`
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO CỦA HIỆU TRƯỞNG
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
TẠI TRƯỜNG THCS AN MỸ II
BÀI TẬP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
LỚP CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC _ THCS
_SÓC TRĂNG NĂM 2006_
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CỦA HIỆU TRƯỞNG
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
TẠI TRƯỜNG THCS AN MỸ II
Người thực hiện: Nguyễn Phú Được
Phó Hiệu trưởng trường THCS An Mỹ II
NI/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
ghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII), đã định
hướng chiến lược phát triển Giáo dục- Đào tạo trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện
đại hố. Muốn tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố thắng lợi, phải phát triển
mạnh Giáo dục- Đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát
triển mạnh và bền vững.
Với tinh thần cơ bản đó, trong hoạt động Giáo dục- Đào tạo, đội ngũ giáo
viên là nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng Giáo dục- Đào tạo. Dù CSVCtrang thiết bị, các điều kiện phục vụ có đầy đủ đến đâu, mà con người khơng có
năng lực vận dụng, thực thi nhiệm vụ, ngành Giáo dục- Đào tạo vẫn khơng giải
được bài tốn chất lượng dạy và học.
Những năm qua, tình hình đội ngũ giáo viên trong đơn vị chưa đồng bộ về cơ
cấu, yếu kém về chuẩn văn hố, chun mơn nghiệp vụ (Chưa kể đến thực trạng
thiếu giáo viên trầm trọng trong những năm trước đây). Có thể nêu một số ví dụ:
Giáo viên hợp đồng ngắn hạn, hợp đồng công đoạn . . .(Chiếm tỉ lệ lớn), ngoài ra
hệ đào tạo ( 12+3 bồi dưỡng chuẩn hoá) được tiến hành trong một thời gian khá
dài, chất lượng đào tạo các hệ tại chức cũng như tập trung khơng đồng đều, chưa
mang tính thống nhất chung, dẫn đến phân hoá về tay nghề, năng lực giảng dạy của
từng giáo viên. Bởi vậy, việc xây dựng đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao năng lực
chuyên môn, chất lượng dạy và học là nhiệm vụ quan trọng và bức xúc nhất đặt ra
đối với nhà trường phải tập trung giải quyết, định hướng những vấn đề cần làm
trước mắt và kế hoạch phát triển lâu dài trong tương lai.
Từ thực trạng đội ngũ đã nêu trên, nhằm tạo ra sự đồng đều, cân đối về tay
nghề, chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trong tồn trường, cần có một kế
hoạch hết sức tổng thể, chi tiết (Đề ra những giải pháp tình thế cũng như lâu dài),
rút ngắn khoảng cách, độ chênh lệch về kiến thức văn hố, chun mơn và cả nghệ
thuật dạy học của người giáo viên. Nhà trường xem đây là bước đột phá, một
nhiệm vụ trọng tâm trong suốt quá trình quản lý, chỉ đạo mọi hoạt động của đơn vị.
Có thể nói người thầy giỏi về tổ chức dạy- học, vững vàng về nghiệp vụ chuyên
môn, hiểu biết sâu rộng về kiến thức, nắm bắt, cập nhật kịp thời thông tin, tận tụy
với nghề nghiệp, lòng yêu thương học trò,... sẽ quyết định hiệu quả dạy và học.
Những thứ ấy có được hay không ở một giáo viên, phần lớn là do nhận thức, quan
điểm, hành động cụ thể của người quản lý điều hành trong tập thể sư phạm.
Đội ngũ giáo viên có độ chín trong nghiệp vụ sư phạm, chẳng những sẽ giúp
cho chất lượng học tập của học sinh ngày càng nâng cao, mà cịn có tác dụng, ảnh
hưởng tốt trong tập thể, cộng đồng. Uy tín của người thầy, niềm tin của CMHS,
nhân dân sẽ là động lực, sự cổ vũ mạnh mẽ, tạo đà cho quá trình phát triển mạnh,
tồn diện và vững chắc. Từ đó giải quyết được rất nhiều công việc chung, kể cả
nhiệm vụ then chốt XHHGD. Mặt khác, việc tiếp thu nội dung, PPGD, cập nhật
kiến thức, tự học, tự bồi dưỡng sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn. Mỗi một giáo viên giỏi là
chất men chung cho đồng nghiệp, không những giúp họ giải quyết tốt nhiệm vụ
được phân cơng, mà cịn hỗ trợ, giúp đỡ cho bè bạn, đồng nghiệp cùng tiến bộ. Tập
thể giáo viên được đánh giá cao về tay nghề, nghiệp vụ chun mơn, sẽ giúp cho
q trình phấn đấu phát triển không ngừng, được nhà trường tin tưởng ở tay nghề,
từ đó có sự kích thích, hưng phấn cao, thể hiện được tinh thần trách nhiệm trước
nhiệm vụ được phân công, tiếp tục chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, chịu
trách nhiệm, tận tuỵ với nghề nghiệp, hết lịng thương u chăm sóc học sinh. Quản
lý đội ngũ, chỉ đạo chuyên môn sẽ nhẹ nhàng, hiệu quả hơn, tính đồn kết thống
nhất được phát huy mạnh mẽ.
Tóm lại: Xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững
vàng trong nghề nghiệp, sẽ giúp cho đơn vị phát triển nhanh và vững chắc, quyết
định chất lượng dạy và học, tạo được niềm tin của CMHS về việc học hành của con
em mình, cộng đồng cùng chăm lo, xây dựng, hỗ trợ, tạo ra động lực thúc đẩy tiến
trình XHHGD cả bề rộng lẫn chiều sâu.
Những vấn đề nhà trường đả giải quyết trong quá trình xây dựng đội ngũ giáo
viên, cũng khơng thốt ly ngoài những quy định chung của ngành, những chỉ đạo
về chuyên môn nghiệp vụ. Điều đáng lưu ý là: Từ những quy định bắt buộc, những
vấn đề đã định hướng, đơn vị đã biết chọn lọc, tìm cách làm cho phù hợp với đặc
điểm hiện có của đội ngũ giáo viên. Thật ra những nội dung được trình bày sau đây
tuy khơng nổi bật rõ nét, nhưng cũng nói lên những việc làm mang tính trọng tâm,
cơ bản cho tồn đội ngũ giáo viên của nhà trường, đồng thời cũng có việc mạnh
dạn đột phá, đi tắt đón đầu, tạo được sự chấp nhận, đồng tình ủng hộ của giáo viên,
khơi dậy phong trào, khai thác tìm năng sẵn có trong đội ngũ kỹ sư tâm hồn.
II/ NỘI DUNG, BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT:
1/ Quá trình phát triển:
Trong quá trình quản lý, điều hành chỉ đạo chuyên môn, tiếp cận với thực tiễn
nghề nghiệp, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ, tìm ra những mặt mạnh của tập thể,
3
những tồn tại hạn chế. Nhà trường đã có định hướng công việc, thực hiện các biện
pháp để nâng cao chất lượng dạy và học cho từng giáo viên trong đơn vị.
Đánh giá năng lực sư phạm:
Đây là việc có thể xem là khó nhất trong quản lý. Trước đây, để đánh giá
năng lực sư phạm chủ yếu dựa vào kết quả các tiết lên lớp. Có nhiều cách xếp loại
một tiết dạy như: Chia ra nhiều tiêu chí để cho điểm, rồi cộng lại để đánh giá toàn
bộ tiết dạy đó. Tuy nhiên nếu làm theo kiểu này sẽ bộc lộ nhiều hạn chế: không
khách quan, vô tư đối với tay nghề, trình độ nghiệp vụ của giáo viên. Rất khó có
thể cho bao nhiêu điểm khi giáo viên đã thực hiện nội dung tiêu chí đó để phù hợp
với công sức, đồng thời đối với đặc thù của một tiết dạy, mơn học nào đó, mà giáo
viên khơng cần thực hiện một hay nhiều những tiêu chí, nếu cho điểm thì khơng có
căn cứ, trái lại nếu khơng cho điểm thì hụt mất tổng số điểm, khi bài dạy đó khơng
có những tồn tại cần góp ý, rút kinh nghiệm. Có lúc lại vội vàng kết luận đối với
một giáo viên nào đó trong lúc chưa xem xét toàn diện các điều kiện cần thiết: Hệ
thống đào tạo, hình thức đào tạo, trình độ học vấn, thâm niên cơng tác, những thiếu
sót cần được bổ sung, hỗ trợ và cả các điều kiện khách quan khác. Vô hình chung ta
đã làm giảm sút ý chí phấn đấu của giáo viên. Từ đó, tạo ra khơng khí năng nề
trong xây dựng đội ngũ: có sự so sánh với nhau về trình độ nghiệp vụ, thiếu sự tin
cậy trong đánh giá của nhà trường, thậm chí có trường hợp cho rằng đã xúc phạm
đến nghề nghiệp của mình,...
Trên cơ sở đó để đánh giá năng lực sư phạm của một giáo viên, ngoài những
cải tiến của Bộ, hiện nay nhà trường đã tiến hành từng bước phù hợp, thận trọng
hơn. Đối với một giáo viên, khi đánh giá phải xem xét trên nhiều khía cạnh (Đặc
điểm chung và riêng của con người cụ thể). Trong đó điều đầu tiên hiểu được là cái
đang có (Trình độ, kiến thức, phong cách, lý tưởng nghề nghiệp,...), nhưng phải thể
hiện cho được trình độ nắm vững các nội dung, vận dụng các phương pháp bao
gồm: Kiến thức, kỹ năng, thái độ cần hình thành cho học sinh qua tiết dạy, kiến
thức phải rộng để vận dụng các phần trước đó, kiến thức trong đời sống thực tiễn,
nhằm chọn lọc đưa vào nội dung cần truyền đạt đến học sinh. Yêu cầu kiến thức
như vậy, phải tìm tịi suy nghĩ những PPGD thống nhất, có hướng tới cải tiến
PPDH nhằm phát huy hiệu quả, mức độ lĩnh hội kiến thức của học sinh. Ngồi ra
xử lý các tình huống sư phạm một cách linh hoạt, sáng tạo cũng nói lên trình độ,
nghiệp vụ của một giáo viên, nghệ thuật, bản lĩnh đứng lớp cũng không kém phần
quan trọng trong việc đánh giá. Gốc độ tâm lý, điều kiện khách quan cần được chú
trọng, có khi giáo viên giỏi lại dạy một số tiết không đạt là do đâu? người đánh giá
cần hiểu được một cách thấu đáo.
Làm thế nào, giáo viên mới thật sự thấy mình được tơn trọng, nhận rõ những
điều mình cịn thiếu để bổ sung, những kinh nghiệm cần tích luỹ, mới dám bộc
bạch hết những gì cịn thắc mắc, điều chưa nghĩ đến, có khi nhờ chung ta hiến kế
cho quá trình phấn đấu trong nghề nghiệp mà họ đã chọn.
Trong quá trình đánh giá năng lực sư phạm của giáo viên thời gian qua, đã tạo
nên sự chuyển biến tích cực, giáo viên tự tìm đến nhau để học hỏi, bổ sung kiến
4
thức sư phạm, dự giờ lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm các mơn khó, tiết khó. Khơng
đánh giá q cao giáo viên giỏi, đồng thời không hạ thấp giáo viên còn hạn chế về
khả năng sư phạm, nên thấy được ưu điểm của từng giáo viên (dù rất nhỏ), là
phương chấm trong đánh giá của BGH nhà trường. Giáo viên tin tưởng chun
mơn ở bản thân, xem trọng uy tín về chuyên môn của BGH, tất cả đã ra sức phấn
đấu vươn lên trong giảng dạy, tiến bộ nhanh qua từng năm học, mạnh dạn hơn
trong suy nghĩ và cách làm, cùng nhau tháo gỡ khó khăn trong q trình dạy- học,
tính đồn kết nhất trí, thể hiện tâm huyết ngày một rõ nét hơn.
Tham khảo ý kiến của đội ngũ:
Nếu không hiểu được tâm tư, nguyện vọng, những mong muốn của từng giáo
viên sẽ rất khó mang lại thành công, cho dù chúng ta cố sức làm nhiều hơn, mạnh
mẽ hơn nhưng: “Lực bất đồng tâm”, đòi hỏi cần có sức mạnh tổng hợp của tập thể,
mang tính quyết định cho mọi cơng việc.
Có thời gian dài, quan niệm xây dựng đội ngũ cứ dựa trên quan điểm chỉ đạo,
những quy định bắt buộc của ngành để thực hiện, vận dụng một cách cứng nhắc,
rập khuôn cho đơn vị mình, trong khi các thành viên chưa bắt kịp nhịp độ, chưa có
tiếng nói chung. Mặc dù họ khơng phản đối, nhưng tính chấp hành rất gượng ép,
tạo nên một lực cản, sức ì, khó tìm đến con đường phát triển toàn diện. Nhiều giáo
viên trước đây được dự giờ đánh giá, bồi dưỡng,... qua nhiều năm nhưng không hề
chuyển biến về trình độ, chất lượng giảng dạy, hiệu quả công tác, xa rời nhà
trường, đồng nghiệp,... Mặt khác, họ khơng có dịp để bài tỏ ý kiến, đóng góp cho
nhà trường đi lên, một cách thẳng thắn, trung thực.
Nhận thức được vấn đề khá nhạy cảm này, hàng năm nhà trường đã thực hiện
phiếu tham khảo ý kiến về chuyên môn, những biện pháp nâng cao hiệu quả dạyhọc (Phiếu dùng cho giáo viên có ý kiến bằng hình thức trắc nghiệm, khơng cần ghi
tên, tránh sự dè dặt, thiếu mạnh dạn sợ bị trù dập).
Qua từng đợt tham khảo như vậy, nhà trường tổng hợp thông qua HĐSP nhà
trường (Kể cả ý kiến theo hướng tích cực và ý kiến trái ngược), có như thế trong
từng giáo viên mới thấy được từ phân tích, chứng minh của nhà trường và sức
mạnh của tập thể, làm cho suy nghĩ ban đầu thay đổi, tin tưởng vào sự phát triển đi
lên, hơn nữa những thắc mắc về chuyên môn hàng ngày, sau mỗi tiết dạy,... nếu
giáo viên không mạnh dạn góp ý chung, có thể ghi phiếu góp ý hoặc hỏi ý kiến (ở
các đồng chí trẻ, cịn ít năm công tác), được BGH trả lời riêng đến nơi, đến chốn,
giúp cho giáo viên khơng cịn ngờ vực, tin tưởng ở mình.
Thường xun trao đổi cơng việc với nhau, giao tiếp sư phạm,... sẽ là động
lực giúp cho giáo viên hiểu sâu sắc hơn những việc cần làm, cái gì mình có sẽ đóng
góp cho tập thể, đơn vị.
Làm được những vấn đề trên một cách công tâm, mỗi người vì mọi người và
ngược lại, tập thể sẽ phát huy hết tiềm lực hiện có, đem hết cơng sức và nghị lực để
phục vụ, trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ khơng ngừng, đồn kết, giúp đỡ, hỗ trợ
nhau tháo gỡ những vướng mắc trong nghề nghiệp. Thực tiễn chứng minh, trong
thời gian gần đây giáo viên của đơn vị hoàn thành khá tốt mọi quy định, quy chế
5
chun mơn, có ý thức cầu tiến (xin dự giờ đồng nghiệp, xin dạy thử cho tổ dự để
góp thêm ý kiến), hoặc nêu ra những hạn chế để được hướng dẫn thêm, không than
phiền về cường độ làm việc có lúc hết sức căng thẳng, có khi ảnh hưởng đến việc
làm, đời sống, sinh hoạt cá nhân. Tất cả điều mong muốn: Làm tốt và làm tốt hơn
nữa để khẳng định mình cùng với sự phát triển của ngành, của đơn vị.
Tổ chức hội giảng:
Trong lúc thiếu giáo viên trầm trọng, tỉ lệ giáo viên mới, tập sự, hợp đồng,
nhiều hình thức đào tạo, hệ đào tạo,... Nhà trường thật sự lúng túng trong xây dựng
đội ngũ, để có tính thống nhất, đồng bộ về chun mơn, tay nghề, tạo được mặt
bằng chất lượng như nhau. Đây là một vấn đề khó giải quyết. Nhiều năm tn thủ
hình thức dự giờ từng giáo viên rồi góp ý chỉ điều chỉnh, bổ sung, rút kinh nghiệm,
thu hẹp dần khoảng cách, thậm chí nhiều lần khơng phát triển cịn phê bình gay gắt,
nặng nề,...Có lúc gây ra sự bất bình do không thống nhất được những vấn đề chung
(do học tập, tích luỹ được ở diện hẹp, ít người). Ngần ấy thời gian, trình độ chun
mơn, nghiệp vụ của giáo viên nhà trường chỉ dậm chân tại chỗ: đạt, chưa đạt theo
yêu cầu.
Để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa sự phấn đấu, kích thích sự tìm tịi, học hỏi, mở
rộng tầm hiểu biết ở nhiều người. Nhà trường chọn hình thức “ Hội giảng” trong
toàn bộ giáo viên, sử dụng các ngày họp chuyên môn để tổ chức thao giảng theo tổ,
giáo viên cùng dự, hàng tuần có lịch dạy cụ thể, thay đổi môn dạy sau mỗi lần, cứ
thế xoay vòng qua 3 năm thực hiện, mỗi giáo viên dạy từ 2-3 tiết. Sau mỗi buổi hội
giảng, toàn thể HĐSP ngồi lại góp ý chân tình, giúp người dạy bổ sung những hẫng
hụt về nội dung, kiến thức, phương pháp. Đồng thời giúp cho người dự học tập
được những điểm nổi bật ở nhiều giáo viên. Đối với giáo viên mới, tập sự, hợp
đồng, không chú trọng nêu những tồn tại hạn chế, do mới làm quen với nghề dạy
học, mà quan trọng biết phát huy những ưu điểm, những cái mới chấp nhận được,
giúp giáo viên phấn đấu thêm, trao dồi hơn nữa. Cách làm này cũng bổ sung cho
nhau về kinh nghiệm lên lớp, giáo dục học sinh cho lớp giáo viên trẻ, đồng thời
giáo viên dạy nhiều năm cũng tiếp nhận được cái mới mà chưa cập nhật kịp (Do
mang tính rộng khắp, đại trà, khơng chọn lựa), nên tính học hỏi, trao đổi, thống
nhất trong một hay nhiều vấn đề mang ý nghĩa tổng hợp, cụ thể, tồn diện trên
nhiều khía cạnh khác nhau, khi lên lớp sẽ vận dụng thoải mái hơn, xử lý nhanh
nhạy hơn, bản lĩnh vững vàng khơng gị bó, lúng túng.
Có thể nói, mỗi giáo viên của trường hiện nay khơng cịn có sự khác nhau về
trình tự giảng dạy các môn học, xác định nội dung, phương pháp giảng dạy, thực
hiện quy định, quy chế chuyên môn khá chuẩn xác. Điều đáng quan tâm hiện nay,
đang tiếp tục làm, để sao mỗi giáo viên đều vận dụng tốt được PPGD mới, theo
hướng tích cực, nâng cao chất lượng học tập cho các em, phù hợp với trình độ tiếp
thu của các em ở nơng thơn, nghiên cứu, tìm hiểu những điều các em cần để truyền
đạt, chứ không khô cứng thể hiện những gì thầy có.
Tổ chức chun đề sinh hoạt chuyên môn:
6
Hàng năm, việc tổ chức chuyên đề để bồi dưỡng, bổ sung, tháo gỡ cho giáo
viên những vấn đề mới, khó, chưa hiểu rõ, là cơng việc thường xun của ngành
giáo dục. Ngoài các chuyên đề chung được triển khai sâu rộng, thống nhất trong
ngành. Trường cần định hướng các chun đề khác có tính thiết thực, phục vụ được
theo yêu cầu của đại bộ phận giáo viên trường mình. Tương tự như thế, sinh hoạt
chuyên môn tổ khối cũng khơng nằm ngồi mục đích nâng dần chất lượng dạyhọc, phát huy tốt hơn khả năng sư phạm của mỗi giáo viên. Trong thực tế khi tiếp
cận, tìm hiểu cách làm của nhiều đơn vị (Trong huyện và cả ngoài huyện), vấn đề
này còn nhiều điều đáng suy nghĩ (kể cả trong nhận thức, quản lý, chỉ đạo), đây
không phải là mới, nhưng có lúc, có nơi cịn “ Bỏ ngõ” bế tắt khơng tìm ra cách
giải quyết. Mặc dù đã được chỉ đạo, hướng dẫn, quy định cả trong điều lệ trường
Trung học. Nhưng suy cho cùng để tìm được cách thực hiện có hiệu quả nhất, thành
cơng trong điều kiện đội ngũ như hiện nay quả là nan giải, tất cả cịn ở phía trước.
Thơng lệ, cứ vào năm học, khi lập kế hoạch thì nhà trường đề ra chỉ tiêu là
bao nhiêu chuyên đề, tên gì, ở tổ nào, thời gian thực hiện, chứ chưa có điều tra nắm
lại khả năng sư phạm của đội ngũ giáo viên trong năm học, có khi khơng cần tính
tốn, hễ năm nay chun đề mơn học này, thì năm tới sẽ làm mơn khác, khơng tính
đến sự cần thiết đối với giáo viên. Lúc mở chuyên đề chỉ lo xây dựng cho hồn
chỉnh và cứ đó mà truyền tải đến cả tập thể, với một mơ hình, khn mẫu tiết dạy
định sẵn. Như thế, đồng nghĩa với việc không cần trao đổi, không đặt vấn đề nào
mới, tranh luận để giải quyết những nội dung chưa thống nhất, tính học hỏi, trao
đổi chun mơn, tích luỹ kinh nghiệm sẽ bộc lộ nhiều nhược điểm. Mỗi tuần tổ
chuyên môn sinh hoạt một lần hay một tháng hai lần để hợp thức hoá theo quy
định, chỉ đạo của trên. Khi tham gia sinh hoạt cùng tổ hoặc đọc nghị quyết phiên
họp tổ, điều thường thấy là những nội dung mang tính hành chính, kiểm điểm cơng
việc, thơng báo tình hình, phương hướng sắp tới. Đặc trưng chuyên môn, trao đổi
tháo gỡ những vướng mắc về nghề nghiệp,...ít khi nghe được, thấy được. Đó là
chưa kể những phiên họp khơng quy định nội dung, thời gian (Giáo viên nói gì
cũng ghi vào, hết ý kiến là kết thúc).
Có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan là: ai cũng biết, ai
cũng dạy được cần chi mở chuyên đề bồi dưỡng, trao dồi sinh hoạt chuyên môn,
trong khi đội ngũ rất hiếm giáo viên khá- giỏi về nghiệp vụ. Vai trò quản lý cũng
mờ nhạt không kiểm tra, theo dõi, chưa thấy được cái khó của từng giáo viên, từng
tổ để giúp đỡ, định hướng.
Nhận thức rõ thực trạng của vấn đề, nhà trường đã có nhiều cải tiến trong sinh
hoạt chuyên môn, chuyên đề bồi dưỡng sẽ tổ chức thường xuyên, đơn giảng. Có
giáo viên cùng tổ chưa hiểu rõ vấn đề gì? khó ở tiết nào? mơn nào? cử ra một giáo
viên dạy (mỗi giáo viên trong tổ đều được phân cơng dạy), đối tượng dự chỉ tập
trung nhóm giáo viên cùng tổ, liệu tổ có thể tiếp cận, vận dụng được, tiết kiệm
được thời gian, công sức, giáo viên dạy sẽ soạn kỹ tiết dạy đó rồi lên lớp. Sau tiết
dạy, cùng nhau đặt ra vấn đề, chọn lọc cách làm hay, nếu còn chưa thống nhất
được, BGH quyết định cho tổ thực hiện.
7
Trước phiên họp chuyên môn, BGH gợi ý những nội dung cần trao đổi trong
phiên họp của từng tổ cụ thể (không cùng một nội dung cho tất cả các tổ), tổ trưởng
sẽ được góp ý soạn thảo nội dung thông qua ý kiến duyệt của nhà trường. BGH
phân công dự họp cùng tổ, cùng đặt ra những yêu cầu bức xúc để mang tính thiết
thực khả thi.
Qua cách làm như vậy, các chuyên đề bồi dưỡng cũng như buổi họp chuyên
môn, đã phát huy tác dụng rõ nét. Mỗi giáo viên tự thấy mình sẽ làm được, tự tin,
mạnh dạn hơn cùng đồng nghiệp của mình, bổ sung cho cá nhân những điều đang
cần và mong mỗi. Từ đó chun đề khơng cịn hình dung là vấn đề lớn: Có thể tổ
chức bất kỳ lúc nào, ai chịu trách nhiệm, kinh phí tổ chức,....Tựu chung là sẽ vươn
tới sự thống nhất, bình thường hố cái khó, phức tạp.
Từng thành viên trong tổ sẽ có nghiên cứu trước nội dung sinh hoạt do tổ
trưởng thông báo, thể hiện được trách nhiệm, thái độ nghiêm túc, chủ động trong
tranh luận, lắng nghe, khơng tự mãn với kiến thức đã được tích luỹ trong q trình
dạy- học. Phấn khởi khi khơng thấy một tổ nào khi dự họp mà khơng có trong tay
tự điển, tài liệu, cả điều lệ, thông tư, quy chế,...do trường cung cấp. Để thống nhất
một cách chính xác, khoa học những công việc liện quan đến dạy- học sắp tới. Thời
gian họp được đảm bảo, thậm chí có khi quá thời gian mà chưa hết nội dung.
Chứng tỏ sinh hoạt chun mơn đã có chuyển biến tốt.
Chấm chọn giáo viên giỏi (Cấp trường):
Khi tay nghề, trình độ chuyên môn của giáo viên được nâng lên qua từng
năm, nhà trường đã mạnh dạn tổ chức thi đua, chấm cơng nhận giáo viên giỏi cấp
trường, nhằm mục đích kích thích sự phấn đấu vươn lên của tập thể giáo viên như
thế mới khơng uổng phí cơng sức, thời gian xây dựng và phát triển đội ngũ. Từ
năm học: 2003-2004 đến nay dù nhiều vấn đề khó đặt ra: Tiêu chuẩn, nội dung
chấm chọn, kinh phí khen thưởng, cơng nhận danh hiệu, quyền lợi giáo viên,...
khơng nãn chí, với mong muốn dài thêm danh sách giáo viên giỏi, thu hẹp đáng kể
diện đạt và CĐYC. Có đội ngũ giáo viên giỏi sẽ tạo nên lực hút, là lực lượng nồng
cốt trong các phong trào, những nhân tố tích cực trong hoạt động chuyên môn, tấm
gương để giáo viên cùng học tập.
Hàng năm trường tổ chức chấm chọn hai đợt: Giáo viên đăng ký dạy giỏi, nhà
trường thành lập tổ chấm, ấn định thời gian, môn học,... thống nhất các nội dung,
tiêu chuẩn chấm, nếu giáo viên đạt giáo viên giỏi, trường ra quyết định công nhận
kèm theo tiền thưởng 50.000đ/GV, (trích từ quỹ cơng đồn và quỹ HP-XD). Phong
trào được duy trì liên tục qua nhiều năm, dần dần mở rộng đối tượng, làm thay đổi
suy nghĩ, giáo viên chưa đạt, tìm tịi, học hỏi, tự hồn thiện khả năng, rồi phấn đấu
trở thành giáo viên giỏi.
Mặc dù ngành có hướng dẫn, tổ chức chấm chọn giáo viên giỏi cấp huyện,
tỉnh. Nhà trường đã tạo được bước đột phá, tạo tiền đề cho giáo viên mạnh dạn
đăng ký, có bản lĩnh vững vàng khi thực hiện công việc xem ra còn rất mới mẻ và
bở ngỡ này.
8
Qua nhiều năm kiên trì thực hiện, đến nay quá trình xây dựng đội ngũ đã
mang lại kết quả bước đầu rất quan trọng.
Mỗi giáo viên trong nhà trường: từ đó giáo viên mới vào nghề đến giáo viên
thâm niên giảng dạy, đều nắm được nội dung, kiến thức cần truyền đạt cho học
sinh. Xác định được yêu cầu, mức độ, nội dung cần hình thành, vận dụng phương
pháp có linh hoạt hơn, hợp lý với mơn học (nhìn chung năng lực sư phạm được
nâng cao rõ nét). Quy định, quy chế chun mơn được thực hiện tốt hơn, chính xác,
kịp thời, đảm bảo được các yêu cầu cần thiết đặt ra như: soạn giảng, đánh giá- xếp
loại học sinh, chấm bài, ghi điểm, chủ nhiệm lớp,... Kết quả giảng dạy trên lớp có
nhiều tiến bộ vượt bậc, khơng cịn giáo viên yếu về tay nghề chuyên môn. Từ chỗ
không xác định được yêu cầu nội dung bài dạy, không hiểu được tác dụng của
nhiều loại thư pháp giảng dạy sẽ thực hiện trên lớp, ngay cả chưa thạo về trình tự
một tiết học cụ thể,...Hiện nay, giáo viên đứng lớp vững vàng, ở hầu hết các tiết,
các môn học.
+ Năm học: 2003-2004: Có 1/24 giáo viên đạt danh hiệu “GVG tỉnh”; 5/24
giáo viên đạt danh hiệu “GV giỏi cấp cơ sở”; 15/24 giáo viên đạt danh hiệu “Lao
động giỏi”;
+ Năm học: 2004-2005: Tiếp tục có 01 GV đạt danh hiệu GVG tỉnh và 8/23
giáo viên đạt danh hiệu “GV giỏi cấp cơ sở”; 10/23 giáo viên được được công nhận
danh hiệu “Lao động giỏi”
+ Học kỳ I năm học 2005-2006: Trường cơng nhận 12/25 GV đạt danh hiệu
“GVG vịng trường” đưa đi dự thi GVG cấp cơ sở.
BẢNG THỐNG KÊ QUA 3 CHU KỲ THANH TRA
(XẾP LOẠI GIÁO VIÊN)
Năm học
TS
GV
2003-2004
24
2004-2005
23
2005-2006
25
Tốt
SL
00
00
4
1
3
5
Khá
TL
SL
00
TL
ĐYC
SL
TL
CĐYC
SL
2
4
0
1
0
0
GV tập sự HĐ
TL
+ Mỗi chu kỳ trong bảng thống kê do: TTV, TTV- KN PGD xếp loại (dòng
trên) và nhà trường kiểm tra xếp loại (dòng dưới).
Với số liệu trên cho thấy tay nghề , năng lực sư phạm của giáo viên có hướng
phát triển nhanh và vững chắc.
9
BẢNG THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
(THEO CHU KỲ)
Năm học
Giỏi
TSHS
SL
2003-2004
2004-2005
2005-2006
TL
Khá
SL
TB
TL
SL
Yếu
TL
SL
TL
TL LB cả
năm
TNTHCS
98%
100%
Chất lượng học tập của học sinh có chuyển biến rõ nét qua 3 chu kỳ thanh tra.
Khi đội ngũ giáo viên được nâng cao về tay nghề, nghiệp vụ chun mơn, thì chất
lượng dạy và học tập đạt kết quả tốt. Điều đó chứng minh rằng, việc xây dựng đội
ngũ giáo viên đủ sức đáp ứng yếu cầu mới của sự phát triển giáo dục sẽ quyết định
cho chất lượng dạy và học.
Từ những suy nghĩ cách làm đồng bộ đã được thực hiện trong thực tiễn xây
dựng đội ngũ giáo viên, nâng cao hiệu quả dạy- học của nhà trường, cho thấy vai
trò của CBQL là hết sức quan trọng, mang tính quyết định cho sự phát triển đi lên
của tập thể sư phạm. Đánh giá đúng đắn năng lực sư phạm của giáo viên, giúp nhà
trường đề ra những biện pháp sát hợp, về phía giáo viên ý thức nghề nghiệp hàng
ngày, hàng giờ thay đổi, họ cùng phấn đấu để được đánh giá cao hơn, tiến bộ hơn,
thành công trong nghề nghiệp. Tìm hiểu các yếu tố tâm lý như: Nhu cầu, tâm trạng,
động cơ, sự hứng thú,... Người quản lý tự hiểu rằng mình phải làm gì với tập thể,
với từng đối tượng riêng biệt. Cần thiết có cách nhìn tồn diện để định ra hướng đi
thích hợp, những đột phá mạnh mẽ nhưng khơng vượt ra ngồi những quy định
chung. Sự phát triển đi lên của mỗi giáo viên không thể tách rời với quá trình bồi
dưỡng, rèn luyện và cả vấn đề tác nghiệp từ phía các nhà quản lý giáo dục. Tin
tưởng vào ý thức trách nhiệm, chuyên mơn nghiệp vụ của giáo viên sẽ là sự kích
cầu cần thiết, đúng đắn. Bố trí, phân cơng, sử dụng đội ngũ một cách hợp lý, hài
hoà, đúng sở trường phù hợp năng lực, nghệ thuật quản lý đó rất cần cho sự thành
công của người CBQL. Khi đội ngũ đã được xây dựng, nâng lên tầm cao mới, đòi
hỏi người CBQL phải có thái độ khoa học, uy tính chuyên môn cao hơn nữa, lý
luận thực tiễn, minh chứng chính xác, tạo được lịng tin u của giáo viên với nhà
trường, với nghề nghiệp, với khoa học và chính lương tâm mình.
2/ Kiểm nghiệm:
Rõ ràng việc xây dựng đội ngũ giáo viên như thế đòi hỏi cao ở sự: Cơng tâm,
thận trọng, quyết đốn, sáng tạo, cả những tham vọng đối với phát triển giáo dục.
Tính kiên trì chịu khó, nghiên cứu thực tiễn,... Là những điều kiện để giải quyết
được vấn đề. Nếu trước dây có nhiều giáo viên yếu kém cả về thực hiện nhiệm vụ
giảng dạy và tay nghề nghiệp vụ chun mơn, tinh thần đồn kết, tiến bộ chưa được
xem trọng, tính cầu tồn, đối phó, chiếu lệ là phổ biến nhất của đội ngũ giáo viên:
Khơng ham thích danh hiệu, ý thức nghề nghiệp cịn hạn chế, vi phạm quy chế, quy
định chun mơn thường xuyên, bảo thủ ý kiến cá nhân, thiếu quan điểm tiến bộ,...
Từ đó, hiệu quả dạy- học, xây dựng kỷ cương nền nếp trong ngành, nâng cao ý thức
trách nhiệm của người dạy học có nhiều mặt hạn chế, thiếu sót trong một thời gian
dài, niềm tin của CMHS, nhân dân đồi vời nhà trường giảm sút.
10
Từ khi có những biện pháp khắc phục, tồn thể giáo viên đã thể hiện được
phẩm chất, năng lực tốt để làm và yêu nghề dạy học, nâng cao trình độ tay nghề,
khả năng sư phạm để hoàn thành nhiệm vụ phân cơng, chính đội ngũ giáo viên đã
góp phần quan trọng nhất vào sự phát triển đi lên của nhà trường. Gắn bó với cộng
đồng, nhân dân tin yêu, ngưỡng mộ, khen ngợi tinh thần trách nhiệm của thầy cô
giáo, tôn vinh nghề nghiệp, là nền tảng vững chắc để thực hiện công tác XHHGD
trong thời gian tới.
Mặc dù đây là cách làm của mỗi cá nhân quản lý, chưa phải là SKKN, nhưng
có thể áp dụng cho tập thể, đơn vị còn bộc lộ nhiều yếu kém trong hoạt động
chuyên môn, hiệu quả giảng dạy và học tập chưa cao, nội bộ mất đồn kết, thiếu ý
chí phấn đấu, cịn hồi nghi, thiếu tin tưởng ở cung cách quản lý của đơn vị. Ngồi
ra có thể tham khảo áp dụng cho những giáo viên mới, ít năm cơng tác trong nghề,
giúp họ hoàn thiện nhanh hơn, vững vàng hơn.
Tuy nhiên, trong việc xây dựng đội ngũ giáo viên bằng những biện pháp trên,
vẫn cịn có những tồn tại rất khó giải quyết: Trình độ đào tạo khác nhau, chương
trình đào tạo ở trường sư phạm chưa đồng bộ, nên có vấn đề vẫn đang tranh luận,
chưa thống nhất được (nhất là lý luận), sự phân hố về trình độ, kiến thức của giáo
viên công tác nhiều năm với lực lượng trẻ được cập nhật kịp thời những hiểu biết
mới (Cần bổ sung cho nhau kinh nghiệm dạy học với kiến thức thực tiễn, khoa học
cần áp dụng).
Bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng đội ngũ giáo viên:
+ CBQL phải gương mẫu, có uy tín cao về chuyên môn, giỏi nghiệp vụ sư
phạm, am hiểu thực tiễn.
+ Học tập nghiên cứu để chặt chẽ trong lý luận, thống trong giải quyết cơng
việc chun mơn do giáo viên địi hỏi, u cầu.
+ Nắm bắt, chọn lọc thơng tin, xác định công việc trọng tâm cần làm để phát
huy sức mạnh của tập thể giáo viên.
+ Tổng hợp ý kiến trong tập thể, được tập thể thống nhất, sẽ quyết định cho
mọi sự thành công, phát triển đơn vị.
+ Tin tưởng, tôn trọng ở từng giáo viên, giúp họ vươn lên, thàng công trong
mọi lĩnh vực công tác.
+ Có những giải pháp tình thế cũng như lâu dài, mục tiêu cơ bản, đánh giá
đúng thực trạng, khai thác hết những tìm năng hiện có, nhằm khắc phục, phát huy
hiệu quả, tạo ra sự phát triển liên tục, ổn định, vững chắc.
III/ KẾT LUẬN:
+ Xây dựng đội ngũ giáo viên tốt về phẩm chất đạo đức, giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ, hiểu biết sâu rộng các kiến thức nghề nghiệp, xã hội,... Là một q trình
khó khăn, đồng thời cũng là lĩnh vực nhạy cảm, đòi hỏi người quản lý, chỉ đạo phải
có biện pháp đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo trong từng thời điểm. Kiên trì thực hiện
khơng vội vàng nhưng cũng không buông lỏng, nguyên tắc nhưng đầy tính nghệ
thuật trong quản lý. Chăm chút, ni dưỡng những nhân tố tích cực, nhân tố mới để
tập hợp, khơi dậy đội ngũ. Thể hiện nhất quán sự công tâm, toàn tâm và quyết tâm,
11
hãy ln quan niệm rằng: Có thầy giỏi thì mới có trị giỏi. Khơng ai khác hơn đội
ngũ chúng ta sẽ thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng và nhân dân giao phó “ Dạy
tốt- Học tốt” với sự nghiệp trăm năm trồng người.
+ Đội ngũ giáo viên hiện nay có nhiều điều kiện để tiến xa hơn nữa trong
tương lai khi đất nước tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, xây dựng nước Việt
Nam trở thành nước cơng nghiệp vào năm 2020. Ngồi việc chúng ta đã đang thực
hiện, cần phải tiến hành mạnh mẽ hơn đào tạo chuẩn, trên chuẩn để mỗi giáo viên
không những là người đứng lớp đơn thuần theo chương trình, sách hiện có, mà cịn
say mê nghiên cứu khoa học, hiến kế cho chuyên môn, quản lý, đào tạo thế hệ trẻ
phát triển một cách toàn diện, trang bị CSVC, thiết bị hiện đại để cải tiến nhanh nội
dung, PPGD. Mặt khác cần cải tiến chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ với người
giỏi phải trở thành một điểm quan trọng trong chiến lược đào tạo. Trường sư phạm
ngồi giáo trình đào tạo, phải nghiên cứu thực tiễn các ngành, bậc học, những nhu
cầu cần thiết để tạo ra lực lượng giáo viên “thạo nghề” ngay khi bước chân lên bụt
giảng.
Trên cơ sở những việc đã làm, hướng tới sẽ nâng cao hơn nữa sự cống hiến
của cá nhân gắn với q trình đào tạo, từng bước đi vào chun mơn hoá để nâng
cao chất lượng học tập cho học sinh.
Thực hiện tháng 4 năm 2006
12
13