Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP NGHỆ THUẬT CỦA HỌA SĨ VINCENT WILLEM VAN GOGH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 32 trang )

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP NGHỆ THUẬT
CỦA HỌA SĨ VINCENT WILLEM VAN GOGH

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Lịch sử hội họa được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử và trải dài
theo tất cả các nền văn hóa. Nó thể hiện một sự liên tục từ truyền thông Cổ đại
mặc dù vẫn trải qua những thời kỳ gián đoạn. Vượt qua các nền văn hóa, sự trải
dài của các lục địa và hàng thiên niên kỷ, lịch sử hội họa vẫn là một dòng sông
đang cuộn chảy của sự sáng tạo mà vẫn được tiếp nối ở thế kỷ 21. Cho đến tận
đầu thế kỷ 20 nó vẫn phụ thuộc cơ bản vào các mô típ của sự tượng trưng, tôn
giáo và cổ điển, nhưng sau thời gian đó sự trừu tượng và quan niệm lại đạt được
sự ưa chuộng.
Mĩ thuật là một loại hình nghệ thuật xuất hiện đầu tiên trên thế giới. Mĩ thuật
xuất hiện ngay từ khi con người có mặt trên trái đất. Nó ra đời từ thời sơ khai,
khi con người ở thời nguyên thuỷ, vẫn còn ăn hang, ở lỗ, săn bắn và hái lượm.
Lịch sử Mĩ thuật cùng với lịch sử thế giới trải qua các thời kì phát triển và các
giai đoạn lắng đọng hay tàn lụi.
Sự phát triển của lịch sử hội họa Phương Đông nhìn chung là song song với hội
họa Phương Tây trong một vài thế kỉ đầu. Nghệ thuật châu Phi, nghệ thuật của
người Do Thái, nghệ thuật Hồi giáo, nghệ thuật Ấn Độ,[3] nghệ thuật Trung
Quốc và nghệ thuật Nhật Bản từng có ảnh hưởng đáng kể đến nghệ thuật
phương Tây và ngược lại.
Ban đầu phục vụ mục đích thực dụng, sau đó dưới sự bảo hộ của triều đình, cá
nhân và tôn giáo, hội họa Phương Tây và nghệ thuật Phương Đông sau đó tìm
được các khán giả trong giới thượng lưu và trung lưu. Từ thời kì Hiện đại, thời
kì Trung cổ cho tới thời kì Phục Hưng các họa sĩ làm việc cho các nhà thờ và
tầng lớp quý tộc giàu có.[6] Với sự khởi đầu thời kì Baroque các nghệ sĩ nhận
được hoa hồng riêng từ tầng lớp trung lưu có học và thịnh vượng. Cuối cùng
trong ý tưởng Phương Tây về "nghệ thuật vị nghệ thuật"] bắt đầu xuất hiện các
biểu hiện trong các tác phẩm của các họa sỹ lãng mạn như Francisco de




Goya, John Constable và J.M.W Turner.[9] Thế kỷ 19 chứng kiến sự nổi lên của
các phòng trưng bày nghệ thuật thương mại, được bảo trợ trong thế kỷ 20.
Vincent Willem van Gogh thiên tài hội họa sinh, thường được biết đến với
tên Vincent van Gogh, là một danh hoạ Hà Lan thuộc trường phái hậu ấn
tượng.Van Gogh là nghệ sĩ tiên phong của trường phái biểu hiện và có ảnh
hưởng rất lớn tới mỹ thuật hiện đại, đặc biệt là tới trường phái dã thú (Fauvism)
và trường phái biểu hiện tại Đức.Thể nhưng, ẩn sâu trong những họa phẩm đầy
thán phục, ngưỡng mộ của ông là cuộc đời đầy những nỗi thống khổ mà chỉ với
nghệ thuật Van Gogh mới có thể trải lòng.

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của đề tài là nêu lên cuộc đời và sự nghiệp của
hoa sĩ Van Gogh
Nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của các sáng tác của ông trong hội họa thế
giới.
3 Đối tượng nghiên cứu
Vincent Willem van Gogh ( 30 /03/1853 – 29/0 7 /1890), thường được biết đến
với tên Vincent van Gogh là một danh hoạ Hà Lan .
4 Phạm vi nghiên cứu
cuộc đời và sự nghiệp của hoa sĩ Van Gogh
5 Nhiệm vụ của nghiên cứu
Giới thiệu về danh họa Van Gogh
Làm rõ mối quan hệ của việc sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác của các
họa sĩ trong hội họa.Sự độc đáo của màu sắc và lối tư duy trong quan niệm sáng
tác của các họa sĩ trong hội họa.
6 Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này em dùng phương pháp nghiên cứu lý thuyết nhìn từ góc
độ mỹ thuật học và phương pháp tiếp cận lịch sử để nghiên cứu tài liệu.Ngoài ra

em còn sử sụng các tài liệu trong các công trình khoa học nghiên cứu đã được
công bố.


PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 : SƠ LƯỢC VỀ VAN GOGH

1. Tiểu sử VINCENT WILLEM VAN GOGH (30/03/1853-29/07/1890)
Vincent Willem Van Gogh, thường được biết đến với tên Vincent Van Gogh là
một danh hoạ Hà Lan thuộc trường phái hậu ấn tượng. Nhiều bức tranh của ông
nằm trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất, được yêu thích nhất và cũng đắt
nhất trên thế giới. Van Gogh là nghệ sĩ tiên phong của trường phái biểu hiện và
có ảnh hưởng rất lớn tới mỹ thuật hiện đại, đặc biệt là tới trường phái dã thú
(Fauvism) và trường phái biểu hiện tại Đức.
Cuộc đời và sự nghiệp của Vincent Van Gogh là nhà danh họa người Hòa Lan
có danh tiếng đứng sau Rembrandt và là một trong bốn họa sĩ hậu ấn tượng,
gồm Paul Gauguin, Georges Seurat và Paul Cézanne. Danh tiếng của Van Gogh
được căn cứ vào các họa phẩm mà ông đã sáng tác, phần lớn trong ba năm cuối
của cuộc đời hội họa 10 năm. Van Gogh đã vẽ hơn 800 bức sơn dầu và 700 họa
phẩm thuộc các thể loại khác, thế nhưng ông đã chỉ bán được một tấm tranh khi
còn sống. Tranh của Van Gogh có đặc điểm là màu sắc gây cảm xúc mạnh, nét
bút thô, hình ảnh có đường viền lớn, tất cả mang bên trong nỗi đau khổ của một
tâm hồn bệnh hoạn khiến cho sau này nhà danh họa phải tự sát.
Người quan trọng nhất trong cuộc đời Van Gogh là em trai ông, Theodorus van
Gogh, người đã luôn lo lắng và hỗ trợ tài chính cho Van Gogh. Tình anh em
giữa Vincent và Theo đã được ghi lại qua rất nhiều lá thư họ trao đổi kể từ
tháng 8 năm 1872.



1.1 Thời niên thiếu (1853-1869)

Đại gia đình nhà van Gogh
Hàng trên: Theodorus và Anna Cornelia van Gogh
Hàng dưới (từ trái qua): Vincent Willem, Anna Cornelia, Theo, Elisabetha
Huberta, Willemina Jacoba và Cornelius Vincent
Vincent van Gogh sinh năm 1853 tại Groot-Zundert, một làng nhỏ gần thành
phố Breda thuộc tỉnh Bắc Brabant phía Nam Hà Lan[6]. Ông là con trai của bà
Anna Cornelia Carbentus và ông Theodorus van Gogh, một giáo sĩ của Giáo hội
cải cách Hà Lan. Van Gogh được đặt tên giống với ông nội và người anh cả
đã chết non trước đó một năm. Có ý kiến[7] cho rằng việc có tên trùng với tên
người anh chết sớm đã có ảnh hưởng tâm lý sâu sắc tới người họa sĩ trẻ và
những tác phẩm của ông, tiêu biểu là các bức chân dung hai người đàn ông.
Thực ra thì việc sử dụng tên Vincent là phổ biến trong dòng họ Van Gogh, ông
nội của họa sĩ cũng tên là Vincent van Gogh (1789-1874), một người tốt nghiệp
khoa thần học tại Đại học Leiden và có sáu người con, trong đó ba người làm
nghề buôn bán tranh, bao gồm một Vincent khác, người thường được nhắc đến
trong các bức thư của Van Gogh như là "chú Cent". Dòng họ Van Gogh vốn là
một dòng họ chuyên hành nghề buôn bán tranh hoặc làm các công việc có liên
quan đến nghệ thuật.
Khi Van Gogh lên bốn thì người em trai của ông, Theodorus (Theo) ra đời
ngày 1 tháng 5 năm 1857. Ông còn có một người em trai khác là Cor và ba
người em gái là Elizabeth, Anna và Wil. Khi còn bé, Van Gogh là một đứa trẻ
trầm tính, ít nói và sâu sắc. Năm 1860 ông theo học ở trường làng Zundert đến
năm 1861 thì bắt đầu học ở nhà cùng em gái Anna dưới sự hướng dẫn của một
nữ gia sư. Năm 1864, Van Gogh lên Zevenbergen để vào học tại một trường nội
trú, ông cảm thấy rất đau khổ vì phải xa gia đình và vẫn còn nhắc đến nỗi buồn
này kể cả khi đã trưởng thành. Ngày 15 tháng 9năm 1866, Van Gogh vào học
tại trường Willem II College tại thành phố Tilburg, tại đây ông được học vẽ
dưới sự hướng dẫn của Constantijn C. Huysmans, một họa sĩ đã có đôi chút

thành công ở Paris. Tháng 3 năm 1868, Van Gogh bất ngờ bỏ học để quay về
nhà. Về sau ông nhắc lại thời niên thiếu của mình như một giai đoạn u tối, lạnh
lẽo và cằn cỗi[8].


1.2 Buôn bán tranh và truyền giáo (1869-1878)

Vincent van
Gogh năm 1876
Tháng 7 năm 1869, ở tuổi 15, Van Gogh bắt đầu nghề buôn bán tranh tại công
ty Goupil & Cie ở Den Haag, đến tháng 6 năm 1873 ông được phái đến London.
Trong thời gian ở thành phố này ông trọ tại số 87 đường Hackford, Brixton.
Đây là thời gian vui vẻ của Van Gogh khi ông thành công trong việc buôn bán
và đã có thể kiếm nhiều tiền hơn cha mình dù mới ở tuổi 20, vợ của Theo sau
này đã nhận xét rằng đây có lẽ là giai đoạn hạnh phúc nhất trong cuộc đời
Vincent. Ông còn có tình cảm với cô Eugénie Loyer, con gái của bà chủ nhà trọ
nhưng khi Van Gogh bày tỏ tình cảm với cô thì lại bị Eugénie từ chối với lí do
cô đã hẹn hò với một người khác. Vincent van Gogh bắt đầu trở nên cô độc và
sùng đạo.
Sau khi được bố và chú gửi đến Paris, Van Gogh bắt đầu biểu lộ sự không hài
lòng với việc coi nghệ thuật chỉ là những món hàng và bộc lộ quan điểm của
mình với khách hàng. Vì thế đến ngày 1 tháng 4 năm 1876, Van Gogh quyết
định chấm dứt công việc buôn bán tranh.
Tình cảm tôn giáo của Van Gogh bắt đầu phát triển tới mức ông nghĩ rằng mình
đã tìm được thiên hướng thực sự cho cuộc đời, ông trở lại Anh làm việc không
công, đầu tiên là giáo viên thay thế tại một trường nội trú nhỏ nhìn ra
cảng Ramsgate nơi ông đã thực hiện vài bức ký họa. Sau khi ngôi trường
chuyển về Isleworth, Middlesex, Vincent cũng chuyển đi cùng nhưng rồi nhanh
chóng bỏ nghề giáo viên để trở thành trợ tá cho một giáo sĩ của Phong trào
Giám Lý với mục đích đưa sách phúc âm đến khắp nơi.

Vào Giáng sinh năm 1876, Van Gogh trở về nhà và làm việc cho một hiệu sách
ở Dordrecht trong vòng sáu tháng, ông dành phần lớn thời gian để vẽ nguệch
ngoạc hoặc dịch Kinh thánh sang tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức. Bạn cùng
phòng của Vincent trong thời kỳ này là một giáo viên trẻ tên là Görlitz, ông này
về sau đã nhận xét rằng Vincent ăn uống rất đạm bạc và thường thích ăn chay[.


Trong một cố gắng giúp đỡ nguyện vọng trở thành mục sư của Van Gogh, gia
đình ông gửi Van Gogh tới Amsterdam tháng 5 năm 1877. Tại thành phố này
ông sống cùng người chú Jan van Gogh, một phó đô đốc hải quân, và học ôn để
thi vào khoa Thần học dưới sự hướng dẫn của Johannes Stricker, một nhà thần
học có tiếng tăm. Tuy vậy Vincent vẫn trượt kì thi đầu vào và ông rời khỏi nhà
chú Jan tháng 7 năm 1878 để học một khóa ba tháng tại trường truyền giáo đạo
Tin Lành (Vlaamsche Opleidingsschool) tại Laeken, gần Brussels.
1.3 Borinage và Brussels (1879-1880)

Ngôi nhà nơi Van Gogh sống trong thời gian ở
Cuesmes năm 1880, tại nơi đây Van Gogh đã quyết định trở thành một họa sĩ
Tháng 1 năm 1879, Van Gogh được giao chức vụ người truyền giáo tạm thời tại
một làng ở Petit Wasmes[14][15] thuộc vùng mỏ than Borinage của Bỉ với nhiệm
vụ đem lại niềm tin tôn giáo cho những người có lẽ là bất hạnh và tuyệt vọng
nhất châu Âu. Vincent đã lựa chọn cuộc sống giống như những con chiên của
ông để chia sẻ sự khó khăn với họ, ông ngủ trên chiếc nệm rơm trong một túp
lều nhỏ phía sau căn nhà của người làm bánh mỳ đã cho ông tá túc[10]. Tuy vậy
những người quản lý giáo phận cuối cùng lại thải hồi ông vì lý do "hạ thấp
phẩm cách của một giáo sĩ" vì đã chọn cách sống nghèo khổ như vậy.
Van Gogh chuyển về Brussels rồi lại đến làng Cuesmes ở Borinage trước khi
phải quay về "nhà" ở Etten dưới sức ép của gia đình. Ông ở đây cho đến tháng 3
năm 1880. Trong thời gian này nhiều mâu thuẫn đã nảy sinh giữa Vincent và
cha, cha của họa sĩ thậm chí còn yêu cầu ông phải vào một nhà thương

điên[16] tại Geel[17]. Cuối cùng Vincent phải trốn về Cuesmes nơi ông trọ trong
gia đình người thợ mỏ Charles Decrucq[18] cho đến tháng 10. Càng ngày ông
càng cảm thấy hứng thú với những con người bình thường và cảnh vật xung
quanh mình và bắt đầu ghi lại những hình ảnh đó bằng những bức vẽ.
Năm 1880, theo đề nghị của người em trai Theo, Vincent bắt đầu theo nghiệp
hội họa một cách nghiêm chỉnh. Mùa thu năm 1880, ông đến Bruxelles để theo
học họa sĩ Hà Lan nổi tiếng Willem Roelofs, người đã thuyết phục Van Gogh
thi vào Trường mỹ thuật Hoàng gia. Tại đó họa sĩ không chỉ được học về giải
phẫu, mà còn biết thêm những quy tắc chuẩn trong việc dựng hình và phối cảnh.
.


2. Sự nghiệp qua các địa điểm và thời gian trong cuộc đời
2.1 Etten (1881)
Tháng 4 năm 1881, Van Gogh tới sống tại vùng đồng quê cùng gia đình ở Etten
và tiếp tục vẽ, ông thường lấy những người hàng xóm làm mẫu cho mình. Trong
suốt mùa hè, họa sĩ dành phần lớn thời gian đi dạo và nói chuyện với người chị
họ Kee Vos-Stricker và Johannes Stricker. Kee hơn Vincent bảy tuổi và đã có
một đứa con trai tám tuổi, tuy vậy ông vẫn tìm cách cầu hôn và bị từ chối thẳng
thừng: "Không, không bao giờ, không bao giờ" (tiếng Hà Lan: niet, nooit,
nimmer). Cuối năm 1881 ông đến Amsterdam để xin gặp Kee nhưng một lần
nữa bị từ chối. Trong tuyệt vọng, người họa sĩ đã giơ bàn tay trái hơ lên ngọn
lửa đèn và nói: "Hãy cho tôi nhìn thấy cô ấy chỉ trong thời gian tôi có thể để tay
trên ngọn lửa này". Bố của Van Gogh và cả Stricker phản đối quyết liệt ý định
cưới Kee của ông và quyết định cắt trợ giúp tài chính. Đến Giáng sinh thì họa sĩ
quyết định rời nhà đi Den Haag.
2.2 Drenthe và Den Haag (1882–1883)
Tháng 1 năm 1882, Van Gogh đến Den Haag và sống với người họ hàng Anton
Mauve, một họa sĩ và cũng là người khuyến khích Vincent tiếp tục nghề vẽ. Tuy
vậy quan hệ của hai người nhanh chóng trở nên lạnh nhạt, có lẽ vì Mauve phát

hiện ra việc Vincent đi lại như vợ chồng với một cô gái điếm nghiện rượu tên là
Clasina Maria Hoornik (thường được biết đến với tên Sien)[11]. Sien đã có một
đứa con gái 5 tuổi và cô ta cũng đang mang thai trong lúc làm quen với Vincent.
Ngày 2 tháng 7, Sien sinh thêm một bé trai lấy tên là Willem. Khi cha của Van
Gogh phát hiện ra mối quan hệ này, ông đã liên tục gây sức ép buộc con mình
phải bỏ cô gái điếm và hai con của cô ta. Tuy vậy họa sĩ vẫn tiếp tục sống với
Sien.
Một người chú khác của Van Gogh là Cornelis, cũng là một nhà buôn tranh, đã
đặt hàng họa sĩ 20 bức vẽ mực về Den Haag, chúng được hoàn thành vào cuối
tháng 5. Tháng 6 năm 1883, Van Gogh phải nằm viện ba tuần vì mắc bệnh lậu.
Đến mùa hè, họa sĩ bắt đầu sáng tác bằng sơn dầu.
Mùa thu năm 1883, sau một năm chung sống với Sien, Van Gogh bỏ cô và hai
đứa trẻ. Có thể vì thiếu tiền nên Sien buộc phải quay trở lại nghề mãi dâm, cuộc
sống của hai người trở nên ít hạnh phúc hơn và Vincent cảm thấy nó không thể
phù hợp cho sự phát triển về mặt nghệ thuật của mình. Sau khi ông bỏ đi, Sien
trao đứa con gái cho mẹ cô, còn cậu bé Willem được gửi cho anh trai Sien, còn
bản thân cô rời đến Delft và sau đó là Antwerp. Sau này, Willem còn nhớ được
rằng trong lần cậu được thăm mẹ ở Rotterdam năm lên 12 tuổi, khi bác của cậu
cố khuyên Sien lấy chồng để Willem có cha, mẹ cậu đã trả lời rằng: "Nhưng em
biết cha của nó là ai. Cha của nó là một họa sĩ em từng chung sống cách đây
gần 20 năm ở Den Haag. Tên anh ấy là Van Gogh". Năm 1904Sien gieo mình
xuống sông Scheldt tự vẫn.


Sau khi rời Den Haag, Van Gogh chuyển tới tỉnh Drenthe ở phía Bắc Hà Lan,
ông sống một mình ở đây đến tháng 12 thì chuyển về sống với bố mẹ lúc này
đang ở Nuenen, Bắc Brabant.
2.3 Nuenen (1883–1885)
Tại Nuenen, Van Gogh tập trung hết sức lực vào việc sáng tác. Mùa thu năm ,
con một người hàng xóm của họa sĩ là Margot Begemann, một cô gái hơn

Vincent tới 10 tuổi, đã phải lòng ông và Vincent cũng đáp lại tình cảm này. Hai
người đã hứa hôn với nhau nhưng chịu sự phản đối của cả hai gia đình. Sau đó
Margot cố tự tử bằng strychnine và Van Gogh phải vội đưa cô đến bệnh viện[10].
Ngày 26 tháng 3 năm 1885, cha của Van Gogh qua đời sau một cơn đột quỵ, cái
chết này đã gây ra nỗi buồn sâu sắc trong lòng họa sĩ. Cùng lúc đó, giới nghệ
thuật ở Paris lần đầu tiên đã quan tâm tới các tác phẩm của Van Gogh, và chính
họa sĩ trong mùa xuân năm 1885 đã hoàn thành tác phẩm được coi là sáng tác
chính đầu tay của ông, bức Những người ăn khoai (tiếng Hà Lan: De
Aardappeleters). Tháng 8 cùng năm, các tác phẩm của Van Gogh lần đầu tiên
được triển lãm tại Den Haag. Tháng 9, họa sĩ bị buộc tội đã làm một trong
những mẫu của mình có thai, và mặc dù về sau người này đã thừa nhận cha của
đứa trẻ không phải là Van Gogh nhưng vị giáo sĩ của làng đã cấm dân làng
không được tiếp tục làm mẫu cho Van Gogh.
Trong thời gian ở Nuenen, màu sắc ưa thích của Van Gogh là các tông màu đất,
đặc biệt là màu nâu tối, ông không cho thấy sự phát triển cách dùng màu tươi
sáng, phong cách xuất hiện ở các tác phẩm xuất sắc nhất của ông sau này. Khi
Vincent phàn nàn với Theo khi cho rằng em trai đã không làm hết sức để có thể
bán tranh của mình ở Paris, Theo đã trả lời rằng các tác phẩm của Van Gogh
quá u tối và nằm ngoài phong cách phổ biến thời đó là các bức họa tươi vui của
các họa sĩ theo trường phái Ấn tượng. Làm việc hai năm ở Nueen, họa sĩ đã
sáng tác rất nhiều bức vẽ và màu nước, ngoài ra còn có gần 200 bức họa hoàn
chỉnh.
2.4 Antwerp (1885–1886)
Tháng 11 năm 1885 Van Gogh chuyển tới Antwerp và thuê một căn buồng nhỏ
phía trên một cửa hiệu bán tranh ở phố Rue des Images. Họa sĩ có rất ít tiền và
ăn uống đạm bạc, ông dành phần lớn số tiền Theo gửi cho để mua vật liệu sáng
tác và trả tiền cho người mẫu. Bánh mỳ, cà phê và thuốc lá là những thứ
Vincent dùng thường xuyên nhất. Tháng 2 năm 1886, Van Gogh viết thư cho
Theo kể lại chuyện ông nhớ mình được ăn thịt nóng lần cuối là từ tháng 5 năm
trước đó và hàm răng của họa sĩ bắt đầu yếu dần gây ra nhiều đau đớn.

Ngoài thời gian sáng tác, Van Gogh nghiên cứu thêm về lý thuyết màu sắc và đi
chiêm ngưỡng các tác phẩm tại bảo tàng thành phố, đặc biệt là các bức tranh
của Peter Paul Rubens, những tác phẩm đã khích lệ họa sĩ trong việc dùng các
màu sắc tươi sáng hơn như màu son, màu xanh cô ban và màu xanh lục. Ông


cũng mua một số bức tranh khắc gỗ của Nhật Bản (Ukiyo-e) và sử dụng nó làm
nền cho một số tác phẩm của mình[24]. Trong thời gian này ông cũng bắt đầu
nghiện rượu absinthe[11] và còn phải chữa bệnh (rất có thể là giang mai[10][25])
dưới sự điều trị của bác sĩ Cavenaile.
Tháng 1 năm 1886, Van Gogh trúng tuyển vào Trường Mỹ thuật Antwerp
(École des Beaux-Arts d'Anvers). Trong phần lớn tháng 2 họa sĩ bị ốm, phần lớn
là do lao lực, ăn uống kém và hút quá nhiều thuốc.
2.5 Paris (1886–1888)
Tháng 3 năm 1886, họa sĩ chuyển tới Paris để học tại xưởng vẽ củaFernand
Cormon . Ban đầu ông và Theo ở tại đường Rue Laval trong khu
đồi Montmartre. Đến tháng 6 thì hai anh em chuyển về một căn hộ rộng hơn ở
số 54 phố Rue Lepic, nằm ở phía trên đồi. Vì thời gian này hai anh em ở gần
nhau, các bức thư liên lạc giữa hai người không còn và người ta không biết rõ
những hoạt động của họa sĩ trong thời gian ông ở Paris.
Vincent làm việc vài tháng trong xưởng vẽ của Cormon nơi ông thường tiếp xúc
với họa sĩ người Úc John Peter Russell cũng như hai họa sĩ người Pháp là Émile
Bernard và đặc biệt là Henri de Toulouse-Lautrec.
Trong thời gian này ở Paris, không khó để chiêm ngưỡng và nghiên cứu tác
phẩm của các họa sĩ theo trường phái Ấn tượng. Ví dụ năm 1886, hai triển lãm
lớn của các họa sĩ tiên phong trong trường phái này đã được tổ chức ở thủ đô
nước Pháp, đó là Triển lãm lần thứ 8 và cuối cùng của các họa sĩ Ấn tượng và
Triển lãm của các họa sĩ độc lập (Artistes Indépendants). Trong hai cuộc trưng
bày này, lần đầu tiên chủ nghĩa Tân ấn tượng (Neo-Impressionism) ra mắt công
chúng với các bức tranh của Georges Seurat và Paul Signac. Bản thân Theo van

Gogh cũng buôn bán rất nhiều bức tranh thuộc trường phái Ấn tượng của các
họa sĩ nổi danh như Claude Monet, Alfred Sisley, Edgar Degas và Camille
Pissarro, tuy vậy Vincent rõ ràng là gặp khó khăn trong việc nắm bắt tinh thần
của các tác phẩm đang được ưa chuộng này. Bắt đầu có những mâu thuẫn giữa
hai anh em và đến cuối năm 1886 thì hai người bắt đầu sống riêng nhưng rồi lại
nhanh chóng làm lành vào mùa xuân năm 1887.
Sau đó Van Gogh đến Asnières và làm quen với Paul Signac. Tại đây Vincent
cùng người bạn của ông là Emile Bernard đã thử nghiệm một số bức tranh theo
trường phái Điểm họa ("pointillé").
Tháng 11 năm 1887, Theo và Vincent đã gặp và kết bạn với họa sĩ Paul
Gauguin, người vừa mới quay lại Paris sau thời gian sống ở nước ngoài[26]. Cuối
năm này, Van Gogh đã tổ chức một buổi triển lãm chung với Bernard, Anquetin
và Toulouse-Lautrec ở nhà hàng Restaurant du Chalet trên đồi Montmartre. Tại
buổi triển lãm này, Bernard và Anquetin đã bán được các tác phẩm đầu tiên, còn
Vincent thì trao đổi được tác phẩm với Gauguin, người ngay sau đó đã rời
đi Pont-Aven.


Tháng 2 năm 1888, cuối cùng Van Gogh cũng cảm thấy chán ngán cuộc sống ở
Paris, ông rời Kinh đô Ánh sáng sau khi đã hoàn thành hơn 200 bức họa trong 2
năm ở đây. Chỉ vài giờ trước khi rời thành phố, ông cùng Theo đã có chuyến
thăm lần đầu tiên và cũng là duy nhất đến nhà của họa sĩ Seurat.
2.6 Arles (tháng 2 năm 1888–tháng 5 năm 1889)
Ngày 21 tháng 2 năm 1888, Van Gogh đến Arles. Trong hai tháng, ông làm việc
cùng họa sĩ người Đan Mạch Christian Mourier-Petersen. Ngày 1 tháng 5, họa
sĩ ký hợp đồng thuê một căn hộ bốn buồng với giá 15 franc một tháng nằm bên
phải của Nhà Vàng tại số 2 Quảng trường Lamartine. Tháng 6, Van Gogh đi
thăm thị trấn ven biển Saintes-Maries-de-la-Mer. Tại đây ông nhận dạy vẽ cho
một sĩ quan tên là Paul-Eugène Milliet, người sau đó cũng trở thành bạn của họa
sĩ. Từ tháng 8, ông bắt đầu sáng tác về đề tài hoa hướng dương.

Ngày 23 tháng 10, Gauguin đến Arles theo lời mời của Van Gogh. Trong suốt
tháng 11 hai họa sĩ làm việc cùng nhau, cũng trong tháng này Van Gogh đã
sáng tác bức tranh nổi tiếng Cánh đồng nho đỏ. Tháng 12 cả hai họa sĩ đi
thăm Montpellier và chiêm ngưỡng các tác phẩm
của Courbet và Delacroix trong bảo tàng Museé Fabre. Tuy nhiên sau đó tình
bạn của hai người trở nên xấu đi vì những xung đột về nghệ thuật. Van Gogh sợ
rằng Gauguin sẽ rời bỏ ông, căng thẳng lên đến đỉnh điểm vào ngày 23 tháng
12 năm 1888 khi Vincent đuổi theo Gauguin với một lưỡi dao cạo trong tay và
sau đó lại tự cắt phần dưới tai trái của chính mình, gói nó vào một tờ báo, đưa
cho cô gái điếm Rachel ở nhà thổ trong vùng và yêu cầu cô này giữ cẩn thận.
Cuối cùng thì Gauguin vẫn rời Arles và không bao giờ gặp lại Van Gogh một
lần nữa. Vincent phải nhập viện trong tình trạng nguy kịch, ông ngay lập tức
được Theo đến thăm nom. Tháng 1 năm 1889, Van Gogh trở lại "Nhà Vàng"
nhưng liên tục phải đến bệnh viện vì gặp ảo giác, ông còn mắc chứng hoang
tưởng khi nghĩ mình bị đầu độc. Đến tháng 3, sau khi nhận được yêu cầu từ
những người hàng xóm, cảnh sát đã quyết định đóng cửa ngôi nhà của Van
Gogh. Đến tháng 4 thì ông dọn về căn phòng của bác sĩ Felix Rey sau khi
những trận lụt làm hư hại các tác phẩm của ông. Bác sĩ Felix Rey cho rằng Van
Gogh bị chứng động kinh một phần do uống quá nhiều cà phê và rượu, lại ăn ít
thức ăn. Ông đã kê thuốc an thần giảm đau và khuyên Van Gogh uống
rượu cinchona có chứa chiết xuất ký ninh.
Tuy nhiên, theo bà Bernadette Murphy - tác giả quyển "Van Gogh's War: The
True Story" .Bà đã tìm ra bức vẽ của bác sĩ Felix Rey trong một kho lưu trữ
ở California. Nó nằm trong đống giấy tờ của tiểu thuyết gia Irving Stone - người
đã trao đổi thư từ với bác sĩ Rey năm 1930. Bốn năm sau, tác giả Stone đã xuất
bản cuốn tự truyện hư cấu Lust for Life, trong đó diễn viên Kirk Douglas vào
vai Van Gogh. Bà đã tìm được một bức thư trong đó có các hình vẽ tai trái của
Van Gogh trước và sau khi ông tự cắt tai mình. Người vẽ chính là bác sĩ Felix
Rey, người đã điều trị vết thương cho danh họa trong bệnh viện. Hình vẽ là



đường nét phác họa hình dạng tai của Van Gogh trên tờ giấy kê đơn thuốc. Hình
thứ nhất vẽ cái tai còn nguyên vẹn. Hình thứ hai cho thấy cái tai chỉ còn lại một
mẩu nhỏ phía dưới. Vậy là danh họa đã xẻo gần như toàn bộ tai, chứ không chỉ
một mẩu.[28]
2.7 Saint-Rémy (tháng 5 năm 1889–tháng 5 năm 1890)
Ngày 8 tháng 5 năm 1889 Van Gogh phải nhập viện tại bệnh viện tâm thần
Saint-Paul-de-Mausole nằm trong một tu viện cũ ở Saint Rémy de
Provence không xa Arles. Tu viện nằm cách biệt với thị trấn và ở giữa những
cánh đồng ngô, nho và ô liu. Theo van Gogh sắp xếp cho anh trai có hai buồng
nhỏ trong bệnh viện, một buồng dành riêng làm xưởng vẽ. Trong thời gian chữa
trị tại đây, phòng khám và khu vườn của bệnh viện đã trở thành những đề tài
chính của họa sĩ. Một số tác phẩm của Van Gogh trong thời kỳ này có đặc trưng
là các xoáy ốc, tiêu biểu là bức tranh nổi tiếng Đêm đầy sao. Trong tháng 9, họa
sĩ thực hiện hai phiên bản mới của bức Phòng ngủ ở Arles và đến tháng 2
năm 1990 thì ông vẽ bốn bức chân dung có tên L'Arlésienne (Người Arles, chỉ
bà Ginoux), dựa trên những phác thảo bằng chì than của Gauguin.
Tháng 1 năm 1890, tác phẩm của Van Gogh được Albert Aurier ca ngợi tại trên
tạp chí Mercure de France, nhà phê bình này đã gọi Vincent là một thiên tài.
Trong tháng 2, Van Gogh được nhóm Les XX, một tập hợp các họa sĩ tiên
phong ở Brussels, mời tham gia triển lãm tranh thường niên của nhóm. Sau đó,
khi tranh của Van Gogh được trưng bày trong triển lãm của nhóm Nghệ sĩ Độc
lập (Les Artistes Indépendants) ở Paris, Monet đã nhận xét rằng tác phẩm của
Vincent là tuyệt vời nhất trong cả triển lãm[29].
2.8 Auvers-sur-Oise (tháng 5 đến tháng 7 năm 1890)
Tháng 5 năm 1890, Van Gogh rời bệnh viện và đến trị liệu với bác sĩ Paul
Gachet ở Auvers-sur-Oise, nằm gần Paris, nơi ông có thể ở gần hơn với em trai
Theo. Bác sĩ Gachet được Camille Pissarrogiới thiệu cho anh em Van Gogh vì
trước đó ông này đã từng chữa cho một số họa sĩ và bản thân cũng là một họa sĩ
nghiệp dư. Ấn tượng đầu tiên của Vincent về Gachet là "ông ta trông còn ốm

yếu hơn cả tôi"[30]. Sau đó Van Gogh đã vẽ hai bức chân dung bác sĩ bằng màu
dầu, một bức khác khắc axit, cả ba bức đều miêu tả Gachet trong một tư thế u
sầu. Trong tuần cuối ở Saint-Rémy, Van Gogh lại nhớ lại những kỷ niệm ở
phương Bắc[31] và một số trong khoảng 70 bức tranh ông vẽ trong 70 ngày ở
Auvers-sur-Oise, như bức Nhà thờ ở Auvers đã gợi đến những phong cảnh ở
phương Bắc.
Tình trạng bệnh lý của Van Gogh ngày càng trầm trọng, ngày 27 tháng
7 năm 1890, ở tuổi 37, người họa sĩ đã bước ra cánh đồng và tự bắn vào ngực
bằng một khẩu súng lục. Không nhận ra rằng mình đã bị thương nặng, Vincent
quay trở lại hoàn thành bức tranh Chân dung Adeline Ravoux. Hai ngày sau ông


qua đời trên giường ngủ, câu cuối cùng mà Theo nghe được từ miệng anh trai
mình là:
"La tristesse durera toujours" - "Nỗi buồn sẽ kéo dài mãi mãi"
Vincent được chôn tại nghĩa trang của vùng Auvers-sur-Oise[32]. Không lâu sau
cái chết của anh trai, Theo cũng nhập viện, ông mất ngày 25 tháng
1 năm 1891 tại Utrecht, chỉ 6 tháng sau cái chết của Vincent. Năm 1914, Theo
được cải táng về bên cạnh người anh trai yêu quý của ông.

3 Quá trình sáng tác

Tĩnh vật với
absinthe, 1887
Van Gogh bắt đầu vẽ các bức màu nước từ khi còn đi học, tuy vậy rất ít tác
phẩm thời kì này còn được lưu giữ đến ngày nay. Khi thực sự bắt đầu làm họa sĩ
(năm 1880), Van Gogh đi lại từ bước cơ bản, đó là chép bức tranh "Cours de
dessin". Trong suốt hai năm đầu họa sĩ phải đi tìm đơn đặt hàng cho mình, mãi
đến mùa xuân năm 1882, người chú Cornelis Marinus của Van Gogh mới đề
nghị ông vẽ các bức tranh về Den Haag để bán trong phòng tranh ở Amsterdam.

Mặc dù công việc không được như Cornelis mong muốn, Van Gogh vẫn được
đặt hàng thêm và một lần nữa làm thất vọng chú của mình.
Dù sao thì Van Gogh vẫn tiếp tục nghề họa sĩ, ông cải thiện việc chiếu sáng cho
xưởng vẽ và thử nghiệm với các chất liệu vẽ khác nhau. Sau hơn một năm lao
động miệt mài chỉ với những bức tranh "trắng và đen", cuối cùng người ta cũng
công nhận khả năng của Vincent ở thể loại này. Mùa xuân năm 1883, Van Gogh
bắt đầu thực hiện các bức tranh phức tạp hơn, ngay khi Theo nhận xét rằng các
tác phẩm đó thiếu sự sinh động và tươi mới, Vincent đã tiêu hủy chúng và tập


trung vào sơn dầu. Cũng thời gian này, Vincent đến tham khảo các họa sĩ
thuộc Trường phái Den Haag như Weissenbruch và Blommers, ông nhận được
những lời khuyên về mặt kĩ thuật để sau đó khi đến Nuenen, Van Gogh đã có
thể thực hiện các bức vẽ khổ lớn. Đa số các tác phẩm này đã bị chính họa sĩ tiêu
hủy, bức Những người ăn khoai nổi tiếng là một trong số rất ít các tác phẩm còn
sót lại của thời kì này. Sau chuyến thăm Bảo tàng Rijksmuseum ở Amsterdam,
Vincent nhận ra rằng những thiếu sót trong các tác phẩm của ông là do sự thiếu
kinh nghiệm trong kĩ thuật vẽ, họa sĩ đã đến Antwerp và sau đó là Paris để trau
dồi thêm kĩ năng này.
Sau khi học hỏi được kĩ thuật và kinh nghiệm từ những họa sĩ theo trường phái
Ấn tượng và Tân ấn tượng, Van Gogh tới Arles để phát triển các tác phẩm theo
hướng này. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, những ý tưởng cũ về nghệ
thuật và tác phẩm lại xuất hiện trong đầu họa sĩ. Đó là ý tưởng về việc thực hiện
những loạt tác phẩm về các chủ đề có liên quan hoặc tương phản nhau để phản
ánh suy nghĩ của người sáng tác.
4. Điềm báo cái chết trong họa phẩm cuối cùng
Nhiều người tin rằng họa phẩm 'Cánh đồng lúa mì và bầy quạ' là bản di chúc hội
họa cuối cùng của Van Gogh. Và khi nhìn vào tác phẩm này, không ít người
đoán biết được tâm tư tình cảm của ông trước khi qua đời.
Ở đó thể hiện đầy đủ nét nghệ thuật bậc tài cũng như lột tả được hết tâm trạng

và mối linh cảm về tấn bi kịch cuộc đời của Van Gogh.

Họa phẩm "Cánh đồng lúa mì và bầy quạ là bản di chúc hội họa cuối cùng của
Van Gogh
Những nét cọ vẽ cánh đồng lúa chín và đàn quạ đen xiên, thô và ngắn dưới bầu
trời mây đen vần vũ, khỏa lấp áng mây xanh, trắng thể hiện nỗi buồn quạnh
vắng và sự cô đơn đến cùng cực.


Trong bức thư cuối cùng gửi cho em trai, họa sĩ có nhắc đến 2 tác phẩm vẽ cùng
năm 1890 là Khu vườn của Daubigny và Nhà miền quê với mái rạ.
Dựa theo sắc màu tươi tắn của hai bức họa này và sắc mây đen của Cánh đồng
lúa mì và bầy quạ, ta hiểu được đôi chút tâm tư từ phấn chấn, vui vẻ đến u buồn,
cô quạnh của danh họa trước những giờ phút cuối cùng của cuộc đời.

Bức tự họa với chiếc tai bị cắt của Van Gogh
Trước khi lìa đời, Van Gogh chỉ thốt ra một câu duy nhất “La tristesse durera
toujours" - "Nỗi buồn sẽ kéo dài mãi mãi".
Em trai của danh họa đã thu thập tất cả các tác phẩm của anh trai, vợ của ông
cũng công bố bức tranh cuối cùng của Van Gogh - Wheat Field (Đồng lúa mì).


5 Hồ sơ bệnh tật
Mộ của Vincent và Theo van Gogh tại nghĩa
trang Auvers-sur-Oise

Van Gogh thường xuyên gặp phải các vấn đề về
thần kinh, đặc biệt trong những năm cuối đời. Đã
có rất nhiều cuộc tranh luận nổ ra trong việc tìm
nguyên nhân thực sự cho chứng bệnh thần kinh

của họa sĩ và tác động của nó lên các tác phẩm
của ông. Người ta đã đưa ra khoảng 30 chẩn
đoán khác nhau cho triệu chứng bệnh của Van
Gogh[33], trong đó phải kể tới chứng tâm thần
phân liệt, rối loạn chức năng, giang mai, ngộ độc màu vẽ, động kinh và rối loạn
chuyển hóa porphyrine cấp tính. Bất kì chứng bệnh nào trong số trên cũng có
thể là thủ phạm dẫn tới sự suy nhược thần kinh của họa sĩ, tình trạng của ông
còn bị làm trầm trọng thêm do ăn uống thiếu chất, lao lực, mất ngủ và nghiện
rượu, nhất là rượu absinthe.
Cũng có nhiều giả thuyết y học được đưa ra để giải thích việc Van Gogh ưa
dùng màu vàng trong các bức tranh của ông. Một giả thuyết cho rằng việc này
có thể xuất phát từ chứng nghiện absinthecủa Van Gogh, trong loại rượu này có
chứa một loại neurotoxin tên là thujone. Việc hấp thụ thujone với liều cao có thể
dẫn tới chứng thấy sắc vàng (xanthopsia). Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu
năm 1991 đã chỉ ra rằng những người nghiện absinthe sẽ phải trở nên gần như
vô thức nếu hấp thụ đủ lượng thujone gây chứng thấy sắc vàng. Cũng có giả
thuyết cho rằng bác sĩ Gachet có thể đã kê đơn cho Van Gogh dùng mao địa
hoàng (digitalis) để chữa chứng động kinh của ông. Việc này được suy đoán từ
những bức chân dung bác sĩ Gachet của Van Gogh, bên cạnh người mẫu thường
có vài cây hoa mao địa hoàng. Người dùng mao địa hoàng với liều lớn có thể
dẫn tới triệu chứng quan sát thấy những điểm màu vàng có quầng xung quanh
(giống như trong bức Đêm đầy sao)[34].
Người ta còn đưa ra một giả thuyết cho thể trạng yếu của họa sĩ, đó là do ngộ
độc chì. Các màu vẽ mà Van Gogh thường dùng đều có gốc chì, và một trong
các triệu chứng của nhiễm độc chì đó là căng võng mạc dẫn tới thường xuyên
nhìn thấy các quầng sáng, một đặc điểm thường thấy trong các tác phẩm cuối
đời của họa sĩ[35].
Năm 2014, kỹ sư hóa học người Hà Lan, Rene Van Slooten, đã đưa ra giả
thuyết Van Gogh đã sử dụng khí đốt để thắp sáng các căn phòng nơi ông làm
việc vào buổi đêm và Carbon monoxide và các kim loại nặng – thậm chí

cả uranium trong than đá chứa lẫn nhiều tạp chất có thể là nguyên nhân gây ngộ
độc cho ông. Nhưng giả thuyết của Slooten về nhà danh họa Van Gogh vẫn
không nhận được sự tán thành của số đông. Nhà thần kinh học đã nghỉ hưu kiêm


chuyên gia về Vincent Van Gogh, ông Piet Voskuil, cho rằng giả thuyết của
Van Slooten không đáng tin cậy.[36]
6 .Di sản và đánh giá
Van Gogh chết trong cảnh nghèo túng và chỉ mới có một chút danh tiếng trong
giới nghệ thuật châu Âu. Tuy vậy các sáng tác của ông về sau đã có ảnh hưởng
sâu sắc đến các họa sĩ sau này, đặc biệt là các họa sĩ thuộc trường phái Dã
thú (Fauvism) như Henri Matisse và các họa sĩ thuộc trường phải Biểu hiện Đức
thuộc nhóm Die Brücke. Chủ nghĩa Biểu hiện trừu tượng trong nghệ thuật thập
niên 1950 cũng bắt nguồn từ việc phát triển các ý tưởng sáng tác của Van Gogh.
Năm 2004, trong Danh sách những người Hà Lan vĩ đại nhất trong lịch sử (De
Grootste Nederlander) do đài KRO tổ chức, Vincent van Gogh được xếp thứ 10
và là nghệ sĩ có thứ hạng cao thứ 2 trong danh sách (sau họa sĩ Rembrandt xếp
thứ 9)[37].
Sau khi mất, tranh của Van Gogh rất được các bảo tàng nghệ thuật và nhà sưu
tầm cá nhân ưa thích, đặc biệt là trong thập niên 1980 và 1990. Khi đó tác
phẩm của Van Gogh liên tục phá kỉ lục thế giới về giá bán, có thể kể tới các
bức như Chân dung Bác sĩ Gachet, Hoa diên vĩ, Chân dung tự họa, Hoa hướng
dương, Cánh đồng lúa mỳ và cây trắc bá,...
7.Van Gogh trong văn hóa đương đại


Năm 1934 nhà văn Irving Stone cho ra đời tiểu thuyết Lust for Life kể về
cuộc đời của Vincent van Gogh. Cuốn tiểu thuyết này vào năm 1956 đã
được chuyển thể thành bộ phim cùng tên do Vincente Minnelli và George
Cukor đạo diễn. Người vào vai Van Gogh là ngôi sao điện ảnh Kirk

Douglas còn vai Paul Gauguin được giao cho Anthony Quinn. Với vai diễn
này Quinn đã giành Giải Oscar Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất.

Năm 1971, nhạc sĩ và ca sĩ Don McLean đã sáng tác bài hát nổi
tiếng Vincent để tưởng nhớ đến Van Gogh, câu mở đầu của bài hát, "Starry
Starry Night" được lấy cảm hứng từ bức tranh nổi tiếng Đêm đầy sao (tiếng
Anh: The Starry Night) của họa sĩ.

Năm 1990 câu chuyện về tình anh em giữa Vincent và Theo van Gogh
được đạo diễn Robert Altman đưa vào bộ phim Vincent & Theo trong đó vai
Vincent và Theo lần lượt do Tim Roth và Paul Rhys thủ vai.


CHƯƠNG 2 : "TIẾNG LÒNG" CỦA DANH HỌA QUA CÁC HỌA PHẨM

1.Chân dung tự họa với chiếc tẩu- Câu chuyện về chiếc tai

Theo lập luận khoa học, tai
của Van Gogh không lành
lặn là do xô xát với một
đồng nghiệp.Nghiên cứu
Chân dung tự họa với chiếc
tẩu (1886) của Van Gogh
Nghiên cứu Chân dung tự
họa với chiếc tẩu (1886) của
Van Gogh, nhiều giả định
đã được đưa ra, trong đó
một số người tin rằng danh
họa đã tự cắt tai của mình,
một số khác lại khẳng định

ông buộc phải cắt bỏ một số
thùy trên tai do tình trạng
viêm nhiễm, chưa kể một bộ
phận khẳng định Van Gogh
tự cắt tai do không hài lòng
với các bức tranh của mình. Tuy nhiên, theo lập luận khoa học, vào thời điểm
gần với sự ra đời của bức tranh, lúc Van Gogh đang sống ở miền Nam nước
Pháp, giữa ông và một nghệ sĩ khác là Paul Gauguin đã xảy ra một vụ xô xát
nhỏ mà nguyên do đến từ một cô gái hành nghề ở nhà thổ của địa phương. Vụ
ẩu đả này đã làm Van Gogh bị thương khá nặng ở vùng tai.


2.Sunflower - kết quả của việc chế ngự chứng động kinh

Những sắc thái phong phú của màu
vàng trong bức tranh Sunflowers (Hoa
hướng dương) của Van Gogh đã được
các nhà khoa học giải thích là do danh
họa sử dụng quá liều thuốc trị bệnh
động kinh. Trong đó, rượu absinthe là
một trong những yếu tố tác động mạnh
tới tư duy sử dụng màu sắc của Van
Gogh.

3.Starlight- kiệt tác giữa những cơn điên

Bức Starlight night được vẽ trong
một nhà thương điên ở Saint-Remyde-Provence.Starlight night (Đêm
đầy sao) được Van Gogh vẽ trong
thời gian điều trị bệnh tại một nhà

thương điên ở Saint-Remy-deProvence (Pháp). Bức tranh được vẽ
vào ban ngày, giữa những cơn bệnh qua sự tưởng tượng về khung cảnh bên
ngoài cửa sổ phòng bệnh của ông. Trong bức tranh vẽ bầu trời cuộn xoáy, Van
Gogh đã thay đổi vị trí của chòm sao Đại Hùng từ phía Bắc sang phía Nam. Đây
cũng là tác phẩm có sức ảnh hưởng lớn đối với các họa sĩ trường phái ấn tượng
thế hệ sau này.


4.

The Potato Eaters – Bức tranh đánh dấu mối duyên với hội họa

The Potato Eaters mô tả cuộc
sống mê muội, tối tăm, khổ
ải của những người nông
dân.Một trong những bức
tranh đầu tay và nổi tiếng của
Van Gogh là The Potato
Eaters (Những người ăn
khoai – 1885), khi ông đã 32
tuổi. Điều bất ngờ hơn cả là
Van Gogh chỉ bắt đầu vẽ khi
đã 27 tuổi. Trước đó, danh
họa từng kinh qua nhiều
công việc khác nhau, thậm chí nuôi dưỡng ý chí trở thành một nhà truyền giáo.
Tuy nhiên, cuối cùng, Van Gogh đã chọn vẽ tranh với chủ đề đầu tiên là mô tả
cuộc sống mê muội, tối tăm, khổ ải của những người nông dân. Khi Van Gogh
chuyển tới Paris vào năm 1886, ông đã gặp các họa sĩ trường phái ấn tượng nổi
tiếng, và đó cũng là khởi nguồn thực sự cho sự nghiệp lừng lẫy của ông.
5. Van Gogh’s Bedroom – Căn phòng ngủ lập dị

Không chỉ Van Gogh mà em
trai ông – Theo Van Gogh,
cũng là một người vô cùng kỳ
lạ. Mỗi ngày, em trai ông
dành dụm 15 francs cho tới
khi có đủ 300 francs để sắm
sửa đồ nội thất cho một căn
phòng ở Arles, miền Nam
nước Pháp vào năm 1888.
Đây chính là nơi Van Gogh
trú ngụ, tránh xa những phê
bình mà ông hết sức dị ứng.
Ngay sau đó, Van Gogh đã
quyết định sơn lại toàn bộ các vật dụng trong căn phòng này để trở nên phong
cách hơn, và ông cũng vẽ một bức tranh kỷ niệm mang tên Van Gogh’s
Bedroom (Phòng ngủ của Van Gogh) để ăn mừng sự kiện này.
6. Red Vineyard at Arles – Bức tranh bán được duy nhất của Van Gogh


Red Vineyard at Arles, bức tranh
duy nhất Van Gogh bán được lúc
sinh thời.Sinh thời, Van Gogh
không có được sự vinh danh xứng
đáng. Thiên tài là một danh xưng
xa xỉ đối với danh họa. Ông chỉ
bán được một bức tranh duy nhất
là Red Vineyard at Arles (Vườn
nho đỏ ở Arles). Vinh quang đến
quá muộn màng sau khi Van
Gogh đã qua đời.


7. Wheat Field – Bức tranh cuối cùng của Van Gogh
Vào thời điểm năm 1889 - 1890, vì bệnh
tật, Van Gogh cảm thấy cuộc sống thật
vô vọng và bản thân là gánh nặng đối với
em trai. Sau khi tự bắn vào ngực để tự
kết liễu, Van Gogh còn cầm cự được
thêm hai ngày và còn tiếp tục vẽ nốt bức
tranh còn dang dở - Chân dung Adeline
Ravoux. Trước khi lìa đời, Van Gogh chỉ
thốt ra một câu duy nhất “La tristesse
durera toujours" - "Nỗi buồn sẽ kéo dài
mãi mãi". Em trai của danh họa đã thu thập tất cả các tác phẩm của anh trai, vợ
của ông cũng công bố bức tranh cuối cùng của Van Gogh - Wheat Field (Đồng
lúa mì). Tuy nhiên, gần đây, hai nhà khoa học là Stephen Neifi và Gregory
White Smith đã phủ nhận Van Gogh tự vẫn mà cho rằng ông chết do quả đạn
lạc của hai cậu bé vô danh.
100 năm sau khi qua đời, công chúng và giới nghệ thuật mới thực sự công nhận
và ngưỡng mộ tài năng của Van Gogh. Ông được vinh danh là thiên tài hội họa.
Nhiều tác phẩm của Van Gogh cũng được ngợi ca là kiệt tác đắt giá nhất của
nghệ thuật đương đại, xuất hiện ở vô số các bộ sưu tập của các phòng trưng bày
nghệ thuật và viện bảo tàng nổi tiếng nhất trên thế giới.


CHƯƠNG 3: Nét, Nhịp Điệu Trong Tranh VAN GOGH
Van Gogh, hoặc Vincent, vì ông thích được gọi với tên này hơn, đã viết cho
người em là nhà buôn bán tranh nghệ thuật Theo vào đầu tháng 9 - 1880, khi
ông vừa mới quyết định trở thành một họa sĩ: “Giờ đây anh nhìn sự vật với đôi
mắt khác hơn trước lúc bắt đầu vẽ”. Ông đã diễn tả cảm quan của mình về sự
vật một cách nhẹ nhàng như vậy. Cuộc triển lãm ”Vincent Van Gogh: The

Drawing” do Viện Bảo tàng Van Gogh ở Amsterdam và Viện bảo tàng Nghệ
thuật Metropolitan ở New York tổ chức đã đem đến cho người xem một cái
nhìn thú vị, tổng quát về những tác phẩm tạo hình đẹp nhất của nghệ sĩ tên tuổi
Hà Lan này. Khoảng 100 trong hơn 1200 tác phẩm đang được lưu giữ của
Vincent được chọn ra, nổi bật lên với sự diễn tả tính mãnh liệt của những cảm
xúc không kìm nén được và được vẽ thành từng nhóm liên tiếp nhau, trong ba
năm cuối đời của Vincent. Đây cũng là những tác phẩm mà các nhà tổ chức
muốn đặt vào một tầm quan trọng lớn hơn: Chúng có thể làm tăng thêm sự hiểu
biết, giá trị của những tác phẩm khác, nếu như những trải nghiệm phong phú
nhất có thể có được ở cuộc triển lãm này được đặt trên khái niệm diễn giải về
quá trình phát triển qua từng giai đoạn sáng tác của nghệ sĩ. Việc sắp đặt tại
Viện bảo tàng Metropolitan được cân nhắc kỹ lưỡng, từ những nhãn tiêu đề đẹp,
những bản văn viết trên tường đến những hiện vật trưng bày hỗ trợ như bút chì,
bút lau sậy từng được họa sĩ sử dụng trong các bức vẽ đồ họa.

VINCENT VAN GOGH. Những đống cỏ khô (gởi
Jonh Russell) khoảng 31-7 đến 3-8-1888. Sử dụng bút
lau sậy, bút lông ngỗng, mực, than chì, trên giấy dệt,
khổ 9,5x12,25 inches. Viện bảo tàng nghệ thuật
Philadelphia


Trong một bài viết cho catalogue, Susan Alyson Stein đã đưa ra những nhận
xét sau: Danh tiếng nổi như cồn của Vincent phần lớn có thể tiên đoán được,
dựa vào sự ủng hộ nhiệt tình với các bản vẽ của những người hỗ trợ ông không
hề biết mệt mỏi như Emile Bernard. Một trong mhững bạn đồng học tại sudio
Ferdinand Cormon, nơi ông học vẽ lối chính thống sau khi đến Paris năm 1886.
Khi Vincent tìm ra những lối vẽ không chính thống ngày một nhiều hơn, nhất là
vào mùa hè năm 1888 lúc ông sống một mình tại Arles, ông vẫn cho Bernard
biết diễn tiến công việc của mình qua việc gửi thư kèm theo những mẫu vẽ với

sự chú trọng không kém đến nội dung và cách trình bày. Cũng trong thời gian
tương tự về diễn tiến tạo hình của mình cho một người bạn học trong những lớp
học ở Cormon, họa sĩ người Úc John Russell. Nhưng phần lớn những bản vẽ
của Vincent lại được gửi cho Theo, người đã xếp đặt những tác phẩm này liên
kết với nhau như một bộ sưu tập riêng trong căn hộ ở Paris. Có lẽ nhận thức
được việc Theo đánh giá cao những tác phẩm này, người vợ goá của ông,
Joanna Van Gogh - Bonger đã khẳng định rằng: Những bản vẽ hình của
Vincent, dù sớm hay muộn, cũng sẽ xuất hiện ở nhiều cuộc triển lãm.

Vườn nho già và người đàn bà nông dân. Từ 20 đến 23-5-1980. Sử dụng cọ, dầu và màu nước, than chì trên giấy sọc, khổ 17,5x21,25
inches. Viện bảo tàng Van Gogh, Amsterdam

Có thể hiểu được những nỗ lực của bà, trong một bối cảnh mà khuynh hướng
chủ đạo bắt đầu từ giữa thế kỷ 19, xem một tác phẩm đồ họa cũng có giá trị
ngang bằng với hội họa và điêu khắc. Và trước khi Van Gogh qua đời năm
1890, những họa sĩ không theo lối chính thống như Whistler, Ensor và Rodin đã
trình bày những tác phẩm đồ họa trong các cuộc triển lãm. Tuy nhiên lịch sử
nghệ thuật vẫn chưa lưu ý đến giá trị của rất nhiều bức vẽ hình. Trong bài viết
có tựa đề “Nghệ thuật thế kỷ 19” do đồng tác giả Robert Rosenblum và H.W.
Janson viết năm 1985 đều không có đánh giá nào về các bức vẽ hình. Cho nên,
việc khảo sát một cách nghiêm túc về các tác phẩm đồ hoạ thế kỷ 19 vẫn chưa
được thực hiện.


Gần một nửa số tác phẩm trong triển lãm Những chặng đường sáng tác của Van
Gogh năm 1935 tại Viện Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York là tranh đồ
họa.

Những cây Birch xén ngọn. Nửa đầu tháng 3-1884. Sử
dụng bút mực, than chì được nhấn thêm với màu nước

loãng trên giấy dệt, khổ 15,5x21,37 inches
Nhưng vào năm 1965, khi MOMA xuất bản tác phẩm kinh điển của John
Rewald “Hậu trường phái Ấn tượng: Từ Van Gogh tới Gauguin”, những tranh
vẽ hình của Vincent, dù được ca ngợi, vẫn không nhận được sự quan tâm bằng
những bức tranh đầy màu sắc lộng lẫy của ông. Nhìn chung, những bản vẽ hình
không có chỗ để phát triển so với những bức tranh nhiều màu sắc trong suốt thế
kỷ 20. Ví dụ như sách nghệ thuật đầy rẫy những phiên bản mầu và các viện bảo
tàng tràn ngập các tác phẩm hội họa đầy màu sắc được trưng bày. Nhưng hoàn
cảnh mới không đến nỗi quá bi thảm, ở chỗ ít ra thì nghệ thuật vẽ hình của
Vincent đã được quan tâm: Cuộc triển lãm “Van Gogh ở Arles” năm 1984 tại
Viện Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan do Ronald Pickvance tổ chức đã gây
được sự chú ý trong cách thức trình bày để cho những bản vẽ hình cũng có tầm
quan trọng như những bức sơn dầu. Hoặc như cuộc triển lãm tưởng niệm 100
năm ngày mất của Vincent tại hai Viện Bảo tàng Otterlo và Amsterdam, với qui
mô lớn tương tự, dù đáng tiếc là các bản vẽ hình và các bức tranh sơn dầu được
triển lãm riêng rẽ tại hai viện trên. Mặt khác, catalogue cho hai cuộc triển lãm
đều được trình bày đẹp, lôi cuốn sự chú ý của người xem và thúc đẩy họ quan
tâm đến Vincent nhiều hơn nữa.
Có hai khuynh hướng được đặt ra: Một là xuất bản các bản vẽ hình của Vincent
nhiều hơn. Hai là tăng thêm sự phân tích tinh tế của các nhà chuyên môn về giá


trị đáng trân trọng của chúng. Từ năm 1996, mọi tư liệu và chi tiết về gần 500
bản vẽ hình của Vincent luôn có sẵn, được đánh giá trong catalogue đặc biệt
dành cho các học giả. Quyển thứ tư và là quyển cuối cùng của bộ catalogue này,
theo dự định sẽ ra mắt vào năm tới. Cũng từ năm 1996, để thu hút nhiều người
xem hơn, học giả David Brooks đã thu thập những bản vẽ hình và tranh của
Vincent bằng hình ãnh kỹ thuật số cho một catalogue trực tuyến
www.vggallery.com.


Những con thuyền trên biển. Khoảng 30-5 đến 5-6Tuy nhiên cho tới nay, trước khi thời gian làm phai màu các tác phẩm, Brooks
vẫn chưa khởi sự chuyển tải những hình ảnh có thể còn giữ được gần với
nguyên dạng ban đầu. Theo như Van Heutgen giải thích trong tác phẩm
“Vincent van Gogh: The Drawing”: Những người xem tranh ngày nay cần hiểu
rằng nhiều bản vẽ của Vincent còn lại đến hôm nay bị cảm nhận khá sai lạc là
bản vẽ phác thảo. Vì thời gian, một số vết mực đen đã chuyển thành mầu nâu,
những loại mực aniline mà tác giả sử dụng trong nhóm tác phẩm 1888 đã mờ
gần như mất hẳn; phức tạp hơn, trong một số bản vẽ dùng hai loại mực khác
nhau thì cả hai đều bị hư hại, có khi một loại mực bị phai còn loại kia ngả mầu
sậm hơn. Nhận thấy sự hư hại thì dễ nhưng tìm ra phương tiện phục chế mới là
khó. Cuối cùng, Van Heutgen nhận được sự trợ giúp của nhà khoa học Roy S.
Bern để tái sản xuất chính xác những loại mầu dùng trong các bản gốc sử dụng
loại giấy xám xanh rất dễ bạc mầu. (Gần đây, Berns - giáo sư tại Học viện Công
nghệ Rochester, đã cung cấp những bức hình được hiệu chỉnh màu tương tự cho
một triển lãm ở Seurat tại Học viện Nghệ thuật của Chicago). Bên cạnh việc
phục chế bản vẽ, Van Heutgen cho tái sản xuất bản in mầu những cuốn sách


năm 1920. Mặc dù những người phụ trách tuyển chọn những bức vẽ còn trong
tình trạng tốt nhất cho bài khảo cứu này, nhiều bản vẽ độc đáo trong catalogue
cho thấy màu sắc chắc đã đổi thay nhiều. Nhưng một chi tiết thú vị khác lại
được phát hiện: Khi so sánh với bản vẽ tham gia thuộc Vellekoop, có những
bằng chứng để tin rằng một số các bản vẽ ngả sang tone nâu, thực hiện tại viện
tâm thần nơi Vincent ở năm 1889, được thể hiện một cách sáng tạo bằng loại
mực có mầu dễ phai. Nếu vậy, những bản vẽ phủ sơn dầu mỏng năm 1889 hoá
ra tốt hơn nhiều những bản vẽ mực. Catalogue còn có phần phụ lục rất hữu ích
được thực hiện bởi nhân viên bảo quản tư liệu của Viện bảo tàng Metropolitan,
Marjorie Shelly, nguời cung cấp một số những loại mực khác nhau trong buổi
phát hành bản vẽ Vincent.


Những con thuyền trên biển (gởi Jonh
Russell). Khoảng 31-7 đến 3-8-1888. Sử
dụng bút lau sậy và mực, than chì trên
giấy dệt, khổ 9,5x12,5 inches. Viện bảo
tàng Solomon R.Guggenheim , New
York

Sự thiếu hiểu biết của chúng ta về mục đích sử dụng màu sắc của Vincent, chưa
tệ bằng sự bàng quan của chúng ta về những gì ông muốn đạt tới trong những
tác phẩm đầy khát vọng thể hiện trên mặt giấy. Xuất thân từ một gia đình buôn


×