Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 12 trong dạy học văn nghị luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 46 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN HÀ GIANG

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
LỚP 12 TRONG DẠY HỌC VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN HÀ GIANG

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
LỚP 12 TRONG DẠY HỌC VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60. 14. 01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. DƢƠNG TUYẾT HẠNH

HÀ NỘI – 2016

i




LỜI CẢM ƠN
Luận văn của tơi đƣợc hồn thành tại Trƣờng Đại học Giáo dục - Đại
học Quốc gia Hà Nội. Để hồn thành luận văn này, tơi xin trân trọng cảm ơn
các thầy cô trong Ban giám hiệu và Khoa Sƣ phạm Trƣờng Đại học Giáo dục
- Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc và gửi lời cảm ơn chân
thành tới TS. Dƣơng Tuyết Hạnh, ngƣời đã định hƣớng khoa học giúp đỡ tơi
suốt q trình thực hiện luận văn.
Đồng thời, tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và các em
HS Trƣờng THPT An Lão đã tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong q trình điều tra,
nghiên cứu, kiểm chứng kết quả nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song chắc chắn luận văn vẫn cịn nhiều
thiếu sót, tơi rất mong nhận đƣợc sự quan tâm và đóng góp ý kiến, bổ sung
của quý thầy cô và đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, tháng 11 năm 2016
Học viên

Nguyễn Hà Giang

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GV

GV


HS

HS

HTĐS

Hiện tƣợng đời sống

KNS

Kĩ năng sống

NLXH

Nghị luận xã hội

PPDH

Phƣơng pháp dạy học

SGK

Sách giáo khoa

THPT

Trung học phổ thông

THCS


Trung học cơ sở

TTĐL

TTĐL

UNICEF

Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc

UNESCO

Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục
Liên hợp quốc

WHO

Tổ chức y tế thế giới

2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 2
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ...................................................................................... 6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 15
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 15

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................................... 16
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................................. 16
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .............. 17
1.1. Cơ sở lí luận ....................................................................................................... 17
1.1.1. Kỹ năng sống và một số kỹ năng sống trong giáo dục ............................... 17
1.1.2. Mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống ........................................................... 20
1.1.3. Một số kĩ năng sống hình thành cho HS lớp 12 trong dạy học Làm
văn NLXH. ................................................................................................................ 22
1.1.4. Khái quát về văn nghị luận xã hội............................................................... 28
1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................... 32
1.2.1. Thực trạng của việc dạy và học nghị luận xã hội ở lớp 12 THPT .............. 32
1.2.2. Đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 12 .......................................................... 35
1.2.3. Thực trạng vận dụng kỹ năng sống của HS lớp 12 trong cuộc sống
hàng ngày. ................................................................................................................. 37

1.2.4. Mục đích của việc dạy Làm văn nghị luận xã hội cho
HS………..................................................................................................…..39
Tiểu kết chƣơng 1...................................................................................................... 40
CHƢƠNG 2: RÈN LUYỆN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 12
TRONG DẠY HỌC LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘIError! Bookmark not defined.
2.1. Các nguyên tắc định hƣớng việc hình thành và rèn luyện kỹ năng sống
cho HS lớp 12 THPT trong dạy học làm văn nghị luận xã hội.Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Dạy học bám sát nội dung ........................ Error! Bookmark not defined.
3


2.1.2. Đảm bảo tính giáo dục ............................. Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Đảm bảo nguyên tắc về lƣợng.................. Error! Bookmark not defined.
2.1.4. Đảm bảo tính thƣờng xuyên, liên tục ....... Error! Bookmark not defined.


2.2. Kỹ năng sống cho HS lớp 12 trong dạy học làm văn NLXHError! Bookmark not defined
2.2.1. Kĩ năng tự nhận thức ................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Kỹ năng giải quyết vấn đề......................... Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Kỹ năng tƣ duy phê phán .......................... Error! Bookmark not defined.
2.2.4. Kỹ năng ra quyết định. .............................. Error! Bookmark not defined.
2.3. Đề xuất quy trình dạy học bài lý thuyết nghị luận xã hội có kết hợp rèn
luyện kỹ năng sống.................................................... Error! Bookmark not defined.
2.3.1. Quy trình dạy học bài “Nghị luận về một tƣ tƣởng, đạo lí” có kết
hợp rèn luyện KNS. ................................................... Error! Bookmark not defined.
2.3.2 Quy trình dạy học bài “Nghị luận về một hiện tƣợng đời sống” có kết
hợp rèn luyện kỹ năng sống. ..................................... Error! Bookmark not defined.
Tiể u kế t chƣơng 2 ...................................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ............. Error! Bookmark not defined.
3.1. Mục đích thực nghiệm ....................................... Error! Bookmark not defined.
3.2. Phạm vi thực nghiệm sƣ phạm ........................... Error! Bookmark not defined.
3.3. Phƣơng pháp thực nghiệm ................................. Error! Bookmark not defined.
3.4. Tổ chức thực nghiệm.......................................... Error! Bookmark not defined.
3.5. Các biện pháp và phƣơng pháp đánh giá thực nghiệmError! Bookmark not defined.
3.6. Giáo án thực nghiệm .......................................... Error! Bookmark not defined.
3.7. Đánh giá kết quả thực nghiệm .......................... Error! Bookmark not defined.
3.7.1. Đánh giá giờ dạy học thực nghiệm ............. Error! Bookmark not defined.
3.7.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm đối chứng ... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................... Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 41
PHỤ LỤC .................................................................. Error! Bookmark not defined.

4


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, nội dung giáo dục KNS đã đƣợc nhiều quốc gia trên thế giới
đƣa vào dạy cho HS trong các trƣờng phổ thông dƣới nhiều hình thức khác
nhau. KNS là nhịp cầu giúp biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói
quen tích cực, lành mạnh. Giáo dục KNS giúp HS có cách suy nghĩ, thái độ
và hành vi tích cực, đặc biệt giúp tăng cƣờng kĩ năng giao tiếp hiệu quả (giữa
trẻ với nhau, giữa trẻ với ngƣời lớn). Đồng thời giáo dục KNS giúp các em
có kĩ năng phân tích vấn đề và tình huống, có thái độ tự khẳng định và quyết
định chọn lựa trƣớc một tình huống cụ thể trong cuộc sống. Giáo dục KNS
giúp kết nối nhà trƣờng, gia đình và cộng đồng trong cùng mục tiêu giúp HS
có đƣợc những kĩ năng thiết thực cần cho cuộc sống hiện tại và sau này của
các em.
Ở Việt Nam việc triển khai các hoạt động giáo dục theo định hƣớng
tiếp cận KNS trong giáo dục đã đƣợc quán triệt trong đổi mới mục tiêu, nội
dung, và phƣơng pháp giáo dục. Thực chất cũng là những hoạt động giáo dục
gắn liền với bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI mà tổ chức UNESCO đƣa ra:
“Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự khẳng định
mình”[44]. Mục tiêu giáo dục của Việt Nam đã chuyển từ mục tiêu cung cấp
kiến thức là chủ yếu sang hình thành và phát triển những năng lực cần thiết ở
HS để đáp ứng sự phát triển và sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nƣớc. Tài liệu Giáo dục kỹ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường trung học
phổ thông [16, tr.13] nêu rõ mục tiêu giáo dục KNS cho HS trong nhà trƣờng
phổ thông nhằm:
- Trang bị cho HS những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp.
Trên cơ sở đó hình thành cho HS những hành vi, thói quen lành mạnh, tích
cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình
huống và hoạt động hàng ngày.

5



- Tạo cơ hội thuận lợi để HS thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và
phát triển hài hồ về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Tuy nhiên, nhận thức về KNS, cũng nhƣ việc thể chế hóa giáo dục KNS
trong giáo dục phổ thơng ở Việt Nam chƣa thật cụ thể, đặc biệt về hƣớng dẫn
tổ chức hoạt động giáo dục KNS cho HS ở các cấp, các bậc học cịn hạn chế.
Qua q trình nghiên cứu, Ngữ văn là một trong những mơn học góp
phần hình thành giáo dục KNS cho HS, bởi đây là môn học thuộc lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn. Thông qua môn học này, HS không chỉ đƣợc
trang bị những tri thức về xã hội, văn hoá, lịch sử, đời sống nội tâm của con
ngƣời mà HS còn đƣợc hình thành và rèn luyện các năng lực, nhất là tƣ duy.
Hiện nay, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về giáo dục KNS cho HS
trong môn Ngữ văn nhƣng vấn đề rèn luyện KNS cho HS lớp 12 qua giờ học
văn NLXH vẫn còn đang bỏ ngỏ. Sở dĩ, đề tài này hƣớng vào nghiên cứu đối
tƣợng HS lớp 12 vì đây là lứa tuổi sắp rời xa môi trƣờng giáo dục THPT,
chuẩn bị hành trang bƣớc vào đời. Hơn ai hết, các em cần phải đƣợc trang bị
những kiến thức, kĩ năng, hiểu biết xã hội để khi bƣớc vào cuộc sống các em
không bị bỡ ngỡ, biết phân biệt đúng sai, tránh xa các tệ nạn xã hội, trở thành
những cơng dân tốt góp phần xây dựng xã hội ngày một giàu đẹp, văn minh.
Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Rèn luyện kỹ năng sống cho HS
lớp 12 trong dạy học văn nghị luận xã hội”. Hi vọng rằng, đề tài này giúp
GV rèn luyện đƣợc cho HS những KNS cơ bản giúp các em tự tin bƣớc vào
đời.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Các cơng trình nghiên cứu KNS và việc giáo dục KNS ở nước ngồi
2.1.1. Các cơng trình nghiên cứu KNS
KNS là một khái niệm tƣơng đối mới mẻ và là một đối tƣợng “rất trẻ”
của xã hội học. Những năm 90 của thế kỉ XX, thuật ngữ “Kĩ năng sống” đã
xuất hiện trong một số chƣơng trình giáo dục của UNICEF (Quỹ nhi đồng
Liên hợp quốc) trƣớc tiên là chƣơng trình "Giáo dục những giá trị sống" với

6


12 giá trị cơ bản của giáo dục cho thế hệ trẻ. Những nhà nghiên cứu về KNS
trong giai đoạn này với mong muốn thống nhất đƣợc một quan niệm chung về
KNS cũng nhƣ đƣa đến một bảng danh mục các KNS cơ bản mà thế hệ trẻ
cần có. Phần lớn các chƣơng trình nghiên cứu về KNS ở giai đoạn này quan
niệm về KNS theo nghĩa hẹp, đồng nhất nó với các kĩ năng xã hội. Dự án do
UNESCO (Tổ chức Văn hóa, Giáo dục và Khoa học) tiến hành tại một số
nƣớc Đông Nam Á là một trong những nghiên cứu có tính hệ thống và tiêu
biểu cho hƣớng nghiên cứu KNS nêu trên.
Vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, các tổ chức WHO (tổ chức Y tế thế
giới), UNICEF (Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên hợp quốc), UNESCO (tổ chức
Giáo dục, Khoa học, Văn hóa Liên hợp quốc) đã chung sức xây dựng chƣơng
trình giáo dục KNS cho thiếu niên. Trên cơ sở đó, một số nhà nghiên cứu nhƣ
J.H.Fichter (nhà xã hội học ngƣời Mỹ), P.Tugarinov (Liên Xô) hay Dramalier
(Bungari) bắt đầu đề cập đến vấn đề giá trị sống nhƣ những chuẩn mực trong
giá trị đạo đức của con ngƣời… Từ đây, một số tài liệu nghiên cứu về vấn đề
giáo dục KNS cho thanh thiếu niên ra đời nhƣ: Tài liệu tập huấn về kỹ năng
sống của UNICEF (2004) [43], Những hoạt động giá trị sống cho thiếu niên
của Diane TillMan [41], Tài liệu tập huấn kĩ năng cơ bản trong tham vấn,
G.Bandzeladze (1985) [42]
Nhƣ vậy, KNS đã đƣợc giới nghiên cứu xã hội học trên thế giới quan
tâm cách đây gần ba thập kỉ và giáo dục KNS đƣợc thể nghiệm nhƣ là một hệ
quả tất yếu của quá trình nghiên cứu. Hiện nay, đã có hơn 155 nƣớc trên thế
giới quan tâm đến việc đƣa KNS vào nhà trƣờng, trong đó có 143 nƣớc đã
đƣa vào chƣơng trình chính khóa ở tiểu học và Trung học. Giáo dục KNS
đƣợc lồng ghép vào các mơn học, chủ đề, nội dung có liên quan trực tiếp đến
những vấn đề bức xúc trên thực tế. Chẳng hạn :
Tại Ruwanda : Giáo dục KNS hƣớng đến giáo dục lịng u hồ bình

(giải quyết xung đột, tự nhận thức và tinh thần cộng đồng).

7


Tại Ma-rốc : Giáo dục KNS hƣớng đến các vấn đề nhƣ vệ sinh, các vấn
đề nóng bỏng ở các đô thị, sử dụng và bảo vệ nguồn nƣớc.
Tại Banglades: Giáo dục KNS đƣợc khai thác dƣới góc độ các kĩ năng
hoạt động xã hội, kĩ năng phát triển, kĩ năng chuẩn bị cho tƣơng lai.
Tại Trung Quốc: Giáo dục KNS đƣợc lồng ghép vào các môn học trong
nhà trƣờng về giáo dục đạo đức, tinh thần đoàn kết dân tộc và giáo dục lao
động – xã hội.
Tại hội thảo Bali ở Inđônêxia đã khái quát các báo cáo tham luận của
các quốc gia tham gia hội thảo về giáo dục KNS cho thanh thiếu niên và xác
định mục tiêu của giáo dục KNS khơng chính quy của các nƣớc vùng Châu Á
– Thái Bình Dƣơng.
Tại Miến Điện: Dự án của UNICEF về KNS đã tác động đến chƣơng
chình dạy học. Cùng với các chủ đề (sức khoẻ, vệ sinh cá nhân, sự phát triển
thể chất, sức khoẻ tinh thần, phịng chánh các bệnh tiêu chảy, rối loạn do thiếu
iơt, lao phổi, sốt rét và HIV/AIDS) là rèn luyện các kĩ năng nhƣ: kĩ năng ra
quyết định, kĩ năng truyền thông và tự diễn đạt, kĩ năng giao tiếp và hợp tác,
khuyến khích lịng tự trọng, kĩ năng xử lí cảm xúc và kĩ năng tư vấn.
Tổ chức UNICEF đã tiến hành dự án ở 5 nƣớc Đông Nam Á nhằm vào
các vấn đề khác nhau liên quan đến KNS. Dự án này chia làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Xác định quan niệm của từng nƣớc
- Giai đoạn 2: Đƣa ra những chỉ dẫn đo đạc, đánh giá và xây dựng các
cơng cụ kiểm tra.
Có thể thấy giáo dục KNS cho HS đã đƣợc nhiều nƣớc quan tâm và
cùng xuất phát từ quan niệm chung về KNS của tổ chức WHO hoặc của
UNICEF. Quan niệm, nội dung giáo dục KNS đƣợc triển khai ở các nƣớc vừa

thể hiện cái chung, vừa mang tính đặc thù của từng quốc gia. Theo đó, vấn đề
giáo dục KNS cho thế hệ trẻ nói chung, cho HS THPT đƣợc đơng đảo các
nƣớc quan tâm.
2.1.2. Việc giáo dục KNS
8


Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu về KNS trên thế giới, một số quốc
gia phát triển đã thực hiện đƣợc việc giáo dục KNS cho HS. Thanh thiếu niên
đã đƣợc học kĩ năng về những tình huống sẽ xảy ra trong cuộc sống, cách đối
diện, đƣơng đầu và vƣợt qua những khó khăn cũng nhƣ cách kiềm chế cảm
xúc tránh những mâu thuẫn, xung đột. Chẳng hạn:
Tại Mỹ trong mỗi giờ học Ngữ văn, họ tích cực đƣa văn về với xã hội,
gần gũi với thực tế cuộc sống. Tiết dạy Cô bé lọ lem sau đây của GV ngƣời
Mỹ là một điển hình:
Giờ học văn bắt đầu. Hơm nay thầy giảng bài Cô bé Lọ Lem.
“Trƣớc tiên thầy gọi một HS lên kể chuyện Cô bé Lọ lem. Em HS kể
xong, thầy cảm ơn rồi bắt đầu hỏi.
Thầy: Các em thích và khơng thích nhân vật nào trong câu chuyện vừa
rồi?
HS (HS): Em thích Cơ bé Lọ Lem Cinderella ạ, và cả Hồng tử nữa
nhƣng khơng thích bà mẹ kế và chị con riêng bà ấy. Cinderella tốt bụng, đáng
yêu, lại xinh đẹp. Bà mẹ kế và cô chị kia đối xử tồi với Cinderella.
Thầy: Nếu vào đúng 12 giờ đêm mà Cinderella chưa kịp nhảy lên cỗ xe
quả bí thì sẽ xảy ra chuyện gì?
HS: Thì Cinderella sẽ trở lại có hình dạng lọ lem bẩn thỉu nhƣ ban đầu,
lại mặc bộ quần áo cũ rách rƣới tồi tàn. Eo ôi, trông kinh lắm.
Thầy: Bởi vậy, các em nhất thiết phải là những người đúng giờ, nếu
không thì sẽ tự gây rắc rối cho mình. Ngồi ra, các em tự nhìn lại mình mà
xem, em nào cũng mặc quần áo đẹp cả. Hãy nhớ rằng chớ bao giờ ăn mặc

luộm thuộm mà xuất hiện trước mặt người khác. Các em gái nghe đây: các
em lại càng phải chú ý chuyện này hơn. Sau này khi lớn lên, mỗi lần hẹn gặp
bạn trai mà em lại mặc luộm thuộm thì người ta có thể ngất lịm đấy (Thầy
làm bộ ngất lịm, cả lớp cười ồ). Bây giờ thầy hỏi một câu khác. Nếu em là bà
mẹ kế kia thì em có tìm cách ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội của hồng tử
hay khơng? Các em phải trả lời hồn tồn thật lịng đấy.
9


HS: (im lặng, lát sau có em giơ tay xin nói) Nếu là bà mẹ kế ấy, em
cũng sẽ ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội.
Thầy: Vì sao thế?
HS: Vì... vì em yêu con gái mình hơn, em muốn con mình trở thành
hồng hậu.
Thầy: Đúng. Vì thế chúng ta thường cho rằng các bà mẹ kế dường như
đều chẳng phải là người tốt. Thật ra họ chỉ không tốt với người khác thơi, chứ
lại rất tốt với con mình. Các em hiểu chưa? Họ không phải là người xấu đâu,
chỉ có điều họ chưa thể yêu con người khác như con mình mà thơi.
Bây giờ thầy hỏi một câu khác: Bà mẹ kế không cho Cinderella đi dự
vũ hội của hồng tử, thậm chí khóa cửa nhốt cơ bé trong nhà. Thế tại sao
Cinderella vẫn có thể đi được và lại trở thành cô gái xinh đẹp nhất trong
vũ hội?
HS: Vì có cơ tiên giúp ạ. Cơ cho Cinderella mặc quần áo đẹp, lại cịn
biến quả bí thành cỗ xe ngựa, biến chó và chuột thành ngƣời hầu của
Cinderella.
Thầy: Đúng, các em nói rất đúng. Các em thử nghĩ xem, nếu khơng có
cơ tiên đến giúp thì Cinderella khơng thể đi dự vũ hội được, phải không?
HS: Đúng ạ.
Thầy: Nếu chó và chuột khơng giúp thì cuối cùng Cinderella có thể về
nhà được khơng?

HS: Khơng ạ.
Thầy: Chỉ có cơ tiên giúp thơi thì chưa đủ. Cho nên các em cần chú ý:
Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta đều cần có sự giúp đỡ của bạn bè. Bạn
của ta không nhất định là tiên là bụt, nhưng ta vẫn cần đến họ. Thầy mong
các em có càng nhiều bạn càng tốt. Bây giờ, đề nghị các em thử nghĩ xem,
nếu vì mẹ kế khơng muốn cho mình đi dự vũ hội mà Cinderella bỏ qua cơ hội
ấy thì cơ bé có thể trở thành vợ của hồng tử được không?

10


HS: Khơng ạ! Nếu bỏ qua cơ hội ấy thì Cinderella sẽ khơng gặp hồng
tử, khơng đƣợc hồng tử biết và yêu.
Thầy: Đúng quá rồi! Nếu Cinderella không muốn đi dự vũ hội thì cho
dù bà mẹ kế khơng ngăn cản đi nữa, thậm chí bà ấy cịn ủng hộ Cinderella đi
nữa, rốt cuộc cô bé cũng chẳng được lợi gì cả. Thế ai đã quyết định
Cinderella đi dự vũ hội của hồng tử?
HS: Chính là Cinderella ạ.
Thầy: Cho nên các em ạ, dù Cinderella khơng cịn mẹ đẻ để được yêu
thương, dù bà mẹ kế không yêu cô bé, những điều ấy cũng chẳng thể làm cho
Cinderella biết tự thương u chính mình. Chính vì biết tự u lấy mình nên
cơ bé mới có thể tự đi tìm cái mình muốn giành được. Giả thử có em nào cảm
thấy mình chẳng được ai u thương cả, hoặc lại có bà mẹ kế không yêu con
chồng như trường hợp của Cinderella, thì các em sẽ làm thế nào?
HS: Phải biết u chính mình ạ.
Thầy: Đúng lắm! Chẳng ai có thể ngăn cản các em u chính bản thân
mình. Nếu cảm thấy người khác khơng u mình thì em càng phải tự u mình
gấp bội. Nếu người khác khơng tạo cơ hội cho em thì em cần tự tạo ra thật
nhiều cơ hội. Nếu biết thực sự yêu bản thân thì các em sẽ tự tìm được cho
mình mọi thứ em muốn có. Ngồi Cinderella ra, chẳng ai có thể ngăn trở cơ

bé đi dự vũ hội của hồng tử, chẳng ai có thể ngăn cản cơ bé trở thành hồng
hậu, đúng không?
HS: Đúng ạ, đúng ạ!
Thầy: Bây giờ đến vấn đề cuối cùng. Câu chuyện này có chỗ nào chưa
hợp lý không?
HS: (im lặng một lát) Sau 12 giờ đêm, mọi thứ đều trở lại nguyên dạng
nhƣ cũ, thế nhƣng đôi giày thủy tinh của Cinderella lại không trở về chỗ cũ.
Thầy: Trời ơi! Các em thật giỏi quá! Các em thấy chưa, ngay cả nhà
văn vĩ đại (nhà văn Pháp Charles Perrault, tác giả truyện Cô Bé Lọ Lem chú thích của người dịch) mà cũng có lúc sai sót đấy chứ. Cho nên sai chẳng
11


có gì đáng sợ cả. Thầy có thể cam đoan là nếu sau này có ai trong số các em
muốn trở thành nhà văn thì nhất định em đó sẽ có tác phẩm hay hơn tác giả
của câu chuyện Cơ bé Lọ lem! Các em có tin như thế khơng?
Tất cả HS hồ hởi vỗ tay reo hò. ” [46]
Ở tiết học trên, thầy giáo là ngƣời khơi gợi, HS là chủ thể đi kiếm tìm
“chân lí”. Bài học đã để lại một ấn tƣợng mạnh hơn bất cứ lời bình nào về
nền giáo dục của nƣớc Mỹ. Ngƣời thầy giáo đã dẫn dắt học trò hiểu đƣợc giá
trị của cuộc sống, đem lại cho trẻ lịng cơng bằng, tình yêu thƣơng, tinh thần
đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, ý nghĩa của cuộc đời…
Không chỉ ở các nƣớc Châu Mĩ, Châu Âu mới quan tâm tới giáo dục
KNS cho HS, mà từ lâu các nƣớc Châu Á cũng quan tâm tới vấn đề này. Nhật
Bản vốn đƣợc coi là một quốc gia có nền giáo dục chuẩn mực khi trẻ em đƣợc
phát triển đầy đủ cả về nhân cách và kiến thức. Tại các trƣờng học Nhật Bản,
HS không phải thi cho tới khi lên lớp 4 (10 tuổi). Trên thực tế, các em chỉ
phải làm các bài kiểm tra nhỏ. Ngƣời Nhật tin rằng 3 năm đầu cấp 1 là thời
điểm để trẻ nhỏ rèn luyện nhân cách, xây dựng những đức tính tốt và phát
triển con ngƣời theo hƣớng tồn diện. Trẻ em đƣợc học cách tơn trọng ngƣời
khác, yêu thƣơng động vật và thiên nhiên. Nhà trƣờng cũng dạy cho các em

cách sống rộng lƣợng, cảm thông và biết chia sẻ. Tại các trƣờng học Nhật Bản,
HS phải tự mình dọn dẹp lớp học, căng tin và thậm chí cả toilet. Trong khi
làm, các em đƣợc chia thành các nhóm nhỏ và luân phiên trực nhật trong năm.
Đây là cách để giúp các em rèn luyện khả năng làm việc nhóm. Bên cạnh đó,
những cơng việc tƣởng chừng nhƣ mất vệ sinh, vất vả đó sẽ giúp các em biết
tôn trọng công việc của ngƣời khác và thành quả lao động của bản thân.
Thay vì “đi qua mảnh vỡ thủy tinh để tăng lòng dũng cảm”, trẻ em cấp
1 tại Mỹ và Nhật đƣợc học: tự lấy đồ ăn, tự xếp đồ đạc... Có thể thấy rằng, các
nƣớc trên thế giới đã rất quan tâm đến việc đƣa KNS vào việc dạy học, sự tích
hợp của họ là sự tích hợp có ý thức nhƣng lại vơ cùng tự nhiên, khéo léo và
đạt hiệu quả cao.
12


2.2. Các cơng trình nghiên cứu kỹ năng sống ở Việt Nam
Ở Việt Nam, KNS đang đƣợc cả xã hội quan tâm. Thuật ngữ KNS bắt
đầu xuất hiện trong các nhà trƣờng phổ thông Việt Nam từ những năm 19951996, thông qua dự án "Giáo dục KNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống
HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường" [43] do UNICEF
phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng Hội Chữ Thập đỏ Việt
Nam thực hiện. Từ đó đến nay, đã có rất nhiều Trung tâm giáo dục KNS ra
đời nhƣ Breakthrough Power, Tâm Việt, TGM Corporation, Trung tâm KNS
trực thuộc Trung ƣơng Hội khoa học tâm lý - Giáo dục Việt Nam... thu hút
đông đảo giới trẻ cũng nhƣ các bậc phụ huynh. Giáo dục KNS cho ngƣời học
đã trở thành trách nhiệm của quốc gia. Điều này đƣợc thể hiện trong mục tiêu
3 và mục tiêu 6 của Chương trình hành động DaKar (Sengal - 2000) [40]
Một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu cho hƣớng nghiên cứu này là:
Cẩm nang tổng hợp kĩ năng hoạt động thanh thiếu niên của tác giả Phạm Văn
Nhân [30]; Kĩ năng thanh niên tình nguyện của tác giả Trần Thời [37]… Một
trong những ngƣời đầu tiên có những nghiên cứu mang tính hệ thống về
KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam là tác giả Nguyễn Thanh Bình. Với một

loạt các bài báo, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ và giáo trình, tài liệu
tham khảo, tác giả Nguyễn Thanh Bình đã góp phần đáng kể vào việc tạo ra
những hƣớng nghiên cứu về KNS và giáo dục KNS trong nhà trƣờng.
Các cơng trình nghiên cứu ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn về lí
thuyết và phƣơng pháp giáo dục KNS nhƣ cuốn Giáo dục giá trị sống và KNS
cho HS trung học cơ sở của nhóm tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim
Thoa, Đặng Hoàng Minh [26]. Cơng trình nghiên cứu dựa trên đặc điểm phát
triển tâm sinh lí của HS THCS để xác định những giá trị sống, KNS cần thiết
cho lứa tuổi này. Trên cơ sở đó, các tác giả chỉ ra vai trò của mỗi kĩ năng và
đƣa ra một số hoạt động giúp HS có thể hình thành những KNS cho bản thân.
Đồng thời, các tác giả cũng đề xuất một số trị chơi có tác dụng giáo dục giá
trị sống và KNS cho HS. Cuốn Cẩm nang giáo dục KNS cho HS cho HS
13


THPT của tác giả Bùi Ngọc Diệp [17] đã nêu những vấn đề chung về KNS và
giáo dục các KNS cần thiết, bên cạnh đó hƣớng dẫn tổ chức các hoạt động,
kèm theo một số câu chuyện nhằm giáo dục KNS cho HS THPT. Nghiên cứu
của tác giả Vƣơng Thanh Hƣơng và Nguyễn Minh Đức với đề tài “Thực trạng
phạm tội của HS – sinh viên Việt Nam trong mấy năm gần đây và vấn đề giáo dục
pháp luật trong nhà trường” [23] cũng đã chỉ ra thực trạng phạm tội hiện nay của
HS và sinh viên nƣớc ta trong những năm gần đây, một vấn nạn đáng kinh ngạc.
Bên cạnh đó, các tác giả cũng thẳng thắn nêu vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà
trƣờng hiện nay vẫn chƣa đƣợc chú trọng và chƣa đạt hiệu quả cao. Với cuốn sách
Hướng dẫn thực hiện giáo dục KNS cho HS phổ thông của PGS.TS. Nguyễn
Dục Quang [32] đã tập trung tìm hiểu ý nghĩa của giáo dục KNS, vấn đề giáo
dục KNS cho HS THPT và đƣa ra một số minh họa về giáo dục KNS qua
môn học và các hoạt động giáo dục cụ thể là môn Đạo đức, môn Giáo dục
công dân cấp THCS và Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Hai tác giả Lƣu
Thu Thuỷ và Nguyễn Thị Hồng Vân cùng một số đồng tác giả đã giới thiệu

cuốn Giáo dục KNS trong môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông [34]
một tài liệu dành cho GV gợi ý những KNS có thể tích hợp để dạy trong các
bài học cụ thể của chƣơng trình Ngữ văn 10, 11, 12. Và Luận án tiến sĩ Giáo
dục học của nghiên cứu sinh Phan Thanh Vân (2010): Giáo dục KNS cho HS trung
học phổ thông thơng qua hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp [38] cũng đề cập đến
tổng quan về KNS và giáo dục KNS cho HS THPT. Bên cạnh đó, tác giả cịn chỉ các
phƣơng pháp giáo dục KNS thơng qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho HS
THPT.
Trong một số năm gần đây đã có một số Luận văn thạc sĩ đề cập đến đề
tài giáo dục KNS nhƣ Luận văn thạc sĩ sƣ phạm Ngữ văn: Lê Kim Anh
(2011), Tích hợp rèn luyện KNS cho HS trong dạy học thơ trữ tình hiện đại
Việt Nam ở trường trung học cơ sở, trƣờng Đại học Giáo dục – Đại học Quốc
gia Hà Nội [2]; Lê Thị Hƣơng Giang (2014) Tích hợp giáo dục KNS cho HS
qua dạy học truyện ngắn Việt Nam - Chương trình Ngữ văn 12 - Tập 2, trƣờng
14


Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội [19]. Luận văn thạc sĩ ngành
Quản lí giáo dục của tác giả Nguyễn Hữu Đức (2010), Quản lí giáo dục KNS
cho HS trường THPT Trần Hưng Đạo Nam Định trong giai đoạn hiện nay
(Thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp), Trƣờng Đại học Giáo dục
– Đại học Quốc gia Hà Nội [18].
Tất cả những luận văn trên chỉ tập trung giáo dục KNS cho HS qua các
tác phẩm thơ hoặc truyện ngắn trong chƣơng trình THPT, qua hoạt động
ngoài giờ mà chƣa quan tâm đến giáo dục KNS trong dạy học Làm văn. Gần
đây trong luận văn thạc sĩ sƣ phạm Ngữ văn “Tổ chức dạy học phần Làm văn
(Ngữ văn 10, tập 2) theo hướng tích hợp giáo dục kĩ năng sống” (2015) [21],
Vũ Thị Bích Hằng mới chỉ đề cập đến dạy học phần Làm văn chƣơng trình
ngữ văn 10 để tích hợp giáo dục KNS cho HS mà chƣa có một cơng trình
nghiên cứu nào đề cập đến phần dạy học Làm văn NLXH lớp 12 để giáo dục

KNS cho HS. Trên cơ sở các cơng trình nghiên cứu đã có và tình hình dạy
học Ngữ văn đặc biệt là phân mơn Làm văn trong chƣơng trình Ngữ văn 12
hiện nay đề tài :“Rèn luyện KNS cho HS lớp 12 trong dạy học văn nghị luận xã
hội” mong muốn đƣợc đóng góp thêm tiếng nói riêng của mình vào việc đổi mới
phƣơng pháp dạy học Làm văn NLXH, tạo ra những giờ học hấp dẫn và bổ ích.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày cơ sở lí luận về KNS, về văn NLXH.
- Xác định các KNS có thể hình thành và rèn luyện cho HS lớp 12 trong
dạy học văn NLXH.
- Bƣớc đầu đề ra những định hƣớng rèn luyện KNS cho HS lớp 12 khi học
văn NLXH.
- Thử nghiệm các đề xuất đã nêu.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đề tài hƣớng vào đối tƣợng là dạng bài NLXH trong chƣơng trình Ngữ
văn 12.
- HS lớp 12 – THPT.
15


- Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình trong việc tìm ra các biện
pháp giáo dục KNS cho HS khi dạy học Làm văn NLXH lớp 12 và nghiên
cứu một số KNS cơ bản có thể tích hợp giáo dục cho HS qua dạy học phần
làm văn (Ngữ văn 12, tập 1) nhƣ : Kĩ năng nhận thức, kĩ năng giải quyết vấn
đề, kĩ năng tƣ duy phê phán, kĩ năng ra quyết định,…
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết: Nghiên cứu một số cơng trình khoa
học về Tâm lí học, Giáo dục học, Giáo dục văn học và tài liệu liên quan đến
đề tài: nghiên cứu nội dung, chƣơng trình, SGK văn học bậc THPT.
- Phƣơng pháp điều tra, khảo sát, phỏng vấn trực tiếp GV và HS về việc tổ
chức dạy học NLXH trong dạy học Ngữ văn (kỹ năng sống) ở trƣờng THPT.

- Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm:
+ Xử lí số liệu kết quả khảo sát và kết quả sau thực nghiệm sƣ phạm.
+ Phân tích số liệu khảo sát và số liệu thực nghiệm.
+ Sử dụng phƣơng pháp thống kê tốn học và các thành tựu của cơng
nghệ thơng tin để xử lí kết quả thực nghiệm.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phần phụ lục,
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.
Chƣơng 2: Rèn luyện kỹ năng sống cho HS lớp 12 trong dạy học làm
văn nghị luận xã hội.
Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm.

16


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Kỹ năng sống và một số kỹ năng sống trong giáo dục
1.1.1.1. Khái niệm KNS
KNS (Life skills) là một khái niệm đƣợc sử dụng rộng rãi trong các lĩnh
vực hoạt động khác nhau. Tuy nhiên, khi nói về KNS thì có nhiều quan niệm
khác nhau:
Theo WHO (1993): KNS là năng lực tâm lý xã hội, là khả năng ứng
phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó
cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt
tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích cực khi tƣơng tác với
ngƣời khác, với nền văn hóa và môi trƣờng xung quanh. Năng lực tâm lý xã
hội có vai trị quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về

thể chất, tinh thần và xã hội. KNS là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm
lý xã hội này.
Theo UNICEF (UNICEF Thái Lan, 1995): KNS là khả năng phân tích
tình huống và ứng xử, khả năng phân tích cách ứng xử và khả năng tránh
đƣợc các tình huống. Các KNS nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức
“cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tƣởng”
thành hành động thực tế “làm gì và làm cách nào” là tích cực nhất và mang
tính chất xây dựng.
UNESCO (2003) quan niệm: KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy
đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm
cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực giúp
con ngƣời có thể kiểm sốt, quản lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách
thức trong cuộc sống hàng ngày.

17


Theo Nguyễn Thị Mỹ Lộc "Giáo dục KNS là một quá trình với những
hoạt động giáo dục cụ thể nhằm tổ chức, điều khiển để HS biết cách chuyển
tải những gì mình biết (nhận thức), những gì mình cảm nhận (thái độ) và
những gì mình quan tâm (giá trị) thành những khả năng thực thụ giúp HS biết
phải làm gì và làm như thế nào (hành vi) trong những tình huống khác nhau
của cuộc sống " [26, tr.108 -109]
Từ các quan niệm về KNS nêu trên, có thể rút ra nhận xét: Có nhiều
cách biểu đạt khái niệm KNS với quan niệm rộng hẹp khác nhau tùy theo
cách tiếp cận vấn đề. Khái niệm KNS đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm
những năng lực tâm lý xã hội. Theo nghĩa rộng, KNS không chỉ bao gồm
năng lực tâm lý xã hội mà còn bao gồm cả những kĩ năng tâm vận động.
1.1.1.2. Các loại KNS
KNS đƣợc quan niệm đa dạng và cũng có nhiều cách phân loại KNS.

Theo tổng hợp của tác giả Nguyễn Thanh Bình [7], KNS đƣợc phân loại nhƣ
sau:
+ Nhóm thứ nhất: nhóm kĩ năng nhận thức gồm: tƣ duy phê phán, giải
quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, tƣ duy phân tích, khả năng sáng tạo, tự nhận
thức, đặt mục tiêu, xác định giá trị...
+ Nhóm thứ hai: các kĩ năng đƣơng đầu với xúc cảm gồm các kĩ năng:
ý thức trách nhiệm, cam kết, kiềm chế sự căng thẳng, kiềm chế đƣợc cảm
xúc, tự quản lí, tự giám sát và tự điều chỉnh
+ Nhóm thứ ba: là nhóm kĩ năng xã hội (hay kĩ năng tƣơng tác): giao
tiếp, quyết đoán, thƣơng thuyết, từ chối, hợp tác, sự cảm thông chia sẻ, khả
năng nhận thấy thiện cảm của ngƣời khác.
- UNESCO cho rằng cách phân loại KNS theo 3 nhóm nêu trên mới chỉ
dừng ở các KNS chung, trong khi đó, cịn có những KNS thể hiện trong
những vấn đề cụ thể khác nhau trong đời sống xã hội. Vì thế, UNESCO đề
xuất thêm các KNS nhƣ: vệ sinh, vệ sinh thực phẩm, sức khỏe, dinh dƣỡng;
các vấn đề về giới, giới tính, sức khỏe sinh sản; ngăn ngừa và chăm sóc ngƣời
18


bệnh HIV/AIDS; phòng tránh rƣợu, thuốc lá và ma túy; phịng ngừa thiên tai,
bạo lực và rủi ro; hịa bình và giải quyết xung đột; gia đình và cộng đồng;
giáo dục công dân; bảo vệ thiên nhiên và môi trƣờng; phịng chống bn bán
trẻ em và phụ nữ.
Với mục đích giúp ngƣời học ứng phó với các vấn đề của cuộc sống và tự
hồn thiện mình, UNICEF phân loại KNS theo các mối quan hệ của cá nhân
với các nhóm KNS gồm:
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với chính mình gồm các kĩ năng: kĩ
năng tự nhận thức, lòng tự trọng, sự kiên định, đƣơng đầu với cảm xúc, đƣơng
đầu với căng thẳng;
+ Nhóm kĩ năng nhận biết và sống với ngƣời khác gồm các kĩ năng: kĩ

năng quan hệ tƣơng tác liên nhân cách, sự cảm thông, đứng vững trƣớc áp lực
tiêu cực của bạn bè hoặc của ngƣời khác, thƣơng lƣợng, giáo tiếp có hiệu quả.
+ Nhóm kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả gồm các kĩ năng: tƣ
duy phê phán, tƣ duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề. Những cách
phân loại nêu trên đã đƣa ra bảng danh mục các KNS có giá trị trong nghiên
cứu phát triển lý luận về KNS và chỉ có tính chất tƣơng đối.
Nhƣ vậy, theo UNESCO, WHO, và UNICEF có thể xem KNS gồm các
kĩ năng cốt lõi sau:
+ Kĩ năng giải quyết vấn đề (problem solving skills);
+ Kĩ năng giao tiếp hiệu quả (effective communication skills);
+ Kĩ năng giao tiếp ứng xử cá nhân (interpersonal relationship skills);
+ Kĩ năng ra quyết định (decision making skills);
+Kĩ năng suy nghĩ/tƣ duy phê phán (critical thinking);
+ Kĩ năng thể hiện sự cảm thông (empathy);
+ Kĩ năng tƣ duy sáng tạo (creative thinking);
+ Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc (coping with stress and
emotion);

19


+ Kĩ năng tự nhận thức/ tự trọng và tự tin của bản thân, xác định giá trị
(Self awareness skills/self esteem and self confidence, and valuation skills);
- Các nhà giáo dục Thái Lan xem KNS là thuộc tính hay năng lực tâm
lý xã hội giúp cá nhân đƣơng đầu với tất cả tình huống hàng ngày một cách có
hiệu quả và có thể đáp ứng với hồn cảnh tƣơng lai để có thể sống hạnh phúc
bao gồm:
+ Kĩ năng ra quyết định một cách đúng đắn.
+ Kĩ năng sáng tạo.
+ Kĩ năng giải quyết xung đột.

+ Kĩ năng phân tích và đánh giá tình hình.
+ Kĩ năng giao tiếp.
+ Kĩ năng quan hệ liên nhân cách.
+ Kĩ năng làm chủ đƣợc cảm xúc.
+ Kĩ năng làm chủ đƣợc cú sốc.
+ Kĩ năng đồng cảm.
+ Kĩ năng thực hành.
Trên thực tế, các KNS có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi khi tham
gia vào một tình huống cụ thể, con ngƣời cần phải sử dụng rất nhiều kĩ năng
khác nhau. Ví dụ, khi cần quyết định một vấn đề nào đó, cá nhân phải sử dụng
những kĩ năng nhƣ: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tƣ duy phê phán, kĩ năng tƣ
duy sáng tạo và kĩ năng kiên định,...
Việc phân loại KNS chỉ mang tính tƣơng đối tuỳ thuộc vào khía cạnh
xem xét và nghiên cứu. Qua một số cách phân loại trên có thể thấy rằng cách
phân loại của tổ chức Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) là dễ hiểu hơn
cả, phù hợp với nghiên cứu giáo dục KNS cho HS ở Việt Nam.
1.1.2. Mục tiêu của giáo dục KNS
Xã hội hiện đại ngày nay đặt ra những nguy cơ mới cho con ngƣời nói
chung và đặc biệt là trẻ em nói riêng. Nhịp sống nhanh của xã hội hiện đại
làm cho gia đình khơng dành nhiều thời gian cho con cái nhƣ trƣớc kia, kết
20


quả là trẻ em nhận ít nhận đƣợc sự chăm sóc cũng nhƣ dạy bảo của bố mẹ.
Thêm vào đó sự thay đổi nhanh chóng của xã hội cũng làm cho giá trị đạo đức,
chuẩn mực xã hội cũng nhƣ phong cách sống thay đổi. Rất dễ dàng nhận thấy
trong xã hội sự khác biệt về cách suy nghĩ, cách sống và ứng xử giữa cha mẹ
và con cái. Điều này làm gia tăng mâu thuẫn gia đình tạo căng thẳng cho trẻ.
Bên cạnh đó là sự bùng nổ thơng tin làm cho con ngƣời dễ mất kiểm soát và
dễ bị ảnh hƣởng hơn, con ngƣời cũng trở nên cô độc hơn, sống phụ thuộc

hơn…Những vấn đề về hành vi có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe nhƣ
nghiện rƣợu, nghiện thuốc lá, ăn uống vô đọ dẫn đến béo phì… có một phần
lớn ngun nhân từ xã hội. KNS làm giảm thiểu các tệ nạn xã hội và hành vi
phạm pháp, giúp xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp giữa con ngƣời với con
ngƣời trong xã hội, đồng thời góp phần thúc đẩy năng suất lao động xã hội do
dựa trên tinh thần lao động có trách nhiệm, có kế hoạch, sáng tạo và hợp tác
của cá nhân… Những hành vi tích cực, mang tính chất xây dựng trong mọi
lĩnh vực của cuộc sống vốn là đặc tính của con ngƣời có KNS, do vậy nếu
mọi cá nhân trong xã hội đều có KNS sẽ giúp xã hội phát triển một cách bền
vững. Ngƣợc lại, việc thiếu KNS của cá nhân là một nguyên nhân làm nảy
sinh nhiều vấn đề trong xã hội nhƣ: nghiện rƣợu, nghiện ma túy, mại dâm, cờ
bạc, bạo lực…Giáo dục KNS còn giải quyết một cách tích cực nhu cầu và
quyền con ngƣời, quyền công dân đƣợc ghi trong luật pháp Việt Nam và
Quốc tế.
Giáo dục KNS là vấn đề cấp thiết đối với thế hệ trẻ, bởi các em chính là
những chủ nhân tƣơng lai của đất nƣớc, là những ngƣời sẽ quyết định sự phát
triển của đất nƣớc. Nếu khơng có KNS, các em sẽ không thể thực hiện tốt
trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nƣớc.
Lứa tuổi HS là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu
ƣớc mơ, ham hiểu biết, thích tìm tịi, khám phá song cịn thiếu hiểu biết sâu
sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lơi kéo, kích động… Đặc biệt
là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trƣờng hiện nay, thế hệ trẻ
21


thƣờng xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực,
ln đƣợc đặt vào hồn cảnh phải lựa chọn những giá trị, phải đƣơng đầu với
những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu cực. Nếu không đƣợc giáo dục
KNS, nếu thiếu KNS, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực,
vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách.

Một trong các nguyên nhân dẫn đến các hiện tƣợng tiêu cực của HS phổ
thông trong thời gian qua nhƣ: nghiện hút, bạo lực học đƣờng, đua xe máy, ăn
chơi sa đọa… chính là do các em thiếu những KNS cần thiết nhƣ: kĩ năng xác
định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn,
kĩ năng thƣơng lƣợng, kĩ năng giao tiếp…
1.1.3. Một số KNS hình thành cho HS lớp 12 trong dạy học Làm văn
nghị luận xã hội
Chƣơng trình Ngữ văn lớp 12 THPT, NLXH đƣợc chia làm 2 dạng là
nghị luận về một TTĐL và nghị luận về một HTXH. Dù ở các vấn đề bàn
luận khác nhau song mục đích của việc tạo lập văn bản nghị luận nói chung,
văn bản NLXH nói riêng là giúp cho HS biết cách tạo lập những kiểu văn
bản mà con ngƣời thƣờng sử dụng trong đời sống hàng ngày. Theo đó khi
trình bày những vấn đề của cuộc sống, con ngƣời cũng cần phải biết thể hiện
những suy nghĩ, nhận thức, tình cảm, thái độ và chính kiến của bản thân về
cuộc sống. Chính vì thế, hƣớng dẫn HS tạo lập văn bản NLXH trƣớc hết là
giúp cho các em biết và có những kĩ năng thiết yếu tạo lập một kiểu văn bản
đƣợc con ngƣời sử dụng khá phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Hơn nữa
gắn với những vấn đề thuộc đời sống xã hội, trong quá trình tạo lập văn bản,
ngƣời tạo lập văn bản bao giờ cũng phải thể hiện nhận thức và chính kiến của
bản thân. Bởi vậy, khi hƣớng dẫn HS tìm hiểu NLXH, GV có thể hình thành
và rèn luyện cho HS một số KNS nhất định. Mỗi bài học lại có một số KNS
cơ bản có thể triển khai tích hợp giáo dục cho HS. KNS rất phong phú, tuy
nhiên trong khuôn khổ nghiên cứu của Luận văn thạc sĩ, chúng tôi đƣa ra một
số KNS cơ bản có thể hình thành cho HS lớp 12 qua việc dạy học văn NLXH
22


nhƣ sau: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng ra quyết
định, kĩ năng tư duy phê phán.
1.1.3.1. Kĩ năng tự nhận thức (Self awareness skills)

Kỹ năng tự nhận thức là một KNS cơ bản, là khả năng con ngƣời có thể
ý thức rõ ràng về cảm xúc, tính cách, quan điểm, giá trị và động cơ, hiểu biết
và chấp nhận những tố chất vốn có để phát huy điểm mạnh, hạn chế những
điểm yếu nhằm tổ chức tốt cuộc sống và cải thiện mối quan hệ của mình với
mọi ngƣời.
Tự nhận thức là nền tảng hỗ trợ con ngƣời trong việc giao tiếp, ứng xử
phù hợp với mọi ngƣời. Trƣớc tiên là những ngƣời thân u trong gia đình,
lớp học, cơ quan, sau đó là những ngƣời trong cộng đồng. Tự nhận thức giúp
con ngƣời sống nhân ái, cƣ xử đúng mực với mọi ngƣời. Ngồi ra, nó cịn
giúp chúng ta hiểu đúng về bản thân, từ đó có những quyết định và lựa chọn
đúng đắn, phù hợp với khả năng, điều kiện hoàn cảnh thực tế và yêu cầu của
xã hội. Ngƣợc lại, đánh giá sai về bản thân có thể dẫn đến những hạn chế
hoặc ảo tƣởng về năng lực, sở trƣờng của con ngƣời và gây thất bại cho việc
giao tiếp với ngƣời khác trong cuộc sống.
Quá trình tự nhận thức về bản thân gồm:
- Tự lắng nghe: đây là một q trình suy ngẫm và tự sự với chính mình
để đƣa ra những nhận định về ƣu điểm, nhƣợc điểm, nhu cầu, sở thích,
nguyện vọng, mong muốn, cảm xúc... của bản thân. Một ngƣời biết nhìn nhận
về mình một cách chính xác sẽ sống khiêm tốn, trung thực, cởi mở với mọi
ngƣời. Đây là công việc mà mỗi cá nhân cần thực hiện thƣờng xuyên và dành
thời gian cho nó. Hãy lắng nghe ngƣời khác một cách tích cực và có tính chọn
lọc. Ngƣời lắng nghe tốt ln có thái độ tôn trọng, cầu tiến, chấp nhận những
phản hồi của ngƣời khác thể hiện sự sẵn sàng không ngừng học hỏi. Điều này
sẽ giúp bạn có nhiều cơ hội để phát triển trong tƣơng lai.
- Tự bộc lộ chính mình: Trong giao tiếp, đây là sự cởi mở, hòa đồng
với ngƣời khác thơng qua q trình tƣơng tác với nhau. Điều này sẽ giúp
23



×