Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

BÁO cáo THỰC tập về GIẢI QUYẾT án LY hôn TRÊN địa bàn THÀNH PHỐ LAI CHÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.35 KB, 42 trang )

LỜI CẢM ƠN


Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy, cô Khoa Luật,
trường Đại học Vinh đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để em hoàn thành tốt khóa
học, đặc biệt là tạo cơ hội để em tiếp cận với môi trường thực tế thông qua đợt
thực tập đầy ý nghĩa và thiết thực này.

Em xin chân thành cảm ơn Chánh Án, các Phó Chánh Án cùng toàn thể cán
bộ - nhân viên Tòa Án Nhân Dân thành phố Lai Châu đã tạo điều kiện thuận lợi
giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập giúp em tiếp thu được nhiều kiến thức bổ
ích từ thực tế và góp phần to lớn trong việc từng bước hoàn thiện kỹ năng, kiến
thức chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp khi bước vào nghề.

Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn giảng viên hướng dẫn: Ths Nguyễn Thị Thanh
đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành báo cáo thực tập đúng thời gian
quy định. Trong quá trình thực hiện báo cáo, em còn nhận được rất nhiều sự giúp
đỡ, hỗ trợ và động viên của quý thầy cô, bạn bè và gia đình. Em xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc.

Với thời gian thực tập ngắn, trình độ và nhận thức còn nhiều hạn chế do đó sẽ còn
nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được sự nhận xét góp ý, phê bình, của quý thầy
cô, để em có điều kiện học hỏi, tiếp thu kiến thức, tìm hiểu, nghiên cứu, hoàn thiện
kỹ năng nghề nghiệp và phấn đấu hơn nữa.

Cuối cùng em xin kính chúc Ban giám hiệu và quý thầy cô lời chúc sức khoẻ,
thành đạt và hạnh phúc trong cuộc sống và công tác. Trân trọng cảm ơn.


Vinh , Ngày 20 tháng 04 năm 2015
Sinh viên thực tập


Đỗ Thị Huế

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt / kí hiệu

Cụm từ đầy đủ

TAND

Tòa án nhân dân

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TW

Trung ương

BLDS

Bộ luật dân sự


XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
Người châu á chúng ta luôn coi trọng tình nghĩa vợ chồng đạo đức luôn được
đặt lên hàng đầu Chính vì vậy mà nhiều cặp vợ chồng đã sống với nhau hạnh phúc
đến trọn đời.
Tuy nhiên trong những năm trở lại đây do ảnh hưởng của nền kinh tế thị
trường và sự giao thoa mạnh mẽ của các nền văn hóa nhận thức của con người
ngày càng thay đổi, tình nghĩa vợ chồng mỗi ngày lại được nhìn nhận khác đi.
Hiện nay vấn đề này không còn được coi trọng như xưa, nên khi hai bên (vợ,
chồng) có mâu thuẫn họ sẵn sàng đặt bút ký vào đơn ly hôn để giải phóng cho
nhau. Nếu tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống chung
không thể duy trì được thì giải phóng cho nhau là điều tốt.
Việc không còn coi trọng và không cố gắng gìn giữ nghĩa vợ chồng mà
nhiều cặp vợ chồng đã nhanh đưa ra quyết định chia tay, chấm dứt quan hệ hôn
nhân khi chưa cân nhắc kỹ. do vậy đã gây ảnh hưởng rất lớn đến trật tự xã hội làm
gia tăng các vụ án ly hôn. Tòa án phải thụ lý và giải quyết ngày càng nhiều.



Tính chất đa dạng, phức tạp trong quan hệ hôn nhân ngày càng tăng, nên việc
giải quyết các án HN&GĐ ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn đặc biệt là các án ly
hôn.
Để góp phần nâng cao hiệu quả xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Lai
Châu nói riêng và cả nước nói chung thông qua đợt thực tập chuyên môn tại tòa
em xin lựa chọn đề tài “Thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại Tòa án
nhân dân thành phố Lai Châu từ năm 2013 đến tháng 4 năm 2015” làm đề tài
báo cáo thực tập của mình.

NỘI DUNG
PHẦN 1: GIỚI THIỆU CƠ QUAN THỰC TẬP VÀ NHIỆM VỤ ĐƯỢC
GIAO
1.Giới thiệu cơ quan thực tập


1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Tòa án Nhân Dân thành phố Lai
Châu - tỉnh Lai Châu
Tòa án nhân dân thành phố Lai châu có trụ sở tại phường Quyết Tiến thành
phố Lai Châu - Tỉnh Lai Châu, lúc đầu tòa có tên là Tóa án nhân dân Thị xã Lai
Châu, được thành lập theo quyết định số 691/2004/QĐ-TA của Chánh Án Tòa
Án Nhân Dân Tối Cao.
Tòa án Nhân Dân Thị Xã Lai Châu chính thức được thành lập từ ngày 20
tháng 12 năm 2004. Với biên chế ban đầu là 06 đồng chí, trong đó có 03 thẩm
phán, 02 thư ký và 01 chức danh khác. Ngày 1 tháng 2 năm 2013 thị xã Lai
Châu được Bộ Xây Dựng quyết định công nhận là Đô thị loại 3 Ngày 27 tháng
12 năm 2013, Thủ tướng chính phủ ký Nghị quyết số 131/NQ-CP nâng cấp thị
xã Lai Châu thành thành phố Lai Châu thuộc tỉnh Lai Châu
Như vậy, Tòa Án Thị Xã Lai Châu cũng chính thức đổi tên thành Tòa Án
Nhân Dân Thành Phố Lai Châu và là một đơn vị trực thuộc Tòa Án Nhân Dân

tỉnh Lai Châu.
1.2 Đặc điểm hoạt động và cơ cấu tổ chức của Tòa Án Nhân Dân thành phố
Lai Châu
1.2.1 Đặc điểm hoạt động
Dựa trên Luật tổ chức Tòa án năm 2014, chức năng và lĩnh vực hoạt động
của TAND Thành phố Lai Châu được quy định cụ thể theo quy định tại điều 2
về Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân, theo đó Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền tư pháp.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Xét xử các vụ án hình sự, dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và


giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Từ đó, đưa ra các bản án,
quyết định thi hành.
Ngoài những lĩnh vực quy định chung cho tòa án thì tại điều 44 luật tổ
chức tòa án quy định cụ thể Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương
1. Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật.
2. Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.
1.2.2 Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu
Hiện nay TAND Thành phố Lai Châu có tổng số 13 đồng chí. Trong đó
Dân tộc Thái: 02; Dân tộc Kinh: 11. Trong đó tất cả các đồng chí đều có bằng
đại học. Trình độ về lý luận chính trị: Trung cấp: 02, Sơ cấp : 06. Về tổ chức
bộ máy đơn vị bao gồm 01 chánh án, 01 phó chánh án phụ trách án hình sự, 01
phó chánh án phụ trách án dân sự, 4 Thẩm Phán, 03 thư ký và 03 cán bộ đảm
nhận các chức danh khác.
Cụ thể:


STT

HỌ VÀ TÊN

CHỨC DANH

1

LÒ ANH KIÊN

CHÁNH ÁN

2

PHAN THỊ PHƯƠNG

3

DƯƠNG THỊ TUYẾT
THANH

4

TÒNG THỊ TUYẾT

PHÓ CHÁNH ÁN
(THẨM PHÁN)

GHI CHÚ


DÂN SỰ

PHÓ CHÁNH ÁN
(THẨM PHÁN)
THẨM PHÁN

HÌNH SỰ


5
6
7
8
9
10
11
12
13

PHÙNG THỊ HƯƠNG

THẨM PHÁN

GIANG
KHUẤT THỊ LAN
NGUYỄN VĂN BẰNG
PHÙNG THỊ KHÁNH
NGUYỄN BÍCH NGA
NGUYỄN THỊ TOÀN

VÀNG VĂN QUANG
NGUYỄN THỊ THU

THƯ KÍ
THƯ KÍ
THƯ KÍ
THƯ KÍ
KẾ TOÁN
BẢO VỆ
CHUYÊN VIÊN

TRANG
BÙI THỊ DUỆ

ĐÁNH MÁY
TẠP VỤ

2. Nhiệm vụ được giao
Trong quá trình thực tập tại TAND thành phố Lai Châu em đã được giao
thực hiện rất nhiều công việc khác nhau trong đó có một số công việc chính
em thường xuyên thực hiện cụ thể:
- Trực phòng tiếp công dân ;
- Làm công việc văn phòng như photo, đánh máy, đóng dấu. Ghi bút lục
hồ sơ án hôn nhân;
- Nghiên cứu hồ sơ các vụ án đặc biệt là án hôn nhân gia đình ;
- Xem xét xử các vụ án, tham gia hướng dẫn đương sự viết bản tự khai;
- Cùng cán bộ tòa án đi hòa giải ở cơ sở.

PHẦN 2: QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAO
2.1 Đối tượng nghiên cứu

Trong đề tài này em tập trung nghiên cứu về thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ
án ly hôn tại TAND thành phố Lai Châu từ năm 2013 đến tháng 4 năm 2015, tìm


hiểu, phân tích và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả xét xử
sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Lai Châu.
Nói riêng và các Tòa án trên cả nước nói chung
2.2Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích chủ yếu là tìm hiểu thực tiễn xét xử các vụ án ly hôn tại TAND
thành phố Lai Châu và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử sơ
thẩm các vụ án ly hôn trong thời gian tới. Để thực hiện mục đích trên cần
- Đánh giá thực trạng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố
Lai Châu từ năm 2013 đến tháng 4 năm 2015.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm các
vụ án ly hôn tại TAND thành phố Lai châu nói riêng và các TAND trên cả nước
nói chung.
2.3 Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là sử dụng phép duy vật biện chứng và một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể khác. Nhưng chủ yếu vẫn là phương pháp tiếp cận
hệ thống, tổng kết, thống kê, so sánh, khái quát, phân tích và đánh giá thực tiễn xét
xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Lai Châu.
2.4 Thực trạng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn của Tòa án nhân dân thành
phố Lai Châu từ năm 2013 đến tháng 4 năm 2015
2.4.1 Đánh giá chung về các quy định của pháp luật áp dụng xét xử sơ thẩm
các vụ án ly hôn
a. Pháp luật nội dung áp dụng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn
Hôn nhân và gia đình là các hiện tượng xã hội, phát sinh và phát triển cùng
với sự phát triển của xã hội loài người. HN&GĐ biểu hiện mối quan hệ xã hội
giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên trong gia đình. Trong

xã hội có giai cấp quan hệ HN&GĐ bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị và
pháp luật chính là công cụ thể hiện ý chí đó của giai cấp thống trị. Vì thế luật
HN&GĐ ra đời.


Ly hôn là một mặt của quan hệ HN&GĐ và được pháp luật HN&GĐ điều
chỉnh. Nếu như kết hôn là sự kiện bình thường, là thời điểm đầu tiên của hôn
nhân thì ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng do một bên vợ hoặc chồng
hoặc cả hai vợ chồng thuận tình được Tòa án giải quyết cho ly hôn bằng một
quyết định thuận tình ly hôn hay bằng một bản án cho ly hôn có hiệu lực pháp
luật. Nó là mặt trái, mặt bất bình thường của hôn nhân, đây là việc mà cả nam
và nữ khi kết hôn cũng như gia đình, xã hội không mong muốn xảy ra, nhưng
nó lại là mặt không thể thiếu trong quan hệ HN&GĐ. Sở dĩ không thể thiếu là
bởi ly hôn không phải luôn luôn chỉ là mặt tiêu cực khi chấm dứt quan hệ vợ
chồng, gia đình ly tán, tài sản phân chia, con cái không được ở cùng bố mẹ để
rồi thiếu sự chăm sóc…bên cạnh mặt trái đó thì ly hôn là sự giải thoát an toàn
cho những cặp vợ chồng khi quan hệ vợ chồng đã đến mức tan vỡ, nó giải
phóng cho vợ và chồng ra khỏi những cơn xung đột gia đình. Tuy nhiên Nhà
nước bảo hộ hôn nhân, bảo đảm quyền tự do ly hôn của vợ chồng không có
nghĩa là giải quyết ly hôn tùy tiện, theo ý chí, nguyện vọng của vợ chồng muốn
sao làm vậy, mà phải bằng pháp luật, Nhà nước kiểm soát việc giải quyết ly
hôn. Ly hôn phải dựa vào những căn cứ mà pháp luật quy định cho phép ly hôn.
Hệ thống pháp luật HN&GĐ của nước ta ngày càng hoàn thiện hơn Luật
HN&GĐ 2000 quy định tại Điều 89, và đến luật hôn nhân gia đình 2014 quy
định tại điều 51 khẳng định đây là quyền của vợ hoặc chồng nhưng trong những
trường hợp luật quy định .
Ly hôn chính là nguyên nhân dẫn đến hậu quả làm tan vỡ gia đình từ đó làm
ảnh hưởng đến một phần đời sống xã hội. Vì vậy dưới bất kỳ xã hội nào, Nhà
nước cũng quan tâm đến việc giải quyết ly hôn và hậu quả của nó. Đối với những
xã hội khác nhau thì mục đích điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề HN&GĐ

nói chung cũng như việc ly hôn và giải quyết hậu quả của nó nói riêng là hoàn
toàn khác nhau. Luật hôn nhân gia đình cũng đã có những điều luật quy định cụ
thể rõ ràng về vấn đề này.
b. Pháp luật tố tụng dân sự áp dụng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn


Nếu như pháp luật nội dung quy định quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
vụ án ly hôn thì pháp luật tố tụng quy định trình tự, thủ tục giải quyết nhằm đảm
bảo việc giải quyết nhanh chóng, đúng đắn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ án ly hôn.
Về nguyên tắc khi vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có yêu cầu ly hôn, xét thấy
hợp lý, Tòa án thụ lý vụ việc ly hôn và giải quyết theo thủ tục của luật định.
Việc thụ lý yêu cầu ly hôn được thực hiện theo các thủ tục do pháp luật tố tụng
dân sự quy định tại điều 53 Luật HN&GĐ 2014). Theo đó, khi có yêu cầu ly hôn
tùy từng trường hợp có thể thụ lý giải quyết theo thủ tục giải quyết vụ án (vụ án ly
hôn), hoặc thụ lý giải quyết việc dân sự (yêu cầu ly hôn).
Thụ lý vụ án ly hôn khi ly hôn do một bên yêu cầu hoặc khi thuận tình ly hôn
nhưng có tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn. Còn khi các bên đã thỏa
thuận được quan hệ tài sản, quan hệ con cái và cả hai người có yêu cầu ly hôn thì
Tòa án sẻ giải quyết việc ly hôn. Và nếu sau khi giải quyết việc dân sự mới phát
sinh tranh chấp thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự và các đương sự phải
khởi kiện vụ án ly hôn.
Trong mọi trường hợp ly hôn, Tòa án đều phải tiến hành điều tra và hòa giải.
Qua công tác điều tra, Tòa án tìm hiểu mâu thuẫn của vợ chồng có hay không có,
nguyên nhân và mức độ mâu thuẫn đó, điều kiện, hoàn cảnh nghề nghiệp, tâm tư
tình cảm, nguyện vọng của đương sự. Kết quả điều tra tốt chính là cơ sở cho công
tác hòa giải và xét xử ly hôn được chính xác.
Theo quy định tại Điều 54 Luật HN&GĐ 2014 thì sau khi thụ lý yêu cầu ly hôn
Tòa án phải tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, nếu trong
các hồ sơ về ly hôn mà không có biên bản hòa giải thì bản án hoặc quyết định của

Tòa án sẽ bị hủy. Trường hợp hòa giải thành, Tòa án lập biên bản ghi nhận việc hòa
giải thành, quan hệ vợ chồng đoàn tụ, nếu hòa giải không thành Tòa án lập biên bản
hòa giải không thành và quyết định đưa vụ kiện ly hôn ra xét xử.


Trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tòa đối với vụ án ly hôn tuân theo pháp luật
tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011.
Đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo trình
tự phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra bản án, quyết định ly
hôn.
2.4.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm các vụ án
ly hôn của TAND thành phố Lai Châu
* Tình hình xét xử các vụ án ly hôn từ năm 2013 đến tháng 4 năm 2015
Thành phố Lai Châu là trung tâm hành chính, kinh tế, chính trị của
tỉnh Lai Châu, Việt Nam. Cả thành phố có 7 đơn vị hành chính cấp xã, trong
đó có 5 phường là Quyết Thắng, Đoàn Kết, Tân Phong, Đông Phong, Quyết
Tiến và 2 xã là Nậm Loỏng, Sang Thàng. Với diện tích là 70,77 km² , dân số
52.557 người, có 17 dân tộc sinh sống, trong đó có 4 dân tộc chính: Dân tộc
Kinh chiếm 67%, dân tộc Giáy 17,5%, dân tộc Thái 8,5%, dân tộc Mông 6%,
còn lại là các dân tộc khác chiếm khoảng 1%.
Thành phố Lai Châu giáp với huyện Phong Thổ và huyện Tam Đường về
phía bắc, giáp huyện Tam Đường ở phía đông nam; giáp huyện Sìn Hồ ở phía
tây. Thành phố cách cửa khẩu Ma Lù Thàng (cửa khẩu quốc gia với
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa), cách thị trấn Sa Pa (tỉnh Lào Cai)
khoảng 70 km, cách Hà Nội khoảng 450 km.
Thành Phố Lai Châu là trung tâm văn hóa, kinh tế - chính trị của tỉnh, với
tốc độ phát triển kinh tế và đô thị hóa nhanh, đời sống của người dân ngày càng
được nâng cao cải thiện dân số không ngừng gia tăng, kéo theo đó là tệ nạn xã hội
phát sinh ngày càng nhiều, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội và phần nào làm thay đổi nét truyền thống của mảnh đất này. Trình

độ dân trí ngày càng được nâng cao, tuy nhiên vẫn còn một số bộ phận trình độ
nhận thức về vấn đề HN&GĐ còn hạn chế mặt khác do sự thay đổi của vấn đề
kinh tế - xã hội nên kéo theo sự thay đổi quan niệm của con người về vấn đề hôn


nhân, hiện tượng tảo hôn, lấy nhiều vợ đặc biệt là ly hôn ngày càng tăng về số
lượng và mang tính phức tạp hơn gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống dân cư
và điều kiện chính trị, kinh tế và xã hội của thành phố.
Tại TAND thành phố Lai Châu số lượng vụ án ly hôn mà Tòa án đã thụ lý,
giải quyết ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về nội dung. Việc giải quyết một
số lượng lớn các loại án hàng năm là cố gắng, nỗ lực lớn của đội ngũ thẩm phám
và cán bộ TAND thành phố Lai Châu
Theo báo cáo tổng kết của TAND thành phố Lai Châu từ năm 2014 đến
tháng 4 năm 2015 thì Tòa án đã thụ lý và giải quyết số lượng lớn các vụ án ly hôn.
Thể hiện qua bảng thống kê sau:

Năm

Năm

Đến tháng

2013

2014

4 /2015

Vụ án đã giải quyết


62

82

6

Vụ án đình chỉ

8

14

1

52

65

13

2

3

0

63

83


20

TT

Hòa giải thành công
nhân sự thỏa thuận
Xét xử
Tổng cộng vụ án

- Năm 2013 TAND thành phố Lai Châu đã thụ lý tổng số án là 149 vụ án,
trong đó án HN&GĐ là 63 án riêng án ly hôn có đến 63 vụ, chiếm 42,28% tổng
lượng án mà Tòa án đã thụ lý. So với năm 2012 thì số lượng vụ án ly hôn mà Tòa
án đã thụ lý tăng 10 vụ. Trong số đó Tòa án đã giải quyết được 62 vụ đạt tỷ lệ
98,4%, so với năm 2012 thì tỷ lệ giải quyết tăng 0,5% ( Năm 2012 Tòa án thụ lý
52 vụ án ly hôn, giải quyết được 50 vụ). Số lượng vụ án ly hôn trong tổng số vụ
việc HN&GĐ trong năm 2013 chiếm khoảng 98,8%.
Nguyên nhân dẫn đến ly hôn rất đa dạng, nhưng chủ yếu tập trung là do từ
nguyên nhân mâu thuẫn gia đình (50% trong tổng số vụ án ly hôn), đánh đập,


ngược đãi (17%), ngoại tình (15%) bệnh tật, không có con (8%), vợ chồng xa cách
(3%) và những nguyên nhân khác như: người khác xúi dục, điều kiện kinh tế gia
đình, cờ bạc, rượu chè…(7%).
Trong năm 2013 mặc dù gặp nhiều khó khăn trong công tác điều tra, xác
minh, thu thập chứng cứ nhưng TAND thành phố Lai Châu đã nêu cao tinh thần
trách nhiệm, làm đúng quy định pháp luật, bám sát các hướng dẫn của TANDTC,
liên ngành TW, tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, tạo điều kiện cho
đương sự thỏa thuận theo đúng pháp luật.
Về vấn đề hòa giải, thì trong tổng số án HN&GĐ mà TAND thành phố Lai
Châu đã giải quyết (63vụ) thì số lượng vụ hòa giải không thành phải đưa ra xét xử

là 2 vụ, trong đó hòa giải thành và công nhận sự thỏa thuận là 52 vụ chiếm 83,87
% số vụ đã giải quyết đình chỉ 8 vụ . Đây là một con số đáng khích lệ cho công tác
hòa giải của thẩm phán, cán bộ Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, đã góp phần
giải quyết tốt các mâu thuẫn trong nội bộ gia đình, giữ gìn và tăng cường sự đoàn
kết trong mỗi gia đình nói riêng và trong cộng đồng dân cư nói chung. Tuy nhiên
bên cạnh đó số lượng án ly hôn tồn đọng, để quá hạn giải quyết vẫn còn.
Trong năm 2013 có 1 vụ án ly hôn bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu đã xem xét giải quyết lại
Điển hình như vụ án tranh chấp về mức cấp dưỡng giữa vợ chồng chị
Nguyễn Thị H và anh Phạm Văn T. Theo nội dung vụ án thì vợ chồng chị H và
anh T có một con chung là Phạm Ngọc Thùy Tr sinh ngày 20/9/2010. Tại bản án
sơ thẩm số 25/DSST ngày 18/04/2013 của TAND thành phố Lai Châu xử: Công
nhận cho chị H với anh T được thuận tình ly hôn và giao cháu Trang cho chị H
nuôi dưỡng, anh T có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng 1.000.000đồng/ 1tháng.
Nay giá cả thị trường tăng cao với mức 1.000.000đồng /1 tháng không đảm bảo
cho cháu ăn học nên chị H khởi kiện yêu cầu anh T phải tăng mức cấp dưỡng lên
1.200.000đồng /1tháng.


Anh T khai: Hiện nay anh có vợ mới và sắp sinh con, ngoài ra anh phải nuôi
bố mẹ già yếu, nên với thu nhập anh không có khả năng để đáp ứng yêu cầu của
chị H.
Tại bản án sơ thẩm số 25/2013/HNGĐ-ST ngày18/04/2013 TAND thành phố
Lai Châu xử:
+ Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H về tăng mức cấp dưỡng.
+ Bác yêu cầu xin thay đổi nuôi con của anh Phạm Văn T, buộc anh T phải
đóng góp phí tổn nuôi con chung là cháu Phạm Ngọc Thùy Tr mỗi tháng
1.200.000đồng cho đến khi cháu Trang đủ 18 tuổi, thời gian đóng góp kể từ tháng
4/2013.
Anh T không chấp nhận đã kháng cáo bản án sơ thẩm của TAND thành phố

Lai Châu trên. Tại bản án phúc thẩm số 12/HNGĐ-PT ngày 25/05/2013 của
TAND tỉnh Lai Châu quyết định:
+ Bác yêu cầu xin thay đổi nuôi con của anh Phạm Văn T
+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H về việc tăng mức nuôi dưỡng, anh
T phải đóng 1.200.000đồng/1 tháng để nuôi con chung là Phạm Ngọc Thùy Tr đến
khi đủ 18 tuổi.
Ở đây, sau khi xem xét vào tình hình thực tế và khả năng của mỗi bên, Tòa
án hai cấp xét xử đã có quyết định giống nhau về việc tăng mức cấp dưỡng cho
cháu Tr từ 1.000.000 ngìn đồng lên 1.200.000 ngìn đồng/ 1tháng bác đơn yêu cầu
xin thay đổi nuôi con của anh Phạm Văn T. Như vậy việc anh thay đổi nuôi con
khi cháu Tr chưa đủ 18 tuổi là trái với quy định của pháp luật nên Tòa án bác đơn
yêu cầu xin thay đổi nuôi con của anh T là hoàn toàn đúng pháp luật. Còn vấn đề
tăng mức cấp dưỡng cho cháu Linh từ 1.000.000 ngìn đồng lên 1.200.000 ngìn
đồng thì sau khi Tòa án điều tra, xác minh tình hình thực tế về điều kiện sống của
anh T nếu anh đủ khả năng cấp dưỡng thì quyết định của Tòa án như vậy là hợp
lý, đúng pháp luật.
- Năm 2014 TAND thành phố Lai Châu đã thụ lý được 152 vụ án, việc hôn
nhân gia đình, trong đó có 83 vụ án ly hôn (chiếm 54,6 % tổng số án HN&GĐ),


tăng 20 vụ so với năm 2013. Tòa án đã giải quyết được 82 vụ đạt 98,8%, mặc dù
so với năm 2013 tỷ lệ giải quyết cao hơn nhưng vì năm 2014 số lượng vụ án nhiều
hơn mặt khác án có tính đa dạng, phức tạp hơn đã gây khó khăn cho đội ngũ cán
bộ Tòa án trong việc thụ lý, giải quyết.
Nguyên nhân dẫn đến ly hôn thì chủ yếu cũng giống những năm trước,
nguyên nhân xin ly hôn vẫn là do tính tình không hợp mâu thuẫn gia đình, đánh
đập ngược đãi, ngoại tình, không có con…
Từ năm 2014, phát huy tinh thần làm việc có trách nhiệm, có hiệu quả cao.
Trong công tác hòa giải, mặc dù số lượng án giải quyết nhiều nhưng công tác hòa
giải vẫn đạt kết quả cao. Số lượng án hòa giải không thành, đưa ra xét xử so với

năm 2014 tăng lên 1 vụ, Tòa án đã hòa giải thành và công nhận sự thỏa thuận 65
vụ chiếm 74,7% vụ án đã giải quyết đình chỉ 14 vụ
Năm 2014 theo thống kê không có vụ bị kháng cáo kháng nghị lên TAND
tỉnh Lai Châu theo trình tự thủ tục phúc thẩm
- Trong tháng 4 năm 2015 TAND thành phố Lai Châu đã thụ lý tất cả là 20
vụ việc HN&GĐ, trong đó có 20 vụ án ly hôn. Như vậy số lượng vụ án ly hôn
riêng đến tháng 4 này đã tăng lên rất nhiều so với những năm trước. Với số lượng
lớn như vậy, chưa kể tính phức tạp, đa dạng của các vụ án, một lần nữa thể hiện áp
lực lên việc giải quyết các án ly hôn của Tòa án. Với sự nỗ lực cố gắng Tòa án đã
giải quyết được 6 vụ việc số án còn lại sẽ được giải quyết trong thời gian tới của
năm.
Như vậy từ số liệu thống kê trên và thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn tại
TAND thành phố Lai Châu từ năm 2013 đến 4 tháng đầu năm 2015 đã cho thấy số
lượng vụ án ly hôn tăng lên rõ rệt, và công tác xét xử của Tòa án năm sau so với
năm trước cũng ngày càng đạt được hiệu quả cao hơn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, bảo đảm tính đúng đắn trong việc giải quyết vụ án ly hôn. Tuy
nhiên với số lượng án ngày càng tăng cùng với tính chất của nội dung vụ việc
ngày càng đa dạng, phức tạp nên hàng năm số lượng án tồn đọng vẫn còn nhiều.


* Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự gia tăng của các vụ án ly hôn
tại TAND thành phố Lai Châu
Tình hình xét xử các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Lai Châu từ năm
2013 đến tháng 4 năm 2015 có nhiều biến động theo chiều hướng số lượng vụ án
ly hôn ngày càng tăng và tính chất của vụ án ngày càng phức tạp, đa dạng. Mặc dù
chất lượng xét xử của năm sau cao hơn năm trước nhưng số lượng án tồn đọng vẫn
còn cao là do các nguyên nhân chủ yếu sau:
1) Về mặt xã hội: xã hội phát triển không ngừng thì các quan hệ trong xã hội
cũng thay đổi. Bên cạnh những tác động tích cực của nó lên đời sống xã hội thì nó
còn gây ra những vấn đề tiêu cực của xã hội hiện nay như là các tệ nạn xã hội, lối

sống suy đồi đạo đức, nhận thức của con người về quan hệ hôn nhân không còn
coi trọng như trước nên các với hiện tượng đánh đập, ngược đãi vợ con, ngoại
tình…dẫn đến mâu thuẫn của gia đình trầm trọng, tình cảm vợ chồng chấm dứt,
tranh chấp về tài sản và con cái ngày càng phức tạp, quan hệ hôn nhân đổ vỡ.
2) Về mặt kinh tế: Nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển cao,thì nhu
cầu sinh hoạt, tiêu dùng của con người ngày càng lớn. Bên cạnh những gia đình có
thu nhập ổn định việc tổ chức đời sống gia đình tốt thì vẫn còn đó những gia đình
có thu nhập thấp thậm chí không có thu nhập hoặc có thu nhập khá nhưng vì nhu
cầu chi tiêu quá cao làm cho đời sống gia đình không ổn định, vợ chồng chật vật
vì đồng tiền…hậu quả kéo theo là gia đình hay xảy ra các mâu thuẫn, đánh đập
ngược đãi nhau… và quan hệ gia đình đổ vỡ dẫn đến ly hôn.
Mặt khác, do chính sách mở cửa của nền kinh tế thị trường đất nước, cũng
như các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tăng trưởng và phát triển
kinh tế cải thiện đời sống nhân dân, làm cho đời sống nhân dân tăng lên, chất
lượng đời sống gia đình được cải thiện rõ rệt. Từ đó tài sản của gia đình cũng trở
nên phong phú, ngày một nhiều và phức tạp, đặc biệt tài sản là nhà, quyền sử dụng
đất…tranh chấp ngày càng diễn ra phức tạp hơn.
Ví dụ: vụ án của Võ Đức C và Nguyễn Thị H tranh chấp tài sản là đất đai
đương sự không hợp tác nên đã gây khó khăn rất lớn cho công tác thẩm định giá


tài sản để đưa vụ án ra xét xử Trong khi đó giá cả thị trường thì thường xuyên
biến động, làm cho quá trình xác minh, thu thập chứng cứ gặp nhiều khó khăn hơn
gây cản trở cho việc giải quyết các vụ án ly hôn.
3) Do hệ thống pháp luật nói chung và các văn bản pháp luật về HN&GĐ,
các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật liên quan như, Luật dân
sự, Luật nhà ở, Luật đất đai, Luật tố tụng dân sự… còn nhiều tồn tại và mâu thuẫn,
chồng chéo nhau. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho công tác xét xử các vụ án
ly hôn của Tòa án khi áp dụng pháp luật.
4) Một nguyên nhân khác nữa làm ảnh hưởng đến công tác xét xử đó là số

lượng và chất lượng của đội ngũ làm công tác xét xử và giải quyết các vụ án ly
hôn mà đặc biệt là người thẩm phán - người trực tiếp giải quyết vụ án ly hôn còn
thiếu và yếu. Trong khi số lượng các vụ án ly hôn ngày càng nhiều, nội dung thì
ngày càng đa dạng phức tạp.
Từ những nguyên nhân trên dẫn đến tình hình xét xử và giải quyết các vụ án
ly hôn trong những năm qua tại TAND thành phố Lai Châu gặp nhiều khó khăn,
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại
Tòa án.
2.4.3 Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình xét xử sơ thẩm các
vụ án ly hôn
a. Một số thuận lợi
Trong thời gian qua, công tác xét xử và giải quyết các vụ án ly hôn tại TAND
thành phố Lai Châu đạt được kết quả đáng khích lệ là nhờ vào một số thuận lợi sau:
Trước hết, đó là nhờ vào một hệ thống văn bản pháp luật quy định thống nhất
về lĩnh vực HN&GĐ, đó là luật HN&GĐ 2000 được thông qua ngày 9/06/2000 và
có một có hiệu lực ngày 1/01/2001 và Luật Hôn Nhân Và Gia đình 2014 kèm theo
đó là các văn bản hướng dẫn thi hành gồm: Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày
9/6/2000, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000; Thông tư liên tịch số
01/TTLTBTP-TANDTC-VKSNDTC…là cơ sở pháp lý quan trọng để áp dụng giải
quyết các loại án về HN&GĐ nói chung và các vụ án xin ly hôn nói riêng.


Bộ luật tố tụng dân sự ra đời tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án áp dụng thống nhất
không phải áp dụng tản mạn, thiếu thống nhất như trước khi mà BLTTDS chưa ra
đời,
Đó là những thuận lợi chung tạo điều kiện thuận lợi cho các Tòa án trên cả
nước áp dụng khi giải quyết, riêng đối với TAND thành phố Lai Châu còn có một
số thuận lợi sau:
- Sự lãnh đạo của cấp ủy, sự chỉ đạo trực tiếp của ban lãnh đạo Tòa án, sự
phối hợp chặt chẽ của tổ chức công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

và sự nỗ lực, cố gắng học tập, nâng cao trình độ nghiên cứu của cán bộ công chức
trong đơn vị nên hàng năm TAND thành phố Lai Châu đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao.
- Đội ngũ cán bộ Tòa án 100% có trình độ đại học được đào tạo cơ bản và
hiện nay số lượng cán bộ có bằng đại học tăng hơn so với những năm trước đáp
ứng được yêu cầu, tiêu chuẩn của Tòa án. Đội ngũ thẩm phán đã được học qua lớp
bồi dưỡng thẩm phán và không ngừng nâng cao chuyên môn của mình qua các lớp
tập huấn.
- Mặc dù hàng năm số lượng án nhiều, bình quân mỗi năm TAND thành phố
Lai Châu phải thụ lý 150-200 vụ việc và ngày càng tăng, ngoài ra số lượng đơn kiện
gửi đến Tòa án là rất lớn (gấp rưỡi số lượng án phải thụ lý) nhưng chất lượng xét xử
cũng không ngừng được nâng cao, thủ tục tiến hành tố tụng chặt chẽ, đảm bảo theo
đúng quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo nghị quyết của
bộ chính trị và ban chỉ đạo cải cách tư pháp TW và của TANDTC đề ra.
b. Một số khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi đã đề cập ở trên thì hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án ly hôn tại TAND thành phố Lai Châu còn gặp một số khó khăn sau:
Hiện nay, tại TAND các cấp trên địa bàn tỉnh Lai Châu nói chung và tại
TAND thành phố Lai Châu nói riêng chưa có đội ngũ thẩm phán chuyên trách về
lĩnh vực HN&GĐ, mà thẩm phán trong lĩnh vực này vẫn đang thuộc thành phần


thẩm phán về lĩnh vực dân sự. Do vậy chưa có sự phân công bố trí hợp lý mà còn
có tình trạng phân công thẩm phán thụ lý giải quyết vụ việc mang tính “tùy nghi”,
hơn nữa trong đội ngũ thẩm phán phần lớn là nữ giới trong khi đó, lĩnh vực
HN&GĐ là vấn đề hết sức tế nhị, liên quan đến mặt tình cảm hết sức phức tạp, đặc
biệt là bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em, do vậy đối với nữ giới việc đi
sâu tìm hiểu thực trạng quan hệ gia đình cần giải quyết sẽ gặp khó khăn hơn. Bên
cạnh đó, mặc dù các vụ án ly hôn, các tranh chấp vợ chồng, con cái ngày càng
nhiều, đa dạng và phức tạp nhưng trên địa bàn thành phố ít hoặc không thấy có

tiếng nói của các đoàn thể như Mặt trận tổ quốc, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên…
trong việc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ, trẻ em nói riêng và can thiệp cần thiết trong
hòa giải cơ sở nói chung. Đây cũng là khó khăn cho quá trình xét xử, giải quyết
các vụ án ly hôn tại Tòa án.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực dân sự nói chung và
trong lĩnh vực HN&GĐ nói riêng ngày càng được sửa đổi bổ sung đầy đủ nhưng
có một số quy định còn mâu thuẫn, chồng chéo nhau gây khó khăn cho việc áp
dụng vào thực tiễn xét xử, giải quyết các vụ án ly hôn tại Tòa án.
Số lượng các vụ án mà TAND thành phố Lai Châu phải thụ lý, giải quyết
ngày càng tăng, hàng chục năm qua, bình quân mỗi năm Tòa án phải thụ lý từ
100-200 vụ việc trong đó vụ việc HN&GĐ chiếm khoảng 50 – 90 vụ việc, trong
khi đội ngũ thẩm phán, thư ký cán bộ nghiệp vụ còn thiếu năng lực và kinh
nghiệm tố tụng còn hạn chế, chưa đồng đều. Quy trình bổ nhiệm, tái bổ nhiệm
thẩm phán còn nhiều bất cập.
Thành phố Lai Châu là thành phố mới đang trên đà phát triển nên dân nhập
cư ngày càng nhiều chủ yếu là đội ngũ trẻ và dân cư chủ yếu là người dân tộc một
số bộ phận trình độ nhận thức còn kém nên hiện tượng tảo hôn, lấy nhiều vợ đặc
biệt là ly hôn do quan niệm còn lạc hậu (trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không
sinh được con hoặc là sinh con gái mà không sinh được con trai…) xảy ra khá
nhiều.


Mặt khác, TAND thành phố Lai Châu trong thời gian vừa qua việc xét xử và
giải quyết án HN&GĐ nói chung và vụ án ly hôn nói riêng còn gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc một phần là do sự thiếu quan tâm hợp tác của các cấp chính
quyền, các tổ chức liên quan trong việc cung cấp tài liệu, phúc đáp công văn mà
Tòa án yêu cầu, dẫn đến chậm trễ trong việc giải quyết gây án tồn đọng làm ảnh
hưởng không nhỏ đến quyền, lợi ích của đương sự của Nhà nước và xã hội.
Ngoài những khó khăn mang tính đặc thù trên, trong quá trình thụ lý, xét
xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Lai Châu còn gặp những

khó khăn, vướng mắc mà em sẽ làm rõ thêm dưới đây.
* Những vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật HN&GĐ
trong xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn
+ Áp dụng căn cứ ly hôn
Theo khoản 8 Điều 8 Luật HN&GĐ 2000 và Luật HN&GĐ 2014 quy định “ly
hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu
cầu của vợ hoặc của chồng hoặc của cả hai vợ chồng”, việc ly hôn phải dựa vào
căn cứ cho phép ly hôn mà pháp luật quy định.
Nội dung căn cứ ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ
2000 và tại điều 56 luật HN&GĐ 2014 quy định : “Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn,
nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn” Đây chỉ là quy định
mang tính lý luận, thực tế gặp nhiều khó khăn và phức tạp khi áp dụng.
Để áp dụng giải quyết đúng đắn, hợp lý trước hết cần phải hiểu, quan hệ vợ
chồng ở vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài” là giữa vợ
chồng đã có nhiều lục đục, mâu thuẫn sâu sắc đến mức vợ, chồng không thể dung
hòa, tình cảm vợ, chồng không thể hàn gắn được, tình trạng đó ảnh hưởng đến
cuộc sống gia đình và các thành viên trong gia đình không thể nào sống bình
thường được. Khi có yêu cầu ly hôn thì đương sự đưa ra nhiều lý do vì vậy khi
xem xét đánh giá “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài” cần
phải đặt thực trạng đời sống vợ chồng trong tổng thể mối quan hệ, và như vậy, khi


giải quyết ly hôn, Tòa án mà cụ thể là người thẩm phán không chỉ dừng lại ở việc
ghi nhận sự hiện hữu của tình trạng đó biểu hiện như thế nào mà còn cần phải
thẩm tra, xem xét lợi ích của vợ chồng, của con cái, của gia đình và xã hội trong
quan hệ hôn nhân đó như thế nào. Có cách nhìn toàn diện như vậy thì việc xét xử,
giải quyết ly hôn mới mang lại kết quả cao, chính xác góp phần thúc đẩy quan hệ
HN&GĐ phát triển phù hợp với đạo đức XHCN, phù hợp với lợi ích toàn xã hội.
Khi giải quyết, Tòa án không chỉ dựa vào nguyên nhân mà đương sự đưa ra

mà từ nguyên nhân đó Tòa án phải tiến hành điều tra, xác minh để xác định và kết
luận, nếu quan hệ vợ chồng không thể kéo dài được vì mục đích hôn nhân không
đạt được thì mới giải quyết cho ly hôn.
Thẩm phán có quyền cho phép ly hôn hay không cho phép ly hôn dựa trên
cơ sở pháp lý nêu trên và trên cơ sở đánh giá mức độ hợp lý, hợp tình biểu hiện
ở thực tế, lý do của đương sự trình bày với căn cứ ly hôn mà pháp luật đã quy
định. Thẩm phán có quyền bác đơn xin ly hôn nếu thấy lý do không có căn cứ
và việc ly hôn đó có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với cuộc sống sau này
của vợ chồng hoặc con cái. Vấn đề đặt ra là người trực tiếp giải quyết cho ly
hôn phải phân tích chính xác, khách quan, toàn diện, có khoa học và hợp lý yêu
cầu ly hôn để chấp nhận cho ly hôn hay bác đơn yêu cầu ly hôn. Trong khi Luật
HN&GĐ 2000 không có điều luật nào quy định về căn cứ để “bác đơn yêu cầu
ly hôn”. Đây thực sự là khó khăn vướng mắc của Tòa án khi thụ lý, giải quyết
các vụ án ly hôn.
- Xin đơn cử một vụ án như sau:
Anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Thị N kết hôn hợp pháp năm 1990. Cuộc
sống gia đình hạnh phúc được 24 năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không
hợp, anh H có quan hệ ngoại tình với chị T nên thường xuyên gây gổ và có lời lẽ
xúc phạm, đánh đập chị N, anh H không quan tâm đến cuộc sống gia đình nữa. Vì
vậy, ngày 20/5/2014 chị N đã có đơn gửi đến TAND thành phố Lai Châu xin ly
hôn anh H với lý do là do mâu thuẫn vợ chồng, tính tình không hợp.


Tại phiên hòa giải, Tòa án nhận thấy lý do chị N ,bằng chứng chị N đưa ra là
không rõ ràng, anh H đã trình bày lý do anh xúc phạm, đánh đập chị N là do chị N
không sống tốt với anh và gia đình, vì chị N tự ý bỏ nhà đi. Nay anh H nhận ra sai
lầm của mình và muốn sửa chữa để hàn gắn lại quan hệ gia đình chứ không muốn
ly hôn, anh vẫn còn yêu thương chị N, nhưng chị N vẫn một mực đòi ly hôn nên
TAND thành phố Lai Châu đã ra quyết định hòa giải không thành và đưa vụ án ra
xét xử.

Tại bản án số 12/2014/HNGĐ-ST ngày 20 tháng 10 năm 2014 Hội đồng xét
xử TAND thành phố Lai Châu đã: Áp dụng khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ 2000
xử bác đơn yêu cầu xin ly hôn của chị N đối với anh H.
Ngày 25/10/2014, chị N đã có đơn kháng cáo gửi lên TAND tỉnh Lai Châu yêu
cầu xem xét cho chị được ly hôn với anh H với ly do hạnh phúc không còn, mâu thuẫn
về quan điểm sống, hay xung đột nhau trong đời sống gia đình.
Qua quá trình thu thập, xác minh lại chứng cứ và đối chiếu với nội dung vụ
án, TAND tỉnh Lai Châu đã nhận định mâu thuẫn vợ chồng xảy ra chỉ là do hiểu
lầm nhau, chưa đến mức trầm trọng nên TAND tỉnh Lai Châu khi xét xử phúc
thẩm đã giữ nguyên bản án sơ thẩm của TAND thành phố Lai Châu.
Như vậy trong trường hợp này do chị N không đưa ra được các chứng cứ để
chứng minh mâu thuẫn vợ, chồng “đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”, trong khi đó anh H vẫn yêu
thương chị và việc ghen tuông chị chỉ do hiểu lầm. Chính vì vậy, TAND tỉnh Lai
Châu đã áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 89 Luật HN&GĐ 2000 và mục 8 NQ số
02/2000/HĐTP ngày 23/12/2009 của Hội đồng thẩm phán TANDTC xử bác đơn
yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh H là đúng pháp luật, thấu tình đạt lý.
Thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại TAND thành phố Lai Châu
trong những năm qua cho thấy nguyên nhân dẫn đến “tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài” là rất đa dạng, phức tạp.
Thực tế có nhiều nguyên nhân mà mỗi đương sự khi đến trình bày tại Tòa án
là không hề giống nhau, mỗi vụ án mỗi nguyên nhân. Bên cạnh những nguyên


nhân đã được bộc lộ ra ngoài qua sự trình bày của đương sự thì vẫn còn những
nguyên nhân ẩn dấu bên trong mà các đương sự không muốn đề cập hoặc cố tình
che dấu như: ngoại tình, không chung thủy,bị đánh đập, ngược đãi, vợ chồng xa
cách lâu năm, bệnh tật, không có con hoặc không sinh được con trai, nguyên nhân
kinh tế…cũng là nguyên nhân hay xảy ra trong các vụ án ly hôn.
Trên thực tế, có một số vụ án ly hôn, thẩm phán chưa thật sự phân biệt được căn

cứ ly hôn với nguyên nhân ly hôn hoặc động cơ ly hôn nên đã dựa vào nguyên
nhân ly hôn hay động cơ ly hôn để giải quyết vụ án, điều này dẫn đến tình trạng
cho ly hôn theo “lỗi” của đương sự tức là làm trái với quy định của pháp luật. Việc
không dựa vào căn cứ ly hôn mà dựa vào nguyên nhân ly hôn hay động cơ ly hôn
sẽ không nhận định được thực tế của quan hệ hôn nhân để đưa ra cách giải quyết
hợp tình, hợp lý.
Như vậy, mặc dù có những quy định của pháp luật cụ thể cho việc áp dụng
căn cứ ly hôn nhưng thực tế, để nhìn nhận, đánh giá, giải quyết vấn đề này cho
hợp tình, hợp lý là không hề đơn giản, hiệu quả của việc áp dụng giải quyết các vụ
án ly hôn còn phụ thuộc vào năng lực của thẩm phán trong việc điều tra, xác minh,
đánh giá thực trạng hôn nhân của vợ chồng để đưa ra một quyết định, một hướng
giải quyết đúng đắn nhất góp phần ổn định quan hệ HN&GĐ và lợi ích của xã hội.
+ Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là một vấn đề phức tạp, thường có nhiều
tranh chấp giữa vợ chồng khi ly hôn và gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn xét
xử nhiều năm qua tại TAND thành phố Lai Châu nói riêng và các TAND ở nước
ta nói chung.
Theo nguyên tắc chung, quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ 2000 thì việc
chia tài sản khi ly hôn sẽ do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì
yêu cầu Tòa án giải quyết. Nguyên tắc này xuất phát từ quyền tự định đoạt của
đương sự trong quan hệ dân sự.
Tài sản của vợ chồng gồm có tài sản riêng và tài sản chung. Việc xác định tài
sản nào là tài sản riêng, tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng và cách giải


quyết như thế nào luật đã quy định khá cụ thể, tuy nhiên, thực tiễn giải quyết, xét
xử không còn gặp nhiều vướng mắc..
Vì có một số tài sản riêng đã bị trộn lẫn với tài chung nên việc xác định, chứng
minh của đương sự gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, pháp luật quy định có những
trường hợp tài sản riêng được tăng giá trị lên rất nhiều lần vì người có tài sản riêng đã

dùng tài sản chung để tu sửa, làm tăng giá trị tài sản riêng của mình thì Tòa án cần
xác định phần tăng giá trị đó, nhập vào tài sản chung để chia, trên thực tế việc xác
định này không phải là vấn đề dễ dàng.
Theo quy định của pháp luật, thời kỳ hôn nhân chấm dứt khi có sự kiện pháp
lý làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật đó là:
- Khi vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố vợ, chồng đã
chết.
- Trường hợp vợ, chồng còn sống thì hôn nhân chấm dứt bằng ly hôn, tính từ
thời điểm phán quyết về ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Trên lý thuyết và thực tế (khi có yêu cầu) cần phải xác định về vấn đề tài sản
giữa vợ chồng: chế độ tài sản của vợ, chồng được xác định như thế nào khi người
chồng hoặc người vợ đó trở về? Vấn đề này đã gây khó khăn cho Tòa án khi giải
quyết những trường hợp này. Ở đây có thể có hai trường hợp:
- Sau khi người vợ, chồng đã bị tuyên bố là đã chết, tài sản chung của vợ
chồng chưa chia; người chồng, vợ (còn sống) đang quản lý tài sản chung.
- Có trường hợp sau khi tuyên bố vợ, chồng đã chết tài sản chung của vợ
chồng đã được chia, phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung đã chia
cho những người thừa kế của người đó.
Vấn đề đặt ra là: - Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố
người vợ chồng đã chết, quan hệ hôn nhân của họ đương nhiên được khôi phục
(nếu người chồng, vợ kia chưa kết hôn với người khác). Vậy quan hệ tài sản (gồm
khối tài sản chung của vợ chồng) có đương nhiên được khôi phục hay không?
Khôi phục như thế nào? Sau khi người vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết, những tài


sản do người chồng, vợ tạo dựng, cùng các hoa lợi, lợi tức thu được từ các loại tài
sản kể từ khi người vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết cho đến ngày trở về, thuộc
khối tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của người chồng, vợ đó?
- Những hợp đồng mà người vợ, chồng đó đã ký kết với người khác (người
thứ ba) nhưng chưa được thực hiện; những món nợ mà người vợ, chồng vay của

người khác nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình thuộc nghĩa vụ chung
của vợ, chồng theo trách nhiệm liên đới của vợ chồng (Điều 25 Luật HN&GĐ
2000); hay thuộc nghĩa vụ riêng của người vợ, chồng?
Những vấn đề trên là rất phức tạp mà chưa được pháp luật dự liệu và chưa có
văn bản pháp luật điều chỉnh nên đã gây khó khăn, lúng túng cho Tòa án khi giải
quyết những trường hợp này.
Chính vì có những cách hiểu khác nhau đối với vấn đề hoa lợi, lợi tức từ tài sản
riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chưa có quy định rõ ràng, cụ thể nên tạo ra
những cách giải quyết khác nhau của Tòa án khi gặp những trường hợp này.
Thực tiễn xét xử cho thấy, trong các loại tài sản của vợ chồng khi ly hôn còn
có hai loại tài sản quan trọng mà trong thực tiễn giải quyết gặp nhiều khó khăn đó
là nhà và quyền sử dụng đất của vợ chồng.
Trước hết, là việc xác định nhà là tài sản chung của vợ chồng, đây là vấn đề
phức tạp vì nhà có trong thời kỳ hôn nhân có nhiều loại: Nhà do hai vợ chồng mua
hoặc xây dựng; nhà do cha mẹ chồng (hoặc cha mẹ vợ) cho chung hai vợ chồng
(là tài sản chung của vợ chồng); trường hợp vợ, chồng còn ở chung với gia đình
cha mẹ chồng ( hoặc cha mẹ vợ) mà nhà đó là tài sản của cha mẹ, không thuộc tài
sản chung của vợ chồng thì không chia. Chính vì tính phức tạp đó nên trong quá
trình phân chia tài sản là nhà đòi hỏi Tòa án phải phân biệt được các trường hợp
trên, phải xác định được đúng chủ sở hữu của ngôi nhà mà vợ chồng đang ở để
làm căn cứ cho việc phân chia. Mặt khác trong trường hợp có tranh chấp liên quan
đến nhà ở là tài sản riêng của vợ chồng nhưng đã được vợ chồng tu sửa làm tăng
giá trị lên hoặc bên có nhà đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn lại nói chưa nhập…Vì vậy thực tế giải quyết đã có nhiều trường


×