Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN tiếng việt: Một số biện pháp sửa lỗi viết câu cho học sinh lớp 5A trường Tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.3 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

A . MỞ ĐẦU

1

I. Lí do chọn đề tài

1-2

II. Mục đích nghên cứu

2

III. Đối tượng nghiên cứu

3

IV. Phương pháp nghiên cứu

3

1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.

3

2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.


3

3. Phương pháp điều tra.

3

4. Phương pháp đàm thoại.

3

5. Phương pháp quan sát.

3

6. Phương pháp thực nghiệm.

3

7. Phương pháp tổ chức trò chơi.

3

8. Xử lí thông tin bằng phương pháp thống kê

3

B. NỘI DUNG

4


I. Cơ sở lí luận

4

II. Thực trạng

5-8

III. Các biện pháp thực hiện

9-16

IV. Kiểm nghiệm
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. Kết luận
II. ý kiến đề xuất
TÀI LIỆU THAM KHẢO

17
18
18
19-20
21

1


A. MỞ ĐẦU
I.Lí do chọn đề tài
Để đáp ứng được mục tiêu đào tạo của nhà trường xã hội chủ nghĩa nói

chung và các trường Tiểu học nói riêng là đào tạo những con người phát triển toàn
diện. Bậc Tiểu học là bậc học quan trọng nhất, nó là nền móng đầu tiên cho sự phát
triển toàn diện ấy. Do vậy nền móng tri thức và nhóm nhân cách con người được
vững chắc hay không chính là nhờ vào sự kiên cố của nền móng đó. Về mặt tâm lí
ở cấp bậc tiểu học này, trẻ bắt đấu tiếp xúc với việc học tập. Hoạt động của chúng
được chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Tâm hồn trong trắng
của các em bắt đầu tiếp xúc với công việc mới mẻ và có thể nói cấp tiểu học sẽ viết
những nét đầu tiên trên nền nhân cách trẻ.
Trong các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng Việt giữ một trong những vị trí
quan trọng nhất. Với nhiệm vụ là trang bị cho học sinh những tri thức về hệ thống
Tiếng Việt chuẩn mực, rèn luyện cho học sinh những kĩ năng sử dụng thành thạo
Tiếng Việt trong hoạt động tư duy và giao tiếp. Để học sinh có được điều đó trước
hết phải giúp học sinh biết cách sắp xếp các từ ngữ thành câu văn hoàn chỉnh. Đó là
công việc giúp học sinh viết được câu văn đúng về ngữ pháp hay đúng về mặt nội
dung là một việc làm cấp thiết hơn bao giờ hết trong việc dạy Tiếng Việt. Đối với
Tiếng Việt, câu chính là tế bào đầu tiên giúp các em đạt hiệu quả cao trong quá
trình tư duy và giao tiếp, hay nói cách khác quá trình tư duy và giao tiếp của con
người chỉ đầy đủ và trọn vẹn đạt hiệu quả cao khi được cung cấp ngữ pháp đầy đủ
về câu.
Cùng với các môn học khác, môn Tiếng Việt lớp 5 có vị trí đặc biệt quan
trọng ở bậc Tiểu học. Môn Tiếng Việt lớp 5 lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định
hướng cơ bản để hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng
Việt ( nghe, nói đọc, viết), để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động
của lứa tuổi.
Để học tốt, học sinh cần phải biết cách diễn đạt- nói, viết phải thành câu thì
người đọc, người nghe mới hiểu được, Vì thế, ở mỗi môn học, đặc biệt là môn
Tiếng Việt, trọng tâm là phân môn Luyện từ và câu đã rèn cho học sinh thực hành
viết câu sao cho đúng cấu tạo ngữ pháp, đủ ý, trọn nghĩa, hợp lô gíc.
Để viết được câu, đoạn văn hoặc bài văn cần có cách dùng từ, đặt câu sinh
động. Việc nhận ra lỗi câu mình viết sai để đặt câu đúng và hay sẽ giúp cho các em

2


tự tin hơn trong giao tiếp. Đồng thời, nó tạo điều kiện để học sinh phát huy hết khả
năng ngôn ngữ vốn có của mình, giúp các em tham gia lĩnh hội kiến thức, rèn tư
duy và giáo dục tính thẩm mĩ; giúp các em học tập tốt trong những cấp học trên.
Việc dạy học sinh sử dụng “ câu” để học tập và giao tiếp trong nhà trường
Tiểu học hiện nay, bên cạnh những thành công còn nhiều hạn chế. Hơn thế nữa,
việc hướng dẫn học sinh đặt câu, xác định thành phần câu, chữa câu sai trong quá
trình dạy học là một việc làm còn nhiều nan giải. Là giáo viên Tiểu học cũng đã
nhiều năm dạy lớp 5, tôi nhận thấy: Số học sinh sử dụng câu đúng trong thực hành
nói, viết văn bản là rất ít. Khả năng nhận thức và sử dụng Tiếng Việt của nhiều học
sinh còn hạn chế. Phần lớn học sinh đặt câu không đúng về cấu tạo ngữ pháp, sai về
trật tự, giáo viên cũng còn xem nhẹ việc dạy câu cũng như cách hướng dẫn học sinh
sửa sai khi dùng câu chưa đúng - đặc biệt là ở các môn ít tiết. Vì thế, nếu giáo viên
không tổ chức tốt quá trình dạy học thì học sinh không đặt được câu đúng ngữ pháp
và sinh động để diễn đạt một vấn đề, viết một đoạn văn hợp nghĩa, đúng lô gíc...Do
đó, việc làm sao để hướng dẫn học sinh (đặc biệt là học sinh yếu) rèn kĩ năng sử
dụng câu đúng, biết cách nhận biết lỗi câu và cách sửa là điều trăn trở của nhiều
giáo viên Tiểu học nói chung và với bản thân tôi nói riêng.
Xuất phát từ mục tiêu trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: :“Một số biện pháp
sửa lỗi viết câu cho học sinh lớp 5A trường Tiểu học Nga Nhân”.
II. Mục đích nghiên cứu:
“Một số biện pháp sửa lỗi viết câu cho học sinh lớp 5A trường Tiểu học
Nga Nhân” nhằm đạt được những mục đích sau: Giúp học sinh lớp 5A thấy được
nguyên nhân dẫn đến câu sai, từ đó giúp các em sửa chữa để có những câu văn hay,
giàu hình ảnh, hướng các em biết vận dụng phần ngữ pháp vào việc đặt câu. Giúp
học sinh biết trình bày một vấn đề trọn vẹn về ý, khả năng diễn đạt mạch lạc, lưu
loát trước tập thể. Bên cạnh đó giúp các em thực hiện được yêu cầu, nhiệm vụ của
bộ môn, là công cụ để tạo đà cho học sinh nhận thức tốt các môn học khác cũng

như quá trình tư duy và giao tiếp hàng ngày. Đây là cơ sở để giáo dục lòng yêu quý
tôn trọng Tiếng việt trong các em, ý thức giữ gìn, mở rộng sự phong phú trong sáng
của Tiếng việt ngôn ngữ mẹ đẻ của dân tộc. Ngoài ra việc nghiên cứu này còn giúp
tôi việc bồi dưỡng tay nghề, củng cố thêm vốn tri thức, hành trang sư phạm cho bản
thân để vững bước trên con đường sự nghiệp.
3


III. Đối tượng nghiên cứu:
1.Địa điểm: Khối lớp 5 TrườngTiểu học Nga Nhân - huyện Nga Sơn - tỉnh
Thanh Hóa.
2. Phạm vi :
*Giới hạn đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp sửa lỗi viết câu cho học sinh
lớp 5A trường Tiểu học Nga Nhân”
* Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Trường Tiểu học Nga Nhân - Huyện Nga SơnThanh Hóa.
*Giới hạn khách thể khảo sát : Học sinh khối lớp 5 trường Tiểu học Nga Nhân Huyện Nga Sơn-Thanh Hóa. Tìm hiểu về việc viết câu và cách sửa lỗi viết câu cho
học sinh lớp 5A trường tiểu học Nga Nhân.
- Về thực trạng viết câu của học sinh lớp 5
- Một số lỗi khi viết câu và đề ra một số biện pháp sửa lỗi câu cho học sinh lớp
5A do tôi trực tiếp giảng dạy tại trường Tiểu học Nga Nhân.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Khi nghiên cứu phương pháp này tôi
đã nghiên cứu các tài liệu, giáo trình có liên quan như: SGK Tiếng Việt lớp 5, SGV
T.Việt lớp 5, đổi mới PPDH Tiếng Việt, các tài liệu có liên quan về T. Việt.
.Bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh mô hình hoá để rút ra những vấn
đề lí luận có tính định hướng làm cơ sở để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:Nghiên cứu điều tra thực tiễn qua dự
giờ, phiếu điều tra, qua phỏng vấn học sinh và giáo viên để làm nền cho quá trình
nghiên cứu, đề ra những giải pháp mang tính khả thi nhất.
3. Phương pháp điều tra: Thông qua việc trao đổi bàn bạc với giáo viên, với

phụ huynh học sinh và học sinh nhằm nắm bắt thu thập tài liệu, các thông tin về
tình hình thực tế có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Tìm hiểu thực trạng về những
lỗi câu học sinh thường mắc phải, từ đó phát hiện các vấn đề cần nghiên cứu và
chuẩn bị cho các bước nghiên cứu tiếp theo.
4. Phương pháp đàm thoại: Trao đổi với chị em đồng nghiệp về những
thuận lợi, khó khăn trong dạy học và cách sử dụng phương pháp hiện nay.
5. Phương pháp quan sát: Thông qua các tiết dự giờ, thao giảng trên lớp có
thể quan sát trực tiếp tình hình học tập của học sinh trong một tiết học qua đó biết
được khả năng tiếp thu bài, nắm bắt kiến thức qua bài làm của học sinh. Bên cạnh
đó học hỏi đồng nghiệp và chỉ ra những hạn chế trong giảng dạy của giáo viên.
6. Phương pháp thực nghiệm: Để kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của
các bài đã thiết kế qua các bài điều chỉnh cho hợp lí nhằm đạt kết quả cao trong dạy
và học cũng như trong sửa lỗi câu cho học sinh.
7. Phương pháp tổ chức trò chơi: Thông qua hình thức trò chơi đánh giá
được kết quả học tập của học sinh một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn
8. Xử lí tài liệu bằng PP thống kê.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận:
4


Ngôn ngữ dưới dạng viết giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh viết đúng câu và đủ câu là hết
sức cần thiết. Nhiệm đó phần lớn phụ thuộc vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt
chung phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Vấn đề đặt ra là người giáo viên phải
dạy như thế nào để đạt hiệu quả như mong muốn. Vậy nên khi giảng dạy GV cần
tích cực đổi mới PPDH cho phù hợp với đặc điểm nhận thức của lứa tuổi học sinh
để có tác động tích cực đến quá trình lĩnh hội tri thức của trẻ. Tri giác của học sinh
lớp 5 thường gắn với hoạt động. Về tư duy thì tư duy trực quan bằng hành động.
Do vậy GV thường xuyên có biện pháp kích thích HS học tập như: khen ngợi, động

viên...tạo hứng thú cho HS ghi nhớ các kĩ năng, từ đó giúp HS tiếp thu tri thức,
hiểu bài, khắc sâu, nhớ lâu kiến thức bài học.
Như chúng ta đã biết môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Luyện từ và câu
nói riêng là môn khoa học về ngôn từ. Nó cung cấp cho học sinh những kiến thức
cơ bản của Tiếng Việt, tạo cơ sở cho học sinh trau dồi và phát triển ngôn ngữ, rèn
luyện cho học sinh những kỹ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ. Từ đó, tạo cho các em có
điều kiện cảm nhận tốt văn chương và tiếp thu tri thức nhân loại nói chung.
Ở trường tiểu học, phân môn Luyện từ và câu được dạy với tư cách là một
phân môn độc lập. Hệ thống từ ngữ cung cấp cho học sinh chủ yếu là những từ ngữ
thông dụng, tối thiểu và thế giới xung quanh như công việc của học sinh ở nhà, ở
trường, tình cảm gia đình, vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người , cộng
đồng…mở rộng vốn từ theo chủ điểm, chủ đề. Đồng thời cung cấp cho học sinh
những hiểu biết về câu, các kiểu câu, thành phần câu, kĩ năng dùng từ đặt câu…
Nói đến “câu”, trước hết ta biết: Câu là một đoạn lời, diến đạt một ý trọn
vẹn, là cấp độ nhỏ nhất của đơn vị giao tiếp bằng ngôn ngữ ( sau đoạn và văn bản).
Về hình thức, câu ứng với một kiểu cấu tạo nhất định. Trên chữ viết, câu được mở
đầu bằng một chữ viết hoa và kết thúc bằng một dấu chấm câu. Câu được học sinh
tiếp nhận qua từng giờ học.
Như vậy, dạy Luyện từ và câu cũng như dạy các môn học khác, giáo viên
cũng cần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá các hoạt động của
học sinh. Lấy cơ sở của mỗi hoạt động là những việc làm của học sinh dưới sự
hướng dẫn gợi mở của thầy giáo, cô giáo. Nghĩa là trong giờ học, giáo viên cần lưu
ý đến các hình thức tổ chức dạy hấp dẫn phù hợp với nội dung bài và phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh nhằm phát huy tính độc lập, tự giác của học
sinh, giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách vui vẻ, nhẹ nhàng và hiệu quả. Trong
giờ học các em phải được tham gia luyện tập thực hành nhiều và bộc lộ năng lực
của bản thân, làm sao tiết Luyện từ và câu thực sự là một tiết "học luyện từ và
câu".
II.Thực trạng dạy- học của giáo viên và học sinh lớp 5A trường Tiểu học
Nga Nhân.

5


1.Giáo viên:
Ưu điểm: GV đã nắm được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp một
cách cơ bản, việc sử dụng đồ dùng tương đối có hiệu quả. Sự chỉ đạo chuyên
môn của phòng giáo dục, BGH, Tổ chuyên môn có vai trò tích cực giúp GV đi
đúng nội dung, chương trình phân môn Luyện từ và câu. - Bản thân tôi đã nhiều
năm liền dạy lớp 5, ít nhiều cũng đúc rút được chút kinh nghiệm trong giảng
dạy. Qua hội thi văn hoá được huyện tổ chức hàng năm đã khuấy động nên
phong trào văn hoá văn nghệ cho giáo viên và HS các trường tham gia một cách
tích cực. Bản thân tôi luôn có ý thức rèn cho các em cách diễn đạt trong giao
tiếp thông qua các cuộc thi: thi kể chuyện, các giờ sinh hoạt tập thể... Nhiều năm
nay, ở trường Tiểu học Nga Nhân, chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu nói
chung và cách sửa lỗi viết câu nói riêng đã được nâng lên. Bởi dưới sự chỉ đạo của
Ban giám hiệu nhà trường, đội ngũ giáo viên đã đổi mới phương pháp giảng dạy đó
là phát huy tính tích cực tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập.
Đa số giáo viên đều tận tâm trong giảng dạy, chăm lo đến chất lượng học sinh,
song vẫn còn một bộ phận giáo viên coi nhẹ tầm quan trọng của việc sửa lỗi viết
câu. Qua dự giờ đồng nghiệp ở trường và qua việc trao đổi với giáo viên trực tiếp
giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy có nhiều vấn đề hạn chế về phía giáo viên như sau:
Tồn tại: Trong thực tế, việc sửa lỗi câu cho học sinh ở bậc Tiểu học nói
chung và ở lớp 5 nói riêng: bên cạnh nhiều cố gắng nỗ lực của giáo viên nhằm
nâng cao chất lượng viết đúng câu thì vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự
coi trọng việc sửa lỗi câu. Tình trạng này vẫn tồn tại, thiết nghĩ do sự nhận thức
của một bộ phận giáo viên còn hạn chế cứ dạy viết câu là cho HS viết vào vở là
xong, còn viết câu như thế nào, có đúng câu, đủ các bộ phận trong câu hay
không thì chưa thực sự chú ý đến. Do vậy mà hiện tượng học sinh viết câu, nói
câu không đúng, thiếu các thành phần trong câu ( thiếu chủ ngữ hoặc thiếu vị
ngữ ) còn phổ biến. Mục tiêu chính trong giảng dạy môn Tiếng việt lớp 5 nói

chung và trong môn Luỵên từ và câu nói riêng là sau khi học hết chương trình
lớp 5, học sinh cần đạt một trong những yêu cầu cơ bản: Viết đúng và viết đầu
đủ các bộ phận trong câu. Nên việc rèn cho học sinh kĩ năng viết đúng, đủ các
bộ phận của câu đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, nhẫn nại. Bên cạnh những
ưu điểm thì việc dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5 nói chung và việc sửa
lỗi viết câu cho học sinh còn nhiều hạn chế. Cụ thể như sau: Giáo viên đều cho rằng
việc dạy phân môn Luyện từ và câu nói chung và việc sửa lỗi viết câu cho học sinh
nói riêng là nội dung khó dạy. Khi lên lớp, giáo viên phải chuẩn bị công phu, yêu cầu
đòi hỏi huy động kiến thức nhiều. Hầu hết, giáo viên quen dạy với cách dạy truyền
thống. Nhiều giáo viên rất khó khăn trong đổi mới phương pháp dạy. Giáo viên quen
dạy theo kiểu thầy làm mẫu, trò chép và học thuộc hoặc giáo viên hướng dẫn chung
chung để học sinh tự mày mò, phương pháp dạy học đơn điệu thiếu sáng tạo, khả
năng vận dụng tích hợp các kiến thức của các phân môn khác trong Tiếng Việt còn
6


hạn chế. Các cách dạy trên của giáo viên đều dẫn đến học sinh không biết làm bài,
ngại học Luyện từ và câu.
Nhiều giáo viên chưa đánh giá đúng mức vị trí của môn Tiếng Việt đặc biệt là
phân môn Luyện từ và câu trong chương trình Tiểu học. Nguyên nhân dẫn đến
những hạn chế trong việc dạy học về cách sửa lỗi viết câu một phần là do trình độ,
năng lực sư phạm của giáo viên, có thể chính giáo viên cũng thiếu những tri thức
khoa học, thiếu vốn sống thực tế. Việc đầu tư nghiên cứu về nội dung, phương
pháp dạy học chưa được chú trọng; việc xác định mục tiêu bài dạy chưa trọng tâm
dẫn đến học sinh không tích cực trong giờ học. Trong mỗi tiết dạy, giáo viên cho
các em xác định yêu cầu bài tập sau đó cho học sinh làm mẫu và các em làm tương
tự các trường hợp còn lại. Sau khi hoàn thành bài tập, giáo viên chưa chú trọng
khắc sâu về kiến thức chủ yếu của bài học gì.
Để tìm hiểu về thực trạng của việc dạy sửa lỗi viết câu tôi đã tiến hành một số
biện pháp thăm dò, tìm hiểu, dự giờ đồng nghiệp dạy lớp 5.

Tiến hành dự giờ 2 tiết Luyện từ và câu lớp 5.Năm học:2014-2015
*Đ/c: Hoàng Kim Hoa - GV dạy lớp 5B với bài Tuần 13 - Tiết 2 “Luyện tập
về quan hệ từ”
Bài tập 2: Hãy chuyển mỗi cập câu trong đoạn a hoặc đoạn b dưới đây thành
một câu sử dụng các cặp quan hệ từ vì...nên... hoặc chẳng những...mà...
Giáo viên tiến hành như sau:
Giáo viên cho học sinh xác định yêu cầu bài tập. Sau đó cho học sinh làm bài
rồi nêu kết quả. Cuối cùng giáo viên chốt kết quả.
Những tồn tại giáo viên chưa làm được: Giáo viên chưa củng cố chắc chắn về
tác dụng của quan hệ từ và vì sao lại sử dụng cặp quan hệ từ đó...
*Đ/c: Mai Thị Len - GV dạy lớp 5A với bài Tuần 17 - Tiết 2 “Ôn tập về câu”
Bài tập 2: Phân loại các kiểu câu kể. Xác định các thành phần của từng câu.
Tồn tại: Ở tiết này, giáo viên cũng tiến hành như trên. Giáo viên chưa cho
học sinh phân tích để thấy rõ vì sao lại phân loại, xác định thành phần câu như vậy.
Đồng thời, giáo viên chưa có câu hỏi gợi mở cũng như chưa khắc sâu về từng kiểu
câu, từng thành phần câu.Theo tôi giáo viên dạy như thế là chưa được.
2. Học sinh:
Do đặc điểm tình hình của địa phương là vùng nông thôn, tình hình của lớp
và đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi HS nên trình độ nhận thức học sinh không đồng
đều, còn nhiều hạn chế. Vì phải đi làm ăn xa nên một số phụ huynh không có điều
kiện quan tâm đến việc học của con cái, làm ảnh hưởng đến việc dạy- học của cả
thầy và trò. Các em tiếp thu bài thụ động, máy móc, chưa có thói quen phân tích đề.
7


- Một số học sinh chưa biết cách sử dụng câu đúng:
Do ảnh hưởng của phương ngữ, học sinh nói thế nào thì sẽ viết câu thế đó.
Nga Nhân là một xã vùng nông thôn nên việc đọc, viết của học sinh mang nặng
phương ngữ. Nhiều học sinh nói không chuẩn phổ thông nên trong câu thường
dùng tiếng địa phương, làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng học tập.

- Trong quá trình học phân môn LTVC việc nhận diện câu và sửa lỗi viết
câu chưa đúng cũng là một yếu tố quan trọng dẫn đến kết quả chưa đạt yêu cầu.
Do khả năng nhận thức của học sinh, nhiều học sinh không nhận diện được
lỗi câu và cách sửa. Một số học sinh khác vốn Tiếng Việt và khả năng sử dụng
Tiếng Việt trong giao tiếp còn hạn chế; nội dung câu trùng lặp; dùng từ sai với
hoàn cảnh giao tiếp.
Để nắm bắt được thực trạng của học sinh lớp 5 về việc sửa lỗi viết câu, tôi đã
tiến hành kiểm tra, khảo sát chất lượng học sinh của lớp 5A năm học 2015 - 2016.
Kết quả thu được như sau:
Lớp

Số HS

5A

30

HTT

HT

Chưa HT

SL

TL

SL

TL


SL

TL

8

26,66
%

12

40%

10

33,34%

Qua kết quả khảo sát trên, tôi nhận thấy số học sinh Hoàn thành tốt còn thấp, số
học sinh chưa hoàn thành còn cao.
Tôi tiến hành phân tích kết quả bài làm của học sinh và nhận thấy:
*Một là: Các em chưa hiểu một cách sâu sắc , cặn kẽ các thành phần chính
trong câu, chưa nắm được đâu là chủ ngữ, đâu là vị ngữ. Do vậy các em còn nhầm
sang thành phần phụ của câu, dẫn đến việc viết câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ hoặc có
khi thiếu cả chủ và vị ngữ.
Ví dụ: Các em viết : “ Sáng nay chữa bài tập Tiếng Việt” và cho rằng đây là
một câu vì có đủ hai bộ phận chủ và vị ngữ ở trong câu. để tìm chủ ngữ của câu
trên các em đặt câu hỏi “ bao giờ chữa bài tập Tiếng Việt” và các em được câu trả
lời “ sáng nay”nên “ sáng nay” là chủ ngữ. Để tìm được bộ phận vị ngữ cách đặt
câu hỏi “ sáng nay làm gì” được câu trả lời là “Chữa bài tập Tiếng Việt” vậy “chữa

bài tập Tiếng Việt là vị ngữ”.
Câu các em viết ra như trường hợp trên là sai, hay nói cách khác là chưa đủ
câu vì còn thiếu bộ phận chủ ngữ. Nguyên nhân dẫn đến việc sai sót này là do học
sinh chưa nắm chắc được kiến thức về câu. Do vậy khi đọc bài làm của các em có
những câu thiếu bộ phận chủ ngữ khiến người đọc rất khó hiểu em đang diễn đạt
8


điều gì. Hơn nữa các em sử dụng những câu thiếu chủ ngữ trong giao tiếp với
người lớn tuổi sẽ trở thành thiếu lễ độ.
*Hai là: đối với các thành phần phụ trong câu các em còn mơ hồ về cách cấu
tạo, vị trí và nhiệm vụ của các thành phần phụ trong câu. Do vậy khi vận dụng kiến
thức về phần này để đặt câu hỏi có những thành phần phụ các em thường nhầm lẫn
hoặc chưa biết cách đặt câu có các thành phần phụ.
Ví dụ: các em viết: “Cô giáo chữa bài”.
Câu này cũng là một câu vì nó có đủ cả hai bộ phận chính, chủ ngữ là “cô
giáo” , vị ngữ là “chữa bài” và nếu ta thêm thành phận phụ vào câu và được viết là:
“Sáng nay cô giáo chữa bài tập Tiếng Việt” . Câu này sẽ hay hơn và ý nghĩa hơn
câu cũ vì thành phần phụ “sáng nay” bổ sung ý nghĩa cho cả khối chủ - vị, nó thông
báo cho ta biết cô giáo chữa bài tập vào sáng nay ( chứ không phải chiều nay ).
“ Bài tập” bổ sung ý nghĩa cho động từ “chữa” nó cho biết đối tượng của
hoạt động là gì “ chữa bài tập chứ không phải chữa bàn ghế”.
“Tiếng Việt” bổ sung ý nghĩa cho bài tập nó cho biết đây là bài tập gì “Bài
tập Tiếng Việt chứ không phải là bài tập Toán”.
*Ba là : Khi viết bài các em chưa biết cách sắp xếp cho phù hợp dẫn đến bài
văn diễn đạt lủng củng, cách lập luận còn yếu, lúng túng, chưa thoát ý và dẫn đến
câu sai. Đây có lẽ là nguyên nhân chính gây ra lỗi câu sai rất nhiều ở các em.Trong
giờ Luyện từ và câu, giáo viên mới chú trọng đến việc chấm lỗi về câu, nhưng
trong các môn học khác việc kiểm tra bài giáo viên gần như không để ý đến điều
này

+ Nhiều học sinh chưa có kĩ năng sử dụng dấu câu..
+ Nhiều học sinh chưa có biết cách nhận diện câu và sửa lỗi viết câu.
Số học sinh sử dụng câu sai với nhiều dạng lỗi khác nhau là tương đối nhiều:
- Học sinh viết sai về cấu tạo ngữ pháp như: Câu thiếu thành phần chủ ngữ,
vị ngữ hoặc cả chủ ngữ, vị ngữ; câu thừa thành phần; câu sắp xếp sai vị trí các từ,
không hợp lô gíc, không hợp với ý muốn nói trong câu.
- Câu sai nghĩa: Câu sai hoặc không rõ nghĩa; câu sai do chủ ngữ, vị ngữ
không tương hợp về nghĩa; câu có trạng ngữ và nòng cốt câu không tương hợp.
- Biết cách đặt câu đúng nhưng chưa hay, ý chưa sinh động.
Qua quá trình dạy, điều tra, khảo sát, tôi nhận thấy học sinh thường mắc lỗi
và các nguyên nhân như tôi đã nêu trên.
Vậy, làm sao để khắc phục được những nguyên nhân cơ bản nêu trên nhằm
khắc phục các lỗi viết câu để giúp các em đặt câu đúng và hay, phục vụ cho việc
học tập, giao tiếp của học sinh đạt kết quả tốt bản thân tôi luôn trăn trở, suy nghĩ và
9


tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu, học hỏi ở một số đồng nghiệp có kinh nghiệm cùng
với một số kinh nghiệm của bản thân, tôi đã tìm ra các biện pháp cải tiến khi dạy
học sinh lớp 5 về sửa lỗi viết câu ở năm học 2015 – 2016. Cách làm này nhằm nâng
cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu nói chung và cách sửa lỗi viết
câu nói riêng cho học sinh là rất cần thiết.
III . Các biện pháp thực hiện:
Từ việc điều tra tìm hiểu nguyên nhân dẫn đễn lỗi viết câu của học sinh lớp 5
tôi đề ra một số giải pháp sau:
Biện pháp thứ 1: Giúp học sinh nắm vững kiến thức về câu và các thành
phần cấu tạo câu.
Ta thấy rằng chỉ khi thực sự nắm chắc về kiến thức học sinh mới có thể viết
được những câu đúng, chính xác vậy làm thế nào đẻ học sinh đạt được điều này.
Trước hết người giáo viên phải nhiệt tình truyền đạt những kiến thức trong

mọi giờ dạy ngữ pháp. Giáo viên luôn tìm ra những phương pháp giảng dạy thật dẽ
hiểu giúp các em tiếp thu một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Ngoài ra cần có những
câu hỏi gợi mở nhằm kích thích óc tò mò, tư duy của các em. Sau mỗi bài dạy có
liên quan đến việc viết câu của các em. Người giáo viên luôn củng cố tổng kết khái
quát để hướng các em vào việc sử dụng câu trong giao tiếp hàng ngày.
Một việc làm có tác dụng rất lớn cho biện pháp này là cho các em tiếp xúc
với các kiểu câu khác nhau. Các em tự tìm các bộ phận, cấu tạo, chức năng và
nhiệm vụ của các bộ phận đó trong câu. Ví dụ: Tìm các bộ phận, cấu tạo, chức
năng của câu sau:
Bọn bất lương ấy// không chỉ ăn cắp tay lái / mà chúng// còn lấy luôn cả bàn đạp.
C

V

C

V

Khi học sinh nêu ý kiến, giáo viên nhấn mạnh: Vì sao em lại xác định “Bọn bất
lương ấy” và “ chúng” là chủ ngữ ?
Biện pháp thứ 2: Rèn một số kĩ năng giúp học sinh sử dụng câu đúng.
- Kỹ năng đọc: Trong tất cả các giờ học, giáo viên phải luôn luôn chú trọng
rèn đọc cho học sinh ( đọc văn bản bài tập đọc, đọc yêu cầu, nội dung bài tập...),
đọc đúng chuẩn chính âm, khắc phục tiếng địa phương, hiểu nội dung vừa đọc...
Đây là một trong những kỹ năng giúp học sinh bước đầu học tập cách viết câu đúng
ngữ pháp.
- Kỹ năng nói: Nói phải đủ ý, trọn câu thì người nghe mới hiểu được. Vì thế,
trong quá trình học tập, giáo viên cần rèn cho học sinh nói rõ ràng, mạch lạc, nói
thành câu. Trên cơ sở học sinh nói tốt sẽ giúp cho việc thực hành viết câu tốt hơn.
- Kỹ năng viết: Một kỹ năng quan trọng trong thực hành đặt câu. Việc rèn

cách viết câu cần được chú trọng nhiều ở phân môn Luyện từ và câu. Trong mỗi
10


giờ học, giáo viên phải hướng dẫn kĩ cho học sinh về cấu trúc câu, dùng từ, đặt câu
cho đúng ngữ pháp, hợp nghĩa; cách sắp xếp câu thành đoạn văn cho hợp lô gíc
( viết đoạn văn).
Để rèn kỹ năng trên, trước hết giáo viên phải là người làm gương cho học
sinh noi theo. Trong các giờ học cũng như hoạt động ngoại khóa, giáo viên phải nói
lưu loát, rõ ràng, chuẩn tiếng phổ thông, nói thành câu, rõ ý để học sinh học tập.
Giáo viên phải có hành văn tốt, có kiến thức Tiếng Việt rộng để hướng dẫn học
sinh đặt được những câu đúng, sinh động; sửa những câu văn cụt, câu tối nghĩa
thành câu đúng ngữ pháp và hay về nghĩa.
Biện pháp thứ 3: Giúp học sinh nhận diện câu và sửa lỗi viết câu.
1. Hướng dẫn học sinh nhận diện câu Tiếng Việt.
Việc hướng dẫn học sinh kĩ năng nhận diện, phân biệt đâu là câu, đâu chưa
phải là câu và vì sao nó chưa là câu là rất cần thiết. Thực tế cho thấy, khi nhận diện
cũng như khi đặt câu, học sinh hay nhầm lẫn một số thành phần câu ( trạng ngữ,
ngữ danh từ...) được phát triển dài là câu. Do đó, về phương pháp, để giảm bớt độ
khó của bài tập khi thực hành cho học sinh ( đặc biệt là học sinh trung bình và học
sinh yếu), giáo viên nên để hai đoạn lời thoại nhìn có vẻ như nhau nhưng thực chất
một bên là câu, một bên chưa phải là câu ở cạnh nhau trong thế đối lập để học sinh
dễ phát hiện ra những điểm khác nhau.
Ví dụ: Mỗi dòng sau đây là câu hay chưa?
a, Mặt nước loang loáng như gương.
b, Trên mặt nước loang loáng như gương
c, Những cô bé ngày nào nay đã trở thành.
d, Những cô bé ngày nào nay đã trưởng thành.
Gv tiến hành hướng dẫn: Gv hướng dẫn học sinh năm vững yêu cầu bài tập.
- Gv củng cố về khái niệm câu “ Câu có nội dung thông báo hoàn chỉnh và có kết

cấu nồng cốt câu: CN – VN”.
- Hs xác định thành phần CN- Vn trong câu:
a, Mặt nước /loang loáng như gương.
CN

VN

d, Những cô bé ngày nào nay/ đã trưởng thành.
CN

VN

b, Trên mặt nước loang loáng như gương ( trạng ngữ chỉ nơi chốn)
c, Những cô bé ngày nào nay đã trở thành ( sử dụng từ chưa đúng “ trở thành”)
11


Vậy yêu cầu cơ bản khi viết câu là nội dung phải hợp lí về mặt logic và ngữ
nghĩa. Câu phải có nghìa , vì có nghĩa ta mới hiểu được nội dung thông báo.Cấu
trúc cú pháp của câu phải phù hợp với quy tắc Tiếng Việt: câu phải đủ nồng cốt là
một chỉnh thể độc lập. Câu có hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ.
* Chủ ngữ nêu tên sự vật, hiện tượng có hành động, đặc điểm, trạng thái ...
được miêu tả ở vị ngữ. Chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ. Ví dụ: Con bò đang
gặm cỏ CN VN Chủ ngữ thường do danh từ đảm nhiệm, nhưng cũng có thể do
động từ, tính từ đảm nhiệm. Chủ ngữ có thể được cấu tạo từ một từ hoặc một cụm
từ.
* Vị ngữ chỉ ra hành động, trạng thái, tính chất, quan hệ của sự vật, hiện tượng
nêu ở chủ ngữ. Vị ngữ thường đứng sau chủ ngữ, do động từ, tính từ (cụm động từ,
tính từ) hoặc do các từ, cụm từ khác đảm nhiệm.
* Giữa chủ ngữ và vị ngữ phải đảm bảo quan hệ hợp lí, chặt chẽ. Thường thì

trong câu chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau. Chỉ trong những trường hợp hạn
hữu, trong câu mới có hiện tượng đảo trật tự giữa chủ ngữ và vị ngữ. Khi muốn
nhấn mạnh ý, làm cho câu có tính gợi hình, gợi cảm người ta đảo vị trí của vị ngữ
lên đầu câu.
2. Nhận dạng các lỗi câu sai về cấu tạo ngữ pháp và cách sửa.
Như chúng ta đã biết, câu đúng về cấu tạo ngữ pháp là câu có đủ thành phần
câu ( đặc biệt là hai thành phần chính chủ ngữ và vị ngữ), không thừa hay thiếu
thành phần câu, câu phải rõ nghĩa, hợp lô gíc... Thực tế dạy học cho thấy, học sinh
đặt câu sai về cấu tạo ngữ pháp với rất nhiều dạng khác nhau. Nếu giáo viên không
giúp học sinh (đặc biệt là học sinh yếu) phân biệt các dạng lỗi viết câu thì các em
rất khó nhận ra lỗi trong câu và cách sửa. Vì vậy, giáo viên cần từng bước hướng
dẫn học sinh phân biệt lỗi câu mình viết sai, ghi nhớ các dạng lỗi và cách sửa để đặt
được câu đúng ngữ pháp.
Cụ thể về một số lỗi viết câu không đúng cấu tạo ngữ pháp thường thấy ở
học sinh như sau:
2.1 Câu thiếu thành phần chủ ngữ, vị ngữ hoặc cả chủ ngữ, vị ngữ.
Với học sinh, đặc biệt là học sinh trung bình và học sinh yếu thường hay mắc
phải lỗi trên trong quá trình thực hành. Với những lỗi đó, giáo viên nên ghi lên
bảng bên cạnh đó là một, hai câu đúng (câu của học sinh khá, giỏi trong lớp) để
giúp học sinh phân tích, so sánh câu đúng với câu sai, từ đó thấy được lỗi sai rồi
sửa lại cho đúng. Giáo viên theo dõi, gợi ý cách sửa cho đúng và hay hơn.
Ví dụ 1: Học sinh viết: Trong truyện “Thạch Sanh” cho ta thấy cái thiện bao
giờ cũng thắng cái ác”.
Ví dụ 2: Cái mũ mà bà tặng em.
Ví dụ 3: Khi những hạt mưa đầu xuân nhè nhẹ rơi trên lá non.
12


*Bước 1: Yêu cầu học sinh đọc lại câu trên và xác định thành phần câu.
*Bước 2: Nêu cách sửa.

- Với Ví dụ 1, học sinh đã nhầm lẫn: “ Trong truyện Thạch Sanh” là chủ ngữ giáo viên lưu ý học sinh: Từ “ trong” kết hợp với “truyệnThạch Sanh” tạo ra trạng
ngữ của câu. Vì thế câu này là câu thiếu chủ ngữ.
Cách sửa: Bỏ từ “ trong”: “Truyện “Thạch Sanh” cho ta thấy cái thiện bao
giờ cũng thắng cái ác”.hoặc thêm chủ ngữ “ tác giả” trước từ “cho”: “Trong
truyện “Thạch Sanh” tác giả cho ta thấy cái thiện bao giờ cũng thắng cái ác”.
- Với Ví dụ 2, học sinh đã nhầm lẫn: “mà bà tặng em” là vị ngữ. Giáo viên
hướng dẫn: Đối tượng nói trong câu là gì? ( cái mũ). “ Cái mũ” thế nào?
( mới? cũ?). Từ đó giúp học sinh nhận thấy “mà bà tặng em” không phải là vị ngữ
mà là bộ phận phụ bổ nghĩa cho “Cái mũ”. Do đó, câu trên mới chỉ có danh từ làm
chủ ngữ mà chưa có vị ngữ.
Cách sửa: Thêm vị ngữ cho câu, chẳng hạn: thêm vị ngữ “vẫn còn mới
tinh” vào sau từ “em”: Cái mũ mà bà tặng em vẫn còn mới tinh..
- Với Ví dụ 3: Yêu cầu học sinh phân tích để thấy: Sau danh từ chỉ thời gian
(khi, lúc...) bao giờ cũng là bộ phận phụ định ngữ. Học sinh dễ nhầm lẫn định ngữ
được phát triển dài nên đã là câu.
Cách sửa:
Cách 1: Bỏ từ “ khi”: Những hạt mưa đầu xuân nhè nhẹ rơi trên lá non.
Cách 2: Thêm hai thành phần chính chủ ngữ và vị ngữ vào sau trạng ngữ,
chẳng hạn: Khi những hạt mưa đầu xuân nhè nhẹ rơi trên lá non, cây cối trong
vườn lại thêm sức sống.
2.2. Câu thừa thành phần hoặc không xác định được thành phần.
Ví dụ: Cái thước đối với em là đồ dùng học tập của em.
Lúc này, tôi giúp học sinh phân tích câu trên để thấy rõ trong câu từ được
lặp lại “em”. Câu có thành phần câu lặp lại một cách không cần thiết nên có thể bỏ
bộ phận thừa “đối với em” để trở thành câu đúng:
“ Cái thước là đồ dùng học tập của em”.
“Cái thước đối với em là đồ dùng học tập cần thiết”
Hoặc có học sinh viết câu: “Tôi lưỡng lự rất muốn đi chơi lâu cùng bố mẹ.”
Đây là dạng câu có kết cấu câu rối nát, cấu tạo khó xác định, quan hệ ý nghĩa
không rõ ràng. Muốn sửa, tôi trao đổi trực tiếp với học sinh để biết các em muốn

diễn đạt điều gì, từ đó sẽ có cách sửa hợp lí:
“Tôi rất muốn đi chơi lâu cùng bố mẹ.”
13


“Tôi lưỡng lự không biết có nên đi chơi lâu cùng bố mẹ không?”
2.3 Câu sắp xếp sai trật tự các từ, vị trí các thành phần câu.
Như chúng ta đã biết, trong câu, các từ phải được sắp xếp theo những quy tắc
nhất định đã được sử dụng rộng rãi, được công nhận trong văn viết và nói. Những
quy tắc, ngữ nghĩa về trật tự các từ chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình đặt
câu. Các từ, cụm từ cần được sắp xếp theo một trật tự phục vụ cho việc biểu hiện
các ý nghĩa, các chức năng ngữ pháp nhất định. Nếu thay đổi trật tự sắp xếp thì
phương diện này có thể thay đổi hoặc làm cho tổ hợp từ trở nên vô nghĩa, không
thể chấp nhận được.
Chẳng hạn: Học sinh không thể viết: “Cái đuôi cong cong chứ không thẳng
đuồn đuột của chú gà trống” mà cần phải viết: “Cái đuôi của chú gà trống cong
cong chứ không thẳng đuồn đuột.”
Việc sắp xếp thành phần câu, giáo viên cũng cần lưu ý: Thông thường chủ
ngữ đứng ở đầu câu, vị ngữ đúng sau chủ ngữ. Tuy nhiên, cũng có khi vị ngữ đứng
trước chủ ngữ (câu đảo thành phần – dùng cho học sinh khá, giỏi). Do đó, cần phân
tích kĩ câu để có cách sửa sao cho đúng cấu tạo ngữ pháp và hợp nghĩa.
Biện pháp thứ 4. Hướng dẫn phân biệt lỗi câu sai về nghĩa để đặt câu
đúng.
Giáo viên thường hướng dẫn học sinh nói cũng như viết sao cho mỗi câu đều
hợp với lô gíc thông thường, làm sao ý trong mỗi câu văn ăn khớp với nhau, quan
hệ chặt chẽ với nhau về ý nghĩa để tránh những lỗi về câu sai nghĩa, tối nghĩa.
Cụ thể thường thấy những lỗi sai về nghĩa như sau:
4.1. Câu sai nghĩa hoặc không rõ nghĩa.
Chẳng hạn: Trong tiết Luyện từ và câu - Tiết 1 - Tuần 2, với bài tập 4 yêu cầu
đặt câu với từ “quê hương” có học sinh đã viết: Quê hương là bạn thân thiết của

em.
Học sinh mắc lỗi trên là do học sinh còn hạn chế về kiến thức Tiếng Việt,
chưa hiểu rõ về nghĩa của từ “quê hương” nên đặt câu không đúng với thực tế, nội
dung không phù hợp với đối tượng được nói tới, sai về nghĩa. Cho nên, tôi phân
tích để học sinh thấy rõ: Em đặt câu như vậy là sử dụng dạng câu giới thiệu về quê
hương mình (với vị ngữ “là”). Do đó có thể nêu câu hỏi gợi mở để giúp học sinh
đặt câu đúng như: Quê hương là nơi nào? ( ... là nơi sinh ra và lớn lên; là nơi chôn
rau cắt rốn của mỗi người).
Từ đó học sinh hiểu đúng nghĩa và nêu được cách sửa: Cần bỏ bộ phận không
phù hợp “bạn thân thiết của em” bằng bộ phận hợp lô gíc về nghĩa.
Ví dụ: Quê hương là nơi em sinh ra và lớn lên.
Hay: Quê hương là nơi chôn rau cắt rốn của mỗi người.
14


Hoặc lại có học sinh đặt câu: Hằng ngày, em ăn sáng.
Ở câu trên, học sinh dặt câu không rõ nghĩa, mặc dù đúng về cấu tạo ngữ
pháp, đúng về quan hệ ngữ nghĩa song thiếu thành phần phụ dẫn đến câu tối nghĩa.
Cách sửa: Thêm thành phần phụ cho câu để câu rõ nghĩa hơn.
Ví dụ: Hằng ngày, em ăn sáng lúc 6 giờ.
4.2.Câu có chủ ngữ, vị ngữ không tương hợp về nghĩa.
Chẳng hạn: Có học sinh viết: Cái cửa đã rách nát.
Hoặc đặt câu với từ “bạn bè”, học sinh viết: Em luôn đầm ấm với bạn bè.
Ở đây, học sinh không hiểu hết nghĩa của từ được dùng và khả năng kết hợp
của từ. Vì thế, giáo viên cần chỉ rõ để học sinh thấy được cần sửa bằng cách thay
các từ làm vị ngữ cho tương hợp về nghĩa.
Ví dụ: Thay từ “rách nát” trong câu: “Cái cửa đã rách nát”. Bằng từ “ cũ”.
Thay từ “đầm ấm” trong câu: “Em luôn đầm ấm với bạn bè”. Bằng từ
“đoàn kết”.
4.3. Câu có vế câu không tương hợp về nghĩa.

Chẳng hạn: Trong tiết Luyện từ và câu - Tiết 2 - Tuần 21, có bài tập 4 yêu
cầu: Thêm vế câu vào chỗ chấm để tạo thành câu ghép?
Có học sinh viết: Vì bạn Dũng không thuộc bài nên bạn rất vui.
Do nó chủ quan nhưng nó làm bài sai.
Để chữa câu trên, giáo viên cần yêu cầu học sinh đọc câu lên rồi nhận xét
xem hai vế câu đã tương hợp về nghĩa chưa? Từ đó, học sinh sẽ nhận ra chỗ sai:
Câu thứ nhất dùng vế câu sai còn câu thứ hai sai do dùng cặp quan hệ từ sai. Lúc
này, giáo viên khắc sâu thêm cho học sinh: Cần dùng cặp quan hệ từ cho đúng hoặc
thay một số từ ở vế câu vừa thêm cho phù hợp với dạng câu ghép chỉ nguyên nhân
– kết quả.
Vậy, hai câu trên được sửa như sau:
Vì bạn Dũng không thuộc bài nên bạn rất buồn.
Do nó chủ quan nên nó làm bài sai.
4.4. Câu có thành phần câu không đồng chức, đồng loại.
Chẳng hạn: Có học sinh viết: Bạn Lan vừa xinh vừa học kém.
Hoặc: Mẹ em có nước da trắng và rất yêu em.
15


Học sinh viết các câu như trên, mặc dù các thành phần câu cùng giữ một
chức năng ngữ pháp nhưng không tạo nên sự sóng đôi, không tương hợp về nghĩa.
Lúc này, giáo viên gợi ý để học sinh thấy được: “xinh” và “ học kém” là hai phẩm
chất trái ngược nhau, không cùng loại nên không thể đi song song cùng nhau trong
câu. Tương tự, “Nước da trắng” và “rất yêu em” ở câu hai cũng không đồng loại
với nhau. Từ đó, học sinh nhận ra chỗ sai và sửa lại cho đúng.
Cách sửa: Câu thứ nhất thay từ “xinh” bằng từ “xấu” hoặc thay từ “kém”
bằng từ “giỏi”. Câu thứ hai thay cụm từ “rất yêu em” bằng từ “mịn”.
Biện pháp thứ 5: Hướng dẫn sửa một số lỗi khác về câu ( lỗi ngoài câu).
Trên thực tế giảng dạy, ngoài những lỗi trong câu (học sinh hay mắc phải)
đã nêu ở trên thì còn có một số lỗi ngoài câu, giáo viên cũng cần chú ý giúp học

sinh nhận ra lỗi sai và cách sửa sao cho phù hợp trong giao tiếp.
5.1. Lỗi câu có nội dung trùng lặp với câu khác trong văn bản.
Chẳng hạn: Học sinh viết: Mẹ luôn vất vả lo lắng cho chúng em. Em rất thương
mẹ, vì mẹ lúc nào cũng lo lắng vất vả vì chúng em.
Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh đọc đoạn em vừa viết rồi cho cả lớp
nhận xét. Học sinh sẽ nhận ra các câu trên có bộ phận “vì mẹ lúc nào cũng lo lắng
vất vả vì chúng em” bị lặp lại gây nhàm chán cho người nghe, người đọc. Lúc này,
giáo viên cần lưu ý học sinh: Đây không phải là câu có điệp từ, điệp ngữ hay câu
lặp trạng ngữ có dụng ý nghệ thuật mà là cách viết lặp lại một cách cứng nhắc,
hành văn lủng củng.
Với dạng lỗi này, cách sửa là phải loại bỏ những từ, tổ hợp từ, những bộ
phận có nội dung trùng lặp để được hành văn trong sáng, rõ ràng, súc tích. Vậy câu
trên được sửa lại như sau: Mẹ luôn vất vả lo lắng cho chúng em. Em rất thương mẹ.
( bỏ bộ phận lặp lại “vì mẹ lúc nào cũng lo lắng vất vả vì chúng em”
5.2. Lỗi không phù hợp với phong cách.
Chẳng hạn, học sinh viết: Cô giáo em dạy rất chi là hay.
Hoặc: Bạn Lan mắt phượng mày ngài.
Lúc này, gáo viên lưu ý học sinh: Đây là những câu không phù hợp với phạm
vi, lĩnh vực giao tiếp. Ở câu thứ nhất “rất chi là” chỉ dùng trong phong cách sinh
hoạt, không đưa vào văn viết. Ở câu thứ hai “mắt phượng mày ngài” là chỉ người
con gái đẹp, nhưng đó là cách nói của văn chương cũ, cụm từ này sử dụng ở đây
không hợp tạo nên sự bắt chước, khuôn mẫu, sáo rỗng. Cần sửa câu bằng cách thay
thế các từ ngữ cho phù hợp với phong cách giao tiếp.
VD:

Cô giáo em dạy rất hiểu bài.
16


Bạn Lan rất đẹp.

Biện pháp thứ 6: Viết câu phải đúng và hay về từ tránh dùng từ sai với
hoàn cảnh giao tiếp.
Câu do từ tạo thành. Vì thế, khi nói và viết phải dùng từ cho chính xác. Tức là
cách dùng từ cần phải có sự chọn lựa để tìm ra từ đúng và hợp nhất có giá trị nghệ
thuật, phù hợp với dụng ý cần diễn đạt.
VD1: Dì tôi là người có “ tiếng tăm”, được mọi người mến phục.
Không thể viết: Dì tôi là người có “ tai tiếng”, được mọi người mến phục.
Vì“tiếng tăm” là chỉ những điều tốt, người có tiếng tăm là người tài giỏi, làm
nhiều việc tốt được nhiều người mến phục. Còn “tai tiếng” là chỉ người làm việc
xấu, bị người đời chê trách. Cho nên câu trên phải dùng từ “tiếng tăm” mới phù
hợp.
VD2: Với tấm lòng nhân hậu, mẹ đã giúp đỡ nhiều người có hoàn cảnh khó
khăn.
Không thể viết: Với tấm lòng nhân hậu của mẹ, đã giúp đỡ nhiều người có hoàn
cảnh khó khăn.Vì “ tấm lòng nhân hậu” là khái niệm trừu tượng
* Lưu ý:Ngôn ngữ Tiếng Việt có số lượng từ rất phong phú, đa dạng về nghĩa.
Khi hướng dẫn học sinh đặt câu giáo viên cần chú ý: Từ đồng nghĩa ( như: xe lửa tàu hỏa; máy bay - tàu bay- phi cơ;...). Từ trái nghĩa: ( như: trắng - đen; hòa bình
-chiến tranh;...). Lớp từ đa nghĩa, chuyển nghĩa ( như: tai người, tai tiếng, tai ương,
thiên tai,...). Ngoài ra còn có từ đồng âm khác nghĩa, từ gần nghĩa, từ do vay mượn
tiếng nước ngoài như từ gốc hán (trường kì, cường điệu, nỗ lực,...). Có như vậy
mới giúp học sinh trong lớp đặt câu đúng với những từ ngữ chính xác với hoàn
cảnh và đối tượng giao tiếp.
Biện pháp thứ 7: Uốn nắn sửa chữa lỗi viết câu trong tất cả các môn học.
Giáo viên phải uốn nắn sửa lỗi viết câu cho học sinh ở mọi lúc mọi nơi và
trong tất cả các môn học chứ không riêng gì môn Luyện từ và câu. Muốn thực hiện
được điều này thì việc trước tiên ta phải sửa cho học sinh lỗi câu qua những câu trả
lời miệng hàng ngày trước những câu hỏi do giáo viên, do những người khác đặt ra.
Câu trả lời của các em phải thật sự đầy đủ, rõ nghĩa. Nếu như các em trả lời chưa
đúng, chưa đủ chúng ta cần phải sửa chữa lỗi ngay cho các em từng lời ăn, tiếng
nói. Khi chấm bài kiểm tra của tất cả các môn học ta cũng phải lưu ý cách sửa câu

cho các em.
VD: Khi dạy môn toán, giáo viên đặt dâu hỏi để phân tích đề bài toán dạng bài
toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó: Tuần 3:
Bài toán : Tuổi bố và tuổi con là 42 tuổi. Tuổi con bằng 4 2 tuổi bố . Hỏi tuổi
mỗi người là bao nhiêu?
17


- Bài toán cho biết gì?

- Bố và con là 42.

- Giáo viên phải HD cách trả lời

- Con bằng 4 /2 bố.

- Cho đủ câu, rõ ý của bài

+ Tuổi bố và tuổi con là 42 tuổi

- Cho HS nhắc lại câu trả lời.

+ Tuổi con bằng 4 /2 tuổi bố

+ Bài toán hỏi gì?

+ Số người tuổi là?

- Giáo viên HD HS sửa lại cách trả lời + Tìm số tuổi mỗi người là bao nhiêu?
như thế nào cho đúng câu

IV. Kiểm nghiệm.
Thấy được tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu, tôi đã áp dụng các biện
pháp nêu trên trong quá trình dạy học ở lớp 5A trường Tiểu học Nga Nhân đối với
việc dạy và học về cách sửa lỗi viết câu và đã thu được kết quả:
* Giáo viên: Tôi đã xác định được tầm quan trọng của việc sửa sửa lỗi viết câu,
đầu tư nghiên cứu nội dung, phương pháp dạy học, mạnh dạn đổi mới phương pháp
dạy học, đã tập trung rèn các kĩ năng cho học sinh.
*Học sinh: Để kiểm nghiệm kết quả qua quá trình vận dụng các biện pháp mà
tôi đã rút kinh nghiệm, tôi tiến hành dạy thực nghiệm và khảo sát chất lượng của
học sinh lớp mình. Kết quả như sau :
Lớp

Số HS

5A

30

HTT

HT

CHT

SL

TL

SL


TL

SL

TL

15

50%

15

50%

0

0

Qua kết quả bài kiểm tra cho thấy đã có nhiều học sinh làm bài đạt điểm
giỏi, số học sinh đạt điểm khá tăng lên rõ rệt, học sinh đạt điểm trung bình giảm,
điểm yếu không còn.
Việc vận dụng các biện pháp như trên vào quá trình dạy thực hành sửa lỗi
viết câu cho học sinh cả lớp, tôi đã tạo điều kiện để cho tất cả các em tham gia thực
hành viết câu, phân biệt các dạng lỗi câu sai và cách sửa chủ yếu ở các tiết học
Luyện từ và câu và ở một số tiết học khác. Đồng thời phát huy hết khả năng học tập
cũng như vốn ngôn ngữ giao tiếp của học sinh. Sau thời gian thực nghiệm và đi dự
giờ của đồng nghiệp, tôi nhận thấy: Chất lượng học sinh đặt câu đúng ngữ pháp, đủ
ý, hợp nghĩa tương đối cao. Số học sinh yếu đã tiến bộ rõ rệt, biết được những lỗi
18



câu mình dùng sai và tự sửa được thành câu đúng. Số học sinh còn lại ( đặc biệt là
học sinh khá, giỏi) sử dụng câu trong viết đoạn văn, bài văn không những đúng mà
còn sinh động hơn nhiều. Vì vậy, các tiết học trở nên nhẹ nhàng hơn, các em tự tin
hơn trong học tập và giao tiếp. Kết quả trên đây đã phản ánh chất lượng dạy học
của giáo viên, kết quả học tập của học sinh, đồng thời phản ánh kết quả của quá
trình nghiên cứu đề tài.
Như vậy, chứng tỏ các biện pháp mà tôi đã đề ra ở trên là thiết thực, phù hợp
và có hiệu quả, mang lại những tác động tích cực tới bản thân của từng học sinh.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
I. Kết luận:
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tế tôi thấy người giáo viên muốn
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì phải miệt mài nghiên cứu tài liệu và điều quan
trọng là phải đi sâu vào thâm nhập đối tượng học sinh để có thể tìm ra phương pháp
giảng dạy tốt nhất giúp cho học sinh hiểu và nắm được nội dung của vấn đề.Tôi đã
rút ra cho bản thân, về phương pháp, trình độ, năng lực truyền đạt kiến thức cho
học sinh nhất là việc sửa lỗi câu cho học sinh Tiểu học, cụ thể là học sinh lớp 5 vô
cùng cần thiết và cấp bách.Tuy các em có rất nhiều tiến bộ song tôi không phải đã
thực sự yên tâm bởi vì liệu các em có sửa chữa khắc phục thường xuyên hay
không. Nhưng tôi tin rằng phong trào đó đã giữ được khi mà người giáo viên nhận
thức được cốt lõi vấn đề mà tiếp tục sửa chữa cho các em trong quá trình học tập
thường xuyên ở tất cả các môn học.
Qua đây tôi thấy người giáo viên phải không ngừng học hỏi tự rèn luyện, tự
bồi dưỡng cho mình không chỉ những kiến thức về câu nói riêng và kiến thức về bộ
môn tiếng việt nói chung mà phải trau dồi tất cả kiến thức của mọi bộ môn học để
phục vụ cho việc giảng dạy ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn. Mỗi giáo viên cần xác
định đúng vai trò, vị trí và tầm quan trọng trong quá trình dạy học để nâng cao chất
lượng dạy và học phân môn Luyện từ và câu nói chung và chất lượng dạy học về
sửa lỗi viết câu nói riêng cho học sinh.
Để nâng cao chất lượng dạy sửa lỗi viết câu cho học sinh lớp 5, giáo viên cần

tập trung:
- Rèn một số kĩ năng giúp học sinh sử dụng câu đúng: Kỹ năng đọc; kĩ năng
nói; kĩ năng viết.
19


- Giúp học sinh nhận diện câu và sửa lỗi viết câu: Giáo viên cần hướng dẫn
học sinh nhận diện câu Tiếng Việt; Nhận dạng các lỗi câu sai về cấu tạo ngữ pháp
và cách sửa; Hướng dẫn phân biệt lỗi câu sai về nghĩa để đặt câu đúng; Hướng dẫn
sửa một số lỗi khác về câu; Viết câu phải đúng và hay về từ tránh dùng từ sai với
hoàn cảnh giao tiếp.
Trong mỗi tiết dạy, giáo viên cần định hướng giúp học sinh tìm tòi, phát hiện
kiến thức. Giáo viên cần chuẩn bị kế hoạch dạy học chu đáo trước khi lên lớp, vận
dụng linh hoạt các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học phù hợp.
II. Ý kiến đề xuất:
Để góp phần cho việc dạy tốt các môn học nói chung, phân môn Luyện từ và
câu nói riêng, tôi xin có một số ý kiến đề xuất như sau:
1. Đối với giáo viên:
- Giáo viên cần nắm vững quy trình và phương pháp giảng dạy LTVC cho
phù hợp với các hình thức luyện tập để hướng dẫn học sinh thực hiện đúng yêu cầu
bài tập LTVC đề ra.
- Trong khi dạy học giáo viên nên thường xuyên quan tâm tới tất cả đối tượng
học sinh, đặc biệt là giao việc thêm cho học sinh khá, giỏi để giúp các em phát triển
kiến thức cơ bản tiếp thu được thêm kiến thức nâng cao ngay trong từng bài học.
- Cần trang bị cho mình một số tài liệu tham khảo cần thiết để bổ sung hỗ trợ
trong quá trình giảng dạy.
- Mỗi giáo viên phải nhận thức đúng đắn về việc sửa lỗi câu sao cho có hiệu
quả, giải quyết được những tồn tại của học sinh.
2. Đối với nhà trường:
- Tăng cường bổ sung sách và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy.

- Tổ chức các chuyên đề, các buổi ngoại khóa hội vui học tập để thay đổi
không khí học tập cho học sinh.

20


- Nhà trường cần tổ chức hội thảo viết sáng kiến kinh nghiệm trong mỗi năm
học và đánh giá nghiêm túc các sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên để từ đó được
học tập lẫn nhau trong giảng dạy.
3. Đối với cấp quản lí:
Mỗi năm, PGD nên mở hội nghị khoa học để chỉ đạo cho giáo viên cách tiến
hành một công trình khoa học và cho chúng tôi được tham khảo, học tập một số
sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng.
Trên đây là những cố gắng và một số kinh nghiệm bước đầu để rèn cách sửa
lỗi câu cho học sinh lớp 5 qua phân môn Luyện từ và câu. Tôi rất mong được sự
quan tâm giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, các đồng chí trong
Hội đồng khoa học các cấp, để tôi phát triển và thực hiện đề tài này trong những
năm học tới được tốt hơn, đạt kết quả tôt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Nhân, ngày 14 tháng 4 năm
2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Lê Thị Lan


TÀI LIỆU THAM KHẢO

21


1. Cơ sở ngôn ngữ và Tiếng Việt.
Tác giả : Mai Ngọc Chừ - Hoàng Trọng Phiếm - NXB GD
2. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở tiểu học
Tác giả : Trần Mạnh Hưởng - Lê Hữu Tỉnh - NXB GD
3. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học
Tác giả : Lê Phương Nga - Lê Hữu Tỉnh - NXB ĐHSP Hà Nội 1
4. Phương pháp dạy học Tiếng Việt
Tác giả: Nguyễn Trí - NXB GD
5. SGK Tiếng Việt lớp 5 - NXB GD.
6. SGV Tiếng Việt lớp 5 - NXB GD.

22



×