Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Phát triển Kinh tế Đối ngoại của Cămpuchia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.88 KB, 53 trang )

Header Page 1 of 166.

LUẬN VĂN:
Phát triển Kinh tế Đối ngoại của
Cămpuchia trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực

Footer Page 1 of 166.


Header Page 2 of 166.

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế Đối ngoại Cămpuchia là lĩnh vực rất quan trọng đóng góp cho sự phát triển của
Cămpuchia nói chung và nền kinh tế Cămpuchia nói riêng.
Hiện nay quá trình toàn cầu hoá là một xu thế phát triển và tất yếu của tất cả các quốc gia
trên thế giới. Theo xu thế phát triển đó, Cămpuchia đã gia nhập 2 tổ chức lớn trên thế giới đó
là: Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với
mục đích đẩy nhanh sự phát triển của đất nước.
Cùng với sự ưu đãi và những thuận lợi mà ASEAN và WTO mang lại, Cămpuchia cũng
đang phải đối mặt với những thách thức cũng như những bất lợi do tác động 2 chiều của quá
trình hội nhập. Xuất phát từ sự cần thiết đó, đề tài “Phát triển Kinh tế Đối ngoại của
Cămpuchia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực” được chọn làm chuyên dề
thực tập tốt nghiệp.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Phân tích những thuận lợi và bất lợi mà Cămpuchia đã được hưởng và phải đối mặt do
việc hội nhập ASEAN và WTO đem lại.
- Phân tích Kinh tế Đối ngoại của Cămpuchia trước và sau khi gia nhập ASEAN và
WTO.


- Đề xuất một số phương hướng đối với Cămpuchia nhằm đẩy mạnh sự phát triển Kinh tế
Đối ngoại trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế và khu vực.

3. Phạm vi nghiên cứu
- Nền kinh tế Cămpuchia trước và sau khi giai nhập ASEAN và WTO.
- Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 1995 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

Footer Page 2 of 166.


Header Page 3 of 166.

Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trên cơ sở tư duy của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể được sử dụng là:
Phương pháp thống kế, phân tích, tổng hợp và khái quát hoá v.v.

5. Đóng góp của đề tài
Cho biết cụ thể những thuận lợi và bất lợi của Cămpuchia sau khi gia nhập ASEAN và
WTO.
Cho biết về tình hình thực hiện CEPT của Cămpuchia.
Cho biết thực trạng Kinh tế Đối ngoại của Cămpuchia trong thời gian trước khi gia
nhập và sau khi gia nhập ASEAN và WTO.
Đề xuất một số phương hướng nhằm đẩy mạnh sự phát triển Kinh tế Đối ngoại của
Cămpuchia sau khi gia nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Một số kiến nghị nhằm phát triển nền kinh tế Cămpuchia trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực.

6. Bố cục của đề tài
Đề được chia làm 3 phần:

Phần I: Lý luận chung phát triển kinh tế đối ngoại.
Phần II: Phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia.
Phần III: Các phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia và những kiến
nghị.

Nội dung
I/ Lý luận chung phát triển kinh tế đối ngoại
1/ Khái niệm
Hội nhập: là quá trình hợp tác của các quốc gia trong một khu vực địa lý hoặc quốc tế
nhằm mục đích giảm bớt hay xóa bỏ các trở ngại đối với dòng vận động của hàng hóa, dịch
vụ, lao động và vốn giữa các quốc gia đó.

Footer Page 3 of 166.


Header Page 4 of 166.

Thương mại quốc tế: là sự trao đổi mua bán qua biên giới hàng hoá và dịch vụ.
Đầu tư nước ngoài: là một quá trình kinh doanh trong đó hai hay nhiều bên có quốc tịch
khác nhau cùng nhau góp vốn để thực hiện một hay một số dư án đầu tư nhằm tạo ra lọi ích
cho các bên tham gia.

2/ Các hình thức hội nhập khu vực
Hình thức hội nhập khu vực bao gồm một số hình thức như sau:
Khu vực thương mại tự do, là một hình thức hội nhập trong đó các thành viên cùng nhau
thoả thuận thống nhất một số vấn đề nhằm mục đích tự do hoá trong buôn bán về một hoặc
một số nhóm mặt hàng nào đó. Các thoả thuận đó là:
Thứ nhất, giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế số lượng đối
với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau.
Thứ hai, tiến tới lập một thị trường thống nhất về hàng hoá và dịch vụ.

Thứ ba, mỗi thành viên trong khối vẫn có quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán
với các quốc gia ngoài khối, tức là mỗi thành viên có thể có chính sách ngoại thương riêng
đối với các quốc gia ngoài khối
Liên minh thuế quan, là một hình thức hội nhập nhằm tăng cường hơn nữa mức độ hợp
tác giữa các nước thành viên. Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia trong liên minh bên
cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các quốc gia thành viên,
còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên
minh, tức là phải thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là thành
viên.
Cộng đồng kinh tế, là một hình thức hội nhập trong đó không chỉ qui định việc loại bỏ
hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên và thiết lập một biểu thuế quan chung đối với
các quốc gia khác, mà còn kêu gọi thực hiện di chuyển tự do hàng hoá, dịch vụ, lao động và
vốn trong nội bộ khối.
Liên minh kinh tế, là một hình thức hội nhập với những đặc điểm tương đồng với cộng
đồng kinh tế về sự tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, tư bản và lực lượng lao động giữa các
quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất biểu thuế quan chung áp dụng cho cả các nước

Footer Page 4 of 166.


Header Page 5 of 166.

không phải là thành viên. Tuy nhiên, liên minh kinh tế thể hiện mức độ hội nhập cao hơn,
trong đó các nước thành viên còn thực hiện thống nhất các chính sách kinh tế, tài chính, tiền
tệ. Như vậy, cộng đồng kinh tế là một “bước đệm”, là giai đoạn chuyển tiếp từ thị trường
chung sang liên minh kinh tế. Ví dụ, trước khi chuyển sang hình thành Liên minh Châu Âu
(European Union - EU) (năm 1994) thì khối kinh tế này đã trải qua nhiều hình thức hội nhập,
trong đó có Cộng đồng kinh tế Châu Âu (European Economic Community – EEC) (năm
1957), Cộng đồng Châu Âu (European Community) (năm 1967).
Liên minh tiền tệ, là một hình thức hội nhập tiến tới phải thành lập một “quốc gia kinh tế

chung” có nhiều nước tham gia với những đặc trưng sau:
Một, xây dựng chính sách kinh tế chung trong đó có chính sách ngoại thương chung.
Hai, hình thành đồng tiền chung thống nhất thay cho các đồng tiền riêng của các nước
thành viên.
Ba, thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ.
Bốn, xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng trung ương của các
nước thành viên.
Năm, xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước ngoài liên
minh và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.

3/ WTO tổ chức mang tính hội nhập toàn cầu
3.1/ Sự ra đời của WTO
Vòng đàm phán Uruguay được bắt đầu từ năm 1986, tuy nhiên đến đầu năm 1990, nhiều
vấn đề vẫn tiếp tục được bàn luận vì Mỹ và một số nước có nền kinh tế phát triển muốn đưa
thêm vào chương trình nghị sự những vấn đề mới như: trao đổi dịch vụ quốc tế, quyền sở hữu
trí tuệ, đầu tư, lao động, môi trường…
Bên cạnh đó, thắng lợi của GATT trong việc cắt giảm thuế cùng một loạt nhân nhượng
kinh tế trong những năm 70, 80 của thế kỷ XX đã khiến chính phủ các nước đưa ra một loạt
hình thức bảo hộ khác như: Tự nguyện hạn chế xuất khẩu, tăng cường các biện pháp kiểm
dịch, nâng cao tiêu chuẩn hàng hoá nhập khẩu… Chính vì vậy mà thương mại thế giới đã trở
nên phức tạp hơn nhiều so với 40 năm trước đó. Ngay cả đối với thương mại hàng hoá, nhiều

Footer Page 5 of 166.


Header Page 6 of 166.

lĩnh vực tuy đã được GATT xem xét nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng, chưa hợp lý, đặc biệt như
hiệp định về thương mại hàng nông sản và hàng dệt may chủ yếu chỉ mang lợi thế và để bảo
vệ lợi ích cho các nước công nghiệp phát triển. Thể chế của GATT và hệ thống giải quyết

tranh chấp cũng bị một số nước thành viên chỉ trích.
Hơn nữa, đây cũng là thời kỳ kết thúc “chiến tranh lạnh”, thế giới chuyển từ xu thế “đối
đầu” sang “đối thoại”, thực hiện mở cửa và hội nhập với quốc tế. Tình hình kinh tế, thương
mại thế giới có những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc dưới tác động của toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới và sự phát triển vượt bậc của thông tin liên lạc. Do đó, nhiều vấn đề mới trong
quan hệ quốc tế phát sinh, vượt xa khuôn khổ của GATT, đòi hỏi các quốc gia thành viên
phải xem xét lại sứ mạng của GATT.
Cuối cùng để khắc phục những hạn chế nội tại không thể giải quyết của GATT và để đáp
ứng nhu cầu phát triển toàn cầu hoá thương mại và kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, các
bên tham gia vòng đàm phán Uruguay (vòng đàm phán cuối cùng của GATT) đã quyết định
thiết lập một thể chế thương mại đa phương mới tiếp tục GATT và thay thế cho GATT, đó là
tổ chức Thương mại Thế giới (WTO - World Trade Organization) vào ngày 01/01/1995.
WTO là tổ chức quốc tế lớn nhất đầu tiên trong việc thiết lập các thoả thuận và cam kết
chung trên quy mô toàn cầu trong lĩnh vực thương mại và phát triển kinh tế nói chung. Với tư
cách là tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, WTO thực hiện mục tiêu đã
được nêu trong lời nói đầu của GATT là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành
viên, đảm bảo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất
các nguồn lực của thế giới.
WTO có tru sở tại Geneva và tổng thư ký đầu tiên là ông R.Ruggiero, người Italia. Ngày
31/12/1994, các nước và khu vực tham gia GATT trước đây sau khi đồng loạt tiếp nhận bản
Hiệp định đàm phán Uruguay đã trở thành các bên đầu tiên tham gia ký kết điều ước của
WTO. Tổ chức thương mại thế giới ra đời đánh dấu sự ra đời của một thể chế thương mại đa
phương mới, từ đó thương mại quốc tế đã bước vào một thời đại mới - thời đại của WTO.

3.2/ Mục tiêu của WTO
WTO hoạt động dựa trên 3 mục tiêu cơ bản sau:

Footer Page 6 of 166.



Header Page 7 of 166.

 Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới, phục vụ cho sự
phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
 Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp
thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương,
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; đảm bảo cho các nước đang phát
triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thu hưởng những lợi ích thực sự từ sự
tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này
và khuyến khích các nước này càng hội nhập sâu rộng và nền kinh tế thế giới.
 Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo
đảm quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tông trọng.

3.3/ Chức năng của WTO
Tổ chức thương mại thế giới có 5 chức năng cơ bản sau:
 Thông nhất việc quản lý thực hiện các hiệp định và thoả thuận thương mại đa phương
và nhiều bên: giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực
hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
 Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong
khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
 Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện
và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương và nhiều bên.
 Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm thực
hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuan thủ các quy định của WTO, Hiệp định
thành lập WTO đã quy định một cơ chế ra soát chính sách thương mại áp dụng chung đối với
tất cả các nước thành viên.
 Thực hiện hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ tiền tệ Quốc tế và
Ngân hàng Thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng
phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.


3.4/ Các nguyên tắc chung của WTO

Footer Page 7 of 166.


Header Page 8 of 166.

Về phương diện pháp lý, định ước cuối cùng của vòng đàm phán Urguay ký ngày
15/4/1999 tại Marrakesh là một văn kiện pháp lý có phạm vi điều chỉnh rộng lớn nhất và có
tính chất kỹ thuật pháp lý phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao và luật pháp quốc tế. Về
dung lượng, các hiệp định được ký tại Marrakesh và các phụ lục kèm theo bao gồm 50.000
trang, trong đó riêng 500 trang quy định về các nguyên tắc và nghĩa vụ pháp lý chung của các
nước thành viên như sau:
- Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới.
- 20 hiệp định đa phương về thương mại hàng hoá.
- 4 hiệp định đa phương về thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giái quyết tranh chấp và
rà soát chính sách thương mại.
- 4 hiệp định nhiều bên về hàng không dân dụng và mua sắm của Chính phủ, sản phẩm
sữa và sản phẩm thịt bò.
- 23 tuyên bố và quyết định liên quan đến một số vấn đề chưa đạt được thoả thuận trong
vòng đàm phán Uruquay.
Tổ chức thương mại thế giới được xây dựng dựa trên 4 nguyên tắc pháp lý nền tảng sau:
Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN - Most Favoured Nation)
Tối huệ quốc, là nguyên tắc pháp lý quan trọng của WTO. Tầm quan trọng đặc biệt là
MFN được thể hiện ngay tại Điều I của Hiệp định GATT. Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu
một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ
phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác. Thông thường nguyên tắc MFN
được quy định trong các Hiệp định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN được áp
dụng đa phương đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đồng nghĩa với nguyên tắc
bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ dành cho nhau sự “đối xử ưu đãi

nhất”.
Mặc dù được coi là “hòn đá tảng” trong hệ thống thương mại đa phương. Hiệp định
GATT 1947 và WTO vẫn quy định một số ngoại lệ và miễn trừ quan trọng đối với nguyên tắc
MFN, như là dành cho các nước kém phát triển và đang phát triển sự đãi ngộ đặc biệt và có
phân biệt, trong đó có Hệ thống ưu đãi phổ cập.
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT - National Trealment)

Footer Page 8 of 166.


Header Page 9 of 166.

Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, quy định tại Điều II hiệp định GATT, điều 17 GATS và
điều 3 TRIPS. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia được hiểu là hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ và
quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém lợi hơn so với hàng hoá cùng
loại trong nước. Trong khuôn khổ WTO, nguyên tắc đãi ngộ quốc gia chỉ áp dụng đối với
hàng hoá, dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ, chưa áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân.
Phạm vi áp dụng của nguyên tắc đãi ngộ quốc gia đối với hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ,
việc áp dụng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là nghĩa vụ chung, có nghĩa là hàng hoá và quyền
sở hữu trí tuệ.
Nguyên tắc mở cửa thị trường
Nguyên tắc mở cửa thị trường thực chấp là mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và
đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia
đều chấp nhận mở cửa thì trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ
thống thương mại toàn cầu mở cửa.
Về mặt chính trị, “mở cửa thị trường”, thể hiện nguyên tắc tự do hoá thương mại của
WTO. Về mặt pháp lý, “mở cửa thị trường”, thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc thự hiện
các cam kết về mở cửa thị trường mà nước này chấp nhận khi đàm phán gia nhập WTO.
Nguyên tắc cạnh tranh công bằng (Fair Competition)
Cạnh tranh công bằng thể hiện nguyên tắc “tự do cạnh tranh trong những điều kiện bình

đẳng như nhau” và được công nhận trong án lệ của Uruguay kiện 15 nước phát triển (1962)
về việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau đối với cung một lượng hàng nhập khẩu.
Do tính chất nghiêm trọng của vụ kiện. Đại hội đồng GATT đã phải thành lập một nhóm công
tác (Working Group) để xem xét vụ nạy. Nhóm công tác đa cho kết luận rằng, việc áp đặt các
mức thuế khác nhau này đã làm đảo lộn những “điều kiện cạnh tranh công bằng” mà Uruguay
có quyền “mong đợi” từ phía những nước phát triển và đã gây thiệt hại lợi ích thương mại của
Uruguay. Từ nay các nước phát triển có thể bị kiện ngay cả về mặt pháp lý không vi phạm
các điều khoản nào trong hiệp định GATT nếu các nước này có những hành vi trái với
“nguyên tắc cạnh tranh công bằng”.

4/ Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực

Footer Page 9 of 166.


Header Page 10 of 166.

Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một vấn đề mang tính toàn cầu. Với xu hướng
toàn cầu hoá như hiện nay, trong khi các quốc gia đang có xu hướng chuyển dần từ đối đầu
sang đối thoại thì việc hội nhập là một đòi hỏi cấp thiết, đặc biệt đối với các nước đang phát
triển như Cămpuchia.
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một khái niệm rộng, nhưng trong đó biểu hiện rõ
nhất của nó là liên kết kinh tế quốc tế và khu vực, và đây cũng chính là mục tiêu mà các nước
đang theo đuổi.
Liên kết kinh tế có nhiều loại hình với phạm vi, mức độ và cấp độ liên kết khác nhau,
trong đó tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia thể hiện ở 2 khía cạnh
chính, đó là: tác động tích cực và tác động tiêu cực.

4.1/ Tác động tích cực của liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
4.1.1/ Tạo lập mậu dịch

Đây là tác động tích cực rõ rệt nhất của liên kết kinh tế quốc tế và khu vực đối với sự phát
triển kinh tế của một quốc gia. Quá trình liên kết kinh tế dẫn tới việc xoá bỏ các trở ngại đối
với thương mại hoặc đầu tư giữa các quốc gia thành viên trong một khối thương mại. Sự gia
tăng quy mô thương mại giữa các quốc gia bắt nguồn từ quá trình liên kết kinh tế khu vực
được gọi là tác động tạo lập mậu dịch. Tạo lập mậu dịch mang lại cho người tiêu dùng và các
doanh nghiệp ở các quốc gia thành viên cơ hội lựa chọn lớn hơn đối với các loại hàng hoá và
dịch vụ. Một kết quả khác của tạo lập mậu dịch là người tiêu dùng có thể mua được hàng hoá
và dịch vụ với chi phí thấp hơn, do có sự giảm bớt các trở ngại đối với thương mại. Hơn nữa,
mức giá thấp hơn đối với mỗi mặt hàng sẽ làm tăng mức cầu đối với các mặt hàng khác vì
người tiêu dùng có thể tiết kiệm được nhiều tiền hơn cho việc mua sắm những mặt hàng đó.
Sự phân tích ở trên có thể minh hoạ qua ví dụ sau đây trong trường hợp hội nhập dưới
hình thức liên minh thuế quan: Giả sử một đơn vị sản phẩm x khi có mậu dịch tự do ở quốc
gia 1 là Px = 1 USD và ở phần còn lại của thế giới là Px = 1,5 USD. Dx và sản xuất là đường
cầu và đường cung sản phẩm x ở thị trường nội địa của quốc gia 2.
Giả sử thêm rằng, quốc gia 2 là một nước nhỏ nên sự ảnh hưởng đến mức giá chung là rất
ít, có thể không xét đến.

Footer Page 10 of 166.


Header Page 11 of 166.

Biểu đồ 1: Liên minh thuế quan – Tạo lập mậu dịch

Px
($)

2
1


Sx

G
A

J
C

H
M

N

S1+T
B

S1
Dx

0

10
V

30
U

50
Z


60
W

X

 Khi chưa có liên minh thuế quan và lúc đó quốc gia 2 đánh thuế 100% không phân biệt
xuất xứ hàng hoá đối với tất cả những sản phẩm x nhập khẩu. Như vậy, quốc gia 2 sẽ nhập
khẩu sản phẩm x từ quốc gia 1 với mức giá Px = 2 USD và sẽ không nhập khẩu sản phẩm x từ
các nước thuộc phần còn lại của thế giới vì giá nhập khẩu là Px = 3 USD (kể cả thuế nhập
khẩu).
Trên biểu đồ ta thấy: với mức gia nhập khẩu sản phẩm từ quốc gia 1 là Px = 2 USD sẽ
tiêu thụ 50x (GH), trong đó 30x (GJ) được sản xuất trong nước, còn 20x (JH) được nhập khẩu
từ quốc gia 1. Quốc gia 2 thu được 20 USD (MJHN) thuế nhập khẩu. Trên biểu đồ S1 là
đường cung co giãn hoàn toàn của sản phẩm x từ quốc gia 1 sang quốc gia 2 trong điều kiện
mậu dịch tự do, còn S1+T là đường cung trong điều kiện thuế quan là 100%.
 Trong điều kiện quốc gia 1 và quốc gia 2 thiết lập một liên minh thuế quan và loại bỏ
thuế quan đánh vào các sản phẩm nhập khẩu giữa 2 nước với nhau thì đường cung về sản
phẩm x ở quốc gia 2 chính là S1.
Mức giá px ở quốc gia 2 và ở quốc gia 1 khi đó đều là Px = 1 USD. Tại mức giá này,
quốc gia 2 tiêu thụ 60x (AB), trong đó 10x (AC) được sản xuất trong nước, còn 50x (CB)

Footer Page 11 of 166.


Header Page 12 of 166.

được nhập khẩu từ quốc gia 1. Trong trường hợp này quốc gia 2 không thu được thuế nhập
khẩu. Song bù đắp vào đó, lợi ích của người tiêu dùng ở quốc gia 2 được tăng lên. Lợi ích này
là do hình thức liên minh thuế quan mang lại và biểu thị bằng tỷ giác AGHB. Tuy nhiên, cũng
do hình thức liên minh thuế quan mà thặng dư của người sản xuất ở quốc gia 2 bị giảm - biểu

thị bằng tỷ giác AGJC, và phần thuế nhập khẩu của Nhà nước bị mất - biểu thị bằng tỷ giác
MJHN.
Nếu xét tổng hợp đối với cả hai quốc gia thì lợi ích ròng do liên minh thuế quan tạo lập
mậu dịch mang lại bao gồm:
Thứ nhất, phúc lợi do kết quả của việc di chuyển sản xuất từ các nhà sản xuất có hiệu
quả thấp hơn ở quốc gia 2 (có mức chi phí VUJC) sang các nhà sản xuất có hiệu quả cao hơn
ở quốc gia 1 (có mức chi phí VUMC) biểu thị bằng tam giác CJM.
Thứ hai, lợi ích tiêu dùng tăng thêm do giá giảm xuống làm cho người dân ở quốc gia 2
có thể mua một khối lượng hàng hoá lớn hơn (có mức lợi ích ZWBH) với mức chi phí thấp
hơn (có mức chi phí ZWBN) biểu thị bằng tam giác BHN. Như vậy, một liên minh thuế quan
sẽ đưa đến việc tạo lập mậu dịch và từ đó mang lại những lợi ích cho người sản xuất và người
tiêu dùng trong các quốc gia trong liên minh.

4.1.2/ Sự nhất trí cao hơn
Hoạt động của các định chế quốc tế như GATT và WTO có mục tiêu giảm bớt các trở
ngại đối với thương mại và đầu tư trên quy mô toàn cầu. Những nỗ lực liên kết kinh tế khu
vực thường có sự tham gia của một vài cho tới hàng chục quốc gia. Một lợi ích khác của quá
trình liên kết kinh tế quốc tế và khu vực là việc đạt tới sự nhất trí giữa một số lượng nhỏ các
nước thành viên sẽ dễ dàng hơn nhiều so với trường hợp có nhiều quốc gia liên quan.

4.1.3/ Hợp tác chính trị
Liên kết kinh tế quốc tế và khu vực có thể mang lại nhiều lợi ích về mặt chính trị. Một
nhóm quốc gia có thể có tiếng nói chính trị có trọng lượng hơn trên trường quốc tế so với
từng quốc gia riêng lẻ. Vì vậy, các quốc gia sẽ có được vị thế mạnh hơn khi đàm phán với các
quốc gia khác tại các diễn đàn như WTO hoặc Liên Hiệp quốc. Quá trình liên kết gắn liền với

Footer Page 12 of 166.


Header Page 13 of 166.


sự hợp tác về chính trị có thể làm giảm khả năng xảy ra xung đột quân sự giữa các quốc gia
thành viên. Trên thực tế thì hoà bình đã được coi là mục tiêu trọng tâm của những nỗ lực liên
kết ở Châu á trong những năm 50. Hậu quả tàn khốc của hai cuộc chiến tranh thế giới trong
nửa đầu thế kỷ 20 đã buộc Châu Âu phải coi liên kết như là một cách thức để ngăn ngừa các
cuộc xung đột vũ trang.

4.1.4/ Các tác động tích cực khác
Ngoài những tác động tích cực nêu trên, liên kết kinh tế quốc tế và khu vực còn mang lại
cho các nước thành viên nhiều lợi ích tĩnh và động khác như tiết kiệm được chi phí quản lý,
cải thiện điều kiện thương mại của cả khối với phần còn lại của thế giới, gai tăng cạnh tranh
và giảm mức độ độc quyền trên thị trường liên kết, khai thác tính kinh tế theo quy mô, kích
thích đầu tư từ các nguồn trong và ngoài nước, gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất,
v.v… Tuy nhiên những lợi ích này chỉ có thể được khai thác triệt để nếu như các nước thành
viên phối hợp với nhau trong việc xây dựng những thể chế và chính sách kinh tế chung thích
hợp. Nói một cách khác, quá trình liên kết phải được diễn ra dựa trên cách tiếp cận chủ động.

4.2/ Tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
4.2.1/ Chuyển hướng mậu dịch
Ngược với tạo lập mậu dịch là tác động chuyển hướng mậu dịch, hiện tượng thương mại
được chuyển từ những quốc gia nằm ngoài khối liên kết tới các quốc gia là thành viên của
khối liên kết. Chuyển hướng mậu dịch có thể xẩy ra khi quá trình liên kết dẫn tới việc giảm
bớt hoặc thủ tiêu các mức thuế quan giữa các quốc gia thành viên. Như vậy, chuyển hướng
mậu dịch có thể làm giảm quy mô thương mại giữa một nước thành viên với những quốc gia
khác có hiệu quả sản xuất cao hơn nhưng nằm ngoài khối liên kết, và gia tăng quan hệ thương
mại của nước đó với các nước thành viên khác có hiệu quả sản xuất kém hơn. Xét theo giác
độ này thì liên kết kinh tế mang lại lợi ích cho những nước thành viên sản xuất kém hiệu quả
hơn trong khối liên kết. Nếu như trong khối liên kết không có sự cạnh tranh giữa các nhà sản
xuất hàng hoá và dịch vụ thì người mua sẽ phải trả giá cao hơn khi chuyển hướng mậu dịch
diễn ra.


Footer Page 13 of 166.


Header Page 14 of 166.

Có thể minh hoạ và phân tích thông ở qua ví dụ biểu đồ dưới đây trong tường hợp hội
nhập dưới hình thức liên minh thuế quan:
Biểu đồ 2: Liên minh thuế quan – Chuyển hướng mậu dịch

Px
($)
Sx

2
1,5
1

G

J
C


G’
A

S1+T

H

J’

H’

B


C

S3
B

M

N

S1
Dx

0

20

30

40

70

80


90

X

Trong biểu đồ trên có 3 quốc gia cùng sản xuất sản phẩm x. Dx và sản xuất là đường cầu
và đường cung của sản phẩm x trong thị trường nội địa của quốc gia 2.
Giả sử quốc gia 1 và 3 là những quốc gia sản xuất sản phẩm x trên quy mô lớn. Trên biểu
đồ S1 và S3 là đường cung co giãn hoàn toàn của sản phẩm x từ quốc gia 1 và 3 đối với quốc
gia 2 trong điều kiện mậu dịch tự do; còn S1+T là đường cung khi đánh thuế sản phẩm x đối
với quốc gia 1 là 100%.
Khi chưa có liên minh thuế quan, thuế nhập khẩu đối với sản phẩm x đồng đều là 100%,
nên quốc gia 2 sẽ nhập khẩu sản phẩm x từ quốc gia 1 với giá Px 2 USD. ở mức giá này, quốc
gia 2 sẽ tiêu thụ 70x (GH), trong đó 40x (GJ) được sản xuất trong nước và 30x (JH) được
nhập khẩu từ quốc gia 1. quốc gia 2 cũng thu được 30 USD (JMNH) thuế nhập khẩu.
Trong trường hợp quốc gia 2 và quốc gia 3 thành lập liên minh thuế quan và xoá bỏ thuế
nhập khẩu đối với sản phẩm x. Khi đó, quốc gia 2 sẽ nhập khẩu x với giá rẻ hơn giá nhập

Footer Page 14 of 166.


Header Page 15 of 166.

khẩu từ quốc gia 3 (Px = 1,5 USD), tại mức giá này quốc gia 2 tiêu thụ 80x (G’B’), trong đó
30x (G’C’) được sản xuất trong nước và 50x (C’B’) được nhập khẩu từ quốc gia 3. Trong
trường hợp này quốc gia 2 sẽ không thu được thuế nhập khẩu. Việc nhập khẩu sản phẩm x
vào quốc gia 2 được chuyển từ các nhà sản xuất có hiều quả hơn ở quốc gia 1 sang các nhà
sản xuất kém hiệu quả hơn ở quốc gia 3 vì bây giờ thuế quan có sự phân biệt giữa các nước
trong liên minh và ngoài liên minh thuế quan.
Sau khi thành lập liên minh thuế quan, mức nhập khẩu sản phẩm x của quốc gia 2 tăng từ

30x lên 50x. Điều đó có nghĩa là liên minh thuế quan vừa có tác động chuyển hướng mậu
dịch, vừa có tác động tạo lập mậu dịch.
Xét một cách tổng thể thì kết quả của một liên minh thuế quan chuyển hướng mậu dịch
đem lại là:
Thứ nhất, đối với quốc gia 2, phúc lợi đạt được từ việc tạo lập mậu dịch thuần tuý thể
hiện ở tam giác C’J’J và B’H’H. Tam giác C’J’J đạt giá trị 2,5 USD và tam giác B’H’H cũng
đạt 2,5 USD, tổng của chúng là 5 USD, thể hiện lợi ích thực sự của người tiêu dùng ở quốc
gia 2 đạt được do có liên minh thuế quan mang lại. Mặt khác, liên minh thuế quan gây ra
chuyển hướng mậu dịch với các tác động khác nữa. Hình chữ nhật MNHJ biểu thị thuế nhập
khẩu cảu quốc gia 2 trước khi thành lập liên minh thuế quan nay không còn nữa, trong đó
phần JJ’H’H được chuyển cho người tiêu dùng do họ không phải đóng thuế nữa, nhưng phần
MNH’J’ lại là phúc lợi mất đi do chuyển hướng mậu dịch từ việc nhập khẩu ở quốc gia 1 có
giá thấp sang quốc gia 3 có giá cao. Tỷ giác G’GJC’ thẻ hiện thặng dư của người sản xuất ở
quốc gia 2 bị di chuyển sang cho người tiêu dùng. Khi hình chữ nhật MNH’J’ biểu thị trị giá
15 USD là phúc lợi bị mất đi từ việc chuyển hướng mậu dịch lớn hơn tổng hai tam giác C’J’J
(2,5 USD) và tam giác B’H’H (2,5 USD) thì điều đó có nghĩa là liên minh thuế quan này đã
mất đi 10 USD phúc lợi thực sự của quốc gia 2.
Thứ hai, quốc gia 1 mặc dù có giá Px rẻ hơn quốc gia 3, nhưng do không thuộc liên minh
thuế quan nên sản phẩm của quốc gia này bị đắt lên vì phải chịu thuế nhập khẩu.
Bây giờ quốc gia 1 sẽ không xuất khẩu được 30x sang quốc gia 2 nữa, thay vào đó quốc
gia 3 sẽ xuất khẩu 50x sang quốc gia 2. Trên góc độ của quốc gia 3 mà xét, thì liên minh thuế
quan đã đưa tới phúc lợi cho quốc gia này trong khi quốc gia 1 bị thiệt hại và trên góc độ

Footer Page 15 of 166.


Header Page 16 of 166.

chung của toàn thế giới thì sự di chuyển hướng mậu dịch đã làm di chuyển sản xuất từ nơi có
hiệu quả cao hơn (nhưng ở bên ngoài liên minh thuế quan) sang nơi kém hiệu quả (ở trong

liên minh thuế quan). Điều đó có nghĩa là các liên minh thuế quan cục bộ đã làm giảm phúc
lợi chung của toàn thế giới nếu như liên minh đưa đến sự khuyến khích các ngành sản xuất
kém hiệu quả. Các quốc gia ngoài liên minh thuế quan phải hứng chịu những phúc lợi bị giảm
này.

4.2.2/ Chuyển hướng việc làm
Như đã chỉ ra ở trên, liên kết kinh tế quốc tế và khu vực mang lại nhiều lợi ích cho các
quốc gia thành viên, thế nhưng một số tầng lớp nhất định trong từng quốc gia có thể phải
gánh chịu những tác động tiêu cực. Cụ thể là những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao
động giản đơn ở những nước có mức lương cao sẽ có xu hướng được chuyển tới những quốc
gia thành viên khác có giá nhân công rẻ hơn, từ đó dẫn tới tình trạng mất việc làm của nhiều
công nhân trong các ngành đó. Chẳng hạn kể tự năm 1994, khi Hiệp định thương mại tự do
Bắc Mỹ (NAFTA) có hiệu lực, nhiều doanh nghiệp dệt may của Mỹ và Canada đã chuyển
hoạt động sản xuất tới Mêhicô. Một số tính toán cho thấy đến cuối năm 1997, nước Mỹ đã bị
mất khoảng từ 32.000 đến 100.000 việc làm trong các ngành sản xuất công nghiệp do tác
động trực tiếp của hiệp định thương mại tự do giữa Canada, Mêhicô và Mỹ.
Tuy nhiên, tác động tới việc làm có lẽ là chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất khi bàn tới liên
kết kinh tế quốc tế và khu vực. Có nhiều ý kiến cho rằng đối với mỗi quốc gia thì liên kết có
thể tác động tiêu cực đến một số ngành công nghiệp, nhưng nếu đó là những ngành hoạt động
kém hiệu quả và không có khả năng cạnh tranh quốc tế thì việc thu hẹp quy mô của chúng là
cần thiết. Hơn nữa, quá trình liên kết sẽ thúc đẩy sự phát triển những ngành có ưu thế cạnh
tranh, từ đó tạo ra nhiều việc làm mới. Số liệu thống kê cho thấy cho đến cuối năm 1997 việc
gia tăng xuất khẩu sang Mêhicô đã giúp tạo ra từ 90.000 đến 160.000 việc làm ở Mỹ. Nhìn
chung, các hiệp định thương mại khu vực có xu hướng dẫn đến sự chuyển dịch trên thị trường
lao động - việc làm trong một số ngành có thể bị giảm, nhưng nhiều việc làm mới lại được tạo
ra ở những ngành khác.

Footer Page 16 of 166.



Header Page 17 of 166.

4.2.3/ Hy sinh chủ quyền quốc gia
Quá trình liên kết kinh tế đòi hỏi các quốc gia thành viên phải có sự hy sinh một phần chủ
quyền quốc gia. Mức độ hy sinh chủ quyền là thấp nhất trong khu vực mậu dịch tự do. Các
quốc gia thành viên vẫn có quyền dựng nên những rào cản thương mại mà họ coi là phù hợp
với tất cả các quốc gia không phải là thành viên. Mức độ hy sinh chủ quyền tăng dần nếu liên
kết đạt tới các cấp độ cao hơn. Mức độ hy sinh chủ quyền là lớn nhất khi các quốc gia hình
thành một liên minh kinh tế, đông thời có xu hướng liên minh chặt chẽ hơn về mặt chính trị.
Khi đó các quốc gia thành viên phải chấp nhận áp dụng chính sách đối ngoại chung đối với
các quốc gia không phải là thành viên, và thậm chí các chính sách về kinh tế, chính trị trong
từng quốc gia, trong chừng mực nào đó, cũng có thể bị chi phối bởi chính sách chung của cả
khối. Đây là lý do giải thích tại sao việc hình thành liên minh chính trị là rất khó khăn. Do các
tình trạng một số quốc gia thành viên không có quan hệ thân thiện đối với những nước ngoài
khối liên kết, nhưng những quốc gia thành viên khác lại có quan hệ rất chặt chẽ với những
nước này nên việc hoạch định một chính sách đối ngoại chung là hết sức phức tạp.
Tuy nhiên, bất chấp những mặt hạn chế nói trên của các hiệp định thương mại khu vực,
quá trình liên kết kinh tế vẫn đang tiếp tục diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế giới.

5/ Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Xu hướng khu vực hóa toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, với kết quả là sự ra đời
và phát triển của hàng loạt các tổ chức khu vực và toàn cầu như EU, ASEAN, NAFTA,
WTO… với mục tiêu giống nhau là tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động thương mại
của mỗi nước thành viên cũng như củng cố sức mạnh toàn cầu. Đặc biệt với sự ra đời của
WTO đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ với sự phát triển của thương mại thế giới cũng như của
mỗi nước thành viên cùng với nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc tối huệ quốc đã áp dụng ở
nhiều nước kể cả các nước chưa phải là thành viên của WTO. Nhiều nước sẵn sàng nhân
nhượng điều chỉnh hàng lọat các chính sách và kiên trì đàm phán trong thời gian dài để trở
thành thành viên chính thức của tổ chức này. Đồng thời sự ra đời của ASEAN cũng tạo ảnh
hưởng mạnh mẽ đối với các nước nằm trong khu vực và thế giới với nguyên tắc như bình

đẳng thực hiện nhằm đảm bảo tất cả các thành viên không kể lớn nhỏ, giàu nghèo thì đều

Footer Page 17 of 166.


Header Page 18 of 166.

được bình đẳng trong việc chia sẻ lợi ích, nguyên tắc có đi có lại thực hiện nhằm đảm bảo
quyền lợi và thắt chặt hơn nữa trong mối quan hệ kinh tế và ngoại giao của các quốc gia thành
viên… đã thể hiện tầm quan trọng của tổ chức này.
Thêm vào đó hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang là một xu hướng hiện nay và
không có quốc gia nào muốn đứng ở ngoài cuộc. Quá trình tự do hóa thương mại, dịch vụ đầu
tư đã tạo ra những lợi ích mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy mạnh giao lưu kinh
tế góp phần khai thác lợi thế so sánh của các nước tham gia vào nền kinh tế thế giới. Hầu như
không có một quốc gia nào đứng ở ngoài vòng xoáy của sự hội nhập nếu không muốn tự cô
lập và rơi vào nguy cơ tụt hậu. Việc tham gia quá trình hội nhập càng chủ động thì càng có
hiệu quả và tránh được nhiều rủi ro. Có thể nhận thấy tính tất yếu khách quan của xu hướng
hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và khu vực nói riêng ở 2 khía cạnh sau:
Thứ nhất, trên toàn thế giới và trong mỗi quốc gia đều đã có sẵn đến một mức nào đó
các điều kiện vật chất-kỹ thuật như tiềm lực kinh tế kỹ thuật, sức mạnh quân sự chính trị, nền
tảng văn hóa-xã hội. Khi các tiềm lực này phát triển mạnh mẽ sẽ đạt đến một điểm mà tại đó
bản thân các tiềm lực này đòi hỏi một môi trường rộng lớn để phát triển. Khi đó, các nguồn
lực se di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác và ngược lại. Đây chính là điều kiện cơ
bản để các quốc gia tiến hành phát triển kinh tế quốc tế.
Thứ hai, toàn bộ quá trình toàn cầu hóa là một tất yếu vì lợi ích thu được từ quá trình
trên đối với quốc gia là xu hướng chủ đạo. Nếu quốc gia nào không theo xu hướng đó thì chắc
chắn phải chịu tổn thất to lớn hơn nhiều; là chặn đường tiến lên của mình trong thời đại ngày
nay. Vấn đề đặt ra ở đây không còn là cân nhắc xem nên tham gia vào quá trình hội nhập hay
không mà là hội nhập như thế nào, theo lộ trình nào để lợi ích thu được từ đó là lớn nhất, hiệu
quả cao nhất và rủi ro nhỏ nhất.


II/ Phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia
1/ Tình hình kinh tế và chính trị của Cămpuchia
1.1/ Tình hình phát triển kinh tế của Cămpuchia
Kinh tế vĩ mô

Footer Page 18 of 166.


Header Page 19 of 166.

Kinh tế Vương quốc Cămpuchia, tuy phát triển ở những thang bậc khác nhau song cũng như
các nước, Cămpuchia là nền kinh tế đang phát triển trong một khu vực đang sôi động là Châu
á - Thái Bình Dương. Cămpuchia và thị trường của các nước phát triển khác mà Cămpuchia
nhận được qua sự ưu đãi thuế quan (GSP) và tối huệ quốc (MFN) trong đó có cả thị trường
Mỹ và Liên minh châu Âu. kinh tế Cămpuchia bắt đầu tăng trưởng và phát triển. Năm 1990
tăng trưởng kinh tế đạt ở mức 2,8%, năm 1996 tốc độ tăng trưởng GDP của Cămpuchia đạt ở
mức 6,5%; năm 1997 do khủng hoảng chính trị nên tăng trưởng kinh tế chỉ đạt ở mức 1%;
năm 1998 tăng trưởng đạt 3%, năm 1999 đạt 6,5%; năm 2000 đạt 4,5%; năm 2001 đạt 5,7%;
năm 2002 tăng trưởng kinh tế đạt 5,5%; năm 2003 tăng trưởng kinh tế đạt 5% và năm 2004
tăng trưởng kinh tế đạt 5,5 %.

Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Cămpuchia (1990-2004)
Năm
GDP (%)

1996

1997


1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

6,5

1

3

6,5

4,5

5,7

5,5

5


5,5

Tèc ®é t¨ ng tr­ ëng GDP cña C¨ mpuchia
10
9
8
7

6.5

6.5

5.7

6

5.5

5

5.5

5
4

4.5

3

3


2
1

1
0
1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

Lạm phát giảm mạnh trong những năm 1990-2000, và có sự tăng lên khá ổn định trong
những năm 2001-2005. Năm 1990 chỉ số lạm phát là 151%, năm 1994 xuống còn 18%, năm

Footer Page 19 of 166.



Header Page 20 of 166.

1998 là 14,8%, năm 1999 lạm phát xuống còn 4%, năm 2000 xuống còn -0,8%, năm 2001
tăng lên 0,3%, năm 2002 tăng lên 3,3%, năm 2003 xuống còn 1,2% và năm 2004 tăng 2,9%
và năm 2005 tăng lên 3,3%.

Bảng 2: Tỷ giá hối đoái Riel/USD (1997-2005)
Năm

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

Tỷ giá


3000

3800

3819

3850

3850

3850

3950

4000

4040

Tû gi¸ hèi ®o¸ i Riel/USD
4500
4000
3500
3000
2500
2000
1500
1000
500
0


3800

3819

3850

3850

1998

1999

2000

2001

3850

3950

4000 4040

3000

1997

2002

2003


2004

2005

Sản xuất công nghiệp
Cămpuchia là nước nông nghiệp, sản phẩm chủ yếu là lúa, ngô, lạc, cao su, thuốc lá, thuỷ
sản v.v… Cămpuchia có nhiều tài nguyên quý hiếm như đá quý, hồng ngọc, vàng, gỗ. Ngoài
ra, Cămpuchia có Angkorwat là một kì quan nổi tiếng của thế giới, trở thành thế mạnh của
ngành du lịch của Cămpuchia. Nền công nghiệp của Cămpuchia còn rất yếu kém, chủ yếu là
nền công nghiệp dệt và da giày, công nghiệp nặng chưa có gì. Hàng năm, Cămpuchia phải
nhập siêu hàng trăm triệu USD.
Sau Hiệp định Paris về Cămpuchia, một số nhà đầu tư nước ngoài đã vào kinh doanh ở
Cămpuchia như: Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kồng, Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Mỹ…, chủ
yếu đầu tư vào các ngành du lịch, dịch vụ, công nghiệp nhẹ, công nghiệp may mặc và khách

Footer Page 20 of 166.


Header Page 21 of 166.

sạn. Nhưng do tình hình chính trị chưa ổn định, bộ máy hành chính cồng kềnh và các tệ nạn
tham nhũng, hối lộ nặng nề nên đầu tư nước ngoài và Cămpuchia còn bị hạn chế.
Sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản
Năm 1995, theo thống kê của Bộ nông nghiệp, cả nước Cămpuchia đã gieo cấy được 1,7
triệu ha, đạt sản lượng 3 triệu tấn thóc. Năm trước, do hạn hán và lũ lụt kéo dài, thu hoạch
thất bát thiếu hụt 90.000 tấn lương thực, chỉ có duy nhất một tỉnh tự túc được lương thực.
Năm 1995, Cămpuchia đã tự túc được lương thực cho số dân 10,5 triệu người, ngoài ra còn
xuất khẩu được 70.000 tấn gạo, sản lượng gạo xuất khẩu này so với các nước trong khu vực
rất thấp, bởi vì, trước đây nông dân Cămpuchia chỉ sản xuất bình quân 1,64 tấn gạo/ha so với

Thái Lan: 2,1 tấn/ha, Philipin: 2,7 tấn/ha và Việt Nam: 3,2tấn/ha. Do trình độ kỹ thuật nông
nghiệp còn lạc hậu nên Cămpuchia vẫn chưa giải quyết được tình trạng không kiềm chế được
ngập úng. Chỉ có 15%-17% cánh đồng lúa được tưới tiêu hợp lý, các công cụ nông nghiệp
hiện đại rất khan hiếm và thiếu cả phân bón, thuốc trừ sâu. Sản lượng lúa gạo trung bình trong
giai đoạn năm 1994-1998 mỗi năm đạt được 1,8 tấn/ha.
Cây cao su phát triển tương đối ổn định. Năm 1995 sản lượng đạt 31 ngàn tấn tăng lên 36
ngàn tấn năm 1998, năng suất cao su trung bình trong giai đoạn năm 1994-1998 đạt được 8,89
kg/ha mỗi năm. Sản lượng cao su năm 2001 đạt được 42 ngàn tấn (tăng lên 35% so với năm
1995).
Trong năm 1996, sản lượng gỗ tròn chỉ đạt được 136(1.000 m3), tăng lên rất cao là 225%
(năm 1997) so với năm trước đó và sản lượng gỗ tròn trung bình trong giai đoạn năm 19962001 đạt 260 (1.000 m3) mỗi năm.
Còn sản lượng cá trong năm 1996-2001 đạt 1,6 lần so với năm 1995. Sản lượng cá trung
bình trong giai đoạn 1995-2001 là 141,8 ngàn tấn mỗi năm, sản lượng của một số sản phẩm
trong giai đoạn 1995-2001 được thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 3: Sản lượng một số sản phẩm nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chủ yếu giai đoạn
1996-2002
Năm

ĐVT

1996

1997

1998

1999

2000


2001

2002

1.000T

3.390

3.415

3.510

3.800

3.762

3.950

3.740

Loại hàng
Lúa

Footer Page 21 of 166.


Header Page 22 of 166.

Cao Su


1.000T

42

35

36

46

40

42

53

Gỗ tròn

1.000m3

136

442

283

161

40


246

644



1.000T

104

115

122

284

40

182

36

Ngô

1.000T

65

42


49

95

157

186

168

(Nguồn: Bộ Nông nghiệp Cămpuchia, 01/04)

1.2/ Tình hình chính trị của Cămpuchia
Thể chế chính trị
Cămpuchia là quốc gia quân chủ lập hiến. Hiến pháp Cămpuchia quy định Cămpuchia
thực hiện chính sách dân chủ, đa đảng. Hệ thống quyền lực được phân định rõ giữa lập pháp,
hành pháp và tư pháp gồm: Vua, Hội đồng ngôi Vua, Thượng viện, Quốc hội, Chính phủ, Toà
án, Hội đồng Hiến pháp và các cơ quan hành chính các cấp. Cầm quyền hiện nay là chính phủ
Hoàng gia nhiệm kỳ 2 (1998-2003) do Liên minh 2 đảng CPP và FUNCINPEC nắm giữ.
Samdech Hun Sen, Phó chủ tịch Đảng CPP, giữ chức thủ tướng. Đảng CPP nắm 12 Bộ trong
Chính phủ, FUNCINPEC năm 11 bộ. Ngày 27/7/2003, Cămpuchia tiến hành Tổng tuyển cử
Quốc hội nhiệm kỳ 3. Kết quả bầu cử: Đảng CPP giữ 73 ghế trong Quốc hội; Đảng
FUNCINPEC 26 ghế; Đảng Sam Rainsy 24 ghế. Đảng CPP thắng cử sẽ đứng ra lập Chính
phủ mới. Chủ tịch Đảng CPP: Samdech Cheasim; Phó chủ tịch Đảng CPP: Samdech Hun
Sen. Chủ tịch Đảng FUNCINPEC: Samdech Krom Preah Norodom Ranaridth.
Tình hình chính trị trong nước
Sau khi tiến hành Tổng tuyển cử (lần thứ nhất, năm 1993), Quốc Hội, Chính phủ Vương
quốc Cămpuchia đã cố gắng tìm một chiến lựôc phát triển kinh tế - xã hội thích hợp với điều
kiện của đất nước và xu thế phát triển của khu vực và quốc tế, theo đó, cơ chế kinh tế thị
trường đã được chính thức chấp nhận ở đất nước này.

Trong 3 năm tiếp theo (1993-1996), mặc dù còn rất nhiều khó khăn song có thể nói, kinh
tế - xã hội Cămpuchia đã có sự phát triển bước đầu đáng ghi nhận. Điều này được thể hiện
qua các chỉ số cơ bản: Tốc độ tăng trưởng GDP đạt ở mức 4% năm 1993 tăng lên 8% năm
1995 và đạt ở mức 6,5% năm 1996.

Footer Page 22 of 166.


Header Page 23 of 166.

Nhưng từ năm 1997 trở đi, kinh tế - xã hội Cămpuchia có khuynh hướng xấu dần: Điều
này có nhiều nguyên nhân, trong đó có hai nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, cuộc khủng hoảng tài chính của khu vực Đông Nam á đã tác động tiêu cự đến
nền kinh tế còn rất non yếu của Cămpuchia. Đây là một điều dễ nhận thấy, vì cuộc khủng
hoảng này đã làm đảo lộn tất cả các nước trong khu vực.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng về tài chính ở trong nước. Sau Tổng tuyển cử năm 1993,
Chính phủ liên hiệp được thành lập với sự tham gia của hai đảng: Đảng Nhân dân Cămpuchia
(CPP) và Đảng FUNCINPEC, với cơ chế đồng thủ tướng do hai ông N.Ranarith (thủ tướng
thứ nhất) và ông Hun Sen (thủ tướng thứ hai) đảm nhận. Chính phủ liên hiệp hoạt động khá
suôn sẻ và đạt được những kết quả khả quan như đã nói ở trên. Bước vào năm 1997,
FUNCINPEC và CPP đã có những bất đồng ngày càng gay gắt trên nhiều vấn đề, đe doạ đến
sự tồn tại của chính phủ liên hiệp. Cuộc chính biến ngày 5,6/7/1997 là một kết quả không thể
tránh khỏi của những mâu thuẫn giữa hai đảng trong liên minh cầm quyền, nhưng đồng thời
nó cũng là nguyên nhân và khởi đầu cho một giai đoạn suy thoái về kinh tế - xã hội của
Cămpuchia.
Ngày 26/7/1998, Tổng tuyển cử lần thứ hai được tổ chức. Ba trong số 39 đảng tranh cử đã
trúng cử, gồm đảng CPP, đảng FUNCINPEC và đảng Sam Rainsy. Ngày 30/11/1998, với sự
thoả thuận của hai đảng CPP và FUNCINPEC, Chính phủ Hoàng gia nhiệm kỳ hai (19982003) đã được thành lập. Ngày 4/3/1990, Quốc hội Cămpuchia đã thông qua luật thành lập
Thượng viện mới. Ngày 9/3/1999, Quốc vương N. Xihanuc đã phê chuẩn sửa đổi Hiến pháp,
thành lập Thượng Nghị viện.

Từ năm 1999 đến ngày 27/7/2003 tình hình kinh tế Cămpuchia không có gì biến động lớn
nhưng về chính trị Vương quốc Cămpuchia vẫn chưa thành lập được chính phủ mới do ba
Đảng: CPP, FUNCINPEC và Sam Rainsy chưa thoả thuận với nhau.
Với những diễn biến này Cămpuchia đã hoàn tất và hoàn thiện bộ máy lập pháp và hành
pháp của mình, chấm dứt về cơ bản cuộc khủng hoảng chính trị, mở đầu cho một thời kỳ mới
của đất nước. Tuy vậy, Cămpuchia vẫn còn đứng trước nhiều trắc trở, hiểm hoạ cả từ bên
trong lẫn bên ngoài, đe doạ sự hoà hợp dân tộc, sự ổn định về chính trị - xã hội, tiền đề cơ bản
của sự phát triển đất nước.

Footer Page 23 of 166.


Header Page 24 of 166.

Nhân tố bên ngoài
Khu vực Đông Nam á đang bước vào thời kỳ hồi phục kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ. Đây là một cơ hội thuận lợi đối với đất nước Cămpuchia và Chính phủ liên hiệp
nhiệm kỳ hai của Vương quốc Cămpuchia.
Cùng với việc gia nhập ASEAN, quan hệ giữa Cămpuchia với các quốc gia và các tổ
chức quốc tế ngày càng được cải thiện như Mỹ đã dành cho Cămpuchia Quy chế buôn bán tối
huệ quốc (MFN) năm 1996, nay vẫn được tiếp tục; Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) và các quốc tế trong nhóm Các nhà tài trợ
vẫn dành cho Cămpuchia những khoản cho vay và viện trợ cần thiết (470 triệu USD năm
1999, 500 triệu USD năm 2000, 503 triệu USD năm 2003).
Khu vực hoá, toàn cầu hoá đang là một xu thế không thể cưỡng lại được và Cămpuchia
đang phải đối diện với nó cả trên hai mặt tích cực và tiêu cực.
Trên đây là những nhân tố tác động không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của
Cămpuchia trong những năm gần đây (1998-2004).

2/ Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại của Cămpuchia

A/ Thương mại quốc tế
1. Xuất khẩu
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu của Cămpuchia sang các nước 1999-2002
Đơn vị: USD
Khu vực
Các nước
ASEAN

1999

2000

2001

218.755.875, 76.209.061,5 72.793.368,2
34

9

6

2002

Tổng số

94.785.497,6 462.543.802,
5

84


244.003.187, 38.272.482,4 282.275.669,
Đông á

54

Trung Đông

534.744,35

Đông Nam á

547.166,54

Các nước

34.485.620,3

Châu Âu

76

Footer Page 24 of 166.

5

99

2.369.922,36 2.904.666,71
349.466,82


896.633,36

23.105.003,2 321.623.610, 360.626.410, 125.815.625,
1

70

48

704


Header Page 25 of 166.

977.554,28

Đông Âu

2.215.290,02 3.192.844,30

Các nước
khác trong

9.032.655,88

1.702.912,93

1.694.061,83 3.396.974,76

Châu Âu

úc và Châu
Đại Dương

14.616.364,9

5.583.709,08

6

843.429.036, 971.659.901, 1.815.088.95

Bắc Mỹ

77

84

8,61

224.014,91

118.101,59

342.116,50

Nam Mỹ

4.366.592,62

5.671.825,28


Châu Phi

242.152,67

885.473,01

2.511,79

2.494,73

Các nước
khác trong
Bắc Mỹ

Các nước

369.928.332, 1.061.469.21
29

khác

7,31

933.540.411, 1.368.728.31 1.496.030.58

Tổng

39


1

2,44

10.038.417,9
0
1.127.625,68
1.631.402.75
6,12

1.487.683.58 5.285.982.88
3,94

8,77

(Nguồn: Foreign Trade Department Ministry of Commerce)

Tổng kim ngạch xuất khẩu của Cămpuchia năm 1999 đạt 933.540.411,39 USD, năm
2000 đạt 1.368.728.311 USD tăng 46,62% so với năm 1999, năm 2001 đạt 1.496.030.582,44
USD tăng 9,3% so với năm 2000, năm 2002 đạt 1.487.863.583,94 USD giảm 0,56% so với
năm 2001.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Cămpuchia là hàng may mặc trong đó năm 2003, xuất
khẩu hàng may mặc có tỉ lệ tăng trưởng cao nhất, chiếm 93% tổng kim ngạch xuất khẩu còn
lại là xuất khẩu giầy dép chiếm 2% và xuất khẩu hải sản chiếm 2% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Cămpuchia là Mỹ, EU (đặc biệt là Anh và Đức) và
Singapo.

Footer Page 25 of 166.



×