Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SKKN quản lý: Một số biện pháp chỉ đạo của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực dạy học VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 29 trang )

A.

MỞ ĐẦU

I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trường học là nơi học sinh được tiếp thu tri thức khoa học và những kỹ năng
cần thiết để hình thành, phát triển phẩm chất tốt đẹp của con người. Môi trường
giáo dục luôn có tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của
trẻ thông qua các mối quan hệ đa dạng. Môi trường giáo dục tốt sẽ đào tạo
những con người có đạo đức, phẩm chất, trí tuệ tốt để sau này đóng góp công
sức vào xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà
nước ta luôn luôn quan tâm đến giáo dục. Tuy nhiên, giáo dục nước ta hiện nay
chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặc
biệt là yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu và cơ cấu lại nền
kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả, có sức cạnh tranh cao đòi hỏi giáo dục
phải đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng, nhanh chóng góp phần tạo ra đội ngũ
nhân lực chất lượng cao. Nếu không có sự đổi mới trong giáo dục và đào tạo thì
nhân lực sẽ là yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước. Mặt khác, nước ta đang
trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển nhanh chóng
của khoa học và công nghệ, khoa học giáo dục và sự cạnh tranh quyết liệt trên
nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi giáo dục phải đổi mới. Việc đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục, đào tao; phát triển nguồn nhân lực là vấn đề bức
thiết. Đó vừa là yêu cầu, vừa là giải pháp giúp chúng ta vượt qua khó khăn,
thách thức của thời cuộc và phát triển bền vững. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đã từng được khẳng định trong các văn
kiện của Đảng trước đây, đặc biệt trong Nghị quyết số 29 của Hội nghị Trung
ương 8, khóa XI đã nêu rõ, đây không chỉ là quốc sách hàng đầu, là “chìa khóa”
mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía trước, mà còn là “mệnh lệnh” của
cuộc sống. Trong Văn kiện đại hội XII, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ
trước, Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo,


phát triển nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách hàng đầu, tiêu
điểm của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển nguồn
nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền
giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”. Quán triệt, thực hiện tư
tưởng, quan điểm chỉ đạo đó, ngành giáo dục đã bắt tay vào công cuộc đổi mới.
Một trong những nội dung đổi mới giáo dục phổ thông là việc triển khai Dự án
mô hình trường học mới tại Việt Nam (GPE-VNEN) nhằm thực hiện đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục.
Dự án Mô hình trường học mới GPE-VNEN được Bộ GD&ĐT triển khai thí
điểm từ năm học 2012-2013 ở 1447 trường tiểu học nhằm thực hiện chủ trương
đổi mới về phương pháp dạy, phương pháp học, phương pháp kiểm tra đánh giá
học sinh và tổ chức lớp học. Kể từ đó đến nay đã qua 4 năm thử nghiệm, trường
tiểu học Nga Vịnh cũng như các trường thực hiện Dự án đã gặp không ít những
khó khăn nhưng bước đầu đã có những thành công nhất định. Tuy nhiên, trong
thực tiễn dạy học VNEN ở nhiều trường, cán bộ quản lý (CBQL) vẫn còn lúng
túng trong việc lập kế hoạch, tổ chức sinh hoạt chuyên môn (SHCM), hoặc chưa
có nhiều kinh nghiệm trong chỉ đạo đổi mới phương pháp một cách triệt để.
Giáo viên dạy đúng theo yêu cầu Dự án nhưng vẫn còn ảnh hưởng thói quen
1


phương pháp dạy hiện hành hoặc cho rằng dạy học mà để học sinh tự học là
không hiệu quả nên đôi khi vận dụng cách dạy học chưa đúng tinh thần của Dự
án. Bên cạnh đó, phụ huynh tỏ ra băn khoăn với cách dạy học mới này, họ còn
lo lắng đến chất lượng học tập của con cái… Mặt khác, hiện tại chưa có nhiều
tài liệu bồi dưỡng giáo viên và chưa có nhiều các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu
hoặc đưa ra các kinh nghiệm giúp giáo viên và CBQL học hỏi để nâng cao chất
lượng dạy học VNEN. Do đó, vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để thực hiện tốt
Dự án Mô hình trường học mới Việt Nam? Bên cạnh việc tạo niền tin, khẳng
định sự thành công và cái ‘hay”, cái “được” của Dự án, điều quan trọng là học

sinh học được “cái gì” và chất lượng dạy học như thế nào để Mô hình tiếp tục
được duy trì và phát triển? Đây là vấn đề tương đối cần thiết và đòi hỏi phải có
nhiều sự đầu tư và tâm huyết của người thầy và sự ủng hộ của toàn xã hội. Để
Mô hình trường học mới Việt Nam tiếp tục được phát triển và thực hiện thành
công hơn, đòi hỏi mỗi cán bộ giáo viên phải giành tâm sức, đúc kết những kinh
nghiệm trong quá trình quản lý chỉ đạo và thực hiện. Từ những lý do trên, với
mong muốn nhà trường thực hiện dạy học theo Mô hình VNEN được tốt hơn, tôi
đã trăn trở, suy nghĩ và nghiên cứu, lựa chọn đề tài mang tính cấp thiết “Một số
biện pháp chỉ đạo của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực dạy học VNEN’
để tích lũy thêm kinh nghiệm trong quản lý chỉ đạo, giúp giáo viên và học sinh
dạy học tốt hơn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số vấn đề quản lý
chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy học VNEN.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu, tổng kết biện pháp chỉ đạo của Hiệu trưởng về dạy học
theo Mô hình trường học mới Việt Nam khối 2,3,4,5 trường tiểu học Nga Vịnh,
Nga Sơn.
IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, bản thân đã áp dụng một số
phương pháp chính sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Là các phương pháp thu
thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng
các thao tác tư duy logic để rút ra kết luận khoa học cần thiết. Sử dụng phương
pháp này để nghiên cứu cách tổ chức dạy học của giáo viên, cách học của học
sinh; các tài liệu, khái niệm, thuật ngữ; một số văn bản và quan điểm chỉ đạo
liên quan đến đề tài.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Là phương pháp dùng hệ thống câu
hỏi và tư duy logic theo các nội dung xác định nhằm thu thập những thông tin
khách quan nói lên nhận thức và thái độ của người được điều tra, khảo sát để

phát hiện những vấn đề liên quan đến dạy học trong nhà trường.
- Phương pháp thu thập thông tin: Là quá trình tập hợp thông tin theo những
tiêu chí cụ thể nhằm làm rõ những vấn đề, nội dung liên quan đến dạy học của
giáo viên và học sinh.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: là hệ thống các phương pháp dùng để thu
thập, xử lý và phân tích các con số (mặt lượng), thu thập và phân tích các số liệu
và rút ra kết luận về những vấn đề liên quan đến dạy học VNEN để tìm hiểu bản
2


chất và tính quy luật vốn có của chúng trong điều kiện thời gian và không gian
cụ thể.
B. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Mô hình trường học mới VNEN dựa trên kết quả và thành tựu đổi mới Giáo
dục Quốc tế, vận dụng cách làm của Giáo dục Colombia một cách sáng tạo, phù
hợp với mục tiêu và đặc điểm của Giáo dục Việt Nam. Mục tiêu tổng thể của
Mô hình VNEN là phát triển con người: Dạy chữ - Dạy người. Đây là Mô hình
được giảng dạy theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, hướng tới chuyển
các hoạt động giáo dục trong nhà trường thành các hoạt động tự giáo dục cho
học sinh. Mọi hoạt động đều vì lợi ích của học sinh, do học sinh thực hiện.
VNEN không những kế thừa những mặt tích cực của mô hình truyền thống mà
còn có sự đổi mới căn bản, phù hợp với quan điểm “Phải biến quá trình dạy học
thành quá trình hoạt động và tự học của học sinh…” (theo nguyên Thứ trưởng
Bộ GD&ĐT Đặng Huỳnh Mai). Việc tự học của học sinh trong VNEN được bắt
nguồn từ hoạt động trải nghiệm, với những bài tập(hoạt động) được thiết kế, dẫn
dắt từ những cái học sinh đã biết, từ trực quan sinh động hay từ vốn sống của
các em. VNEN không phải bắt học sinh tự học ngay với kiến thức mới và khó
mà phần kiến thức này, giáo viên phải giảng giải, hỗ trợ để học sinh nắm vững
và tiếp tục làm việc theo Logo, cùng nhau học tập để lĩnh hội những kiến thức

liên quan mật thiết đến cuộc sống của các em. Giáo viên là người tổ chức, hướng
dẫn và khích lệ các em trong việc tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và
phát triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử dân chủ, bình đẳng. Phụ huynh và cộng đồng
cùng tham gia tích cực vào việc chăm sóc và giáo dục con em mình. Trong quá
trình làm việc theo nhóm, học sinh có cơ hội tranh luận và đánh giá lẫn nhau.
Thông qua đó, giáo viên kịp thời phản hồi tới học sinh về quá trình làm việc và
kết quả học tập của các em. Mô hình trường học mới xây dựng mối liên hệ chặt
chẽ, tương tác giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng. Cộng đồng và gia đình
luôn có vai trò quan trọng trong giáo dục và hình thành nhân cách của trẻ. Học
sinh có thể nhờ cha mẹ giúp đỡ để lĩnh hội kiến thức cũng như ứng dụng nội
dung vào cuộc sống hằng ngày. Sự kết nối giữa chương trình học với gia đình và
cộng đồng sẽ hiệu quả hơn nếu khuyến khích gia đình và cộng đồng cùng tham
gia. Từ đó học sinh có cơ hội chia sẻ các hoạt động văn hóa. Mô hình VNEN đã
tăng cường sự hợp tác giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh,
tạo không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện. Học sinh không thụ động mà bắt
buộc phải trao đổi, tìm tòi kiến thức với giáo viên và các bạn. Mô hình VNEN
đã đáp ứng yêu cầu dạy chữ- dạy người, tăng khả năng giao tiếp và phát triển
toàn diện cho học sinh. Giờ học VNEN, lượng kiến thức quá tải đã được tinh
giản để phù hợp với đặc điểm nhận thức và tâm sinh lý học sinh tiểu học. Tuy
nhiên, VNEN không phải vì thế mà không chú ý đến việc đào tạo, bồi dưỡng
học sinh giỏi. Ngoài việc củng cố vững chắc kiến thức cơ bản, chú trọng giáo
dục đạo đức theo 5 điều Bác Hồ dạy và tăng cường kỹ năng sống, VNEN còn
chú ý đến khả năng phát triển trí tuệ, năng khiếu cho học sinh để các em tiếp tục
học tốt các bậc học sau và hướng tới mục tiêu đào tạo nhân tài cho đất nước.
Đây chính là ưu điểm vượt trội mang tính ưu việt của VNEN.
3


Trong bối cảnh đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, nội dung giáo
dục sẽ chuyển đổi từ hình thành cho học sinh kiến thức, kỹ năng, thái độ đơn

thuần nâng lên thành giáo dục, hình thành cho học sinh phẩm chất, năng lực thì
vấn đề xây dựng cho học sinh tinh thần tự học đúng đắn và nâng cao năng lực,
trách nhiệm của giáo viên là vấn đề cấp thiết. Do vậy, VNEN cần được thực
hiện hiệu quả, đúng tinh thần chỉ đạo, giáo viên và học sinh cần được nâng cao
năng lực dạy - học để Mô hình trường học mới Việt Nam ngày càng được triển
khai sâu rộng và phát triển nhưng cần phải có sự điều chỉnh, rút kinh nghiệm và
vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp để chất lượng giáo dục ngày càng được
nâng cao đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới.
II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC VNEN TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM
Trường Tiểu học Nga Vịnh là một trong 4 trường của huyện Nga Sơn thực
hiện Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam nhưng là trường thuộc vùng
khó khăn nhất. Từ thực tế trực tiếp chỉ đạo thực hiện, qua dự giờ, thăm lớp và
tham gia sinh hoạt chuyên môn trường và cụm trường, bản thân tôi đã được
chứng kiến sự cố gắng, khắc phục khó khăn của các nhà trường và đã đạt được
kết quả nhất định. Tuy nhiên, cũng như thực trạng chung của các nhà trường,
trường tiểu học Nga Vịnh còn gặp những khó khăn, tồn tại,hạn chế sau cần được
giải quyết, khắc phục:
- Giáo viên và CBQL còn gặp những khó khăn, lúng túng trong đánh giá tiết
dạy. Giáo viên chưa biết cách khắc chốt kiến thức một cách khoa học, đúng
phương pháp và hiệu quả. Họ chưa biết chọn thời điểm và kiến thức kỹ năng cần
khắc chốt, còn sa vào phương pháp dạy học hiện hành. Tổ chức lớp học còn rập
khuôn, ít sáng tạo.
- Các bài học trong Tài liệu Hướng dẫn học được cấu trúc gồm 2 hoặc 3 tiết,
giáo viên còn lúng túng khi phân cắt thời lượng các tiết trong mỗi bài. Do đó, có
thể tiết 1 lại quá nhiều hoạt động nhưng tiết 2 hoặc 3 lại quá ít.
- Giáo viên chưa hiểu sâu sắc dạy như thế nào để đảm bảo hoàn thành mục
tiêu bài học. Họ ít có thời gian để bồi dưỡng thêm kiến thức nâng cao cho học
sinh giỏi (những em xuất sắc) nhưng chưa biết phát huy tốt, đạt hiệu quả cao dạy
học buổi 2 và hoạt động của các Câu lạc bộ trong nhà trường cũng như các Hoạt

động giáo dục ngoài giờ lên lớp, Hoạt động theo chủ đề và các Công cụ hỗ trợ…
để học sinh học tốt, đọc tốt hơn, viết chữ đẹp hơn, bồi dưỡng học sinh giỏi và
phụ đạo học sinh yếu kém hiệu quả hơn. Họ cho rằng dạy VNEN không làm tốt
được vấn đề đó như chương trình hiện hành. Giáo viên còn lạm dụng phần chia
sẻ mục tiêu và Ban học tập khi yêu cầu học sinh thực hiện. Họ còn máy móc vận
dụng khi xem băng dạy mẫu mà chưa có sự sáng tạo khi áp dụng vào tổ chức
dạy học.
- Khi huấn luyện cho Hội đồng tự quản học sinh hoặc trưởng nhóm còn rập
khuôn một chiều, theo một khuôn mẫu chung nên không phát huy hết được sự
năng động, hồn nhiên, nét sáng tạo thông minh riêng của mỗi học sinh.
- Khả năng giao tiếp của học sinh còn hạn chế, một số trưởng nhóm kỹ năng
điều hành, chỉ đạo nhóm chưa tốt. Một số cha mẹ học sinh chưa quan tâm đôn
đốc con em học tập, ý thức hợp tác với nhà trường còn thấp. Giáo viên chưa biết
4


vận động, tuyên truyền, huy động phụ huynh và cộng đồng cùng tham gia và hỗ
trợ tốt cho dạy học VNEN.
- Việc tổ chức Hoạt động tập thể, Hoạt động Giáo dục ngoài giờ lên lớp,
Hoạt động theo chủ đề còn đơn điệu, rập khuôn, ít lôi cuốn, thiếu tự nhiên, hấp
dẫn nên hạn chế sự phát triển toàn diện của học sinh.
Qua thực tế khảo sát giờ dạy của giáo viên khối 2, 3, 4,5, bản thân thu được
kết quả như sau:
Tổng số
GV
10

Giờ dạy tốt, vận
dụng sáng tạo hoạt
động Dự án

SL
%
0
10

Giờ dạy khá, biết
Giờ dạy và hoạt
vận dụng hoạt động động Dự án đạt yêu
Dự án
cầu
SL
%
SL
%
6
60
4
40

Kết quả khảo sát chất lượng giáo dục học sinh:
Tổng Hoàn thành xuất Hoàn thành tốt Hoàn thành
số HS
sắc nhiệm vụ
nhiệm vụ
nhiệm vụ
150

SL
30


%
20

SL
42

%
28

SL
75

%
50

Chưa hoàn
thành nhiệm vụ
SL
3

%
2

Kết quả khảo sát Hoạt động của Hội đồng tự quản học sinh, hoạt động nhóm
và khả năng giao tiếp:
Tổng Khả năng giao Khả năng giao Biết giao tiếp, Chưa biết giao
số HS tiếp, điều hành tiếp, điều hành
điều hành
tiếp, điều hành
hoạt động tốt

hoạt động khá
hoạt động
hoạt động
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
150
33
22
30
20
72
48
15
10
Từ kết quả thực trạng và bảng số liệu trên cho thấy: Giáo viên đã bước đầu
biết vận dụng Mô hình VNEN vào dạy học nhưng hiệu quả chưa cao, chưa có sự
sáng tạo mà còn rập khuôn, máy móc và chưa hiểu sâu sắc về VNEN cũng như
hoạt động của Dự án. Chất lượng giáo dục học sinh đảm bảo được duy trì, ổn
định nhưng số học sinh xuất sắc chưa cao. Số học sinh chưa tự tin trong giao
tiếp và điều hành các hoạt động còn nhiều. Điều đó chứng tỏ việc đổi mới
phương pháp ở giáo viên chưa triệt để, kỹ thuật dạy học chưa thực sự cao, chưa
phát huy hết những ưu điểm, thế mạnh của dạy học VNEN. Do đó, cần có những
giải pháp nâng cao năng lực dạy học VNEN để nâng cao chất lượng giáo dục và
sự phát triển toàn diện cho học sinh.

III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Qua nghiên cứu, khảo sát, phân tích thực trạng, bản thân đưa ra các giải pháp
sau giúp giáo viên giải quyết những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế để
nâng cao chất lượng dạy học VNEN:
1. Tăng cường năng lực dạy học VNEN thông qua việc tổ chức tốt bồi
dưỡng, tập huấn cấp trường và Sinh hoạt chuyên môn nhằm bồi dưỡng
nghiệp vụ chuyên môn và nâng cao năng lực sư phạm cho giáo viên
5


Để thực hiện giải pháp này, ngoài việc tổ chức tốt hoạt động tập huấn do
Bộ quy định vào đầu tháng 8 và một số thời điểm trong năm học, tôi đã tổ chức
bồi dưỡng giáo viên thông qua qua dự giờ, thăm lớp, dạy minh họa, kiểm tra
toàn diện giáo viên, khảo sát chất lượng học sinh, tổ chức sinh hoạt chuyên môn
tổ và trường hàng tuần, hàng tháng để thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm, giải đáp
băn khoăn, vướng mắc…; và yêu cầu giáo viên tự học, tự bồi dưỡng, tích lũy
kinh nghiệm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nội dung cụ thể như sau:
1.1.Nâng cao năng lực đánh giá Hoạt động dạy học
Việc đổi mới căn bản của Mô hình trường học mới là chuyển hoạt động Dạy
của giáo viên thành hoạt động Học của học sinh, hoạt động quy mô lớp thành
hoạt động của quy mô nhóm, học sinh từ làm việc với giáo viên thành làm việc
với Sách, có sự tương tác với bạn. Do đó, nhóm là đơn vị học tập cơ bản. Nhóm
trưởng là người thay mặt giáo viên điều hành các thành viên trong nhóm: tự
giác, tích cực hoạt động, tự quản, tự học, tự tìm tòi, khám phá phát hiện kiến
thức theo hướng dẫn của sách. Mọi thành viên trong nhóm phải tự nghiên cứu
tài liệu, tự học, chia sẻ với bạn, báo cáo với nhóm kết quả học tập. Các thành
viên trong nhóm trao đổi, thống nhất và báo cáo kết quả học tập với giáo viên.
Do vậy, cần yêu cầu giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài học, hiểu rõ quá trình hình
thành kiến thức để tổ chức lớp học, chuẩn bị đồ dùng dạy học, điều chỉnh nội
dung, yêu cầu bài học cho phù hợp với đối tượng và dự kiến các tình huống khó

khăn mà học sinh dễ mắc phải trong quá trình hình thành kiến thức để có những
giải pháp hợp lí, kịp thời .Giáo viên chọn vị trí thích hợp để quan sát được hoạt
động của tất cả các nhóm, các học sinh trong lớp. Giáo viên chỉ đến hỗ trợ học
sinh khi học sinh có nhu cầu cần giúp đỡ hoặc giáo viên cần kiểm tra việc học
của một học sinh, hoặc một nhóm để phát hiện những học sinh chưa tích cực,
học sinh gặp khó khăn trong quá trình học và hỗ trợ kịp thời những học sinh yếu
để giúp các em hoàn thành nhiệm vụ học tập. Thông qua quan sát, kiểm tra, giáo
viên đánh giá sự chuyên cần, tích cực của mỗi học sinh; đánh giá hoạt động của
từng nhóm và vai trò điều hành của mỗi nhóm trưởng, chọn thời điểm thích hợp
để chốt lại những vấn đề cơ bản của bài học, đánh giá hoạt động học của các cá
nhân, các nhóm và cả lớp, tạo cơ hội để mỗi học sinh, mỗi nhóm tự đánh giá tiến
trình học tập của mình. Mặt khác, cần trao đổi, giúp giáo viên khi dự giờ và
đánh giá tiết dạy, khác với chương trình hiện hành, người dự không tập trung
quan sát, đánh giá hoạt động của giáo viên mà đánh giá quá trình học, kết quả
học của học sinh.Việc đánh giá dựa vào các bước lên lớp của bài học, đánh giá
hoạt động và kết quả học tập của mỗi nhóm và mỗi học sinh. Khi đánh giá cần
tập trung vào những vấn đề như : Học sinh có thực sự tự học, tự giác, tích cực
không? Các em có thực hiện đúng các bước lên lớp ? Các nhóm có hoạt động
đều tay, sôi nổi? Nhóm trưởng điều hành nhóm có tốt? Các hoạt động học diễn
ra đúng trình tự logic? Học sinh có hoàn thành các hoạt động nêu trong sách, có
hiểu bài, nắm được bài, hoàn thành mục tiêu bài học không? Giáo viên có khắc
chốt và điều chỉnh tài liệu hợp lý chưa, sáng tạo ở điểm nào?
Khi đánh giá học sinh, giáo viên cần đánh giá học sinh thông qua việc quan
sát về tinh thần, thái độ học tập, tính tự giác, tích cực tham gia hoạt động nhóm;
tính hợp tác, thực hiện điều hành của nhóm trưởng; Kết quả thực hiện các hoạt
động trong bài, đối chiếu với mục tiêu bài học và ghi chép của học sinh. Mặt
6


khác, giáo viên còn giúp học sinh biết tự đánh giá, bằng cách đánh giá việc hoàn

thành từng hoạt động trong bài học, đánh giá kết quả đạt được sau mỗi hoạt
động, sau bài học; và đánh giá việc hoàn thành mục tiêu bài học. Đánh giá hoạt
động của nhóm về tinh thần, thái độ, sự tương tác với bạn bè, thời gian và chất
lượng hoàn thành hoạt động học và kết quả các hoạt động học tập. Ngoài ra,
giáo viên cùng Cộng đồng đánh giá học sinh về các mặt: Có thường xuyên trò
chuyện với cha mẹ việc học ở trường; có thực hiện chăm sóc cây cối, vật nuôi,
sức khỏe bản thân và người thân trong gia đình; sự tự tin trong trao đổi, trò
chuyện, giao tiếp; khả năng diễn đạt, đối thoại, tương tác; sự chuyên cần, tiến bộ
trong học tập. Như vậy, có nắm vững cách đánh giá thì mới rút kinh nghiệm,
khắc phục những tồn tại, hạn chế, thiếu sót để điều chỉnh và học hỏi đồng
nghiệp những điểm tốt, những cách làm hay, sáng tạo và khuyến khích, tạo cơ
hội kịp thời để việc dạy học đạt hiệu quả hơn.
1.2. Bồi dưỡng GV về cách điều chỉnh nội dung dạy học, cách chọn thời
điểm khắc chốt kiến thức, khai thác các công cụ hỗ trợ phù hợp, hiệu quả
Tài liệu Hướng dẫn học VNEN là tài liệu đang trong quá trình thử nghiệm
và là tài liệu tác giả viết chung cho tất cả các trường trong cả nước nên còn có
những điểm chưa phù hợp với vùng miền, đối tượng học sinh, điều kiện thực tế
của từng nhà trường và thực tế dạy học. Do vậy, trong quá trình quản lý, chỉ đạo
tập huấn và sinh hoạt chuyên môn tôi yêu cầu giáo viên thảo luận, đưa ra những
bài mà giáo viên còn lúng túng, khó khăn trong dạy học mà chưa biết cách điều
chỉnh, sau đó giúp giáo viên có những điều chỉnh phù hợp để thuận lợi cho dạy
và học nhằm nâng cao chất lượng. Bắt đầu của mỗi hoạt động đều có một hình
vẽ (lo go) cùng với những “Lệnh” thực hiện để HS dễ dàng nhận ra yêu cầu và
các hình thức tổ chức thực hiện hoạt động học tập (học cá nhân, theo cặp, nhóm
nhỏ hoặc toàn lớp, cụ thể ở trang đầu của TLHD các môn). Trong thiết kế từng
bài ở tài liệu Hướng dẫn học, trước mỗi hoạt động đều có các logo chỉ dẫn. HS
nhìn lo go biết hoạt động đó thực hiện cá nhân, hay nhóm đôi, nhóm lớn hoặc
chung cả lớp. Cần yêu cầu giáo viên hiểu logo hướng dẫn chỉ có tác dụng định
hướng cho các nhóm HS hoạt động, không máy móc mà có thể điều chỉnh và chỉ
dẫn từng việc cụ thể để hoạt động học của học sinh thực hiện dễ dàng, hiệu quả.

lo go làm việc cá nhân hiểu là cá nhân làm việc là chính. Nhưng khi làm xong có
thể đổi vở cho bạn để kiểm tra bài làm của nhau, hoặc báo cáo với nhóm kết quả
mình đã làm được để nhóm nhận xét, bổ sung, nhóm trưởng chốt ý. Logo làm
việc nhóm chủ yếu nhắc nhở HS hoạt động theo nhóm có sự tương tác trong
nhóm để cùng giải quyết một nhiệm vụ học tập nào đó. Có logo hoạt động nhóm
thì mỗi học sinh vẫn phải suy nghĩ, phải làm việc cá nhân, nhóm không làm
thay, học thay cá nhân. Như vậy rất cần sự hỗ trợ, giúp giáo viên hiểu rõ, có
những điều chỉnh linh hoạt để hoạt động học diễn ra tự nhiên, hiệu quả. Tuy
nhiên, không phải bài nào cũng điều chỉnh mà tùy theo nội dung của từng bài để
điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng học sinh nhưng cũng không phải thấy học
sinh làm được mà không điều chỉnh gì. Nếu có bài khó đối với nhiều em trong
lớp hoặc bài học sinh hay nhầm lẫn, hay làm sai, có kiến thức mới và kỹ năng
cần rèn luyện thì giáo viên phải lưu ý, điều chỉnh hướng dẫn, khắc chốt trước
lớp (logo cả lớp). Nếu trong bài học có những kiến thức mới và khó đối với học
sinh hoặc kiến thức cần khắc sâu, giáo viên có thể dừng hoạt động nhóm để dạy
7


trước lớp. Ví dụ: Tiếng Việt lớp 3, Bài 19C (tiết 3) : Yêu cầu giáo viên cần có 2
điều chỉnh: Điều chỉnh thứ nhất ở hoạt động 2 là Hoạt động cá nhân(ghi vào vở)
nhưng vì liên quan đến việc cung cấp kiến thức nên cần chuẩn bị bảng phụ ghi
kiến thức cần chốt, thay đổi Logo cá nhân thành Logo cả lớp để chốt kiến thức
trọng tâm. Điều chỉnh thứ hai, sau khi học sinh thay nhau kể chuyện trong nhóm
giáo viên nên cho học sinh kể trước lớp để khắc sâu. Cần lưu ý rằng, nếu bài có
nội dung điều chỉnh, giáo viên cần nêu trước lớp, in phiếu hoặc ghi bảng (nếu
điều chỉnh ít) thật cụ thể, rõ ràng khi bắt đầu tiết học (có thể sau khi giới thiệu
bài) để học sinh nắm vững yêu cầu, thuận tiện cho các em hoạt động nhóm đảm
bảo chất lượng.
Khi điều chỉnh, bổ sung cần xem xét logic hình thành kiến thức có thể chia
thành các bước để HS có thể tự học và lĩnh hội được. Mỗi hoạt động trên được

viết thành các hoạt động nhỏ hơn (hay việc làm) tương ứng với quá trình hình
thành kiến thức, rèn luyện kĩ năng ở trên. Cần lưu ý, bổ sung những việc làm cụ
thể như: đọc, quan sát, thử nghiệm, nghe, giải toán, đề xuất, ... để HS lĩnh hội tri
thức, rèn luyện kĩ năng và vận dụng vào cuộc sống; với mỗi việc làm nên đặt
câu hỏi việc làm đó nhằm mục đích gì ? Trao đổi trong tổ, nhóm chuyên môn
hoặc khi Sinh hoạt chuyên môn để hoàn chỉnh bài Hướng dẫn học.

Hình ảnh Sinh hoạt chuyên môn và chuẩn bị tập huấn cấp trường
tại trường tiểu học Nga Vịnh
Đối với những bài giáo viên chưa biết dừng hoạt động nhóm ở hoạt động
nào để đưa trước lớp chốt kiến thức thì có thể hướng dẫn giáo viên chuẩn bị
bảng phụ hoặc bảng nhóm, tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm, thảo luận cách
làm rồi ghi kết quả thảo luận vào bảng nhóm. Sau đó, giáo viên dừng hoạt động
nhóm, lấy kết quả học sinh đã ghi vào bảng treo trước lớp, nêu câu hỏi gợi mở
để học sinh nhận xét, chốt kiến thức. Việc chốt kiến thức thường thực hiện ngay
sau hoạt động cung cấp kiến thức mới hay dựa vào Logo cả lớp tổ chức cho học
sinh hoạt động rồi chốt hoặc có thể cứ để học sinh hoạt động nhóm bình thường
8


rồi cuối tiết học, giáo viên dựa vào kết quả yêu cầu học sinh báo cáo, nêu câu
hỏi khái quát để chốt kiến thức. Tuy nhiên, việc chốt kiến thức cần ngắn gọn, rõ
ràng, đi vào trọng tâm cần chốt, không nên đặt nhiều câu hỏi dài dòng, sa vào
phương pháp đàm thoại, hỏi đáp để chốt thì đấy không còn là đổi mới phương
pháp, lạm dụng cách dạy hiện hành thì không đúng với cách dạy học VNEN.
Ví dụ: Khi dạy bài 19: Rễ cây có đặc điểm gì ? (tiết 2), TNXH lớp 3, giáo
viên yêu cầu học sinh thực hiện theo logo và việc 1, việc 2, việc 3,… trong từng
hoạt động, nhóm trưởng yêu cầu các bạn trả lời câu hỏi để chốt về chức năng và
ích lợi của rễ cây. Giáo viên theo dõi các nhóm hoạt động và hỗ trợ nếu nhóm
nào gặp khó khăn và yêu cầu học sinh báo cáo kết quả hoạt động của nhóm với

cô giáo. Sau đó chuyển sang hoạt động kết thúc tiết học, giáo viên nêu câu hỏi:
Rễ cây có chức năng gì và ích lợi của nó như thế nào ? để chốt kiến thức bài
học.
Đối với các môn thuộc Hoạt động giáo dục, cần hướng dẫn cụ thể cho giáo
viên và học sinh : dạy Hoạt động cơ bản trong VNEN tương tự cách dạy ở
chương trình hiện hành, tương ứng với hoạt động quan sát, nhận xét, tìm hiểu
cách thực hiện... Cụ thể: Môn Mĩ thuật: HĐ quan sát nhận xét, tìm hiểu cách vẽ.
Môn Âm nhạc: HĐ nghe GV đàn giai điệu, HS đọc lời ca, tập từng câu. Môn
Thủ công/Kĩ thuật: HĐ quan sát mẫu, tìm hiểu cách lắp ráp…Môn Đạo đức: HĐ
quan sát tranh, ảnh, phân tích tình huống, đọc truyện…để xây dựng chuẩn mực
hành vi đạo đức. Môn Thể dục: HĐ quan sát tìm hiểu cách thực hiện động tác.
Ngoài việc khắc chốt kiến thức và điều chỉnh nội dung dạy học hợp lý, hiệu
quả, để giờ học thành công hơn cần yêu cầu giáo viên sử dụng tốt các công cụ
hỗ trợ như Hội đồng tự quản (HĐTQ), các Ban, các Góc, Hộp thư vui, bảng Con
đường đến trường (Bản đồ cộng đồng)… Chẳng hạn:
- Để giờ học sinh động và phát huy khả năng giao tiếp, ứng xử, năng khiếu
nghệ thuật…, phần khởi động tiết học, giáo viên cho HĐTQ lên giới thiệu về cơ
cấu tổ chức lớp, điểm mạnh, điểm nổi bật và sự phấn đấu của lớp,…, giao lưu
với khách đến thăm và cho lớp hát hoặc chơi trò chơi khởi động tiết học. Tuy
nhiên, cần hướng dẫn học sinh nêu ngắn gọn, súc tích nhưng đủ ý sau đó mời đại
biểu, thầy cô giáo giao lưu với lớp và mời giáo viên tiếp tục tiết học. Giáo viên
không nên viết sẵn cho học sinh lời giới thiệu và cũng không nên mượn chung
bài viết của các lớp trong trường để các em học thuộc , giống nhau theo một
khuôn mẫu mà gợi ý để học sinh tự viết theo ngôn ngữ của các em cho tự nhiên
và sinh động, khai thác được nét riêng, sáng tạo của mỗi em tăng thêm sự phong
phú, đa dạng trong giao tiếp bằng ngôn ngữ nói. Đây là điều quan trọng giúp học
sinh phát triển kỹ năng sống, khả năng trình bày, diễn đạt trước đông người, là
điều kiện tốt để trẻ phát triển khả năng giao tiếp tốt trong thực tế cuộc sống sau
này.
- Hướng dẫn giáo viên sử dụng các Trưởng ban để hỗ trợ thêm cho giờ học.

Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho các ban phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
và khả năng của học sinh. Chẳng hạn, Ban Thư viện phụ trách lấy đồ dùng, sách
vở cho các nhóm hoạt động, Ban Sức khỏe kiểm tra vệ sinh cá nhân hoặc phát
hiện những bạn bị ốm để báo với cô giáo trước khi vào học, Ban Văn nghệ cho
các bạn hát múa, chơi trò chơi khởi động hoặc giải lao giữa tiết học, Ban Học
tập giúp bạn làm bài khó hoặc hỗ trợ nhóm khác tìm hiểu bài học, nhận xét,
9


đánh giá các bạn,... Tuy nhiên, yêu cầu giáo viên không lạm dụng việc sử dụng
các Ban mà phải giành thời gian cho học sinh hoạt dộng và học tập, tuyệt đối
không để học sinh làm thay giáo viên đi kiểm tra quá nhiều hoặc thay giáo viên
giảng giải, nhận xét đánh giá trước lớp.
- Không gian lớp học VNEN được đầu tư trang trí xanh sạch đẹp, thân thiện,
công phu và tốn kém nhiều kinh phí với nhiều bảng biểu, tủ giá, sản phẩm…
được trưng bày trong các Góc và xung quanh lớp học nhưng không chỉ có ý
nghĩa “làm cho đẹp”. Do vậy, cần chỉ dẫn giáo viên biết vận dụng khai thác các
công cụ hỗ trợ đó vào bài học đê tăng thêm sự tác dụng, tính phong phú, hỗ trợ
tốt cho tiết học. Chẳng hạn: Khi bài dạy có nội dung kiến thức Địa lý, có thể vận
dụng cho học sinh liên hệ chỉ vị trí trường học, nhà em ở trên bản đồ cộng động
hoặc bảng Con đường đến trường. Có thể nêu câu hỏi từ nhà đến trường em phải
đi qua con sông hay ngã ba, ngã tư, đường quốc lộ nào… để lưu ý học sinh đảm
bảo an toàn khi đi trên đường và giáo dục an toàn giao thông, vị trí địa lý... Hay,
khi bài dạy có nội dung về sản vật của quê hương thì có thể liên hệ đến Góc
cộng đồng có trưng bày sản phẩm nông nghiệp, làng nghề… của bố mẹ, ông bà
để liên hệ giáo dục tình cảm, hành vi đạo đức biết yêu lao động và trân trọng
những sản phẩm lao động, quí trọng, thương yêu người thân trong gia đình, yêu
quê hương, đất nước, thiên nhiên và con người.

Hình ảnh trang trí lớp học VNEN của trường tiểu học Nga Vịnh, Nga Sơn

1.3. Nâng cao năng lực dạy học thông qua việc thiết kế tốt bài giảng và
chia thời lượng từng tiết học trong mỗi bài một cách phù hợp, linh hoạt và
sáng tạo.
Mô hình VNEN giữ nguyên nội dung, chuẩn kiến thức, kĩ năng và kế hoạch
dạy học theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Như vậy nội dung, yêu
10


cầu, kiến thức kỹ năng và thời lượng học các môn không thay đổi. Bài học mô
hình VNEN được cấu trúc theo một đơn vị kiến thức hoàn chỉnh, nhằm giải
quyết trọn vẹn, liên tục một vấn đề: hình thành, củng cố, vận dụng, ứng dụng
kiến thức vào thực tế. Việc biên soạn SGK (Toán,Tiếng Việt, TN&XH, Khoa
học, Lịch sử và Địa lí) thành Tài liệu Hướng dẫn học (Toán,Tiếng Việt,
TN&XH, Khoa học, Lịch sử và Địa lí) cho học sinh, là tài liệu học của học sinh
và tài liệu dạy của giáo viên. Thông thường, một bài học Toán, TN&XH, Khoa
học, Lịch sử và Địa lí học trong hai tiết, bài học môn Tiếng Việt học trong ba
tiết, các bài kiểm tra bố trí một tiết; với bài học bố trí hai tiết, hết tiết một là hết
hoạt động cơ bản và đã đáp ứng cơ bản mục tiêu của bài học. Tuy nhiên không
bắt buộc mọi tiết học, mọi giáo viên phải thực hiện máy móc điều này. Giáo viên
có quyền bố trí thời gian để học sinh đạt được mục tiêu bài học, nắm được bài.
Mỗi bài học được thiết kế khoảng từ 12 đến 15 hoạt động với các nội dung chính
: Mục tiêu bài học, Hoạt động cơ bản, Hoạt động thực hành, Hoạt động ứng
dụng. Phần hoạt động cơ bản giúp HS học qua trải nghiệm, học qua việc làm
thực tế, học qua tìm tòi, khám phá, phát hiện với sự hỗ trợ, giúp đỡ thích hợp với
GV. Phần Hoạt động thực hành thể hiện các hoạt động thực hành của HS nhằm
củng cố, rèn luyện, phát triển các kiến thức, kĩ năng vừa học. Phần Hoạt động
ứng dụng khuyến khích HS bước đầu biết vận dụng kiến thức trong thực tế cuộc
sống. Nhấn mạnh sự quan tâm, hỗ trợ HS học tập từ phía gia đình và cộng đồng.
Khuyến khích HS mở rộng vốn kiến thức qua các nguồn thông tin khác nhau
(gia đình, cộng đồng, thôn xóm, làng bản, …). Bởi vậy, cần giúp giáo viên biết

cân đối lượng kiến thức trong mỗi tiết học cho hợp lý dự vào mục tiêu và nội
dung bài học, tránh tình trạng việc phân cắt tiết trong mỗi bài không cân xứng,
tiết thì chia nhiều hoạt động, nặng kiến thức, có tiết lại ít hoạt động quá, kiến
thức thì quá đơn giản khiến học sinh nhàm chán, không hoàn thành mục tiêu
bài học. Chẳng hạn: Trong thiết kế tiết dạy minh họa, tôi đã giúp giáo viên
phân chia thời lượng từng tiết trong bài 8: Nước nhà bị chia cắt, Bến Tre đồng
khởi (Lịch sử lớp 5) như sau:
Tiết 1: Giáo viên tổ chức cho Hội đồng tự quản học sinh tổ chức chơi trò chơi
khởi động, sau đó giáo viên dẫn dắt vào bài học. Yêu cầu học sinh chia sẻ Mục
tiêu, chuyển Hoạt động cơ bản (chỉ thực hiện hoạt động 1: Tìm hiểu tình hình
nước ta sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954), cho học sinh xem phim tư liệu sau
đó chuyển Hoạt động thực hành (làm bài tập 1 và chơi trò chơi Rung chuông
vàng).
Tiết 2: Thực hiện 3 hoạt động còn lại của Hoạt động cơ bản, chuyển Hoạt động
thực hành: làm bài tập và chơi trò chơi.
Giúp giáo viên hiểu việc phân cắt tiết như trên đảm bảo yếu tố vừa sức đối với
học sinh. Bài 8 có 2 nội dung rõ ràng, đó là tình hình nước ta khi nước nhà bị
chia cắt và nội dung kiến thức kỹ năng thứ 2 là Phong trào Đồng khởi ở Bến
Tre. Như vậy, mỗi tiết tìm hiểu về một nội dung và số lượng các hoạt động(các
bài tập) của mỗi tiết phục vụ cho nội dung của từng tiết, có ôn lại kiến thức tiết
trước và củng cố toàn bài ở cuối tiết 2(cuối bài). Có giáo viên lúng túng khi
phân cắt tiết nên chia đều số bài tập cho mỗi tiết nên có tiết lại phải tìm hiểu 2
nội dung kiến thức cùng trong một tiết học, tiết thứ 2 chỉ ôn tập lại. Do đó lượng
kiến thức không đồng đều, nặng ở tiết này mà nhẹ ở tiết khác, không phù
11


hợp. Từ cách phân cắt thời lượng này, giáo viên hiểu và rút kinh nghiệm,
áp dụng cho những bài khác được dễ dàng hơn. Chẳng hạn :
Khi dạy bài 19 : Rễ cây- TNXH lớp 3 gồm 2 tiết. Tiết 1 chỉ thực hiện 3 hoạt

động đầu của Hoạt động cơ bản. Từ hoạt động 4 để tiết 2 vì hoạt động này có
yêu cầu thực thành ở nhà và lượng kiến thức tiết 1 thực hiện đến hoạt động 3 là
hợp lý. Nếu thực hiện thêm hoạt động thì hơi nặng kiến thức và tiết sau thời
lượng lại quá nhẹ, không phù hợp. cần làm rõ điếu này để giáo viên nắm vững
và biết cách phân chia thời lượng cho hợp lý.
Khi thiết kể Nội dung điều chỉnh dạy học vào phiếu để phát cho học sinh,
yêu cầu giáo viên không nên sử dụng quá nhiều logo. Việc sử dụng quá nhiều
logo khiến cho học sinh khó hoạt động vì bị rối và nhầm giữa logo của hoạt
động trong bài với logo chỉ các việc cần tiến hành trong mỗi hoạt động. Bởi
vậy, việc chỉ ra việc 1, việc 2,… cho học sinh làm chỉ sử dụng lệnh bằng chữ
để học sinh hoạt động dễ dàng hơn.
1.4. Ứng dụng công nghệ thông tin, tạo bài giảng điện tử nhằm nâng
cao chất lượng dạy học VNEN
Có người cho rằng, dạy học VNEN không cần thiết kế bài giảng điện tử vì
học sinh tự học trong nhóm nên không cần trình chiếu. Quan niệm như thế là
không đúng. Dạy học VNEN cũng như dạy học hiện hành, có những lúc cần
khắc sâu biểu tượng, tạo hứng thú và hấp dẫn giờ học. Bởi vậy, cần hướng dẫn
giáo viên thiết kế đoạn phim tư liệu, video clip hay hình ảnh động, bảng biểu
tóm tắt kiến thức hoặc tư liệu, hoạt động tự nhiên, xã hội và con người, vẻ đẹp
của thiên nhiên, đất nước, di tích lịch sử, văn hóa… để trình chiếu khi khắc chốt
kiến thức, cung cấp tư liệu trong dạy học Lịch sử, Khoa học, Địa lý, Tiếng Việt,
… để khắc sâu biểu tượng, trực quan chính xác mà diễn tả bằng lời không thể
hiện hết được nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Chẳng hạn:
Ví dụ 1 : Khi chỉ đạo giáo viên dạy Lịch sử lớp 5, bài 4: Cách mạng mùa thu
và Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập (tiết 1), yêu cầu giáo viên chuẩn bị một số
hình ảnh, video clip về không khí Hà Nội và cả nước trong ngày Cách mạng
tháng tám và clip Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập để trình chiếu cho học sinh
sau hoạt động 2 và hoạt động 4 của bài nhằm cung cấp thêm tư liệu khắc sâu
thêm hiểu biết của học sinh về tình hình nước ta và sự hồ hởi, tưng bừng náo
nức, sự vui sướng, cảm động của nhân dân cả nước trong những ngày cách

mạng tháng tám, quốc khánh 2.9 và giờ phút thiêng liêng Bác Hồ đọc Tuyên
ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam).

12


Hình ảnh tiết dạy minh họa Lịch sử lớp 5
tại trường tiểu học Nga Vịnh, Nga Sơn
Ví dụ 2: Hoạt động giáo dục Mỹ thuật lớp 2, bài Thường thức mỹ thuật: Xem
tranh dân gian. Yêu cầu giáo viên chuẩn bị một số hình ảnh về tranh dân gian
và tư liệu làng tranh Đông Hồ để trình chiếu giới thiệu cho học sinh vào đầu tiết
học để học sinh quan sát, nhận xét để có hiểu biết thêm về tranh dân gian và
hiểu biết mỹ thuật nhằm phát triển toàn diện.
Trong dạy học các môn khác, tùy theo nội dung của từng bài để vận dụng
trình chiếu tranh ảnh minh học, cảnh đẹp, tư liệu, nội dung kiến thức kỹ năng để
học sinh cảm nhận khi viết văn hoặc cảm thụ văn học, củng cố kiến thức mà
không thể diễn tả hết bằng lời, bằng minh họa.
2. Nâng cao chất lượng dạy học VNEN thông qua việc phát huy hiệu
quả dạy học 2 buổi/ngày. Tổ chức tốt và đa dạng các hoạt động GDNGLL,
Hoạt động tập thể và Hoạt động giáo dục theo chủ đề, hoạt động của các
Câu lạc bộ trong nhà trường để tăng cường bồi dưỡng học sinh giỏi, học
sinh năng khiếu và phụ đạo học sinh yếu, giúp học sinh phát triển toàn
diện.
Để thực hiện mục tiêu giáo dục thì việc tổ chức dạy 2 buổi/ngày ở các
trường tiểu học là một yêu cầu không thể thiếu. Làm thế nào để nâng cao chất
lượng giảng dạy và hoạt động 2 buổi/ngày mà vẫn đảm bảo được phương châm
của giáo dục Tiểu học là "Học nhẹ nhàng - tự nhiên - hứng thú - hiệu quả" ?
Trước yêu cầu trên, thầy, cô, những người làm công tác sư phạm phải hiểu và
phải tìm kiếm những giải pháp giáo dục sao cho phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi

học sinh thông qua các hoạt động vừa học - vừa chơi trong ngày do nhà trường
tổ chức. Đó chính là sự trăn trở không chỉ của các thầy, cô mà còn là của các cấp
quản lý giáo dục, của các bậc phụ huynh và của cả xã hội. Bởi vậy, giáo viên
cần gần gũi, gắn bó với học sinh, thông qua đó để phát hiện năng khiếu cũng
như giúp học sinh bổ sung những kiến thức cơ bản cần thiết. Học sinh học đủ
môn và có chất lượng đối với các môn học bắt buộc, đồng thời được tiếp xúc với
các môn tự chọn (ngoại ngữ , tin học…) , các môn học được phân bổ hợp lý
trong ngày, trong tuần. Dạy học 2 buổi/ngày phải làm sao học sinh học cả ngày
13


mà không thấy mệt mỏi, không thấy rằng chỉ "Học và học", phải làm sao cho
các em vừa học - vừa chơi mà vẫn đạt hiệu quả cao trong việc tiếp thu và vận
dụng kiến thức trong cuộc sống hàng ngày, làm sao để các em không có cảm
giác là hàng ngày các em bị "nhốt" trong 4 bức tường của lớp học. Cơ sở vật
chất cần đảm bảo tốt cho việc dạy và học. Giáo viên phải thực hiện đổi mới
phương pháp giảng dạy để các em không nhàm chán. Muốn vậy, giáo viên phải
biết tổ chức lớp học theo mô hình "lớp học tích cực" và phải biết cá thể hóa học
sinh trong từng tiết dạy, giúp học sinh hoàn thành tốt các bài học ở buổi thứ
nhất, giao bài cho học sinh theo từng đối tượng chứ không phải cả lớp chỉ làm
chung một loại bài. Giáo viên phải tạo điều kiện cho học sinh thảo luận nhóm,
sắm vai, sưu tầm, mạnh dạn tự tin phát biểu, tăng cường trò chơi học tập để các
em không phải ngồi học thụ động dễ gây mệt mỏi. Cần giúp các em bổ sung
những thiếu hụt về kiến thức đồng thời cũng để phát hiện năng khiếu của chính
các em, tăng cường nội dung các môn nghệ thuật, nhằm phát triển năng khiếu
cho học sinh. Các em được học nhạc với mức độ 2. Môn Mĩ thuật , học vẽ theo
mức độ rèn luyện và phát hiện kỹ năng của học sinh. Với tiết hoạt động tập thể,
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động giáo dục theo chủ đề ở lớp 5,
nhà trường cần sắp xếp lồng ghép các hoạt động giao lưu, thi tìm hiểu kiến thức,
hoạt động Đội, Sao nhi đồng, hoạt động ngoại khóa….


Hình ảnh Hoạt động ngoại khóa của trường tiểu học Nga Vịnh, Nga Sơn
nhân dịp 22/12
Qua đó, các em được thoải mái vui chơi có tổ chức, các em còn được hiểu
biết thêm về Đội, rèn luyện kỹ năng sống, những kỹ năng giao tiếp, những kiến
thức về Nghi thức Đội và quan trọng là cường độ học tập giãn ra. Đây cũng
chính là một hoạt động sinh hoạt vui chơi có tổ chức, hỗ trợ rất nhiều cho việc
xây dựng "Môi trường học thân thiện với trẻ" và "Môi trường lớp học tích cực"
theo yêu cầu đổi mới phương pháp "Học mà chơi- Chơi mà học", tạo điều kiện
để giáo viên có thời gian gần gũi , gắn bó với học sinh hơn. Nhà trường phải đổi
mới hình thức, phương pháp tổ chức, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
"dạy cách học” cho học sinh, biết tổ chức đa dạng và phong phú các hoạt động
dạy học và giáo dục để các em luôn thấy rằng "Trường học là ngôi nhà đáng yêu
14


của các em", “Ở nhà là con ngoan, ở trường là trò giỏi” và "Mỗi ngày đến
trường là một ngày vui”…
Việc tổ chức tốt các Câu lạc bộ(CLB) trong nhà trường hỗ trợ tốt cho nâng
cao chất lượng dạy học. Muốn vậy, yêu cầu giáo viên lập kế hoạch hoạt động cụ
thể. Chẳng hạn: Xây dựng thời khóa biểu cụ thể cho các Câu lạc bộ hoạt động:
Thứ hai
CLB Toán

Thứ ba
CLB T.Việt

Thứ tư
CLB T.Anh


Thứ năm
CLB Ng.thuật

Thứ sáu
Sơ kết thi đua

Yêu cầu các CLB tổ chức hoạt động vào đầu buổi học. Chủ nhiệm CLB
điều hành giúp bạn giải bài khó, giúp bạn học yếu làm bài và học bài, đố vui,…
Cuối tuần, giáo viên hỗ trợ các CLB sơ kết, đánh giá thi đua, bình chọn CLB
hoạt động tốt nhất được gắn một bông hoa thành tích vào bảng thi đua và đề
nghị nhà trường tuyên dương. Làm tốt được điều này, nền nếp của các lớp được
duy trì tốt, chất lượng dạy học được nâng cao. Sau đây là hình ảnh tổ chức Sơ
kết thi đua hoạt động của các Câu lạc bộ :

Như vậy, việc phát huy hiệu quả dạy học 2 buổi/ngày, tổ chức tốt hoạt động
GD NGLL, Hoạt động tập thể và Hoạt động giáo dục theo chủ đề, hoạt động của
các Câu lạc bộ trong nhà trường để tăng cường bồi dưỡng học sinh giỏi, học
sinh năng khiếu và phụ đạo học sinh yếu, giúp học sinh phát triển toàn diện và
nâng cao chất lượng dạy học VNEN trong nhà trường.
3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền nâng cao hiểu biết về Mô hình
trường học mới Việt Nam VNEN
Mặc dù Dự án Mô hình trường học mới VNEN đã triển khai thực hiện được
4 năm nhưng không phải ai cũng hiểu sâu về nó. Từ việc nắm vững bản chất của
vấn đề thì mới có cách đi đúng hướng và làm truyên truyền viên giúp người
khác hiểu đúng và ủng hộ cách dạy học theo mô hình này. Bởi thế, tôi đã tổ
chức cho CBGV trong nhà trường viết bài tham luận về sự hiểu biết Mô hình
trường học mới Việt Nam VNEN. Sau đó chọn người có bài viết chất lượng nhất
báo cáo trước toàn trường để đồng nghiệp cùng thảo luận, chia sẻ. sau đó in
15



thành bản tin treo trước cổng ra vào trường để phụ huynh cùng mọi người tham
khảo. Cách làm này có tác dụng nâng cao nhận thức của mọi người về Mô hình
VNEN và được sự ủng hộ rất lớn hỗ trợ nhà trường thực hiện hoạt động của Dự
án tốt hơn và bản thân CBGV dạy học hiệu quả hơn. Việc tổ chức các hoạt động
tuyên truyền được tiến hành ngay từ đầu năm học. Ban giám hiệu nhà trường
tham mưu với Địa phương tổ chức cuộc họp với Thường vụ đảng ủy, HĐND,
UBND và các ban ngành đoàn thể trong xã về lĩnh vực giáo dục. Tại cuộc họp
này, các đại biểu đã được giới thiệu các văn bản chỉ đạo thực hiện Mô hình
trường học mới và kế hoạch tổ chức thực hiện và chất lượng giáo dục của nhà
trường để tranh thủ ý kiến chỉ đạo đồng thời tuyên truyền sâu rộng đến các lực
lượng xã hội và đưa vào chương trình hành động theo từng tháng, từng giai đoạn
để tiếp tục được sự ủng hộ, đầu tư CSVC, trang trí lớp học, hỗ trợ các hoạt động
và kết hợp cùng nhà trường tham gia vào các hoạt động giáo dục. Mỗi thầy cô
giáo trong nhà trường phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh trong việc giáo dục
con cái. Sự kết nối, đồng lòng của nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội thúc
đẩy sự thành công các hoạt động Dự án.
4. Tăng cường kiểm tra, giám sát, giúp đỡ giáo viên dạy tốt Mô hình
VNEN. Phát động các phong trào thi đua, biểu dương người tốt việc tốt, tạo
động lực và không khí vui tươi, phấn khởi để CBGV, HS phấn đấu hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ.
Công tác kiểm tra, giám sát vừa là điều tra xem xét hoạt động sư phạm vừa là
tự kiểm tra, đánh giá các quyết định của người cán bộ quản lý. Chức năng kiểm
tra, giám sát không chỉ tiến tới việc xếp loại, bình bầu mà còn xác định phương
hướng, mục tiêu, đánh giá kết quả giáo dục, điều chỉnh kế hoạch nhằm động
viên, giúp đỡ giáo viên, học sinh nâng cao chất lượng dạy học. Việc kiểm tra,
giám sát là hoạt động bình thường thông qua dự giờ, thăm lớp, qua lắng nghe
giáo viên chia sẻ băn khoăn, vướng mắc…, qua sinh hoạt chuyên môn hoặc
trong tổ chức các hoạt động nhà trường,… được thực hiện thường xuyên theo
từng tuần, từng tháng trong năm học để phát hiện những hạn chế, khó khăn,

những vấn đề giáo viên còn lúng túng. Ngay từ đầu năm học, căn cứ vào tình
hình đặc điểm của nhà trường. Hiệu trưởng ra quyết định thành lập ban kiểm tra
chuyên môn, kiểm tra nội bộ. Lực lượng kiểm tra gồm : Hiệu trưởng là trưởng
ban, phó hiệu trưởng là phó ban, các tổ trưởng chuyên môn, giáo viên giỏi cấp
tỉnh, cấp huyện là thành viên. Hiệu trưởng phân công từng nhóm phụ trách công
tác kiểm tra từng cá nhân, tổ trưởng chuyên môn làm nhóm trưởng có trách
nhiệm tổng hợp ý kiến đánh giá, nhận xét, cũng như tất cả các thông tin thu
được qua kiểm tra. Từ đó, đề ra các giải pháp hỗ trợ giáo viên một cách kịp thời,
giúp giáo viên khắc phục những băn khoăn, vướng mắc, những khó khăn trong
quá trình thực hiện về Tổ chức lớp học, tổ chức các hoạt động học, về công tác
bồi dưỡng chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao hiệu quả
giáo dục, về công tác tham gia của cộng đồng, công tác nghiên cứu, đúc rút và
viết sáng kiến kinh nghiệm và các công tác khác, giúp giáo viên lớp 1 chuẩn bị
cho học sinh làm quen với cách dạy học của Dự án vào thời điểm cuối năm để
làm cơ sở cho học sinh lên lớp 2 học VNEN. Ngoài việc thực hiện kiểm tra,
giám sát để giúp đỡ giáo viên trực tiếp ngay trong nội bộ nhà trường hay học hỏi
16


kinh nghiệm từ các trường bạn, tôi đã kết nối với Tổ tư vấn và Ban quản lý dự
án cấp tỉnh, cấp Trung ương hoặc trao đổi trực tiếp trong Hội thảo, tập huấn để
được tư vấn, chỉ đạo đúng hướng, có hiểu biết sâu sắc hơn vì dạy học VNEN
còn mới mẻ so với chương trình hiện hành.

Hình ảnh các thầy cô trong Ban quản lý DA Trung ương và cấp tỉnh, các
trầy cô trong tổ Tư vấn của Sở GD&ĐT Thanh Hóa và một số đ/c huyện bạn.
Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ năm học và xây dựng nhà trường phát
triển, cần tổ chức phát động các phong trào thi đua theo từng chủ điểm, từng
tháng để CBGVNV và học sinh phấn đấu, tạo không khí thi đua sôi nổi trong
các hoạt động nhà trường. Bên cạnh đó cần tổ chức, triển khai thực hiện tốt việc

học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, biểu dương người tốt việc
tốt theo từng tháng. Bằng lồng ghép trong các tiết học và sinh hoạt ngoại khóa.
Cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, giáo viên, công nhân viên,
học sinh tích cực tham gia các phong trào thi đua do ngành và địa phương phát
động, đặc biệt là phong trào thi đua Hai tốt, phong trào phấn đấu trở thành chiến
sỹ thi đua, giáo viên dạy giỏi, học sinh giỏi các cấp. Tổ chức cho cán bộ giáo
viên nắm vững tiêu chuẩn của các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng
được qui định tại Luật thi đua khen thưởng năm 2005 và Thông tư 12/2012/TTBGDĐT ngày 03/4/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về hướng dẫn
công tác thi đua, khen thưởng ngành giáo dục. Trên cơ sở đó tổ chức cho cán bộ
giáo viên đăng ký thi đua một cách công khai, dân chủ để có hướng phấn đấu.
Nhà trường cùng Liên đội phát động đến tất cả các em học sinh và các lớp thực
hiện tốt các hoạt động thiết thực để chào mừng các ngày lế trong từng tháng và
trong năm. Tổ chức các hội thi, các buổi giao lưu, kể chuyện truyền thống, các
hoạt động ngoại khóa ... và yêu cầu các lớpvà nhà trường tổ chức bình xét
gương người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến để nêu gương trong buổi chào cờ
của tuần cuối mỗi tháng và đề ra kế hoạch phấn đấu cho tháng tiếp theo. Nhà
trường đã tổ chức các hoạt động bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù
17


hợp với lứa tuổi học sinh, mang lại hiệu quả giáo dục sâu sắc. Sau đây là hình
ảnh Hoạt động biểu dương Người tốt Việc tốt của trường tiểu học Nga Vịnh:

IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ
TRƯỜNG.
Sau khi áp dụng các giải pháp đã trình bày trên, tôi thấy giờ học VNEN
đã thực sự cuốn hút học sinh. Các em chủ động tìm tòi và nắm vững kiến thức.
Khả năng giao tiếp và hợp tác tốt hơn. Khả năng điều hành của nhóm trưởng
được nâng cao, hoạt động nhóm được phát huy hiệu quả. Chất lượng giáo dục

của nhà trường được củng cố vững chắc và nâng cao. Cuối năm học 2015-2016
nhà trường được phòng GD&ĐT Nga Sơn xếp loại thi đua thứ 3/29 trong toàn
huyện (cách đây 4 năm xếp thứ 21/29, trước đó xếp thứ 27/29), được đề nghị xét
tặng danh hiệu thi đua Tập thể Lao động Xuất sắc. Số học sinh giỏi năm học
2015-2016 cấp huyện là 34 em, trong đó có 1 giải nhất, 2 giải nhì , 11 giải ba và
17 giải khuyến khích. Học sinh giỏi cấp tỉnh là 2em. Giáo viên đã thực sự đổi
mới phương pháp và dạy tốt Mô hình VNEN, năng lực sư phạm được nâng cao.
Trong Hội thi giáo viên giỏi cấp huyện, nhà trường có 4 giáo viên đăng ký tham
gia, cả 4 đồng chí đều đạt điểm cao, có một đồng chí đạt điểm cao nhất trong số
giáo viên của các trường tham gia dạy học theo Mô hình VNEN. Nhà trường
được phụ huynh tin tưởng, địa phương ủng hộ và hỗ trợ tốt cho nhà trường thực
hiện các hoạt động dạy học và giáo dục học sinh.
Kết quả, khảo sát, đối chứng giờ dạy của giáo viên khối 2, 3, 4,5 như sau:
Tổng số
GV
10

Giờ dạy tốt, vận
dụng sáng tạo hoạt
động Dự án
SL
%
6
60

Giờ dạy khá, biết
Giờ dạy và hoạt
vận dụng hoạt động động Dự án đạt yêu
Dự án
cầu

SL
%
SL
%
4
40
0
40

Kết quả khảo sát chất lượng giáo dục học sinh:
Tổng
số HS

Hoàn thành
Hoàn thành tốt
xuất sắc nhiệm
nhiệm vụ
vụ

Hoàn thành
nhiệm vụ

Chưa hoàn
thành nhiệm vụ
18


150

SL

78

%
52

SL
51

%
34

SL
21

%
14

SL
0

%
0

Kết quả khảo sát Hoạt động của Hội đồng tự quản học sinh, hoạt động nhóm và
khả năng giao tiếp:
Tổng
số HS
150

Khả năng giao

tiếp, điều hành
hoạt động tốt
SL
%
81
54

Khả năng giao
tiếp, điều hành
hoạt động khá
SL
%
39
26

Biết giao tiếp, Chưa biết giao
điều hành
tiếp, điều hành
hoạt động
hoạt động
SL
%
SL
%
30
20
0
0

Từ kết quả trên cho thấy chất lượng dạy của giáo viên và chất lượng học của

học sinh được nâng lên rõ rệt. Đó là minh chứng khẳng định sự thành công trong
việc áp dụng sáng kiến, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Qua thời gian nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng Một số biện pháp chỉ đạo
của Hiệu trưởng, tôi nhận thấy việc dạy học VNEN đã có những thành công nhất
định. Nhận thức, sự đồng thuận, niềm tin về sự thành công của Mô hình trường
học mới tại Việt Nam trong cán bộ giáo viên, học sinh và cộng đồng được nâng
cao. Môi trường lớp học được sắp xếp, bố trí, trưng bày, trang trí đúng quy định,
xanh sạch đẹp, thân thiện, khoa học và hiệu quả. Tổ chức lớp học thực sự là nội
dung, phương pháp, hình thức giáo dục hiệu quả. Học sinh học tập, giao tiếp và
có kỹ năng sống tốt. Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Bản thân rút
ra được bài học kinh nghiệm sau:
- Mỗi cán bộ giáo viên nhiệt tình, năng động, sáng tạo trong vận dụng đổi
mới phương pháp phương pháp dạy học. Không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề.
- Cán bộ quản lý cần cương quyết, linh hoạt trong chỉ đạo. Biết khuyến
khích, động viên kịp thời những cá nhân, tập thể tiêu biểu làm nhân tố thúc đẩy
các hoạt động trong nhà trường. Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học
sinh tổ chức tốt các hoạt động.
- Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, huy động cộng đồng, hội cha mẹ học
sinh và các tổ chức đoàn thể địa phương ủng hộ, đầu tư xây dựng CSVC và hỗ trợ
cho nhà trường tổ chức tốt các hoạt động của Dự án
- Tổ chức tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ CBGV, Sinh hoạt chuyên
môn nâng cao năng lực dạy học NVNEN
-Tăng cường bồi dưỡng cho nhóm trưởng, HĐTQ học sinh, tăng cường kỹ
năng sống cho học sinh.
- Tổ chức tốt các hoạt động giáo dục, tổ chức lớp học hiệu quả, các công cụ hỗ
trợ. Tạo các sân chơi lành mạnh và bổ ích cho học sinh.
- Phát huy hiệu quả dạy học 2 buổi trên ngày và các Câu lạc bộ trong nhà

trường để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh
Với kinh nghiệm trên, bản thân mong rằng đồng nghiệp có thể tham khảo tích
lũy thêm kinh nghiệm để dạy học và quản lý giáo dục đạt hiệu quả hơn. Bản thân
19


tiếp tục học hỏi, tích lũy kinh nghiệm nâng cao trình độ năng lực trong quản lý, chỉ
đạo, đưa nhà trường vững bước trên con đường phát triển.
II. KIẾN NGHỊ
- Các cấp quản lý cần có những nghiên cứu, điều chỉnh để mô hình trường
học mới thực hiện phù hợp và thành công hơn.
- Tiếp tục có sự quan tâm, hỗ trợ từ phụ huynh, cộng đồng và xã hội để
rphats triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước.
- Cán bộ quản lý và giáo viên tiếp tục học hỏi những kinh nghiệm, áp dụng
sáng kiến vào thực tế công tác và đóng góp ý kiến để sáng kiến ngày càng được
hoàn thiện, nhân rộng và phát triển góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Vịnh, ngày 25 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Yên Thị Hạnh

20



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Tập huấn Dự án Mô hình trường học mới Việt Nam VNEN
2. Tài liệu hướng dẫn học khối 2,3,4,5
3. Tài liệu sinh hoạt chuyên môn, tài liệu trường học mới Việt Nam
4. Nghị quyết số 29 về đổi mới căn bản toàn diện Giáo dục đào tạo và Nghị
quyết Đại hội XII Đảng cộng sản Việt Nam .
5. Hệ thống các văn bản chỉ đạo
6. Tài liệu đổi mới haotj động trường tiểu học
7.Một số tài liệu khác có liên quan.

21


TT

MỤC LỤC

Trang

A
I

Mở đầu
Lí do chọn sáng kiến

1
1

II


Mục đích nghiên cứu

1

III

Đối tượng nghiên cứu

1

IV

Phương pháp Nghiên cứu

1

B
I
II

Nội dung SKKN
Cơ sở lí luận
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN

2
2
4

III


Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

6

1

2

3

4

IV
C

Tăng cường năng lực dạy học VNEN thông qua việc tổ
chức tốt bồi dưỡng, tập huấn cấp trường và Sinh hoạt chuyên
môn nhằm bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và nâng cao
năng lực sư phạm cho giáo viên
Nâng cao chất lượng dạy học VNEN thông qua việc phát huy
hiệu quả dạy học 2 buổi/ngày. Tổ chức tốt và đa dạng các
hoạt động GDNGLL, Hoạt động tập thể và hoạt động giáo
dục theo chủ đề, hoạt động của các Câu lạc bộ trong nhà
trường để tăng cường bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh năng
khiếu và phụ đạo học sinh yếu, giúp học sinh phát triển toàn
diện.
Tăng cường hoạt động tuyên truyền nâng cao hiểu biết về
Mô hình trường học mới Việt Nam VNEN
Phát động các phong trào thi đua, thực hiện tốt Chỉ thi số 03
của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 09 của Huyện ủy Nga Sơn

về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, biểu dương người tốt việc tốt theo từng
tháng tạo không khí vui tươi, phấn khởi, tạo động lực để
CBGV và HS phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Kết luận và kiến nghị

6

13

16

16

18
19

22


23


24


25



×