XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI GIÚP HỌC SINH SOẠN BÀI
NHẰM NÂNG CAO TÍNH TỰ GIÁC, TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC
TIẾT ĐỌC VĂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG .
A- ĐẶT VẤN ĐỀ
Lí thuyết dạy học hiện đại mà hiện nay chúng ta đang áp dụng ln đề cao
vai trị chủ động , tích cực của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức, Vì vậy một
trong những vấn đề quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là
vấn đề làm sao để phát huy tính tự giác, chủ động, tích cực của học sinh trong
việc lĩnh hội kiến thức.
Theo tơi, sự chủ động, tích cực của học sinh được thể hiện ở hai hoạt
động cơ bản: Thứ nhất, thể hiện qua việc soạn bài, làm bài tập ở nhà; Thứ hai,
biểu hiện qua thái độ tích cực của học sinh trong việc tiếp thu, xây dựng bài ở
trên lớp. Trong hai hoạt động đó, tơi đánh giá cao hoạt động soạn bài và làm bài
ở nhà của học sinh.Vì đây là hoạt động tự học, hoạt động có ý nghĩa hết sức
quan trọng giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức. Hoạt động này rất cần
thiết trong việc học tập ở tất cả các môn học. Riêng môn Ngữ văn, đặc biệt là
tiết đọc văn thì việc soạn bài trước khi tiết học diễn ra trở thành một công việc
đặc thù, một yêu cầu chung của môn học. Công việc này ảnh hưởng rất lớn tới
chất lượng của tiết học, tới kết quả tiếp thu bài học của học sinh. Để việc chuẩn
bị bài ở nhà của học sinh diễn ra được tốt, học sinh cần có sự định hướng. Thơng
thường hiện nay, yếu tố định hướng để học sinh chuẩn bị bài chính là hệ thống
câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa, nhìn chung hệ thống câu hỏi
này được xây dựng kĩ lưỡng dựa trên yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của từng
bài học. Tuy nhiên hệ thống câu hỏi hướng dẫn đọc văn mới chỉ là định hướng
chung cho mọi đối tượng học sinh, chưa có sự phân loại cụ thể. Trong khi đó đối
tượng học sinh rất đa dạng, khả năng nắm vấn đề của học sinh ở mỗi khu vực,
vùng miền có sự khác nhau nên sử dụng câu hỏi chung trong sách giáo khoa
nhiều khi chưa phù hợp. Hơn nữa từ hệ thống câu hỏi này, đã có rất nhiều bộ
sách biên soạn câu trả lời sẵn nên nhiều học sinh khơng có tinh thần tự giác sẵn
sàng sao chép y nguyên tài liệu vào vở mà khơng cần đọc văn bản, khơng nắm
được chút gì về văn bản. Như vậy từ một công việc mà giáo viên yêu cầu để tạo
ra sự tích cực, chủ động lại biến thành tiêu cực, làm mất thời gian mà khơng
đem lại hiệu quả. Vì vậy để học sinh thực sự tích cực, hứng thú trong cơng việc
soạn bài cho tiết đọc văn ở nhà, chống tình trạng sao chép tài liệu để đối phó thì
việc giáo viên trực tiếp đứng lớp biên soạn hệ thống câu hỏi phù hợp với đối
tượng học sinh là việc cần thiết.
1
Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm này là tơi mong muốn làm rõ đặc
trưng tiết đọc văn, thấy được vai trò của việc sử dụng câu hỏi trong tiết đọc văn,
từ đó tìm một phương pháp soạn thảo và sử dụng một hệ thống câu hỏi hợp lí
hơn để học sinh tích cực hơn trong học tập mơn học này .
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Có nhiều định nghĩa khác nhau về câu hỏi. Nhưng định nghĩa chung nhất
về câu hỏi là: Câu hỏi là phát ngơn đưa ra nhằm mục đích chính là nhận được
một thông tin từ người hỏi. Trong dạy học, câu hỏi được xem như một tình
huống mà giáo viên đưa ra để học sinh giải quyết nhằm chiếm lĩnh kiến thức.
Nói về việc đặt câu hỏi trong dạy học Socrat ( 470- 390 TCN) đã cho rằng: Khi
dạy học là đưa người học vào tình huống mâu thuẫn, tức là đặt ra những cái bẫy
để kích thích người học. Vai trị của câu hỏi trong dạy học đã được khẳng định,
và đây được xem như một cách thức quan trọng để dẫn dắt học sinh trong học
tập, dần dần chiếm lĩnh tri thức. tuy nhiên, cách đặt câu hỏi, việc sử dụng câu
hỏi ở tất cả các môn không như nhau mà phụ thuộc vào đặc điểm của môn học.
Tiết đọc văn trong bộ môn Ngữ văn là tiết học chủ yếu tập trung vào việc
phân tích tác phẩm văn học- thể loại vốn được xem là một loại hình nghệ thuật
( Nghệ thuật ngôn từ) với những đặc trưng riêng biệt. Để tìm hiểu một tác phẩm
văn học cần tiến hành đọc hiểu qua từng cấp độ phức tạp: Từ câu chữ, đến nội
dung, tư tưởng rồi mới đến thưởng thức nghệ thuật. Cách thức biểu đạt nội dung
trong mỗi văn bản cũng vô cùng đa dạng, không văn bản nào giống văn bản nào
nên việc tìm hiểu một văn bản văn học khơng thể theo một cơng thức, thói quen
nào đó. Khi học sinh tiến hành bước soạn bài ở nhà, đây được xem như là bước
tiếp xúc văn bản, bước đầu tự khám phá tác phẩm văn học ở mức độ khái quát.
Vì vậy sự định hướng kĩ lưỡng cho học sinh bằng một hệ thống câu hỏi là một
việc rất cần thiết .
Hơn nữa, tác phẩm văn học vốn được xem là một hệ thống mở, khi giảng
dạy, người giáo viên căn cứ chung vào tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng xem đây
là mục tiêu cần đạt. Nhưng con đường đẫn dắt để khai thác tác phẩm văn học
nhằm đạt chuẩn đó chắc chắn có nhiều cách và ở mỗi cách người dạy sẽ có cách
sử dụng câu hỏi khác nhau để dẫn dắt học sinh. Vì vậy để việc soạn bài của học
sinh thực sự hiệu quả cho bản thân học sinh và thuận lợi cho việc thực hiện tiết
dạy của giáo viên thì việc giáo viên trực tiếp đứng lớp soạn cho học sinh hệ
thống câu hỏi phù hợp với cách giảng dạy thể hiện trong giáo án của mình là
việc làm rất tốt, phù hợp với đặc thù của tiết học, môn học.
2
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Qua theo dõi rút ra được trong thực tế dạy học nhiều năm qua của tôi ở
trường THPT Cẩm Thủy 2 trên nhiều đối tượng học sinh, kết hợp với việc tham
khảo ý kiến của đồng nghiệp giảng dạy cùng bộ môn ở cùng trường và các
trường bạn tôi nhận thấy hiện nay đa số học sinh chưa thực sự chủ động và tích
cực trong việc soạn bài trước khi đến lớp, chưa tích cực chủ động trong tiếp thu
kiến thức trên lớp, các biểu hiện có thể dễ dàng nhận thấy như:
Thứ nhất, chưa tự giác, tích cực trong việc soạn bài ở nhà: Khơng đọc văn
bản trước, nhiều em khơng soạn bài, có soạn thì cũng chỉ mang tính đối phó
bằng cách chép lại các tài liệu “Để học tốt” bán trên thị trường, hoặc mượn vở
của bạn chép lại, thậm chí có em còn chép lại vở ghi sau khi đã học xong nhằm
đối phó nếu bị giáo viên kiểm tra . Thậm chí có em soạn bài là “ Làm cho xong
chuyện” nên thời gian rỗi chép một mạch vài bài một lúc vào vở soạn trong khi
kiến thức về tác phẩm thì khơng hề biết.
Thứ hai, học sinh khơng tích cực trong các giờ học trên lớp với các biểu
hiện cụ thể như: Ít đóng góp ý kiến xây dựng bài, nghe giảng và chép bài một
cách thụ động…
Từ những hiện trạng trên dẫn tới kết quả là: Giờ đọc văn trầm, tính tích
cực tự giác của học sinh khơng được phát huy, giáo viên khó áp dụng các biện
pháp dạy học mới … vì vậy kết quả tiếp thu bài học của học sinh không tốt, kiến
thức mà học sinh tiếp thu được hời hợt vì vậy học sinh sẽ rất nhanh quên.
NGUYÊN NHÂN: Thực trạng trên có thể được tạo nên từ nhiều nguyên
nhân khác nhau:
- Từ phía học sinh: Có thể do ý thức tự giác của học sinh chưa cao, do
trình độ của học sinh cịn hạn chế…
- Từ phía giáo viên: Do cách đặt câu hỏi, sử dụng câu hỏi của giáo viênyếu tố định hướng cho học sinh tiếp thu bài trên lớp chưa phù hợp, chưa khơi
gợi sự hứng thú, tích cực cho học sinh, với các biểu hiện mà tôi quan sát được từ
các tiết dự giờ như: Đặt câu hỏi không phù hợp với đối tượng học sinh; Nêu câu
hỏi rườm rà, khó hiểu, đặt câu hỏi khơng logic, khơng hướng vào trọng tâm bài
học, có những câu hỏi quá khó khiến học sinh lúng túng, không tự tin khi trả lời.
Cũng có những câu hỏi q dễ khơng kích thích đươc sự tìm tịi của học sinh…
- Từ phía xã hội: Do xu thế chọn ngành nghề hiện nay, đa số học sinh lựa
chọn các khối thi tự nhiên, tạo tâm lí chung là học sinh khơng mặn mà với các
mơn xã hội, trong đó có mơn văn. Từ tâm lí đó khiến học sinh khơng có hứng
thú khi học trên lớp, khơng có động lực tích cực khi soạn bài ở nhà.
- Ngồi ra, theo tơi việc học sinh soạn bài một cách đối phó, khơng tích
cực trong tiết học trên lớp cịn có một ngun nhân nữa là do hệ thống câu hỏi
hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa- cơ sở quan trọng để học sinh soạn bài
3
ở nhà chưa thực sự hợp lí như: Hỏi quá chung chung; hệ thống câu hỏi chưa
thực sự logic, chưa có tính dẫn dắt, hỏi gộp nhiều ý trong một câu khiến học
sinh lúng túng…. Hơn nữa hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa chỉ là định
hướng chung cho việc khai thác văn bản , trong khi đó trình độ của học sinh lại
hết sức đa dạng, được phân chia thành nhiều đối tượng khác nhau, không phải
nơi nào, lớp nào cũng như nhau.
III. GIẢI PHÁP
Để hạn chế thực trạng trên, với kinh nghiệm giảng dạy của mình tơi đưa
ra một giải pháp thay thế là: Giáo viên cần xây dựng lại một hệ thống câu hỏi
dựa trên hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa và cung cấp
đến cho học sinh trước mỗi tiết học để định hướng cho các em chuẩn bị bài.
Về vấn đề nêu và sử dụng câu hỏi, hiện nay đã có một số cơng trình nghiên
cứu, các bài viết của các chuyên gia, các nhà giáo dục và giáo viên có liên quan
đến đề tài như:
- Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường ( Nguyễn
Viết Chữ)
- Phương pháp dạy học văn ( Phan trọng Luận)
- Đặt câu hỏi trong dạy học tác phẩm tự sự dân gian chương trình Ngữ
văn lớp 10 ( Phạm Thúy Hằng)
- Sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học văn bản ở trường THCS (Tham
luận tại hội nghị chuyên đề môn Ngữ văn tại trường THCS Rô Men, Đam Rơng,
Đăk Lăk.)
Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào thực sự quy mơ, chi tiết để tìm ra
giải pháp hữu hiệu cho thực trạng trên.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Cách xây dựng hệ thống câu hỏi.
a. Cơ sở để biên soạn hệ thống câu hỏi:
Biên soạn một hệ thống câu hỏi địmh hướng cho tiết đọc văn làm cơ sở
cho học sinh soạn bài mới không đơn giản là việc “bê” nguyên hệ thống câu hỏi
trong giáo án sang cho học sinh vì như vậy giáo viên sẽ làm mất sự hấp dẫn, mới
mẻ của bài giảng. Để biên soạn cần căn cứ trên các cơ sở sau:
- Tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng.
- Hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa.
- Thiết kế bài giảng của giáo viên ( giáo án)
- Đối tượng học sinh.
Như vậy hệ thống câu hỏi biên soạn cho học sinh cũng phải đảm bảo yêu
cầu về chuẩn kiến thức kĩ năng, mang tính kế thừa, tiếp thu câu hỏi từ sách giáo
khoa. Đặc biệt nó phù hợp với cách dạy, cách dẫn dắt, khai thác văn bản của mỗi
4
giáo viên và phù hợp với đối tượng học sinh cụ thể mà hệ thống câu hỏi trong
sách giáo khoa khơng có được.
b. u cầu về hình thức câu hỏi
Về mặt hình thức đặt câu hỏi, yêu cầu cần đảm bảo sự rõ ràng, dễ hiểu.
Không đặt câu hỏi dài dịng, vụn vặt, câu hỏi thiếu trọng tâm và khơng logic.
Câu hỏi phải đặt theo một hệ thống nhất định, khơng đặt q nhiều câu hỏi tránh
gây tâm lí ngại ngần cho học sinh từ đó dẫn tới hiệu quả khơng cao.
Ngồi ra, theo tơi khơng nhất thiết đưa những câu hỏi mà kiến thức
quá rõ ràng trong sách giáo khoa như câu hỏi về tác giả, tác phẩm vào hệ thống
câu hỏi.
c. Yêu cầu về nội dung câu hỏi
Văn bản văn học có những nét đặc thù riêng, chính đặc thù này đã chi phối
tiến trình dạy học của tiết học này: Từ tìm hiểu chung, tìm hiểu khái quát rồi
mới đến đọc hiểu chi tiết nên khi soạn thảo câu hỏi về mặt nội dung giáo viên
cần xuất phát từ các đặc trưng của văn bản văn học. Nhưng theo tôi, quan trọng
bậc nhất là căn cứ theo các bước đọc- hiểu văn bản văn học( từ đọc- hiểu ngơn
từ, đọc- hiểu hình tượng nghệ thuật, đọc- hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả đến
đọc- hiểu và thưởng thức văn học) vì khai thác văn bản văn học theo các mức độ
đọc- hiểu như trên cũng phù hợp với các mức độ tiếp thu tri thức của học sinh
mà chuẩn kiến thức kĩ năng yêu cầu trong các bài học( từ nhận biết, thông hiểu
đến vận dụng thấp, vận dụng cao).
Hệ thống câu hỏi cần đa dạng và nhiều mức độ, nhưng chủ yếu hướng
vào việc buộc học sinh phải đọc văn bản trước và nắm được nội dung của văn
bản.
Biên soạn câu hỏi cũng cần tuân thủ theo cấu trúc thơng thường đó là từ
thấp đến cao, từ khái quát đến cụ thể để phù hợp với đặc điểm và quy luật nhận
thức của học sinh.
Ví dụ: Khi đọc – hiểu hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện
ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu cần hỏi để học
sinh phát hiện những nét khái quát về nhân vật trước qua câu hỏi: Khi ở toà án
huyện, tác giả đã để nhân vật bộc lộ mình bằng cách nào? sau đó giáo viên mới
đặt câu hỏi tiếp cụ thể hơn như: Qua những biểu hiện đó giúp em hiểu gì về số
phận và đặc điểm tính cách của người phụ nữ này? Hãy chứng minh bằng những
chi tiết cụ thể trong văn bản?
Xuất phát từ những yêu cầu trên, tơi chia ra 3 loại câu hỏi: Câu hỏi tìm
hiểu cốt truyện và các tình tiết tạo nên cốt truyện, thúc đẩy cốt truyện phát triển,
câu hỏi tìm hiểu hình tượng nghệ thuật, câu hỏi đánh giá tác phẩm. Mỗi loại câu
hỏi chia làm 3 mức độ: Nhận biết, thông hiểu, vânh dụng. Yêu cầu của mỗi loại
câu hỏi cho mỗi mức độ thể hiện cụ thể như sau:
- Câu hỏi u cầu tìm hiểu tình tiết chính tạo nên cốt truyện.
Nằm trong cả 3 hệ thống câu hỏi: cảm xúc, tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm, hình dung tưởng tượng, loại câu hỏi này nhằm giúp học sinh tìm hiểu
những diễn biến chính của truyện - một yếu tố vơ cùng quan trọng khi tìm hiểu
5
tác phẩm tự sự. Để trả lời những câu hỏi này, yêu cầu học sinh phải đọc kĩ văn
bản- một yêu cầu tưởng đơn giản nhưng hiện nay có rất nhiều học sinh không
chú trọng.
Đặc điểm của dạng câu hỏi này thể hiện qua bảng sau:
Mức độ nhận thức
Yêu cầu
Kể lại các diễn biến chính của cốt truyện, tìm
Nhận biết
tình tiết.
Phân tích và nêu ý nghĩa của các chi tiết, tình
Thơng hiểu,
tiết trong vai trị thúc đẩy cốt truyện phát triển
Đánh giá chi tiết, tình tiết
Vận dụng
Sáng tạo thêm các chi tiết cho câu chuyện
- Câu hỏi yêu cầu phân tích để rút ra ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật:
thuộc cả ba hệ thống: cảm xúc, tìm hiểu nội dung và nghệ thuật, hình dung tưởng
tượng. Loại câu hỏi này nhằm giúp học sinh phát huy năng lực khái quát, từ
những chi tiết, tình tiết cụ thể tìm ra ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật trong tác
phẩm.
Đặc điểm của dạng câu hỏi này là: từ việc phân tích hình tượng nghệ thuật
học sinh phải tìm ra ý nghĩa nhân sinh, bài học mà người xưa gửi gắm đằng sau
hình tượng đó. Nếu dạng câu hỏi tìm hiểu tình tiết chính tạo nên cốt truyện và sơ
đồ diễn biến cốt truyện, u cầu phân tích các tình tiết, chi tiết thì dạng câu hỏi
này yêu cầu ở mức độ khái qt cao hơn. Thơng qua tìm hiểu các chi tiết, học
sinh khái quát đặc điểm của hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, cùng ý nghĩa
của chúng. Để trả lời được loại câu hỏi này, nhận thức của học sinh về bài học
không dừng lại ở mức độ biết mà từ mức độ hiểu, vận dụng tới sáng tạo.
Đặc điểm của dạng câu hỏi này thể hiện qua bảng sau:
Mức độ nhận thức
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng
Yêu cầu
Phát hiện được các phương diện khắc hoạ hình tượng
( Số phận, ngoại hình, tính cách) và các chi tiết miêu tả
hình tượng.
Từ những biểu hiện cụ thể, yêu cầu học sinh chỉ ra được
đặc điểm của hình tượng.
Rút ra được ý nghĩa khái quát đằng sau hình tượng nghệ
thuật
- Câu hỏi đánh giá tác phẩm về nội dung và nghệ thuật:
thuộc cả 3 hệ thống câu hỏi: cảm xúc, tìm hiểu nội dung và nghệ thuật, hình dung
tưởng tượng, giúp học sinh khái quát toàn bộ giá trị, tư tưởng của tác phẩm, phát
huy sức sáng tạo và cảm nhận của người học. Đặc điểm của dạng câu hỏi này
thể hiện qua bảng sau:
6
Mức độ nhận thức
Nhận biết
Hiểu, vận dụng
Sáng tạo
Yêu cầu
Khái quát những giá trị cơ bản của tác phẩm
Đánh giá,cảm nhận của bản thân về chi tiết, nhân vật
truyện; so sánh trong hệ thống các tác phẩm cùng
thể loại và khác thể loại.
Liên hệ với bản thân và thực tế cuộc sống
2. Cách sử dụng câu hỏi
Sau khi câu hỏi được soạn thảo, hệ thống câu hỏi này sẽ được cung cấp
đến cho học sinh trong phần “Dặn dò” ở buổi học trước để hoc sinh có thời gian
soạn bài. Giáo viên có thể đọc cho học sinh chép lại câu hỏi nêu hệ thống câu
hỏi ít( cách này sẽ phải tốn một khoảng thời gian), nhưng để đỡ mất thời gian,
giáo viên cũng có thể phát bản in theo tổ để học sinh chủ động chép lại.
Song song với đó, giáo viên cũng tiến hành soạn thảo một hệ thống câu
hỏi thể hiện trong giáo án để sử dụng trong quá trình giảng dạy trên lớp. Hệ
thống câu hỏi này không trùng khớp với hệ thống câu hỏi đã cho học sinh mà sẽ
chi tiết hơn, có tính dẫn dắt hơn, khơi gợi sự tìm tịi, sáng tạo. Mục đích của việc
soạn thảo hệ thống câu hỏi này là để học sinh không bị nhàm chán, không đọc
lại bài soạn của mình một cách đơn thuần, máy móc mà giúp học sinh biết sử
dụng bài soạn của mình, những hiểu biết của mình khi soạn bài ở nhà để giải
quyết các tình huống do giáo viên đặt ra.
V. KIỂM NGHIỆM.
Để thấy rõ hiệu quả của giải pháp này tôi đã tiến hành nghiên cứu trên lớp
10CC năm học 2012-2013 bằng cách bố trí một số tiết đọc văn cho các em soạn
bài mới theo hệ thống câu hỏi do tôi tự biên soạn để so sánh kết quả giờ học với
một số tiết không cung cấp câu hỏi mà để học sinh soạn theo hệ thống câu hỏi ở
sách giáo khoa. Trước khi dạy tơi có kiểm tra vở soạn của một số em để đánh
giá xác xuất ý thức soạn bài, trong q trình dạy, tơi chú ý quan sát mức độ tích
cực trong xây dựng bài của hoc sinh và cuối tiết học tơi có cho học sinh làm
một bài kiểm tra ngắn . Kết quả tôi thu nhận được như sau:
Về ý thức soạn bài ở nhà: Qua kiểm tra xác xuất tôi nhận thấy, ở các tiết
giáo viên có cho câu hỏi riêng, tuy vẫn có học sinh soạn bài đối phó hoặc soạn
qua loa, nhưng số học sinh chuẩn bị bài một cách nghiêm túc nhiều hơn do các
em khơng cịn tâm lí ỷ lại sách “Để học tốt”. Để trả lời được câu hỏi buộc các
em phải đọc văn bản vì vậy đa số các em nắm kĩ nội dung, cốt truyện hơn.
Về tinh thần tích cực xây dựng bài: Do học sinh có chuẩn bị bài tốt, đọc kĩ
văn bản nên tích cực và tự tin hơn khi trả lời câu hỏi, giờ học sôi nổi hơn, học
sinh tỏ ra chủ động hơn khi tiếp thu kiến thức.
Về kết quả nhận thức của học sinh thể hiện qua bài kiểm tra như sau:
7
Bảng so sánh mức độ nhận thức của học sinh trong tiết học thực nghiệm và
đối chứng qua điểm bài kiểm tra:
Mức điểm
Điểm 0-4
Số
Phần
lượng trăm
Bài kiểm tra tiết 06
15
thực nghiệm
Bài kiểm ta tiết 13
32.5
đối chứng
Điểm 5-6
Số
Phần
lượng trăm
23
58
Điểm 7-8
Số
Phần
lượng trăm
09
22
Điểm 9-10
Số
Phần
lượng trăm
02
5
20
06
01
50
15
2.5
Như vậy, với kết quả trên cho thấy việc giáo viên soạn thảo hệ thống câu hỏi
mới thay thế cho câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa để học sinh
soạn bài cho tiết đọc văn đã phần nào tạo ra được sự tích cực, chủ động của
trong việc soạn bài ở nhà, trong việc xây dựng bài ở trên lớp và cải thiện khơng
Khí của tiết đọc văn cũng như góp phần nâng cao hiệu quả tiếp thu bài của học
sinh ở trên lớp. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng với tiết đọc văn nói riêng và
mơn Ngữ văn nói chung trong tình trạng hiện nay khi mà nhiều học sinh không
mặn mà với môn học dù rất quan trọng trong nhà trường này.
C . KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. Kết luận
Chúng ta đều biết trung tâm của mơn văn là “cái đẹp”, vì vậy nếu dạy văn
mà chưa tạo ra được những rung động thẩm mĩ sâu sắc khiến người đọc say mê
thì xem như chưa hồn thành sứ mạng của mơn học. Thực tế phương pháp dạy
học văn cổ truyền chính là “Giảng văn”, với phân mơn này thì gần như đây là
hình thức duy nhất để tiếp cận văn bản. Chúng ta cũng không phủ nhận những
thành công mà phương pháp đem lại, tuy nhiên với phương pháp này việc phát
huy tính chủ động sáng tạo của học sinh là chưa có. Chính điều đó địi hỏi phải
có những phương pháp cải tiến hơn trong việc dạy – học văn trong nhà trường
phổ thông, đây là nhu cầu cần thiết đối với các nhà giáo dục đặc biệt là những
giáo viên dạy văn. Một trong những yếu tố, phương pháp để tiến hành có hiệu
quả một tiết dạy văn chính là xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với đối tượng
học sinh qua đó giúp học sinh khám phá, cảm thụ tác phẩm văn học. Việc dạy
văn bằng cách xây dựng hệ thống câu hỏi có tác dụng tạo được mối quan hệ sư
phạm trong giao tiếp giữa thầy và trò và khơi dậy trong học sinh sự khám phá
nội dung, dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Dạy văn bằng việc xây dựng hệ thống câu hỏi còn phù hợp với xu thế giáo
dục chung của Việt nam cũng như của thế giới, phù hợp với mục đích học tập
hiện đại là “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định
mình”.Việc dạy học khơi gợi sự tích cực, chủ động từ phía học sinh chính là
bước đầu chúng ta giáo dục học sinh theo mục tiêu ấy .
8
II. Đề xuất
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ bản thân tơi rút ra được trong
q trình giảng dạy của mình. Để thực hiện đựơc cần có sự tâm huyết, cơng phu,
có sự đầu tư thời gian hơn việc soạn một giáo án giảng dạy thông thường.
Phương pháp nào cũng có những ưu, nhược điểm, có thể khơng phù hợp với mọi
nơi, mọi đối tượng. Vì vậy tơi rất mong được sự góp kiến bổ sung của đồng
nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hố, ngày 05/03/2013
Tơi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, khơng sao chép
nội dung của người khác.
Quách Thị Hà
9
MỤC LỤC
Tên đề mục
A. Đặt vấn đề
B. Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lí luận
II. Thực trạng của vấn đề
III. Giải pháp thay thế
IV. Tổ chức thực hiện
1. Cách sử dụng câu hỏi
2. Cách sử dụng câu hỏi
V. Kiểm nghiệm
C. Kết luận và đề xuất
Mục lục
Phụ lục 1
Phụ lục 2
Trang
1
2
2
2
3
4
4
7
7
8
10
11
12
10
PHỤ LỤC 1
HỆ THỐNG CÂU HỎI ĐỊNH HƯỚNG SOẠN BÀI: “HỒI TRỐNG CỔ
THÀNH” ( Tiết 97,98 ppct- lớp 10 nâng cao)
Câu 1: Hãy xác định cách sự kiện chính tạo nên diễn biến của đoạn trích?
Câu 2: Nhân vật Trương Phi được tập trung khắc hoạ trên những phương diện
nào ( ngơn ngữ, hành động, tâm lí)? Hãy tìm, liệt kê các chi tiết miêu tả nhân vật
trương Phi trong đoạn trích?
Câu 3: Từ những chi tiết đó cho thấy được đặc điểm tính cách Trương Phi như
thế nào?
Câu 4: Tìm những phương diện thể hiện và các chi tiết miêu tả nhân vật Quan
Cơng từ đó nhận xét về đặc điểm tính cách của nhân vật này?
Câu 5: Theo em tình tiết kịch tính nhất trong đoạn trích là tình tiết nào? Tình tiết
này có ý nghĩa thế nào với đoạn trích?
Câu 6: Sau khi hồi trống cổ thành vang lên thì có những sự kiện gì xảy ra? Em
hãy liệt kê các sự kiện đó từ đó rút ra ý nghĩa của hồi trống cổ thành?
Câu 7: Hày nhận xét về nghệ thuật kể chuyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật
thể hiện trong đoạn trích?
11
PHỤ LỤC 2:
GIÁO ÁN GIẢNG DẠY BÀI: “HỒI TRỐNG CỔ THÀNH” ( Tiết 97,98 ppctlớp 10 nâng cao)
HỒI TRỐNG CỔ THÀNH
( Trích Tam quốc diễn nghĩa)
La Quán Trung
A. MỤC TIÊU CỦA BÀI HỌC
1. Kiến thức:
- Hiểu được tính cách, phẩm chất của nhân vật Trương Phi và ý nghĩa của vấn
đề “trung thành hay phản bội” mà tác giả muốn đặt ra trong đoạn trích.
- Thấy được nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật.
2. Kĩ năng:
- Bước đầu biết cách đọc hiểu tiểu thuyết chương hồi
3. Thái độ:
- Giáo dục thái độ yêu ghét rõ ràng, sự trung nghĩa, thuỷ chung
B. PHƯƠNG PHÁP, PHƯƠNG TIỆN
- Phương pháp: Tæ chøc giờ dạy học theo cách kết hợp các phơng pháp đọc
sáng tạo, gợi tìm kết hợp với các hình thức trao đổi thảo luận, trả lời câu hỏi.
- Phng tin: Sách giáo khoa, sách giáo viên, giáo án, tài liệu CKTKN.
C. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức, kiểm tra bài cũ ( 5’)
Hoạt động 1: Em hãy nêu các yêu cầu và cách tóm tắt văn bản thuyết minh?
2. bài mới:
Đặt vấn đề( 1’)
Cành lá khéo in hình Dục Đức
Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Cơng
Năm trịn cố quốc tăm hơi váng
Tin tức bên nhà bữa bữa trông
( Tức cảnh- Hồ Chí Minh)
Đọc bài thơ, có thể nhận ra hai danh tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc:
trương Phi nổi tiếng cương trực, dũng mãnh, Quan Vũ với lịng trung nghĩa,
dũng cảm. Đoạn trích sau sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào đặc điểm của hai
nhân vật này cũng như phần nào biết đến một tác phẩm kinh điểm của tiểu
thuyết Minh Thanh Trung Quốc: Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán
Trung.
Tiết 1 : Gồm hoạt động 1 và phần 1 của hoạt động 2
Tiết 2: Gồm phần 2, 3 của hoạt động 2 và hot ng 3
Hoạt động 1: Tìm hiểu chung
Mc tiờu: Tỡm hiểu về tác giả, tác phẩm
Thời gian : 25
Cách thức tiến hành : Nêu câu hỏi vấn đáp
12
ĐVĐ : Mục tiểu dẫn sau đây giúp ta tìm hiểu về tác giả, tác phẩm, một yếu tố
quan trọng giúp ta tìm hiểu hiệu quả hơn về đoạn trích.
HĐ của giáo viên và HS
HS đọc SGK
Trả lời câu hỏi vấn đáp
? Nêu những nét khái quát
về tác giả?
GV cho HS đọc phần tóm tắt
? Hày khái quát những giá
trị của tác phẩm?
? Em hãy nêu vị trí đoạn
trích?
? Hãy xác định đại ý đồn
trích?
Nội dung cần đạt
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Sống vào giai đoạn cuối Nguyên đầu Thanh
( 1330- 1400)
- La quán Trung là người đã dựa vào nhiều
nguần tư liệu chủ yếu là các câu chuyện từ dân
gian để viết nên tác phẩm.
2. Tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa
a. Tóm tắt tác phẩm( SGK)
b. Giá trị của tác phẩm
- Giá trị hiện thực: Ghi lại một thời kỳ lịch sử
đầy biến động, phản ánh quy luật của xã hội
phong kiến, bộc lộ quan điểm “ tôn Lưu biếm
Tào” nhất quán.
- Giá trị nghệ thuật: Khắc hoạ tính cách nhân
vật thành cơng, biệt tài kể chuyện, miêu tả
chiến tranh.
- Tác phẩm còn là nguồn tư liệu văn học phong
phú: Kinh nghiệm sáng tác, gợi ý đề tài.
- tác phẩm còn là nguồn tư liêu lịch sử, quân
sự quý giá.
3. Đoạn trích “ Hồi trống Cổ thành”
Đoan trích trích hồi 28 của tác phẩm: Sau khi
anh em Lưu Quan Trương bị li tán, Quan công
ở nhờ bên Tào Tháo, nhe tin Lưu Bị ở Hà Bắc
liên đưa hai chị dâu vượt qua năm cửa ải chém
sáu tướng Tào tìm đến bên Lưu Bị. Trên
đường đi gặp Trương Phi ở cổ Thành .
* Đại ý: Ngợi ca lòng trung nghĩa, cương trực,
anh hùng của anh em Quan Công, Trương Phi.
Hoạt động 2: Đọc- Hiểu
Thời gian: 50’
Cách thức tiến hành: Thơng qua hệ thống câu hỏi vấn đáp, thuyết trình kt hp
tho lun.
ĐVĐ: Mục II giúp chúng ta hiểu sâu hơn tính cách của các nhân vật Tr ơng Phi,
Quan Công và ý nghĩa của hồi trống Cổ Thành.
13
HĐ của GV và HS
? Tỡm cỏc chi tit miờu tả
hành động của Trương Phi
khi gặp Quan Cơng Từ đó
nhận xét về tính cách của
Quan Cơng? Phân tích cách
bộc lộ đặc điểm tính cách
đó?
HS thảo luận theo nhóm sau
đó trả lời, nhận xét, bổ sung
hoàn thiện câu trả lời.
? Em hãy nhận xét về nghệ
thuật xây dựng nhân vật của
La Quỏn Trung qua nhõn
vt Trng Phi?
Yêu cầu cần đạt
II. c- Hiểu
1.Hình tượng nhân vật Trương Phi
Khi gặp Quan Cơng
- Điệu bộ:
“Mắt tròn xoe, râu hùm vểnh ngược”
- Hành động: Chẳng nói chẳng rằng, vác xà
mâu lên ngựa, hị hét như sấm.
- Ngôn ngữ: Gọi Quan Công là mày xưng tao.
Cho thất tính cách nóng nảy, đơn giản của
Trương Phi. Nhưng cũng rất cẩn tọng trong
việc xác minh lòng trung thành của Quan
Công.
+ Tôn Càn bênh vực: Trương Phi mắng cả Tôn
Càn
+ Chị dâu thanh minh cho Quan Công: Trương
Phi cũng khơng nghe.
- Trước sự việc đầy kịch tính: Quan Cơng
Khẳng định mình khơng đem theo binh mã, bất
ngờ có binh mã đi tới Đây là tình tiết quan
trọng giúp Trương Phi thử thách anh mình
đồng thời giúp Quan Cơng minh oan.
Tuy nhiên khi đầu Sái Dương rơi xuống đất khi
chưa dứt hồi trống thì Trương Phi vẫn chưa tin
+ Nghe tin lính Tào kể chuyện ở Hứa Đơ
Trương Phi tin anh mình trong sáng nhưng vẫn
chưa biểu thị thái độ.
+ Chỉ đến khi quân của Mi phu nhân kể lại mọi
chuyện Trương Phi liền “ Rỏ nước mắt thụp lạy
Vân Trường”. Hành động thể hiện tính cách
anh hùng trung nghĩa, thán phục trước nhân
cách, tài năng của Quan Công.
Hai tính cách tinh tế và thơ lỗ cùng tồn tại
thống nhất trong nhân vật thể hiện lịng trung
thành vì sự nghiệp chung..
- Nghệ thuật: Cách tạo tình huống bất ngờ,
kịch tính, miêu tả cử chỉ, ngơn ngữ, hành động
bên ngồi để làm nổi bật tính cách nhân vật.
2. Hình tượng nhân vật Quan Công
? Hãy nhận xét chung về - QC là người khiêm nhường, vì đang ở hồn
tính cách nhân vật Quan cảnh tình ngay lí gian nên không thể dõng dạc
14
Cơng?
? Phân tích đặc điểm tính
cách đó và chứng minh bằng
các chi tiết trong văn bản?
hoặc tự phụ mà phải nhờ vào chị dâu và bản
thân tự nỗ lực minh oan cho mình: Trước sự
nóng nảy Trương Phi Quan Cơng vẫn mềm
mỏng, gọi em, xưng anh.
- Quan Cơng cịn là một người trung nghĩa và
dũng mãnh : Tính cách này thể hiện rõ nét qua
hành động : Chưa dứt một hồi trống đầu Sái
Dương đã rơi xuống đất . Chi tiết thể hiện rõ
sức mạnh và khát vọng được minh oan và cũng
thể hiện lịng trung thành của Quan Cơng.
? Sau hồi trống có những sự 3. Ý nghĩa của Hồi trống Cổ Thành
kiện gì xảy ra. Từ đó cho - Tiếng trống gợi khơng khí chiến trận hào
thấy hồi trng cú ý ngha hựng
nh th no?
- Là điều kiện, là quan tòa với quyền phán xét:
Quan Công trung thành hay không.
- Bộc lộ lòng trung thành của Quan Công.
- Hồi trống minh oan.
- Biểu dơng, ca ngợi sự cơng trực, dứt khoát của
Trơng Phi.
- Hồi trống đoàn tụ.
Hot ng 3: tổng kết
Mục tiêu: Khắc sâu thêm kiến thức cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm
Thời gian: 5 phút
Cách thức tiến hành: Nêu câu hỏi vấn đáp
§V§: Mục III giúp chúng ta nắm chắc hơn những kiến thức cơ bản về nội dung
và nghệ thuật của on trích
HĐ của Gv và HS
Em hãy nhận xét tổng hợp
chun về những nét đặc sắc
nhất về nội dung và nghệ
thuật của trích đoạn?
Nội dung cần đạt
III.Tổng kết
1. Nội dung:
- Xây dựng nhân vật với những đặc điểm tính
cách nổi bật để ca ngợi phẩm chất trung nghĩa,
tinh thần thượng võ, dũng mãnh của người anh
hùng.
2, Nghệ thuật:
- Nghệ thuật kể chuyện, tạo tình tiết gay cấn,
bất ngờ.
- Nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật
Dặn dị: 4 phút
- Nắm vững cốt truyện, giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
- Làm bài tập nâng cao( SGK)
- Soạn bài: Luyện tập về liên kết trong văn bản.
15