổ sách kế toán của các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế. Đối với các đối tượng có mức thu nhập không ổn định và khó kiểm soát, có thể
thực hiện khoán thuế TNCN. Thứ tư, cần ứng dụng mạnh mẽ trong khai thác những ưu việt của hệ
thống CNTT hiện đại trong quản thuế TNCN nhằm kiểm soát thông tin thu nhập của người nộp thuế
TNCN… Ứng dụng CNTT sẽ góp phần hoàn thiện CSDL người nộp thuế tập trung, hỗ trợ hiệu quả cho
các cơ quan chức năng trong KSTNCN của NNT. Thứ năm, cần có phương án hoàn thiện tổ chức bộ
máy KSTNCN của người nộp thuế nhằm đáp ứng được các yêu cầu của thực tế thực hiện pháp luật thuế
TNCN ở Việt Nam. Theo đó cơ quan giữ vai trò nòng cốt và quyết định trong KSTNCN chính là cơ
quan quản lý về thuế TNCN các cấp từ trung ương đến địa phương. Với chức năng là cơ quan nhà nước
có thẩm quyền về quản lý thuế, cơ quan này sẽ nắm giữ toàn bộ nguồn dữ liệu về NNT tập trung, nhằm
có thể đưa ra những quyết định chính xác, kịp thời trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà

nước về KSTNCN của NNT; Các cơ quan, đơn vị, tổ chức khác được cơ quan quản lý thuế trao quyền
hoặc ủy quyền trong KSTNCN trong thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình luôn có trách nhiệm
kịp thời cung cấp các thông tin, CSDL, kết quả của việc KSTNCN về NNT là đối tác hoặc khách hàng
của mình cho cơ quan quản lý thuế.
Kết luận chương 4
1.Trên cơ sở đánh giá những điểm thành công và hạn chế của pháp luật về KSTNCN của NNT
ở Việt Nam tại chương 3, trong chương 4, luận án đã đề xuất các nhóm giải pháp về (i) hoàn thiện cơ sở
pháp lý; (ii) tổ chức thực thi pháp luật về KSTNCN nhằm mục đích tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan quản
lý thuế có căn cứ tính đúng tính đủ số thuế thu nhập phải nộp, góp phần phòng chống hiện tượng thất
thoát thuế, trốn thuế, hướng tới đảm bảo công bằng giữa những người nộp thuế TNCN.
2. Việc ban hành một đạo luật riêng về kiểm soát thu nhập cá nhân để có thể kiểm soát được thu
nhập của các tầng lớp nhân dân nói chung và có thể KSTN của những người nộp thuế nói riêng, cùng
với những kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan, đồng thời với việc hoàn thiện về cơ chế
tổ chức thực thi pháp luật trong tương lai gần là việc làm thực sự cần thiết của nhà nước. Với những
quy định cụ thể, chi tiết về KSTNCN trong luật này sẽ tạo cơ sở và hành lang pháp lý cần thiết để cơ
quan chức năng có một công cụ hữu hiệu trong công tác KSTN của NNT góp phần nâng cao hiệu quả
KSTN của NNT.
KẾT LUẬN
1. Trải qua 9 năm thực hiện Luật Thuế TNCN, tuy đã đạt được những kết quả bước đầu đáng
khích lệ, bước đầu hình thành cơ chế KSTN của người nộp thuế TNCN. Tuy nhiên, hiện tượng trốn
thuế, thất thoát thuế, bỏ lọt thuế trong thực tế vẫn còn rất nhức nhối. Trước bối cảnh đẩy mạnh hội nhập
kinh tế quốc tế và có những biến đổi lớn của điều kiện KT, XH trong nước, việc hoàn thiện những quy
định pháp luật về KSTN của NNT trong thực hiện pháp luật thuế TNCN cả về luật thực định và cơ chế
thực thi ngày càng trở nên cần thiết và có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt.
2. Nhìn chung pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay có khá nhiều quy định khác nhau.
Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy hiện tại không có quy định rõ ràng nào về vấn đề KSTNCN, trong
khi vấn đề này trên thực tế luôn rất phức tạp và khó kiểm soát, đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp đến kết


23


quả thi hành pháp luật thuế TNCN. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải bổ sung vào pháp luật thuế
TNCN nói chung, pháp luật về quản lý thuế TNCN nói riêng các quy định về KSTNCN nhằm nâng cao
chất lượng công tác hành thu thuế và đảm bảo tính hiệu quả, chống thất thu thuế TNCN.
3. Là một bộ phận cấu thành của pháp luật quản lý thuế, pháp luật về KSTNCN ở Việt Nam
thời gian qua mặc dù còn tản mát, thiếu tính hệ thống nhưng các biện pháp KTSNCN đã được thể hiện
trong các quy định của pháp luật thuế TNCN, pháp luật quản lý thuế và các hệ thống pháp luật có liên
quan, bước đầu đã hình thành được hệ thống các văn bản QPPL về KSTN tạo cơ sở pháp lý cho hoạt
động KSTN của cơ quan chức năng.
4. KSTNCN của người nộp thuế là yêu cầu và đòi hỏi chính đáng xuất phát từ chính thực tiễn
pháp lý về thực hiện pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam. Có thể thấy, KSTNCN là vấn đề lớn của cả xã
hội, nếu chỉ nỗ lực của riêng ngành thuế thì không đủ mà để mọi nguồn thu nhập của NNT đều được cơ
quan chức năng kiểm soát đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của cả một thể chế đồng bộ, từ hệ thống các
cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chi trả thu nhập đến mọi người dân trong xã hội. Với việc bổ sung
những quy định pháp lý về KSTN ở Việt Nam cùng với đầy đủ những quy định cần thiết, cùng với một thể
chế pháp luật đồng bộ sẽ là tiền đề để ngành thuế có thể kiểm soát chính xác, đầy đủ thu nhập dân cư, đảm
bảo động viên công bằng, đúng mức thu nhập của mọi người dân trong xã hội.
5. Trên cơ sở luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn về KSTNCN, luận án đã đề xuất các giải pháp
cụ thể để hoàn thiện pháp luật về KSTNCN của người nộp thuế; bao gồm (i) Nhóm các giải pháp về
phương diện hoàn thiện pháp luật thuế TNCN và KSTNCN; (ii) Nhóm các giải pháp về phương diện tổ
chức thực thi pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả KSTNCN của người nộp thuế trong quá trình thực thi
pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam.
6. Để triển khai thực hiện các biện pháp KSTN hiệu quả là một việc làm rất khó khăn trong điều
kiện xã hội còn phổ biến các giao dịch bằng tiền mặt như Việt Nam. Vì vậy không thể cải thiện tình
trạng này trong một sớm một chiều. Nhằm thực hiện việc KSTN một cách hiệu quả, các cơ quan chức
năng cần xây dựng những bước đi thích hợp và một lộ trình phù hợp để triển khai hiệu quả các biện
pháp nhằm KSTN của NNT, khi mà ý thức pháp luật của NNT thu nhập cá nhân được nâng lên ở một
mức độ tự giác; cùng với việc dần hình thành thói quen về TTKDTM trong dân cư. Mặt khác, trong thời
gian tới, cần chú trọng phát triển hình thức TTKDTM trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hướng tới
việc quản lý thu nhập của cá nhân qua hệ thống ngân hàng, có như vậy mới có thể kiểm soát được

TNCN, đạt được mục tiêu thu đúng, thu đủ thuế TNCN cho NSNN.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, vẫn còn một số vấn đề pháp lý về kiểm soát thu nhập cá
nhân, tác giả luận án mới đề cập ở chừng mực nhất định do những vấn đề mà đề tài nghiên cứu là rộng
và phức tạp; để hoàn thiện pháp luật về KSTNCN ở Việt Nam những vấn đề này cần được tiếp tục được
nghiên cứu hoàn thiện thêm./.


×