Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Du ký quốc ngữ việt nam trong bối cảnh văn học giao thời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.38 KB, 24 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du ký là thể tài văn học xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử
văn học Việt Nam. Lấy việc thưởng du, ngoạn cảnh, đi và xem làm
cảm hứng nghệ thuật cho việc sáng tác, du ký đóng góp cho nền văn
chương nước nhà nhiều tác phẩm có giá trị. Du ký ra đời và phát
triển cùng chiều dài lịch sử văn học dân tộc, nhất là trong văn học
Quốc ngữ buổi giao thời.
Cũng như đối với việc đánh giá các tác phẩm viết theo thể
loại, thể tài khác, việc đánh giá các tác phẩm du kí Quốc ngữ buổi
giao thời, cần đặc biệt chú ý đến các giá trị tìm tòi, thể nghiệm, mở
đường hơn là đòi hỏi hay tìm kiếm những giá trị, đóng góp khác.
Nghiên cứu lịch sử văn học phải xuất phát từ cái nhìn toàn
vẹn về nó. Có nhiều khuynh hướng nghiên cứu văn học sử khác nhau
nhưng gần đây khuynh hướng nghiên cứu lịch sử văn học qua các thể
loại văn học bộc lộ nhiều ưu điểm nhất. Đúng như Bakhtin khẳng
định: chính thể loại mới là nhân vật trung tâm của lịch sử văn học.
Xuất phát từ quan điểm trên, khuynh hướng nghiên cứu thể loại văn
học trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết. Việc nghiên cứu thể tài du ký
cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Đồng hành cùng công việc của các nhà nghiên cứu hiện nay
đang làm, chúng tôi muốn khẳng định giá trị nghệ thuật và học thuật
của các tác phẩm du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời. Từ đó, người
đọc, người học có cái nhìn đầy đủ và khoa học hơn về một thể tài văn
học rất thịnh hành – thịnh hành nhưng lại chưa được chú ý nghiên cứu
đúng mức – trong một giai đoạn đặc biệt của nền văn học nước nhà: văn
học buổi giao thời, trên đường hiện đại hóa.


2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể thấy, các bài viết, công trình nghiên cứu về du ký đã
thu được kết quả, thành tựu nhất định với đóng góp cụ thể về nhiều
khía cạnh. Tuy vậy, có thể do những nguyên nhân khác nhau, thành
tựu nghiên cứu về thể tài này vẫn còn những khiếm khuyết cần được
bổ túc. Cụ thể:
- Chưa có một sự sưu tập đầy đủ hay tiến hành tổng kiểm kê
tác phẩm, tác giả du ký trên khắp mọi miền đất nước để có được một
bức tranh trung thực đầy đủ về du ký Quốc ngữ Việt Nam.
- Nhìn chung các bài viết công trình còn thiên về giới thiệu
bình chú tác phẩm hoặc xem xét một vài khía cạnh đơn lẻ, chưa có
nhiều bài viết công trình xem xét một cách hệ thống toàn diện thể tài
du ký, ứng dụng được thành tựu nghiên cứu lý luận văn học hiện đại.
- Tác phẩm du ký và lao động nghệ thuật của tác giả du ký
thường được nhìn nhận như là hiện tượng, sự kiện đơn nhất, chưa
được xem xét trong bối cảnh, trong tính loại hình, tính quá trình của
thể tài, của nền văn học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án chúng tôi là hệ
thống tác phẩm du ký ra đời trong buổi đầu của nền quốc văn đã
được tập hợp thành sách, được in trên báo chí Quốc ngữ ra đời ở cuối
thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, tác phẩm công bố trong các công trình
của từng tác giả riêng lẻ (85 tác phẩm)…
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án chúng tôi là định hình diện
mạo của thể tài du ký Quốc ngữ trong tiến trình phát triển của văn
học, vai trò của thể tài này trong bối cảnh văn học buổi giao thời.



3
3.3. Văn bản khảo sát, đối chiếu và thống kê
Dựa trên các văn bản du ký Quốc ngữ sưu tầm rải rác trên báo
chí, trong các hợp tuyển, chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê, phân
loại một số phương diện cụ thể nhằm làm rõ đặc điểm và vai trò của thể
tài đối với nền quốc văn.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án hướng tới mục tiêu cụ thể là làm sáng rõ giá trị tiên
phong của thể tài du ký trong bối cảnh non trẻ của nền quốc văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp loại hình
5.2. Phương pháp hệ thống
5.3. Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội
Ngoài ra, luận án sẽ dựa vào thành tựu nghiên cứu thi pháp
thể loại, kết hợp nghiên cứu đồng đại với nghiên cứu lịch đại, sử
dụng rộng rãi các thao tác, khảo sát, thống kê, miêu tả, so sánh, tổng
hợp, khái quát hóa…
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án sẽ làm nổi bật những đặc trưng của thể tài du ký ở giai
đoạn giao thời với tất cả những phương diện cơ bản nhất như yếu tố cấu
thành, đặc điểm nội dung, nghệ thuật, nhiệm vụ lịch sử…
7. Những đóng góp của luận án
Luận án chỉ ra cho người đọc thấy được giá trị của một thể tài
văn học xuất hiện với vai trò “khai sơn phá thạch” nhưng chưa được
giới nghiên cứu quan tâm đúng mực. Các tác phẩm du ký được phát
hiện thêm có thể làm tài liệu cho các khoa học liên ngành tìm hiểu về
giai đoạn này.
8. Cấu trúc của luận án



4
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận án được chia thành 03 chương như sau:
Chương 1. Du ký Quốc ngữ trong diễn trình du ký Việt Nam
Chương 2. Các tiểu loại và đặc điểm chính của du ký Quốc
ngữ Việt Nam
Chương 3. Vai trò tiên phong của du ký Quốc ngữ Việt Nam
trong công cuộc đổi mới văn học buổi giao thời
Cấu trúc ba chương của luận án nhằm làm sáng rõ những
đóng góp thực sự của du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời với sự hình
thành, phát triển của nền quốc văn hiện đại.
Chương 1
DU KÝ QUỐC NGỮ TRONG DIỄN TRÌNH DU KÝ VIỆT NAM
1.1. Định danh thể tài du ký
1.1.1. Thuật ngữ du ký trong văn học trung đại Việt Nam
Các soạn giả của từ điển Từ Hải đã định nghĩa về du ký như sau:
Du: “hành tẩu ngoạn thưởng…”. Du ký: “Văn thể đích nhất
chủng, chuyên môn dụng lai ký lục du ngoạn tham quan kinh
nghiệm. Như Liễu Tông Nguyên đích thủy đắc Tây Sơn yến du
ký…”[154; tr.1130]. Du có nghĩa là đi dạo thưởng ngoạn. Du ký là
một loại văn thể, chuyên dụng để ghi chép lại (những điều đã nghe
thấy trên đường), kinh nghiệm, tham quan, du ngoạn.
Như vậy, du nghĩa là đi xa, dạo bước khắp nơi. Ký là ghi
chép lại. Du ký có thể dung nạp cả hai hình thức thể hiện đó là tự sự
bằng thơ và tự sự bằng văn xuôi. Đồng thời, ở du ký có cả tự sự và
trữ tình nhưng yếu tố tự sự vẫn chiếm phần quan trọng. Nếu tác
phẩm là một chuyến du ngoạn hoàn chỉnh thì đó là du ký còn nếu chỉ
là một khoảnh khắc tâm trạng, hay cảm hứng của người viết trước
cảnh đẹp thì đó là thơ, phú đề vịnh phong cảnh...



5
1.1.2. Thể tài du ký trong văn học Quốc ngữ
1.1.2.1. Phân biệt thể tài và thể loại văn học
Thể tài và thể loại văn học đều là một bộ phận nhỏ của “loại”
văn học (có 3 loại văn học: tự sự, trữ tình, kịch), mỗi loại bao gồm
các thể khác nhau.
Thể loại là khái niệm chỉ phương diện tương đối ổn định, bền
vững trong cấu trúc tác phẩm. Nếu như khái niệm thể loại chú ý
nhiều đến hình thức mang tính nội dung thì thể tài nhấn mạnh hơn ở
khía cạnh nội dung mang hình thức.
1.1.2.2. Thể tài du ký
Xét về phương diện nội dung, các tác phẩm du ký thường được
viết trong hoặc sau những chuyến đi, kể về những điều tai nghe mắt
thấy, những điều đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng tác giả.
Xét về phương diện nghệ thuật, nhìn từ phương thức tự sự,
góc độ kết cấu, về ngôn ngữ nghệ thuật,…
1.2. Những tác động dẫn đến sự hình thành thể tài du ký
trong văn học Quốc ngữ
1.2.1. Tác động ngoài văn học
1.2.1.1. Sự thay đổi cấu trúc văn hóa
Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời chịu ảnh hưởng sâu xa,
mạnh mẽ bởi quá trình tiếp xúc với nền văn minh phương Tây. Nhiều yếu
tố của nền văn hóa mới xâm nhập bức tranh văn hóa trung đại. Với dụng
ý không mấy tích cực, người Pháp muốn dần dần biến nước ta thành bản
sao của Pháp quốc trên mọi phương diện. Người Việt với sự linh hoạt
diệu kỳ đã biến những điều khả nguy trở thành khả an cho sinh mệnh văn
hóa nước nhà. Những yếu tố của nền văn hóa mới là sản phẩm công cuộc
nô dịch của thực dân nhưng cuối cùng lại trở thành nhân tố hỗ trợ đắc lực
cho sự vận động, phát triển của văn hóa dân tộc.



6
1.2.1.2. Công cuộc khai thác thuộc địa của người Pháp
Người Pháp vào Việt Nam, cho xây dựng nhiều tuyến
đường, đem theo nhiều phương tiện đi lại hiện đại: ô tô, xe lửa, tàu
thủy… Vô tình, họ đã mở ra cơ hội viếng thăm nhiều nơi của mọi
tầng lớp trong xã hội. Người ta có thể đi lại khắp mọi vùng miền của
tổ quốc mà không mất nhiều thời gian, không gặp trở ngại vì địa hình
hiểm trở… Đó là cơ sở quan trọng để du ký hiện đại được hình
thành, phát triển sâu rộng.
1.2.1.3. Sự thay đổi tâm lý, thói quen của con người thời đại
Đi cùng với bước chân xâm lược của người phương Tây là tư
tưởng văn hóa phương Tây. Tư tưởng thích khám phá, thích xê dịch,
thích phiêu lưu, mạo hiểm của người Châu Âu có điều kiện thâm nhập
vào người Việt, khiến những con người xưa nay vốn quen với lũy tre
làng bỗng ham muốn thoát khỏi những ràng buộc vô hình để thưởng
ngoạn, khám phá, tìm hiểu những vùng đất mới…
1.2.2. Sự vận động bên trong của bản thân văn học
1.2.2.1. Sự thôi thúc của tình cảm con người thời đại
Cùng với những biến chuyển trong đời sống xã hội đã dẫn
đến sự thay đổi trong tư duy văn học. Hiện thực bộn bề đã tràn ngập
vào thơ ca buộc nó phải bung ra, vỡ òa về hình thức. Tiếp nối theo
sau thơ ca bất quy phạm là sự xuất hiện của nhiều thể loại văn xuôi.
Sự thay đổi tư duy văn học từ thơ sang văn xuôi phản ánh nhu cầu tự
bộc lộ của con người cá nhân với nhiều cung bậc khác nhau trong
cuộc sống. Đó là cơ sở văn hóa, văn học giúp thể tài du ký nở rộ,
phát triển ở cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
1.2.2.2. Sự chuyển dịch thể loại văn học
Do nhu cầu bức thiết của đời sống, để đáp ứng nhu cầu được

bộc lộ những vấn đề phức tạp diễn ra trong đời sống, văn chương có


7
bước chuyển đột phá. Loại hình ký với khả năng uyển chuyển, linh
hoạt trong bút pháp đã trở nên đắc dụng ở những năm cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX.
Nếu văn chương thời trung đại chú trọng nhiều hơn đến tình
thì văn chương thời hiện đại chú ý nhiều đến sự. Chính hiện thực đời
sống là cơ sở để những thể loại văn xuôi đặc biệt phát triển trong thời
đại mới trong đó có du ký.
1.2.2.3. Sự chuẩn bị của nền văn học trung đại
Lịch sử văn học đã ghi nhận sự xuất hiện của nhiều tác phẩm
du ký. Từ những du ký ngắn, dung lượng nhỏ đến những du ký dài
hơi, dung lượng lớn đều đã có mặt trong lịch sử văn học trung đại.
Càng về sau, hiện thực được phản ánh trong du ký càng nhiều hơn,
khả năng diễn đạt của câu văn xuôi ngày càng uyển chuyển hơn.
Điều đó hoàn toàn phù hợp với tiến trình hiện đại hóa nền văn học.
1.2.2.4. Sự tương tác của các thể loại văn học
Hệ thống thể loại văn học có sự tương tác bên trong, vận động
biến chuyển để hình thành nên những thể tài độc lập, mới mẻ hoặc
thay đổi về chất. Đối với du ký, quá trình tương tác thể loại diễn ra
có tuần tự và hết sức năng động: tương tác giữa ngôn ngữ Hán và
Quốc ngữ, hướng tương tác giữa văn xuôi và thơ, tương tác giữa thể
loại hư cấu và thể loại không hư cấu…
1.2.2.5. Sự bế tắc trong tư tưởng của trí thức Việt Nam
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xuất hiện nhiều du ký do
tầng lớp trí thức tiểu tư sản, các nhà Nho sớm tiếp cận với chữ Quốc
ngữ sáng tác. Hầu hết họ là những người không tìm thấy lý tưởng ở
giai đoạn loạn lạc. Tuy nhiên, từ sâu trong tâm thức của đại bộ phận

trí thức đương thời, tinh thần yêu nước vẫn là điểm tựa vững chắc
cho hành động của họ. Nỗi bế tắc, tuyệt vọng trên con đường tìm


8
hướng đi đúng đắn của thời đại đã thôi thúc bước chân lãng du người
trí thức tìm quên trong niềm vui sông núi.
1.3. Quá trình phát triển thể tài du ký
1.3.1. Du ký Hán Nôm
1.3.1.1. Sự hình thành và phát triển của thể tài du ký Hán Nôm
Thời trung đại mở ra bước đầu hình thành của du ký, trong
bước chuyển sang thời hiện đại du ký nở rộ, phát triển nhiều hình
thái vô cùng phong phú. Du ký Hán Nôm là nền tảng quan trọng để
đưa du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời phát triển cực thịnh. Có thể
thấy sự tiếp nối của du ký Hán Nôm ở du ký Quốc ngữ giai đoạn giao
thời qua các nhóm đề tài, nghệ thuật sáng tạo, sự phát triển ý thức cá
nhân người cầm bút...
1.3.1.2. Đặc điểm nội dung thể tài du ký Hán Nôm
Về đề tài, dựa vào nội dung phản ánh của du ký Hán Nôm,
chúng tôi bước đầu gộp chúng thành những nhóm nhỏ như sau: du ký
phong cảnh, du ký viễn du ngoại quốc, du ký khảo cứu địa danh. Mỗi
nhóm du ký mang đặc điểm riêng về nội dung, tuy nhiên không phải
chúng lúc nào cũng phân định rạch ròi mà có sự đan xen, hòa lẫn vào
nhau. Tiêu chí quan trọng để xác định nội dung du ký là nếu tác phẩm
chiếm dung lượng lớn về nội dung nào sẽ được xếp vào nhóm đề tài đó.
1.3.1.3. Đặc điểm nghệ thuật thể tài du ký Hán Nôm
* Đặc điểm thứ nhất là hỗn dung thể loại. Ký là loại hình tự
sự tương đối tự do về kết cấu, bút pháp nghệ thuật. Nó cho phép
dung nạp nhiều thể loại khác nhau mà không làm cho tác phẩm rời
rạc, lạc lõng. Người viết tự do tung hoành trên trang viết theo nhận

thức, cảm xúc chủ quan mà tác phẩm vẫn hợp lý, cuốn hút.
* Đặc điểm thứ hai là sử dụng phổ biến các chi tiết kỳ ảo. Văn
xuôi thời trung đại tồn tại song song với nền văn xuôi thuộc văn học dân


9
gian. Cách thức tư duy của người nghệ sĩ trong văn học thời trung đại và
người nghệ nhân của văn học dân gian không khác nhau là mấy. Vì thế, ta
thấy trong các thể loại văn xuôi như truyền thuyết, cổ tích, yếu tố kỳ ảo
đóng vai trò then chốt tạo nên đặc điểm, sức hấp dẫn của các thể tài này.
* Đặc điểm thứ ba là nghệ thuật miêu tả không gian, thời
gian. Nếu không gian là mảng màu chính của bức tranh du ký thì
thời gian là cái trục để từ đó mọi chi tiết được triển khai. Thời gian
như điểm tựa để tác giả ghi lại diễn biến cuộc hành trình.
1.3.2. Du ký Quốc ngữ
1.3.2.1. Sự tiếp nối và cách tân từ du ký Hán Nôm
Tư tưởng hướng về thiên nhiên để thanh lọc, di dưỡng tinh thần
của người quân tử thời trung đại vẫn còn tiếp nối ở các trí thức thời cận
hiện đại. Ở du ký Quốc ngữ, tinh thần khám phá của văn hóa Châu Âu
đã có ảnh hưởng đối với các tác giả giai đoạn giao thời. Người viết du
ký chú ý nhiều đến sự hơn là cảnh. Không gian phản ánh rộng và sự
chuyển dịch trong không gian cũng linh hoạt hơn. Về mục đích sáng
tạo, người viết du ký Hán – Nôm, tức các tác gia trung đại ít quan tâm
đến đối tượng tiếp nhận. Du ký Quốc ngữ đã có ý thức truyền bá tác
phẩm đến đại bộ phận quốc dân nhằm mở mang tầm nhìn cho đại
chúng: khai dân trí, chấn dân khí.
1.3.2.2. Du ký Quốc ngữ, thể tài đánh dấu sự thay đổi hệ
hình mỹ học trong văn học
Mười thế kỷ văn học trung đại, các tác gia chịu sự chi phối
bởi mỹ học phương Đông. Bước chuyển từ thế kỷ XIX sang thế kỷ

XX văn học đã chuyển sang ảnh hưởng của tinh thần thực chứng
phương Tây. Du ký là thể tài đầu tiên thể hiện sự chuyển đổi hệ hình
mỹ học đó. Bởi có thể xác quyết rằng du ký là thể tài văn học sáng
tạo đầu tiên được in trên Gia Định báo từ cuối thế kỷ XIX.


10
Chương 2
CÁC TIỂU LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM CHÍNH
CỦA DU KÝ QUỐC NGỮ VIỆT NAM
2.1. Các tiểu loại du ký Quốc ngữ Việt Nam
2.1.1. Một số quan điểm phân loại du ký Quốc ngữ Việt Nam
Du ký Quốc ngữ là đối tượng nghiên cứu tương đối mới mẻ
nên việc nhận thức và đưa ra quan điểm lý thuyết về nó chưa nhiều.
Những ý kiến phân loại trên của các nhà nghiên cứu hầu như chưa
được phân tích kỹ lưỡng bằng công trình cụ thể. Do vậy, cần có
những công trình tìm hiểu kỹ càng hơn về các tiểu loại của du ký để
thể tài này được định hình rõ nét trong tương quan với các thể loại,
thể tài văn học ra đời ở giai đoạn giao thời.
2.1.2. Cách phân loại du ký Quốc ngữ của tác giả
Bảng 2.1. Bảng phân loại hệ thống du ký Quốc ngữ
Loại hình lời văn nghệ
thuật

Nội dung phản ánh

Du ký

Du ký viết


viết bằng

bằng thơ/

DK

DK viễn

DK văn

DK duy mỹ

văn xuôi

văn vần

công vụ

du

hóa

duy cảm

78

07

18


16

35

16

(91.76%)

(8.24%)

(21,2%)

(18,8%)

(41,2%)

(18,8%)

Sau đây chúng tôi sẽ mô tả, dẫn giải thêm về đặc điểm các tiểu
loại du ký Quốc ngữ lần lượt trên hai bình diện nội dung và hình
thức.
2.2. Du ký Quốc ngữ Việt Nam – Những đặc điểm về nội dung
2.2.1. Du ký công vụ
Đây là nhóm du ký chú trọng ghi chép những vấn đề diễn ra
trong quá trình tác giả đi công cán tức là thực hiện việc công do nhà


11
nước giao phó, do cơ quan đoàn thể phân công. Cũng có thể những
chuyến công vụ đơn giản, bình thường thậm chí là vụn vặt nhưng lại

mang bao điều lý thú thôi thúc tác giả cầm bút viết lại.
2.2.2. Du ký viễn du
Đây quả thực là nhóm du ký có sức hút đối với độc giả bởi sự
mới lạ, khối lượng kiến thức đồ sộ mà người viết cất công du khảo
để mang về làm quà tinh thần cho độc giả trong nước. Du ký viễn du
góp phần vào một việc hết sức quan trọng đó là làm chiếc cầu nối
liền mọi nền văn minh trên thế giới đến gần nhau hơn.
2.2.3. Du ký văn hóa
Thứ nhất, đó là hệ thống những tác phẩm du ký thiên về khảo
cứu danh nhân lịch sử, truyền thuyết và sự tích liên quan tới một địa
điểm cụ thể.
Thứ hai, đó là hệ thống các tác phẩm du ký hướng tới khảo sát,
giới thiệu cả một vùng văn hóa rộng lớn. Đây là dòng du ký có dung
lượng dài và có giá trị lớn đối với văn hóa, văn chương nước nhà.
2.2.4. Du ký duy mỹ, duy cảm
Chất thơ, thi vị, giàu xúc cảm… là những từ ngữ bao quát nhất
để định tính cho nhóm du ký này. Người viết như say cùng cảnh vật
để mặc cho cảm xúc tuôn trào mà không hề giới hạn bởi những vấn
đề chính trị, xã hội, thế sự, nhân sinh… Nhóm du ký này đã chứng
minh rằng nghệ thuật luôn là cái đích cuối cùng để văn học hướng
tới. Kinh nghiệm mỹ cảm hoàn toàn chi phối ngòi bút của người viết.
2.3. Du ký quốc ngữ Việt Nam – những đặc điểm về nghệ thuật
2.3.1. Đặc điểm về phương thức tự sự
2.3.1.1. Tự sự đơn âm như là một cách thức khái quát sự việc
Khác với tiểu thuyết, tính chất đa thanh trong nghệ thuật tự sự
rất rõ, ở du ký ta chỉ bắt gặp lối viết đơn âm với sự hiện hữu của một
chủ thể đó là tác giả. Tác giả là người dẫn dắt, đưa người đọc đi khắp
mọi nơi, cùng trải nghiệm những cảm xúc, thưởng ngoạn thắng cảnh,



12
tiếp xúc từng sự kiện diễn ra trong cuộc hành trình.
2.3.1.2. Tính hấp dẫn từ thông tin tự sự
Sự mới mẻ mang tính khám phá của thông tin đem lại sức hấp
dẫn cho tác phẩm du ký. Những thông tin mới lạ về vùng đất, con
người, phong tục tập quán được tác giả phát hiện trong quá trình “xê
dịch” là nền tảng làm nên giá trị của tác phẩm du ký.
2.3.1.3. Sự mở rộng trường liên tưởng trong khả năng tự sự
Bên cạnh việc kể, tả khách quan những điều mắt thấy, tai nghe,
một phương thức tự sự quan trọng khác trong du ký đó là tự sự theo
trường liên tưởng. Ngoại cảnh là nhân tố tác động người cầm bút liên
tưởng đến nhiều vấn đề khác nhau trong cuộc sống. Những vấn đề
được liên tưởng tới thường cùng nằm trong một trường nội dung.
2.3.2. Đặc điểm về nghệ thuật phác họa con người và cảnh vật
2.3.2.1. Nghệ thuật thể hiện con người
Khảo sát du ký Quốc ngữ, chúng tôi thấy có hai loại nhân vật
được đề cập: nhân vật trong tác phẩm và nhân vật chủ thể, tác giả.
Về hệ thống nhân vật trong tác phẩm, nhân vật du ký không được
miêu tả qua các xung đột, biến cố, mâu thuẫn nội tâm hay mâu thuẫn
giữa nhân vật này với nhân vật khác như trong kịch, tiểu thuyết, truyện
ngắn…
Trong du ký Quốc ngữ sự thể hiện hình ảnh chủ thể - cái tôi
tác giả là một yếu tố nghệ thuật trội bật. Du ký là nhật ký hành trình
nên luôn hiện hữu một nhân vật suốt từ đầu đến cuối tác phẩm đó là
cái tôi của người viết.
2.3.2.2. Về cách thức miêu tả cảnh vật
Cảnh vật trong du ký đóng vai trò làm phông nền giúp du ký
lôi cuốn người đọc. Vì thế, cách kể, tả cảnh vật đóng vai trò quyết
định sự thành bại của một tác phẩm du ký. Cảnh vật trong du ký là
hình ảnh, cảnh quan bên ngoài tác động sâu sắc vào tâm trí của nhà

văn tạo nên sức bật mỹ cảm khiến nhà văn tái tạo lại trong du ký của


13
mình. Có hai loại cảnh quan khác nhau trong du ký Quốc ngữ giai
đoạn giao thời: cảnh phi hư cấu và cảnh hư cấu.
2.3.3. Đặc điểm về ngôn từ nghệ thuật
2.3.3.1. Hệ thống từ Hán Việt và lối diễn đạt biền văn
Trong giai đoạn giao thời, thời kỳ vắt ngang giữa hai nền học
cũ – mới, những giá trị ngôn ngữ cũ vẫn còn bảo tồn trong ngôn ngữ
văn học, cụ thể là một hệ thống đồ sộ từ Hán – Việt vẫn còn “di
thực” vào văn chương viết bằng chữ Quốc ngữ. Bên cạnh việc sử
dụng từ Hán – Việt là lối diễn đạt biền văn. Các sự vật được miêu tả
luôn trong thế đối xứng, các vế tương hợp với nhau tạo thành mệnh
đề phức hết sức phức tạp về cú pháp. Đi đôi với từ ngữ kiểu cách,
khuôn sáo là lối diễn đạt câu dài, phức tạp, có nhiều liên từ.
2.3.3.2. Hệ thống từ cổ và phong cách diễn ngôn cũ
Trong du ký Việt Nam giai đoạn giao thời, ta dễ dàng bắt gặp
từ ngữ thuần Việt đã từng có thời gian sử dụng phổ biến trong lời nói
hàng ngày, nhưng đến nay qua thời gian sàng lọc chúng không còn
được sử dụng nữa mà chỉ còn in dấu lại trong những tác phẩm văn
học. Gắn liền với hệ thống từ cổ là cách diễn ngôn cũ chỉ có trong
văn bản giai đoạn giao thời. Những cách diễn đạt thuộc về văn pháp
cổ văn xuất hiện với tần xuất cao trong văn chương du ký.
2.3.3.3. Hệ thống từ ngữ và lối diễn đạt khúc chiết du nhập từ
phương Tây
Trong bước đầu của nền quốc văn, văn phong du ký đã bắt đầu
hình thành câu văn viết kiểu mới, mô phỏng lối diễn đạt mệnh đề của
ngôn ngữ Châu Âu. Tuy nhiên chúng một mặt mang màu sắc khẩu
ngữ, mặt khác, những từ ngữ Pháp đi liền với lối viết câu dài, cấu tạo

phức tạp, dùng rất nhiều liên từ để nối các thành phần phụ. Đó là
biểu hiện của sự tiếp xúc ban sơ giữa cú pháp tiếng Việt với cú pháp
Ấn-Âu. Dần dần sự biến đổi của câu văn trong du ký mới thực sự
khúc chiết, uyển chuyển hơn.


14
2.3.4. Sử dụng chi tiết kỳ ảo
Trong du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời, việc sử dụng chi tiết
kỳ ảo vẫn còn tồn tại nhưng mức độ đã giảm so với du ký thời trung đại.
Các chi tiết kỳ ảo có mặt trong du ký Quốc ngữ thể hiện sự tiếp nối tư
duy nghệ thuật của thời trung đại. Tuy nhiên, vì hiện thực là điểm tựa
chính nên sử dụng loại chi tiết này như là cách thức để các tác giả giai
đoạn giao thời tiếp cận hiện thực, giải thích cho hiện thực.
2.3.5. Sự hỗn dung thể loại
Sự hỗn dung thể loại là một yếu tố nghệ thuật đặc trưng của
văn du ký nói riêng, loại hình ký nói chung. Hỗn dung thể loại phản
ánh sự tự do trong bút pháp của nhà văn và phong cách thể loại.
Trong ba mươi năm đầu của nền Quốc văn, đặc điểm này được thể
hiện một cách đậm nét. Đối với các tác giả là văn nhân thấm nhuần
tư tưởng học thuật của Nho gia thì sự hỗn dung thể loại càng thể hiện
rõ. Bởi tinh thần chủ tình trong phương thức sáng tạo nghệ thuật vẫn
còn in đậm trong quá trình tiếp nhận hiện thực. Xu hướng chủ tình
trong du ký Quốc ngữ chiếm số lượng ít hơn so với du ký viết theo
tinh thần chủ sự của phương Tây bởi lực lượng chính trong sáng tác
du ký là các tác giả Tây học.
Chương 3
VAI TRÒ TIÊN PHONG CỦA DU KÝ QUỐC NGỮ VIỆT NAM
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VĂN HỌC BUỔI GIAO THỜI
3.1. Sự tiếp biến của thể tài du ký trong văn học Việt

Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
3.1.1. Tiếp biến văn học như là nhu cầu tất yếu của lịch sử
văn học dân tộc
Sự ra đời của văn học Quốc ngữ như là lựa chọn tối ưu của
quá trình tiếp biến văn chương Việt. Nó hoàn toàn phù hợp với yêu
cầu của thời đại, bối cảnh lịch sử mới của đất nước và thế giới. Nó
không hề phủ nhận vai trò văn chương cổ điển với dáng vóc và đặc


15
trưng riêng. 10 thế kỷ ấy đã không ngừng vận động, tiếp sức cho nền
văn học Quốc ngữ định hình trong những giai đoạn kế tiếp của lịch
sử văn học Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn về tương lai trong cái nhìn
phát triển, tích cực không thể không thấy sự hạn hữu của văn chương
trung đại trong khả năng phản ánh, mở rộng biên độ ảnh hưởng. Từ
cái hạn hữu của nền văn học đóng khung, chật hẹp, mang tính khu
vực, văn học Quốc ngữ đã cho thúng ta thấy sự rộng mở của nền văn
chương mới mang tính đại chúng, hiện đại và toàn cầu hóa.
3.1.2. Quá trình phát triển của du ký Quốc ngữ giai đoạn
giao thời –một minh chứng cho sức sống mãnh liệt của văn học
dân tộc
3.1.2.1. Vai trò mở đầu của Philipphê Bỉnh và Trương Vĩnh Ký
Kể từ khi được phát hiện và nghiên cứu từ năm 1968, Sách
sổ sang chép các việc của Philipphê Bỉnh được xem là tài liệu quý
giá. Những gì được tác giả của nó tâm huyết ghi tập là tất cả tâm hồn
và trí tuệ phương Đông trong lần tiếp xúc ngoạn mục với văn hóa
phương Tây trong 30 năm của nửa cuối thế kỷ XVIII.
Tác phẩm Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876) đáp ứng đầy
đủ yêu cầu thể tài du ký về cảm hứng thẩm mỹ: cái khát vọng khám
phá vùng đất mới để mở mang tầm mắt. Với Chuyến đi Bắc kỳ năm

Ất Hợi (1876) có lẽ không có gì bàn cãi khi đặt tác phẩm vào vị trí
tiên khởi của thể tài du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời.
3.1.2.2. Những thử nghiệm độc đáo của Trương Minh Ký
Có lẽ cũng cần nói thêm rằng, sự phát triển vượt bật của thể tài
du ký Quốc ngữ đã có những đóng góp rất lớn của Trương Minh Ký.
Thứ nhất, đó là sự kết hợp, gặp gỡ Đông – Tây trong những trang du
ký Quốc ngữ của Trương Minh Ký. Thứ hai, ông là người khẳng
định du ký là thể tài tiền phong trong buổi đầu của nền quốc văn.
Thứ ba, ông là người đã phát triển ngôn từ nghệ thuật của du ký Quốc
ngữ.


16
3.1.2.3. Sự phát triển và nhiệm vụ của thể tài du ký giai đoạn
giao thời
Bên cạnh sự khẳng định quá trình phát triển của thể tài du ký
như một quy luật tất yếu, các nhà nghiên cứu cũng đã nêu bật những
nhiệm vụ tiếp biến của du ký Quốc ngữ đối với văn học nước nhà giai
đoạn giao thời. Nhiệm vụ tiếp biến nền văn học được trao cho du ký
một cách ngẫu nhiên. Trước sự lụi tàn không thể tránh khỏi của văn
học nhà Nho gắn liền với văn tự Hán – Nôm, du ký Quốc ngữ kịp thời
xuất hiện để lấp vào chỗ trống vắng của lịch sử văn học dân tộc.
3.2. Du ký Quốc ngữ Việt Nam – thể loại mở đường cho
nhiều thể loại văn học quốc ngữ Việt Nam buổi giao thời
3.2.1. Du ký Quốc ngữ trong bức tranh thể loại văn học
buổi giao thời
Mặc dù không phải thể loại mới xuất hiện nhưng du ký ở giai
đoạn giao thời có bước chuyển mình mạnh mẽ để phù hợp với bức
tranh thể loại ở thời kỳ mới. Du ký giai đoạn giao thời có sự đan xen
phức tạp của du ký thời trung đại và du ký hiện đại của phương Tây. Ở

du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời ta thấy tính chất trung gian,
chuyển tiếp của thể loại trên các bình diện sau: Thứ nhất đó là tính
chất trung gian giữa văn xuôi và văn vần; văn xuôi và thơ. Thứ hai là
sự phát hiện khả năng tự sự của thể thơ song thất lục bát. Thứ ba là
tính trung gian giữa hư cấu và không hư cấu, giữa tự sự và trữ tình.
3.2.2. Vai trò mở đường, “bệ đỡ” cho các hình thức tự sự
hoặc tự sự - trữ tình khác
Du ký là tác nhân thúc đẩy, hoa tiêu dẫn đường cho nhiều
thể loại khác ra đời như hồi ký, bút ký, phóng sự, tùy bút hiện đại,
tiểu thuyết, truyện ngắn hiện đại…Về nội dung, du ký đã chuẩn bị
cho các thể tài thuộc loại hình ký chất liệu hiện thực cụ thể, chân xác.
Sử dụng chất liệu ngôn ngữ đời thường vào ngôn từ văn chương.
Vai trò thực sự của du ký trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt


17
Nam là vai trò mở đường, tiền đề nghệ thuật cho sự hình thành, phát
triển của các thể tài cùng loại và các thể loại khác ra đời trong bối
cảnh mới của văn chương nghệ thuật.
3.3. Những đóng góp quan trọng của du ký Quốc ngữ đối
với quá trình cách tân, hiện đại hóa nền văn học
3.3.1. Thúc đẩy quá trình hoàn thiện chữ viết và câu văn
Quốc ngữ
Chữ Hán và chữ Nôm bộc lộ những hạn chế trong quá trình
phản ánh hiện thực. Nó chỉ thực sự phát huy tác dụng với văn
chương chuyên chở tâm – chí – đạo của người quân tử trong bối cảnh
văn chương Đông Á. Để chuyên chở những diễn biến phức tạp của
đời sống và tâm hồn con người trong bối cảnh toàn cầu hóa văn
chương, cần phải có một ngôn ngữ mang tính đại chúng hơn. Chữ
Quốc ngữ đã đáp ứng được yêu cầu đó.

3.3.2. Mở rộng phạm vi và biên độ phản ánh của văn
chương
Du ký không chỉ làm nhiệm vụ ghi chép những gì đang diễn
ra mà nó còn dự báo cho những gì sắp đến bằng khả năng mở rộng
phạm vi phản ánh cho văn chương. Không còn quẩn quanh trong các
đề tài Tâm – Chí – Đạo, du ký báo hiệu cho sự bùng nổ về thông tin
trong văn chương, sự phong phú trong biểu hiện xúc cảm của con
người trong bối cảnh xã hội mới.
3.3.3. Mở đường cho sự định hình của cái tôi cá thể trong
văn chương hiện đại
Bước sang thời hiện đại, với thể tài văn học được hình thành
bằng sự sáng tạo của trí tuệ cá nhân, du ký đã tạo nên một cái tôi với
đầy đủ cá tính và danh xưng độc lập. Một cái tôi lãng du, vượt thoát
để ngao du cùng trời cuối đất, xê dịch, khám phá thế giới mới mẻ
xung quanh. Cái tôi ấy tự do phát biểu ý kiến, luận định về mọi việc


18
đang diễn ra. Cái tôi ấy không ngừng tự khẳng định sự hiện hữu của
bản thân giữa cuộc đời, giữa mênh mông trời đất.
3.3.4. Cuộc chuyển giao nhiệm vụ giữa du kí với các thể
loại hình thành sau nó và sự tiếp biến của du ký ở những chặng
đường văn học tiếp sau
Trong giai đoạn đầu của quá trình tiếp xúc với văn hóa
phương Tây, du ký nổi lên như một lựa chọn cần thiết và tất yếu của
thời đại. Sang các giai đoạn sau của lịch sử xã hội, văn học cần
những thể loại khác hơn có thể phản ánh đúng nhịp thở đang sục sôi,
gấp rút. Khi sự tiếp xúc đã đi đến giai đoạn loại trừ những yếu tố
không phù hợp thì phải cần đến những thể tài, thể loại mới hơn, có
sức công phá mạnh mẽ hơn để làm nhiệm vụ này. Du ký đã chuyển

giao lại nhiệm vụ cho phóng sự, hồi ký, tiểu thuyết, truyện ngắn…
3.3.5. Tiềm năng và giới hạn của du ký
Trên hành trình phát triển của văn học, du ký có mặt mọi lúc,
mọi nơi. Dù với cách thức nào du ký cũng chưa bao giờ mất đi trong
lịch sử văn học dân tộc. Du ký là thể tài văn học không mới nhưng
trong bối cảnh mới của văn chương, thể tài này buộc phải có sự thay
đổi cho thích ứng với tâm lý của con người thời đại, phù hợp với thị
hiếu thẩm mỹ của số đông. Điều có thể khẳng định chắc chắn là du
ký không thể mất đi theo thời gian bởi nhu cầu khám phá thế giới của
con người là không có giới hạn.
KẾT LUẬN
1. Du ký Quốc ngữ là sản phẩm tinh thần của thời đại mới, thời
đại mà ranh giới của giữa các địa phương, các quốc gia chỉ còn rất
mong manh. Thời đại toàn cầu hóa đã bắt nhịp cho du ký phát triển
sôi nổi hơn bao giờ hết ở giai đoạn giao thời. Sự xuất hiện của hàng
loạt du ký trên hầu khắp báo chí ở giai đoạn hội nhập Á Âu đã cho
thấy khả năng lan tỏa và sức sống mạnh mẽ của nền văn học mới
sinh thành. Du ký là thể tài tự sự, tự do về bút pháp, tự do về tư


19
tưởng nhưng vẫn những mang đặc điểm chung của loại hình ký.
Những tác phẩm được xem là du ký phải đảm bảo các nguyên tắc cơ
bản như: nội dung viết về chuyến đi hoàn chỉnh của tác giả đến một
nơi nào đó trong thế giới thực hoặc thế giới tưởng tượng nhằm ghi
chép lại, kể tả những điều tai nghe, mắt thấy hoặc bộc lộ suy tưởng
trong cuộc hành trình. Những ghi chép đó thường gắn liền với xúc
cảm, gương mặt tinh thần của người viết dưới dạng luận bình hoặc
trực tiếp tỏ bày.
Du ký có hành trình phát triển qua thời gian dài, từ mười thế

kỷ văn học trung đại đến thời hiện đại và còn tồn tại mãi theo thời
gian. Mỗi thời đoạn, du ký xuất hiện với những diện mạo khác nhau
do sự chi phối của các yếu tố ngoại sinh và nội sinh không giống
nhau. Ở thời trung đại, du ký phổ biến chủ yếu những nội dung như
du ký viễn du ngoại quốc, du ký phong cảnh, du ký khảo cứu địa
danh. Nghệ thuật được các tác gia trung đại sử dụng trong du ký là
sự hỗn dung thể loại, sử dụng chi tiết kỳ ảo, không gian hiện thực,
thời gian theo bước chuyển của sự kiện là cơ bản. Sang thời hiện đại,
nhất là ở giai đoạn đầu của nền Quốc văn, du ký có sự nối tiếp từ du
ký Hán Nôm về đặc trưng chung của thể tài nhưng vẫn khác biệt do
sự chi phối của thời đại.
Du ký Quốc ngữ tiếp nối du ký Hán Nôm ở tinh thần gắn kết
giữa con người và thiên nhiên, ở xu hướng thích bộc bạch tâm tình,
tức trữ tình ngoại đề khi khảo tả hiện thực, tính chất nguyên hợp của
loại hình ký nói chung, lối viết đăng đối réo rắt vẫn còn ở một số cây
bút… Ít nhiều, tinh thần Đông phương vẫn còn trong du ký giao thời
nhưng ảnh hưởng nhiều hơn vẫn là tinh thần Tây phương. Sự ảnh
hưởng của Tây phương đưa ngòi bút của tác giả hướng đến sự nhiều
hơn tình, chú ý đến cả những nét thô nhám của hiện thực, cái tôi cá
nhân được tô đậm, khắc họa rõ nét hơn, đối tượng của du ký cũng
được xác định rõ ràng khi hầu hết du ký đều lựa chọn báo chí để


20
đăng tải… Du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời đã cho thấy được khả
năng tiếp nối không bao giờ đứt lìa của nền văn học dân tộc dẫu thời
đại có đổi thay, đất nước có bị chia cắt.
2. Tuy không có nhiều tác phẩm đỉnh cao nhưng du ký Quốc
ngữ vẫn tồn tại như một thể tài tiên phong trong đổi mới văn học
buổi giao thời. Du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời được chúng tôi

đề xuất chia thành các tiểu loại theo hai tiêu chí nội dung và phương
thức tiếp cận đời sống, bút pháp chủ đạo. Về nội dung có du ký công
vụ, du ký viễn du, du ký văn hóa, du ký duy mỹ, duy cảm . Các tiểu
loại của du ký đều hướng đến phản ánh những không gian khác nhau
của cuộc sống, từ thế giới thực đến thế giới tưởng tượng, từ thế giới
phương Đông gần gũi thân quen đến thế giới phương Tây “kỳ lạ
nghịch đảo”, từ những chân trời cao rộng, mênh mông đến mọi ngóc
ngách nhỏ hẹp gần gũi với cuộc sống người Việt… Mỗi một nơi,
người viết đều phát huy khả năng văn chương vượt trội để cống hiến
cho độc giả những trang viết có giá trị. Đó là giá trị vững bền theo
thời gian.
Về nghệ thuật, du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời không điêu
luyện, sắc sảo như văn chương giai đoạn sau này nhưng là bước
chuẩn bị cần thiết để các giai đoạn văn học sau làm điểm tựa. Du ký
Quốc ngữ lấy phương thức tự sự đơn âm (khác với đa âm) làm
phương thức tự sự cơ bản; chú trọng các chi tiết làm tăng sức hấp
dẫn của thông tin tự sự từ đó các tác giả luôn mở rộng biên độ của
trường liên tưởng để dẫn dắt người đọc đi đến những điều bất ngờ
diễn ra trong cuộc sống. Nghệ thuật miêu tả con người, cảnh vật
trong du ký là sự chuẩn bị cho các thể loại tự sự ra đời sau này. Nhân
vật khách thể xuất hiện với dáng nét trung thực bằng lời văn, nét bút
được lựa chọn cẩn thận, con người chủ thể hiện hình qua diện mạo,
qua ngôn ngữ, qua cách thức lựa chọn chi tiết, sự việc,…Cảnh vật
trong du ký là cảnh quan bên ngoài đã tác động mạnh mẽ đến tâm


21
hồn, ý thức của nhà văn tạo nên sức bật về mỹ cảm, buộc nhà văn
phải thể hiện bằng con chữ… Ngôn ngữ nghệ thuật chủ yếu là ngôn
ngữ văn xuôi chữ Quốc ngữ đã được thành hình, đủ sức dung chứa

nội dung hiện thực rộng lớn, gồm những đặc điểm nổi bật như: hệ
thống từ Hán Việt và lối diễn đạt biền văn, hệ thống từ cổ và phong
cách diễn ngôn cũ, hệ thống từ ngữ và lối diễn đạt khúc chiết du
nhập từ phương Tây. Thông qua du ký, chữ Quốc ngữ đã được hoàn
thiện hơn, ngày càng gần gũi với đại chúng hơn, đồng thời biểu hiện
đa dạng các khía cạnh của cuộc sống con người. Bên cạnh đó, dấu ấn
của sự tiếp nối của du ký Hán Nôm được biểu hiện rõ nét ở hai
phương diện nghệ thuật của du ký Quốc ngữ: sử dụng chi tiết kỳ ảo
và sự hỗn dung thể loại. Điều này cho thấy sự kế thừa và tiếp nối
không ngừng nghỉ của mạch nguồn cảm xúc trong du ký. Đi và viết
vẫn luôn là điều hiện hữu thường xuyên trong cuộc sống dù bối cảnh
xã hội có thay đổi, tư duy và tâm lý con người biến chuyển không
ngừng.
3. Là thể tài văn học đầu tiên viết bằng ngôn ngữ mới, du ký
được chúng tôi nhìn nhận như cánh chim đầu đàn trên mặt trận văn
chương. Từ yêu cầu bức thiết của thời đại, du ký đã đáp ứng kịp thời,
khai mở đầy táo bạo bằng những tác phẩm dài hơi, dung chứa hiện
thực rộng lớn. Bắt đầu bằng Sách sổ sang chép các việc của
Philipphê Bỉnh (1822), đến các sáng tác của Trương Vĩnh Ký,
Trương Minh Ký,… du ký Quốc ngữ đã chứng minh cho sức sống
mãnh liệt của nền văn học dân tộc trong bối cảnh xã hội bị áp đảo
bởi thế lực ngoại xâm. Nhiệm vụ tiếp biến nền văn học được trao cho
du ký một cách ngẫu nhiên từ thực tế lịch sử. Con người cần phải đi
để duy tân, tự cường, đi để mở rộng giao lưu, quan hệ với toàn cầu.
Điều kiện giao thông phát triển là đòn bẩy mạnh mẽ để những
chuyến đi được diễn ra thường xuyên, liên tục. Và du ký viết về sự đi
cũng nhờ đó phát triển về số lượng, chất lượng.


22

Trong vai trò của thể tài mở đường, du ký Quốc ngữ mang tính
chất trung gian giữa văn xuôi và văn vần, giữa văn xuôi và thơ; trung
gian giữa không hư cấu và hư cấu, giữa tự sự và trữ tình. Du ký
Quốc ngữ là hoa tiêu mở đường cho các hình thức tự sự và trữ tình
khác phát triển. Du ký gợi mở triển vọng cho tương lai của nền văn
học mới với nhiều thể loại, thể tài khác sẽ phát triển sôi nổi như hồi
ký, phóng sự, bút ký, tùy bút, tiểu thuyết, truyện ngắn hiện đại, thơ
mới,... Bằng việc chuẩn bị chất liệu hiện thực phong phú, du ký góp
phần nuôi dưỡng chất lượng nội dung cho các thể tài thuộc loại hình
ký. Du ký báo hiệu cho sự lên ngôi của các thể loại văn xuôi trong
bức tranh thể loại ở thời đại mới. Đồng thời tạo được hiệu ứng kích
thích người đọc hướng đến xu thế tiếp cận văn chương mới: xu
hướng đề cao giá trị hiện thực của văn chương. Ngoài ra, không thể
phủ nhận vai trò của du ký đối với quá trình cách tân, hiện đại hóa
nền văn học với những hiệu quả cụ thể, thiết thực bắt nguồn từ quá
trình sáng tạo tác phẩm du ký của người nghệ sĩ. Du ký góp phần
hoàn thiện chữ viết và câu văn Quốc ngữ, mở rộng biên độ và phạm
vi phản ánh cho văn chương, mở đường cho sự hình thành của cái tôi
cá thể trong văn chương hiện đại.
4. Du ký là thể tài văn học đầu tiên phát triển vượt bậc trong
tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX. Từ tác phẩm ký nghệ thuật đích thực đầu tiên của Việt Nam, là
đỉnh cao và là sự hoàn thiện thể ký thời trung đại, Thượng kinh ký sự,
đến sự nở rộ của thể tài du ký trên báo chí ra đời cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX như Gia Định báo, Nam Phong tạp chí, Nông cổ mín
đàm, Đăng cổ tùng báo, Lục tỉnh tân văn, Phụ nữ tân văn,… du ký
đã chứng minh là một thể tài không thể thiếu trong lịch sử văn học
dân tộc. Nếu so sánh với những thể loại văn học khác, du ký không
có được những thành tựu đỉnh cao. So sánh với du ký các giai đoạn
văn học khác, du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời không có được sự



23
sắc sảo, vượt trội về nội dung cũng như nghệ thuật. Nhưng điều gì
làm nên giá trị, sức sống của nó? Đó là dấu ấn lịch sử đã in hằn trên
mỗi tác phẩm du ký, là vai trò của du ký đối với nền Quốc văn Việt
Nam giai đoạn giao thời.
Du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời ẩn chứa bên trong dấu
tích của thời gian, đó sản phẩm nghệ thuật của một thời một đi không
trở lại. Những tác phẩm du ký ra đời ở buổi đầu nền Quốc văn chỉ
sinh tồn trong thời khắc nhất định và con người vĩnh viễn không thể
sáng tạo lại những gì thuộc về quá khứ. Du ký là thể tài văn học đi
đầu trong việc chuyển tải những thông điệp, tín hiệu đầu tiên của
quốc văn hiện đại. Văn học Quốc ngữ kể từ du ký đã bước vào chân
trời mới, từng bước hội nhập cùng văn chương thế giới cả trên
phương diện nội dung lẫn nghệ thuật.
5. Nghiên cứu thể loại, thể tài theo khuynh hướng lịch sử là
một việc làm không mới. Cách làm này góp phần viền nổi giá trị của
thể loại, thể tài trong bức tranh chung của nền văn học. Tuy nhiên,
với một thể tài văn học không phải là “cỗ máy cái”, không kết tinh
được những tác phẩm đỉnh cao về nghệ thuật như du ký thì sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu vẫn còn rất hạn chế. Du ký được dẫn dắt
vào các công trình nghiên cứu lịch sử văn học của các nhà nghiên
cứu như một nét chấm phá, như một dẫn dụ không mấy nổi bật. Vai
trò thực sự của thể loại đã bị lãng quên hay nói cách khác là bỏ qua,
không nhìn thấy. Từ khuynh hướng nghiên cứu du ký theo hướng
lịch sử, đặt thể tài trong bức tranh chung của nền văn học dân tộc có
thể mở ra những công việc tiếp theo cần phải tiếp tục như sau:
Du ký Quốc ngữ xuất hiện không với tư cách là một hiện
tượng đơn lẻ mà là một hiện tượng đa dạng, phong phú với nhiều tiểu

loại khác nhau, quy tụ một tập hợp nhiều tác phẩm khác nhau. Do đó,
có thể tiếp tục tìm hiểu từng tiểu loại của thể tài này để thấy được vai
trò của chúng trong mối quan hệ tổng thể của thể tài du ký. Du ký


24
Quốc ngữ là một thể tài nằm trong loại hình ký. Loại hình ký bao
gồm nhiều thể loại, thể tài khác nhau. Vai trò thực sự của du ký Quốc
ngữ đối với các thể loại, thể tài khác thuộc loại hình ký được xác
định như một bệ đỡ. Vậy, bệ đỡ đó hoạt động như thế nào ở từng thể
loại, thể tài thuộc loại hình ký giai đoạn giao thời? Đó là vấn đề còn
để ngỏ có thể triển khai sâu rộng hơn nữa.
Du ký Quốc ngữ Việt Nam và du ký của Nhật Bản, Triều
Tiên,… cùng ra đời chung bối cảnh văn hóa Đông Á. Nếu đặt du ký
Quốc ngữ Việt Nam trong mối quan hệ với du ký hiện đại ra đời ở
giai đoạn khai mở của văn học các quốc gia nêu trên thì sẽ có gì tiệm
cận và có gì khác biệt? Phải chăng khi đặt du ký Quốc ngữ Việt Nam
trong mối quan hệ so sánh với văn học của các nước có cùng bối
cảnh văn hóa như Nhật Bản, Triều Tiên,… hay các nước Đông Nam
Á sẽ cho ta cái nhìn đầy đủ hơn, toàn diện hơn về thể tài du ký Quốc
ngữ?
Du ký Quốc ngữ giai đoạn giao thời nằm trong diễn trình
phát triển chung của thể tài du ký. Nếu mở rộng xem xét thể tài này
theo chiều tuyến tính, trải dài qua các giai đoạn lịch sử, từ thời trung
đại đến thời hiện đại, hậu hiện đại có lẽ sẽ cho thấy quá trình phát
triển liên tục của nó. Vậy, vai trò cụ thể của du ký ở từng giai đoạn
văn học được thể hiện ra sao?
Khi đã nhìn nhận và thống nhất quan điểm về giá trị của một
hiện tượng văn học thì những công việc tiếp theo là công việc không
của riêng ai. Đối với những thể loại, thể tài văn học thực sự có giá trị

thì chúng sẽ càng được khẳng định qua thời gian và bằng công sức
của những nhà nghiên cứu tâm huyết. Với du ký cũng vậy. Hy vọng
thể tài này sẽ tiếp tục được quan tâm nghiên cứu sâu rộng hơn.



×