Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Báo cáo môn luật thương mại quốc tế hiệp định thương mại dịch vụ gats 1994 (nội dung báo cáo trên lớp được 2,63đ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.68 KB, 19 trang )

Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS

ĐỀ TÀI BÁO CÁO
HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
1. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ GATS
1.1. khát quát về dịch vụ và thương mại dịch vụ theo GATS
1.1.1 Khái niệm dịch vụ theo GATS
Đối với hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS ( General Agreement On
Trade Services), dịch vụ bao gồm bất kì dịch vụ nào trong tất cả các lĩnh vực, trừ các dịch
vụ được cung cấp để thi hành thẩm quyền của chính phủ. Qua định nghĩa chúng ta có thể
thấy GATS không quá chú trọng đến việc định nghĩa về bản chất của dịch vụ, hiệp định
hàm ý những thành viên đều đã phải biết những hoạt động như thế nào thì sẽ được gọi là
dịch vụ. Thay vào đó, GATS giới hạn những dịch vụ chịu sự điều chỉnh của Hiệp định.
Nhưng dịch vụ được cung cấp để thi hành thẩm quyền của chính phủ khơng nằm trong
phạm vi điều chỉnh của GATS. Đó là bất kì dịch vụ nào được cung cấp không trên cơ sở
thương mại, và cung không trên cơ sở cạn tranh với một hoặc nhiều nhà cung cấp dịch vụ.
Việc loại trừ loại dịch vụ nào ra khỏi phạm vi điều chỉnh của GATS rõ ràng không hề tạo
ra môi trường cạnh tranh bất bình đẳng trong thương mại dịch vụ và do đó khơng mâu
thuẫn với mục đích của hiệp định GATS trong q trình tự do hóa thương mại dịch vụ.
Để cụ thể hơn, GATS cũng phân loại dịch vụ ra thành 12 nhóm và 155 loại hình. Mười
hai nhóm ngành trong GATS gồm có: các dịch vụ kinh doanh; các dịch vụ thông tin; các
dịch vụ xây dựng; các dịch vụ phân phối; các dịch vụ giáo dục; các dịch vụ mơi trường;
các dịch vụ tài chính; các dịch vụ y tế; các dịch vụ du lịch; các dịch vụ văn hóa giải trí và
thể thao; các dịch vụ vận tải; các dịch vụ khác. Tuy nhiên GATS chỉ liệt kê các nhóm
ngành và phân ngành chứ khơng hề giải thích, chính vì thế người ta phải viện dẫn đến
“Hệ thống phân loại sản phẩm trung tâm tạm thời” – PCPC của Liên hiệp quốc khi nói
đến các ngành, nhóm ngành dịch vụ trong biểu cam kết.
1.1.2 Thương mại dịch vụ
Theo GATS thương mại dịch vụ là việc cung cấp dịch vụ:
- Từ lãnh thổ của một thành viên đến lãnh thổ của bất kì thành viên nào khác. Đây
chính là việc cung cấp dịch vụ theo phương thức cung ứng qua biên giới (phương thức


(1)). Theo phương thức này, dịch vụ duy chuyển qua biên giới, độc lập với người tiêu thụ
và người cung ứng dịch vụ. (Ví dụ như hoạt động chuyển tiền, giáo dục từ xa..)
ThS. Thạch Hn

1

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
- Trên lãnh thổ của một Thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kì thành viên
nào khác. Đây là việc cung ứng dịch vụ theo phương thức tiêu dùng ở nước ngoài
(phương thức (2)). Theo phương thức này, người tiêu dùng dịch vụ sẽ duy chuyển ra khỏi
nước mình để sang lãnh thổ của nước khác và tiêu dùng dịch vụ tại đó (Ví dụ: du học, du
lịch)
- Bởi một người cung cấp dịch vụ của một thành viên, thông qua sự hiện diện thương
mại trên lãnh thổ của bất kì Thành viên nào khác. Việc cung cấp này thuộc về phương
thức hiện diện thương mại (phương thức (3)), trong đó cung cấp dịch vụ duy chuyển qua
biên giới để thành lập hiện diện thương mại của mình ở nước ngoài nhằm tiến hành cung
cấp dịch vụ ở nước ngồi( ví dụ như thành lập văn phịng đại diện, cơng ty liên doanh,
cơng ty 100% vốn nước ngồi, chi nhánh, công ty con…).
- Bởi một người cung cấp dịch vụ của một thành viên thông qua sự hiện diện thể nhân
trên lãnh thổ của bất kỳ Thành viên nào khác. Hoạt động này là phương thức hiện diện
của thể nhân (phương thức (4)). Người cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện của thể
nhân ở một nước thành viên khác để cung cấp dịch vụ. Phương thức này chỉ áp dụng đối
với những ngành mang tính độc lập như giáo dục, tư vấn…(ví dụ như việc thuê chuyên
gia ở nước ngoài về Việt Nam giảng dạy).
Như vậy, việc phân ra bốn phương thức cung ứng dịch vụ theo GATS khá rõ ràng và
dễ hiểu, tạo điều kiện thuận lợi cho các nước thành viên trong việc đưa ra cam kết trong
các biểu cam kết cụ thể của riêng thành viên đó.

1.2. Nội dung chủ yếu của hiệp định GATS
1.2.1 Cấu trúc và phạm vi của GATS
- Về mặt cấu trúc: Hiệp định chung về thương mại dịch GATS được chia làm ba phần
chính.
+ Phần I: Hiệp định chính bao gồm 29 điều quy định, quy tắc và nghĩa vụ;
+ Phần II: là phần phụ lục với các quy định riêng rẽ cho từng lĩnh vực;
+ Phần III: là các cam kết cụ thể của các nước tham gia vòng đàm phán Urugoay,
đưa ra các điều kiện để tiếp nhận dịch vụ của các nước này.
- Về mặt phạm vi: Hiệp định GATS được áp dụng đối với các biện pháp tác động đến
thương mại dịch vụ của các thành viên theo bốn phương thức cung ứng đã nêu ở trên.
Ngoại lệ của GATS sẽ là các dịch vụ được cung ứng để thi hành thẩm quyền của chính
phủ và một số dịch vụ thuộc lĩnh vực vận tải hàng khơng ( ví dụ như quyền lưu khơng và
ThS. Thạch Hn

2

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
dịch vụ liên quan đến quyền lưu không); hay các biện pháp liên quan đến tiếp cận thị
trường lao động, công việc vĩnh viễn, di dân và cư trú nước ngoài. Những biện pháp mà
GATS nêu ra là bất kỳ biện pháp nào của một nước thành viên, cho dù dưới hình thức
một luật lệ, một quy định, một quy tắc, thủ tục, quyết định, hoạt động quản lý hành chính
hay bất kỳ một hình thức nào khác. Các biện pháp có thể do Chính phủ, các cơ quan trung
ương, vùng hay địa phương áp dụng hoặc do các cơ quan phi chính phủ áp dụng khi thực
hiện các quyền hạn mà các cơ quan chính phủ, trung ương, vùng hay địa phương giao
cho.
1.2.2 Các nguyên tắc cơ bản trong GATS
GATS đưa ra rất nhiều nguyên tắc, trong đó nguyên tắc đối xử tối huệ quốc ( MFN),

nguyên tắc tính minh bạch, và các nguyên tắc liên quan đến doanh nghiệp độc quyền là
những nguyên tắc cơ bản và đáng được lưu tâm.
Nguyên tắc về đối xử tối huệ quốc ( MFN) nêu rõ “mỗi thành viên phải ngay lập tức
và vô điều kiện dành cho dịch vụ và những nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên
nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà thành viên đó dành cho dịch
vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước nào khác”. Nguyên tắc này được
hiểu là để ngăn cản bất kỳ một Thành viên nào dành cho các nước lân cận những lợi thế
nhằm tạo thuận lợi cho việc trao đổi dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trong phạm vi giới
hạn của vùng biên giới. Ngoại lệ của nguyên tắc này là các hiệp định ưu đãi song phương
hay các hiệp định ưu đãi trong khuôn khổ hợp tác khu vực.
Nguyên tắc về tính minh bạch cũng là một trong những nguyên tắc mà GATS đưa ra
nhằm đảm bảo môi trường thương mại tự do, lành mạnh cho tất cả chủ thể tham gia kinh
doanh. Các thông tin về luật pháp, chính sách điều tiết thương mại dịch vụ đều phải được
các thành viên công bố, hay bất kỳ bổ sung, sửa đổi về luật, thủ tục hành chính có tác
động cơ bản đến thương mại dịch vụ thuộc các cam kết cụ thể theo Hiệp định này các
nước thành viên phải nhanh chóng và ít nhất mỗi năm một lần thông báo cho Hội đồng
thương mại dịch vụ. Ngoài ra các thành viên phải thành lập các điểm thông báo với thời
hạn là 2 năm kể từ ngày hiệu lực để cung cấp thông tin cho các thành viên khác khi họ có
yêu cầu.
Nguyên tắc tiếp theo là các nguyên tắc liên quan đến độc quyền và các doanh nghiệp
kinh doanh độc quyền. Theo đó mỗi thành viên phải đảm bảo rằng bất kỳ nhà cung cấp
dịch vụ độc quyền nào trên lãnh thổ của mình khơng hành động trái với các nghĩa vụ của
Thành viên đó theo quy định tại Điều II của hiệp định và các cam kết cụ thể, khi cung cấp
ThS. Thạch Hn

3

Nhóm 15



Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
dịch vụ độc quyền trên thị trường liên quan. Ngoài ra, nếu một nhà cung cấp dịch vụ độc
quyền cạnh tranh, trực tiếp hoặc thông qua các công ty trực thuộc trong việc cung cấp
dich vụ ngoài phạm vi độc quyền của mình và thuộc các cam kết cụ thể của Thành viên
đó, thì Thành viên đó phải đảm bảo rằng nhà cung cấp dịch vụ sẽ khơng lạm dụng vị trí
độc quyền của họ để tiến hành hoạt động trái với các cam kết trên lãnh thổ của Thành
viên này. Hơn thế nữa, các nước thành viên phải thiết lập các thủ tục hành chính và
nguyên tắc tố tụng minh bạch, khách quan đối với các doanh nghiệp dịch vụ độc quyền.
2.3 Các cam kết cụ thể trong GATS
Cam kết đầu tiên trong GATS là cam kết về tiếp cận thị trường, trong đó mỗi Thành
viên phải dành cho dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ của các Thành viên khác sự đối
xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử theo những điều kiện, điều khoản và hạn chế đã
được thỏa thuận và quy định tại Danh mục cam kết cụ thể của mình. Tuy nhiên việc cam
kết tiếp cận thị trường chỉ có ý nghĩa đối với sáu biện pháp được đề cập đến trong hiệp
định. Đó là những biện pháp liên quan đến số lượng các nhà cung cấp dịch vụ, giá trị của
các hoạt động dịch vụ được thực hiện, số lượng hoạt động dịch vụ được thực hiện, số
lượng nhân viên, hình thức pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ và mức độ góp vốn trong
liên doanh…
Cam kết thứ hai trong GATS là cam kết về đối xử quốc gia (NT). mỗi Thành viên
phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác sự đối
xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Thành viên đó dành cho dịch vụ và nhà cung
cấp dịch vụ của mình. Trừ khi có cam kết khác trong biểu cam kết, các thành viên không
được phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Trên thực tế,
trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, mức độ cam kết mở cửa cịn dè dặt và có nhiều hạn
chết trong từng ngành, phân ngành dịch vụ đối vơi từng nước thành viên. Vì vậy nguyên
tắc NT áp dụng rất hạn chế, phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
với nhà cung cấp dịch vụ trong nước còn tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau.
Ngồi ra GATS cịn có quy định về những cam kết bổ sung, liệt kê các biện pháp ảnh
hưởng đến hoạt động cung cấp và tiêu dùng dịch vụ nhưng không thuộc về hạn chế tiếp
cận thị trường hay hạn chế đối xử quốc gia.

Dựa trên nhưng quy định đó của GATS, Việt Nam đã đưa ra bảng cam kết cụ thể của
riêng mình trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.

ThS. Thạch Hn

4

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS

2. NỘI DUNG CHÍNH HIỆP ĐỊNH GATS
2.1. Nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN)
Tối huệ quốc là một trong những nguyên tắc cơ bản GATS. Nguyên tắc này cũng
được quy định trong GATT 1947. Ðiều khoản về tối huệ quốc quy định: "Đối với các
biện pháp được quy định tại Hiệp định, mỗi thành viên sẽ dành ngay và vô điều kiện quy
chế đối xử đối với dịch vụ của các thành viên khác không kém phần thuận lợi hơn so với
dịch vụ và cung ứng dịch vụ của bất kỳ một thành viên nào khác'' (GATS, Ðiều II.1).
Ðiều này có nghĩa là nếu một thành viên cho phép và tạo điều kiện cho các cơng ty nước
ngồi nào đó (kể cả nước khơng phải thành viên) hoạt động, ví dụ trong lĩnh vực ngân
hàng; thì thành viên đó cũng phải cho phép và tạo điều kiện bình đẳng như vậy cho cơng
ty của các thành viên khác hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng. Nghĩa vụ này được áp
dụng kể cả trong trường hợp thành viên khơng có cam kết cụ thể về việc cho các cơng ty
nước ngồi tiếp cận thị trường của mình.
Các thành viên WTO cũng quy định danh sách một số các ngoại lệ đối với nguyên tắc
tối huệ quốc. Trước khi GATS có hiệu lực, nhiều thành viên đã ký các hiệp định ưu tiên
về dịch vụ với các nước khác. Các nước thành viên WTO, với quan điểm cần duy trì hiệu
lực của các hiệp định đã ký, tạm thời tiếp tục dành một số thuận lợi trong một số lĩnh vực
cho các công ty của một số nước, dưới hình thức ''ngoại lệ của nguyên tắc tối huệ quốc''

trong khi vẫn thực hiện các cam kết trong khuôn khổ WTO. Các ngoại lệ này được quy
định trong Phụ lục kèm theo Ðiều II. Theo Phụ lục này, các thành viên có thể duy trì
trong một giai đoạn chuyển tiếp (10 năm) những biện pháp không phù hợp với nguyên tắc
tối huệ quốc. Những biện pháp này phải được đưa ngay từ đầu vào danh sách những
ngoại lệ MFN trước khi GATS có hiệu lực. Thành viên duy trì ngoại lệ phải mơ tả rõ sự
đối xử thuận lợi hơn mà họ dành cho những nước cụ thể nào và thời hạn của biện pháp
này.
Những ngoại lệ MFN nhằm cho phép các thành viên duy trì các cam kết, thuận lợi
hơn mà họ dành cho một số nước trong khuôn khổ các thỏa thuận hợp tác khu vực, hoặc
có điều kiện tốt hơn để mặc cả trong đàm phán về tự do hóa với những nước có chế độ
thương mại hạn chế hơn. Tuy nhiên, những ngoại lệ này cứ 5 năm một lần được đưa ra
xem xét lại và là đối tượng của những cuộc đàm phán về tự do hóa trong WTO. Một khi
GATS đã có hiệu lực, lại càng khó khăn hơn cho các thành viên đạt được một ngoại lệ
ThS. Thạch Hn

5

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
MFN, vì nó phải được sự chấp thuận của ít nhất 3/4 số thành viên của GATS, hơn nữa lý
do để duy trì ngoại lệ này phải được xem xét lại hàng năm.
Chế độ tối huệ quốc dựa trên nền tảng của nguyên tắc không phân biệt đối xử trong
quan hệ thương mại giữa các thành viên của GATT/WTO. Việc áp dụng chế độ này nhằm
đẩy mạnh tự do hóa thương mại giữa các nền kinh tế thành viên của WTO.
2.2. Nguyên tắc Minh bạch hay công khai (Ðiều III)
Minh bạch là một trong những nguyên tắc then chốt của tự do hóa đa phương. Nó cho
phép phát hiện những hạn chế và những biện pháp bảo hộ trái quy định của GATS, tạo
điều kiện tốt hơn để các nhà cung cấp dịch vụ tiếp cận thị trường các thành viên và cùng

cạnh tranh.
Nghĩa vụ chính của các thành viên trong vấn đề này là công bố và thông báo sớm các
thông tin quy định chung như thiết lập đầu mối cung cấp thơng tin, qua đó các thành viên
khác có thể thu nhận được những thông tin về hệ thống luật định liên quan đến thương
mại qua các lĩnh vực dịch vụ của nhau đáp ứng mối quan tâm của họ. GATS quy định các
thành viên có nghĩa vụ cơng bố và thông báo cho Hội đồng Thương mại dịch vụ tất cả các
biện pháp được áp dụng có ảnh hưởng đến sự vận hành của GATS, kể cả những hiệp định
và điều ước quốc tế mà họ ký kết và tham gia, những luật mới thông qua hoặc sửa đổi,
những quy định dưới luật và thủ tục hành chính liên quan đến các lĩnh vực hoặc tiểu lĩnh
vực dịch vụ. Mặt khác, các thành viên cũng có nghĩa vụ đáp ứng trong thời hạn sớm nhất
những biện pháp như đã nêu trên, và phải lập những đầu mối cung cấp thông tin. Tuy
nhiên, nguyên tắc công khai không bắt buộc các thành viên phải cơng bố những thơng tin
bí mật mà việc tiết lộ có thể gây trở ngại cho việc thực hiện luật pháp hoặc làm hại lợi ích
quốc gia.
* Ðối với các nước đang phát triển GATS quy định hai điểm đặc biệt sau đây:
- Các nước phát triển phải lập các đầu mối tiếp xúc có nhiệm vụ cung cấp những
hướng dẫn đặc biệt cho các nhà cung cấp dịch vụ của những nước đang phát triển. Những
thông tin này bao gồm những chỉ dẫn về dịch vụ cơng nghệ có thể có được, các khía cạnh
kỹ thuật và thương mại của việc cung cấp dịch vụ, việc đăng ký, công nhận để đạt được
những yêu cầu có tính chun mơn. Trong khi các nhà cung cấp dịch vụ của các nước
đang phát triển có thể trực tiếp đưa yêu cầu thông tin cho đầu mối tiếp xúc của các nước
phát triển để được đáp ứng, các nhà cung cấp dịch vụ của các nước phát triển phải chuyển

ThS. Thạch Hn

6

Nhóm 15



Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
yêu cầu thông tin của họ đối với các nước đang phát triển thơng qua chính phủ của nước
đó.
- Các nước đang phát triển có thể thành lập các điểm đầu mối thông tin muộn hơn 2
năm so với thời hạn quy định cho các nước phát triển (tức vào ngày 1-l-1997).
2.3. Chế độ đãi ngộ quốc gia (Ðiều XVII, XVIII)
GATS quy định các thành viên phải dành cho các dịch vụ và các nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài sự đối xử giống như họ dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ
tương tự trong nước.
Giống như MFN, chế độ đãi ngộ quốc gia được xây dựng trên nền tảng của nguyên
tắc không phân biệt đối xử. Tuy nhiên, quy định này không thể được hiểu rằng các thành
viên phải có nghĩa vụ đền bù những thiệt hại (hoặc bất lợi) trong cạnh tranh thuần túy do
đặc tính ''ngoại quốc'' của dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của các thành viên khác gây ra
(có thể có trường hợp do thói quen, sở thích, văn hóa, ngơn ngữ... mà một số dịch vụ hoặc
nhà cung cấp dịch vụ nước ngồi khơng được người tiêu dùng ở một nước chấp nhận).
Các chính phủ phải ghi vào trong danh sách cam kết của họ các điều kiện và những
hạn chế mà họ gắn với việc cho hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia. Một khi các cam kết cụ
thể đã được xác định, GATS nghiêm cấm sự phân biệt đối xử giữa những dịch vụ và nhà
cung cấp dịch vụ trong và ngoài nước, cũng như là tất cả mọi hình thức hạn chế về số
lượng, trừ phi một thành viên đã dành quyền duy trì thực hiện một biện pháp hạn chế nào
đó. Tuy nhiên, trong trường hợp này, biện pháp như vậy sẽ phải được loại bỏ thông qua
các cuộc đàm phán.
2.4. Công nhận lẫn nhau (Ðiều VII)
Ðiều VII của Hiệp định khuyến khích các thành viên công nhận các thủ tục của nhau
liên quan đến giáo dục, đào tạo, kinh nghiệm, cấp giấy phép và các thủ tục khác cần phải
có trong việc đáp ứng các yêu cầu, điều kiện cần thiết cho phép nhà cung ứng dịch vụ
hoạt động.
GATS quy định khi hai (hoặc nhiều hơn) thành viên có thỏa thuận về việc cơng nhận
bằng cấp, chứng chỉ của nhau, các thành viên khác cũng phải được tạo điều kiện để đàm
phán các hiệp định công nhận tương tự. Các thỏa thuận này phải mang tính khơng phân

biệt đối xử và khơng được sử dụng như là cơng cụ cho bảo hộ trá hình. Các thành viên
phải thông báo cho Hội đồng Thương mại dịch vụ biết các hiệp định công nhận lẫn nhau

ThS. Thạch Hn

7

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
giữa họ với các thành viên khác, thậm chí ngay cả ý định của họ tiến hành các cuộc đàm
phán nhằm đạt thỏa thuận về công nhận với các thành viên khác.
Các thành viên phải tuân thủ các chuẩn mực đã được quy định bởi các cơ chế quốc tế
chuyên môn được thừa nhận, và việc công nhận lẫn nhau phải dựa trên những tiêu chí
được quốc tế chấp thuận rộng rãi. Các thành viên cũng phải phối hợp chặt chẽ với các tổ
chức chính phủ và phi chính phủ quốc tế có thẩm quyền nhằm xây dựng và thơng qua các
chuẩn mực quốc tế chung cho sự công nhận lẫn nhau và thực hiện các hoạt động chun
mơn thích hợp cần thiết có liên quan đến các dịch vụ.
2.5. Tiếp cận thị trường (Ðiều XVI)
Tiếp cận thị trường có liên quan đến bốn cách thức cung cấp dịch vụ như đã được nêu
ở trên. GATS quy định mỗi thành viên cần “dành cho các dịch vụ và những người cung
cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử đã
được quy định trong việc áp dụng các thể thức, giới hạn và các điều kiện thỏa thuận và
nêu cụ thể trong danh sách cam kết đặc biệt của mình''. Như vậy, điều khoản trên cấm
việc duy trì các cản trở đối với việc tiếp cận thị trường mà không được GATS cho phép
và bảo đảm cho việc áp dụng các điều kiện tương tự đối với tất cả các dịch vụ và người
cung cấp dịch vụ.
Các quan niệm về tiếp cận thị trường và tự do hóa dần dần đã được đưa vào GATS,
do các quy định áp dụng đối với các khu vực dịch vụ khá phức tạp. Ðiều này cho thấy

một sự thay đổi quan trọng so với thương mại hàng hóa được bảo hộ bằng thuế quan và
được tự do hóa thơng qua việc cắt giảm thuế quan. Tuy nhiên, trên thực tế khơng có quan
niệm nào trong số các quan niệm nêu trên được định nghĩa một cách rõ ràng trong GATS.
Trái với Hiệp định GATT về hàng hóa, trong GATS khơng hề có quy định dành cho
người cung cấp dịch vụ quyền tiếp cận thị trường và tiến hành các hoạt động theo ý họ.
Việc tiếp cận thị trường phải được đàm phán giữa các thành viên theo từng lĩnh vực và
theo cách thức cung cấp dịch vụ. Mỗi thành viên chỉ phải dành quyền tiếp cận thị trường
trong khuôn khổ đã được dự kiến trong danh sách các cam kết cụ thể của mình.
Các thành viên được phép giới hạn ở mức độ nhất định việc tiếp cận thị trường. Ðiều
XVI.2 của GATS nêu một danh cách đầy đủ nhưng ngắn gọn các biện pháp giới hạn.
Trong số các giới hạn định lượng được đưa ra, ngoài các giới hạn liên quan đến số lượng
các nhà cung cấp dịch vụ, cịn có các giới hạn liên quan đến:
- Tổng giá trị các giao dịch và tiền vốn gắn với các dịnh vụ;
ThS. Thạch Hn

8

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
- Tổng số lượng các hoạt động dịch vụ;
- Tổng số các sản phẩm dịch vụ;
- Tổng số thể nhân cụ thể cung cấp một dịch vụ;
- Sự tham gia của tư bản nước ngồi.
Phần lớn các biện pháp này đều khơng mang tính chất phân biệt đối xử vì chúng có thể
được áp dụng đối với những người cung cấp dịch vụ trong nước. Tuy nhiên, chúng cho
phép kiểm soát sự hiện diện của một nhà cung cấp dịch vụ nước ngồi trên thị trường
trong nước thơng qua các hạn chế định lượng.
Bốn biện pháp định lượng đầu tiên kể trên có thể xuất hiện dưới hình thức xem xét

các nhu cầu kinh tế. Trong điều kiện GATS chưa định nghĩa việc xem xét các nhu cầu
kinh tế là thế nào và chưa chỉ ra các tiêu chí cần xem xét, việc áp dụng các biện pháp trên
tỏ ra khá hạn chế và độc đốn, có thể làm cho việc tiếp cận thị trường mang tính khơng
thể đốn trước được.
Những cam kết liên quan đến tiếp cận thị trường đưa đến một thực tế là thành viên
đưa ra cam kết phải thực hiện việc giữ nguyên trạng, họ không được tự ý thay đổi các quy
định trong nước có khả năng gây ra những hạn chế hay khó khăn cho việc tiếp cận thị
trường.
2.6. Quy định trong nước (Điều VI)
GATS công nhận chủ quyền của các thành viên đưa ra những quy định điều chỉnh các
dịch vụ trong nước. Hiệp định này chỉ quan tâm đến các khía cạnh mà các quy định trong
nước có thể ảnh hưởng đến thương mại quốc tế về dịch vụ. Trước hết, Hiệp định ngăn
cấm mọi sự phân biệt đối xử giữa trong và ngoài nước và giữa những người nước ngoài
với nhau trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Tiếp đến, Hiệp định còn cố gắng thúc đẩy
tính cơng khai (cơng chúng có thể tiếp cận được mọi quy định).
Ðiều khoản về quy định trong nước yêu cầu bảo đảm nguyên tắc chung, theo đó
những biện pháp nội bộ phải được quản lý một cách khách quan, không thiên vị và hợp
lý. Những nhà cung cấp dịch vụ nước ngồi có thể phản đối các quyết định hành chính
trước tịa án và được thơng báo về kết quả của việc xem xét các yêu cầu của họ. Yêu cầu
xin được cung cấp dịch vụ phải được giải quyết trong một thời hạn hợp lý. Các quy định
và thể thức về yêu cầu chất lượng cũng như chuẩn mực kỹ thuật, vấn đề cấp phép không
được trở thành những cản trở không cần thiết cho thương mại dịch vụ.

ThS. Thạch Hn

9

Nhóm 15



Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
Ngoài ra, các quy định trong nước cần tuân thủ những quy tắc nhất định nhằm bảo
đảm rằng những quy định đó:
(1) dựa trên cơ sở những tiêu chí khách quan và minh bạch như thẩm quyền và năng
lực cung cấp dịch vụ;
(2) không quá khắt khe hơn mức cần thiết cho việc bảo đảm chất lượng dịch vụ;
(3) vấn đề thủ tục xin giấy phép không gây ra trở ngại đối với cung cấp dịch vụ.
Giữa hai vòng đàm phán, các chính phủ thành viên cam kết khơng hủy bỏ hoặc giảm
bớt những cam kết cụ thể của họ.
2.7. Ðộc quyền và đặc quyền cung cấp dịch vụ (Ðiều VIII)
GATS không cấm sự tồn tại của độc quyền và đặc quyền cung cấp dịch vụ, nhưng có
những quy định điều chỉnh vấn đề này. Theo đó, các thành viên có nghĩa vụ buộc người
độc quyền cung cấp một dịch vụ nào đó trên lãnh thổ của mình phải tn thủ ngun tắc
MFN và khơng được lạm dụng vị trí độc quyền khi cung cấp một dịch vụ khơng cịn
thuộc độc quyền của mình nữa.
Các thành viên cũng có nghĩa vụ cung cấp cho thành viên khác theo yêu cầu của họ
những thông tin liên quan đến cách thức và cấu trúc của độc quyền cung cấp một loại dịch
vụ được phép hoạt động trên lãnh thổ của mình. Thành viên cịn phải thông báo cho Hội
đồng Thương mại dịch vụ biết trước việc họ dành độc quyền cung cấp một dịch vụ đã
được đưa vào danh sách các cam kết cụ thể của mình. Trong trường hợp này, thành viên
phải tiến hành những điều chỉnh có tính bù đắp phù hợp với những quy định thông thường
về sửa đổi hoặc rút các cam kết. Việc thông báo trước những thông tin như vậy cho phép
các thành viên khác đánh giá được liệu tình trạng độc quyền ở các thành viên khác có thể
ảnh hưởng tới vị trí của các nhà cung cấp dịch vụ của họ trên thị trường của các thành
viên có độc quyền đó hay khơng.
Những ngun tắc trên về độc quyền cũng được áp dụng khi một thành viên cho phép
một nhóm nhỏ những người cung cấp được nắm giữ đặc quyền khiến cho sự cạnh tranh
giữa những người cung cấp trên thị trường đó bị hạn chế cơ bản.
2.8. Biện pháp thuế (Điều XIV)
Các luật về thuế và việc thực thi những luật này có thể tác động lớn đến thương mại

dịch vụ, đặc biệt là khi những dịch vụ đó được cung cấp dưới hình thức hoạt động thương
mại. Ðiều cần thiết là phải có sự điều chỉnh đối với những quy định về thuế của các nước
ThS. Thạch Hn

10

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
để tránh tình trạng thuế song trùng và những cản trở đối với thương mại dịch vụ do chính
sách thuế của các nước gây ra.
2.8.1. Ðối với thuế trực tiếp
Ðiều XIV. d quy định một trường hợp ngoại lệ đối với nghĩa vụ đãi ngộ quốc gia theo
đó các thành viên có thể áp dụng những biện pháp nhằm bảo đảm đánh thuế hoặc thu thuế
công bằng và hiệu quả. Theo quy định của GATS, thuế trực tiếp bao gồm tất cả các loại
thuế đánh vào thu nhập toàn bộ, vào tư bản toàn bộ và các yếu tố của thu nhập hoặc tư
bản, trong đó bao hàm cả các thuế trên giá trị thặng dư có được khi chuyển nhượng tài
sản, chuyển đổi do chết, thừa kế, cho không, tiền lương, chuyển khoản giữa các công ty
cũng như phần lãi tư bản.
2.8.2. Ðối với thuế gián tiếp
Các luật về thuế gián tiếp đặt dưới sự điều chỉnh của quy định về chế độ đãi ngộ quốc
gia, trừ trường hợp có bảo lưu ghi trong danh sách các cam kết cụ thể nhằm duy trì việc
thực hiện mang tính phân biệt đối xử.
Các ngoại lệ đối với nghĩa vụ MFN cũng được phép trong trường hợp chúng cần thiết
cho việc áp dụng các hiệp định nhằm tránh đánh thuế song trùng. Do vậy, hệ thống các
hiệp định song phương của các thành viên GATS vẫn cịn được duy trì, và các nước
khơng cần đàm phán về các miễn trừ nghĩa vụ MFN để được tiếp tục thực hiện những ưu
đãi trong khuôn khổ các hiệp định song phương để tránh đánh thuế song trùng.
2.9. Ngoại lệ chung và ngoại lệ liên quan đến an ninh (Điều XIV)

Ðiều XIV của GATS quy định nhiều ngoại lệ vốn được áp dụng theo truyền thống
trong thương mại dịch vụ. Những ngoại lệ này cho phép thực hiện các biện pháp cần thiết
để bảo vệ đạo đức xã hội, sức khỏe con người, súc vật cũng như bảo vệ vệ sinh thực vật.
Những ngoại lệ được quy định cụ thể đối với thương mại dịch vụ liên quan đến các vấn
đề sau:
- Duy trì trật tự cơng cộng;
- Phịng ngừa các hành vi gian lận hoặc cố ý sai phạm;
- Hậu quả của việc không thực hiện các hợp đồng về dịch vụ;
- Thông tin mật của các hồ sơ và tài khoản cá nhân;
- An ninh;
- Ðánh thuế hoặc thu thuế trực tiếp và các hiệp định nhằm tránh đánh thuế song trùng.
ThS. Thạch Hn

11

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
Các thành viên có quyền sử dụng các biện pháp cần thiết nhằm thực hiện các mục tiêu
như nêu trên, với điều kiện các quy định trong nước khơng dẫn đến tình trạng phân biệt
đối xử một cách độc đốn và khơng phải là một sự hạn chế trá hình đối với thương mại.
Ðiều XIV.b chứa đựng một ngoại lệ nhằm bảo vệ những lợi ích chủ yếu liên quan đến
an ninh; ngoại lệ này tương tự như trong GATT, gắn với vấn đề hậu cần của các lực
lượng vũ trang, vấn đề hạt nhân, chiến tranh và gìn giữ hịa bình, an ninh quốc tế. Hội
đồng Thương mại Dịch vụ phải được thông báo về các biện pháp mà các thành viên áp
dụng liên quan đến các ngoại lệ này.
2.10. Trợ cấp (Ðiều XV)
Trong khuôn khổ GATS, cho đến nay chưa có một quy chế cụ thể nào được thỏa
thuận về vấn đề trợ cấp trong thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, GATS thừa nhận rằng,

trong một số hoàn cảnh, trợ cấp có thể gây hậu quả làm chệch hướng thương mại dịch vụ.
Trong khi chờ đợi thỏa thuận một quy chế có thể áp dụng để điều chỉnh vấn đề này, các
thành viên phải tham khảo ý kiến của nhau khi việc tiến hành trợ cấp có thể gây ra hậu
quả tiêu cực cho việc cung cấp một số dịch vụ nào đó.
Các thành viên GATS đều đồng ý về nhu cầu cần thống nhất một quy chế đa phương
điều chỉnh vấn đề trợ cấp trong các lĩnh vực dịch vụ nhằm hạn chế những hậu quả sai lệch
đối với thương mại dịch vụ. Hiệp định mới về trợ cấp trong lãnh vực hàng hóa chắc chắn
sẽ là căn cứ tham khảo để soạn thảo một hiệp định như vậy.
Mặc dù chưa có một quy chế cụ thể về trợ cấp trong khn khổ GATS, các thành viên
khơng được hồn toàn tự do tiến hành trợ cấp một cách phân biệt đối xử trong lĩnh vực
dịch vụ. Khi một chính phủ thành viên trợ cấp cho những người cung cấp dịch vụ của
mình hoặc trợ cấp phân biệt đối xử, như vậy tức là họ đã vi phạm nguyên tắc đãi ngộ
quốc gia. Vì vậy, một số thành viên đưa vào danh sách cam kết cụ thể của mình nhiều bảo
lưu trong mục đãi ngộ quốc gia để tránh khả năng bị các nước khác phản đối về chính
sách trợ cấp.
2.11. Thanh toán và chuyển tiền quốc tế (Điều XI)
GATS thừa nhận việc tự do hóa các giao dịch kinh tế trong thực tiễn, đòi hỏi việc di
chuyển tư bản phải thực hiện có nguyên tắc, và do vậy quy định các thành viên phải cho
phép thực hiện ''việc chuyển tiền và thanh toán quốc tế liên quan đến các giao dịch hàng
ngày có liên quan tới các cam kết đặc biệt'' Quy định này nhằm ngăn chặn tình trạng các
cam kết về giao dịch trong một khu vực bị ảnh hưởng xấu bởi các hạn chế về thanh toán
ThS. Thạch Hn

12

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
và chuyển tiền gắn với việc cung cấp dịch vụ. Những hạn chế này khơng thể được duy trì

hoặc đưa vào Danh sách các cam kết.
2.12. Tập quán thương mại (Ðiều IX)
GATS thừa nhận rằng một số tập quán thương mại có thể hạn chế thương mại dịch vụ
giữa các nước; GATS khuyến khích các thành viên hợp tác, tham khảo và trao đổi thông
tin với nhau nhằm loại bỏ những tập quán bất lợi cho phát triển thương mại dịch vụ giữa
các thành viên.
2.13. Việc đi lại của nhà cung cấp dịch vụ (phần Phụ lục)
GATS chỉ đưa ra những quy định về sự lưu trú tạm thời của những người cung cấp
dịch vụ nước ngoài tại một nước khác. Những đối tượng này bao gồm những cá nhân độc
lập hoặc những người làm công ăn lương của các công ty dịch vụ nước ngồi. GATS thừa
nhận các thành viên có chủ quyền trong việc kiểm soát việc ra vào lãnh thổ của họ, đưa ra
những quy định về cư trú và tiếp cận thị trường lao động, theo đó những quy định về thị
thực nhập cảnh có thể được áp dụng trên cơ sở song phương, có đi có lại. Nhiều thành
viên đã tiến hành đàm phán các cam kết về vấn đề này bao gồm sự đi lại của các nhân
viên của một công ty giữa các cơ sở trong và ngoài nước, đi lại của các cán bộ, chun gia
của các cơng ty, các doanh nhân nước ngồi.
2.14. Liên kết kinh tế (Điều V)
Tương tự như GATT, GATS cho phép các thành viên ký kết một số thỏa thuận riêng
dành cho nhau những ưu đãi đặc biệt mà không bị buộc phải dành những ưu đãi này cho
các nước không tham gia thỏa thuận riêng này. Ðiều V của GATS ghi nhận, Hiệp định
''không ngăn cản các thành viên ký kết hoặc tham gia vào các hiệp định tự do hóa thương
mại dịch vụ đa phương giữa các thành viên''. Khái niệm về hiệp định liên kết kinh tế này
rất linh hoạt, không nhất thiết phải là một hiệp định liến kết thuế quan hay mậu dịch tự
do, và cũng khơng nhất thiết phải mang tính chất khu vực.
Tuy nhiên, cũng giống như GATT, một hiệp định liên kết kinh tế như vậy không
được làm cho các trở ngại đối với một lĩnh vực dịch vụ thương mại cao hơn mức độ cung
đã áp dụng trước khi ký kết. Các hiệp định này phải bao quát một số lượng lớn các lĩnh
vực dịch vụ và không được loại trừ bất kỳ một hình thức cung cấp dịch vụ nào, đồng thời
phải tạo thuận lợi cho tự do hóa hoặc ít nhất là khơng làm trầm trọng thêm các biện pháp
hạn chế hiện hành.


ThS. Thạch Hn

13

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
Theo GATS, một chi nhánh cơng ty nước ngồi đặt ở một nước thành viên của một
hiệp định liên kết kinh tế phải được hưởng sự đối xử giống như các công ty của nước này
với điều kiện chi nhánh công ty đó thực hiện các hoạt động thương mại quan trọng trên
lãnh thổ nước sở tại.
Các hiệp định liên kết kinh tế phải được thông báo cho Hội đồng Thương mại dịch
vụ. Theo đề nghị của bất kỳ một thành viên nào có quan tâm, GATS có thể thành lập một
Nhóm Cơng tác có nhiệm vụ xem xét tính hỗn hợp của hiệp định trên giữa các thành viên
so với các quy định của GATS. Trong trường hợp hiệp định không phù hợp với GATS,
Nhóm Cơng tác có thể đưa ra những khuyến nghị để các nước ký hiệp định tham khảo,
điều chỉnh cho phù hợp với GATS.
Nếu các cam kết cụ thể của một thành viên phải bị điều chỉnh hoặc hủy bỏ do hậu quả
của việc họ tham gia vào một hiệp định liên kết kinh tế, thành viên này phải tiến hành các
cuộc đàm phán nhằm duy trì một mức độ cam kết chung không kém phần thuận lợi về
thương mại so với những cam kết mà họ đã đưa ra trước đây trong danh sách các cam kết
cụ thể. Những điều chỉnh bổ sung phải được mở ra cho mọi thành viên khác của GATS
theo tinh thần của điều khoản tối huệ quốc.
2.15. Tự do hóa từng bước (Điều XIX)
Cũng giống như GATT, GATS có mục tiêu tự do hóa dần dần thương mại dịch vụ
giữa các thành viên. Tuy nhiên, GATS không đặt mục tiêu cụ thể về mức độ tự do hóa
cần đạt được. Như Lời nói đầu của Hiệp định nêu rõ, các chính phủ thành viên mong
muốn sớm nâng cao mức độ tự do hóa thương mại dịch vụ thơng qua các cuộc đàm phán

đa phương. Theo quy định, các cuộc đàm phán này được bắt đầu muộn nhất là 5 năm sau
khi Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực; sau đó, các cuộc đàm phán mới sẽ tiếp diễn
theo định kỳ nhằm đưa ra các cam kết cụ thể tiếp tục nâng cao mức độ tự do hóa trong
lĩnh vực dịch vụ.
Phương pháp tiếp cận về tự do hóa mà GATS chủ trương dựa trên sự trao đổi thỏa
thuận giữa các bên với giả thuyết rằng sự tự do hóa có lợi cho chính nước thực hiện nó.
2.16. Thay đổi các cam kết cụ thể (Điều XXI)
Khi một thành viên đã đưa ra một cam kết được ghi vào danh sách, họ bị ràng buộc
bởi cam kết đó. Tuy nhiên, GATS cũng quy định rằng mỗi thành viên của GATS có thể
sửa đổi hoặc rút lui bất kỳ một cam kết nào được ghi trong danh sách 3 năm sau khi cam

ThS. Thạch Hn

14

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
kết đó có hiệu lực. Ý định thay đổi hay rút một cam kết phải được thông báo cho Hội
đồng Thương mại dịch vụ.
Khi lợi ích của một thành viên bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi hoặc sự rút cam kết của
một thành viên khác thì thành viên đó có quyền tiến hành các cuộc thương lượng nhằm
đạt được sự nhất trí về việc đền bù cần thiết. Các thành viên liên quan phấn đấu duy trì
một mức độ cam kết chung cùng có lợi cho nhau và khơng kém thuận lợi hơn so với quy
định. Việc bù đắp được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tối huệ quốc.
Thể thức thay đổi danh sách các cam kết chưa được quy định cụ thể, song có thể
trong tương lai GATS sẽ xác lập những nguyên tắc về thể thức này.
Nếu các cuộc thương lượng không dẫn đến sự thỏa thuận chung, các thành viên mong
muốn sử dụng quyền của mình phần tham gia vào một Tòa án trọng tài bắt buộc. Khi một

thành viên thay đổi cam kết không tuân thủ các kết luận của Tòa án trọng tài, các thành
viên bị ảnh hưởng tham gia vào vụ xử có thể thay đổi hoặc rút các cam kết tương tự dành
cho thành viên nói trên.
3. GIẢI PHÁP NHẰM HỒN THIỆN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN GATS TẠI VIỆT NAM
3.1 Giải pháp vĩ mơ
 Hồn thiện hệ thống pháp luật
Thách thức chủ yếu nhất đối với Việt Nam trong tiến trình mở cửa, thực hiện cam
kết cho các ngành dịch vụ theo Hiệp định GATS chính là những điểm khác biệt giữa hệ
thống pháp luật kinh tế của Việt Nam và các quy định của GATS.
Hệ thống pháp luật và môi trường pháp lý về kinh tế- thương mại trong nước cịn
chưa hồn chỉnh, chưa hệ thống, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực
quốc tế, còn nhiều hạn chế trong điều kiện tự do hoá thương mại hiện nay.
Từ những bất cập trong hệ thống pháp luật đã nêu ở trên, ta thấy Việt Nam trong
quá trình thực hiện các cam kết của WTO phải xây dựng, bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi các
văn bản pháp luật và các chính sách kinh tế của mình cho phù hợp với yêu cầu của WTO,
với luật chơi chung của thế giới, đồng thời vẫn đảm bảo được tính định hướng phát triển
và lợi ích của đất nước cũng như hỗ trợ đắc lực cho các ngành kinh tế trong nước. Hệ
thống chính sách, pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng phát huy tối đa nội lực và
tiềm năng của đất nước, của tất cả các thành phần kinh tế; tạo điều kiện thúc đẩy quá trình
tích tụ, liên doanh liên kết trong sản xuất kinh doanh; thu hút đầu tư nước ngồi; khuyến
ThS. Thạch Hn

15

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
khích mơi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp, không phân

biệt thành phần kinh tế; đi đôi với việc nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
 Phát triển thương mại dịch vụ song song với phát triển sản xuất hàng hóa
Dịch vụ ln ln gắn liền với sản xuất hàng hoá, chúng là hai mặt thống nhất không thể
tách rời của nền kinh tế. Chúng luôn hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Thật vậy,
dịch vụ phát triển sẽ tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá phát triển, và ngược lại sản xuất
hàng hố có phát triển mới tạo ra cơ sở vật chất vững chắc cho dịch vụ phát triển. Mặt
khác, nếu một lĩnh vực lạc hậu, trì trệ thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lĩnh vực kia. Do
vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển kinh tế giai đoạn này là gắn
phát triển dịch vụ với phát triển sản xuất, không coi nhẹ một lĩnh vực nào. Đảng ta chỉ rõ:
“Hoạt động dịch vụ phải làm tốt nhiệm vụ phục vụ ‘đầu vào’ và ‘đầu ra’ trong sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng… Phải chủ động phát triển
mạng lưới dịch vụ cho các khu công nghiệp, khu chế xuất góp phần thúc đẩy và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại”.
Hướng tới một quan điểm phát triển toàn diện về sản xuất hàng hoá và dịch vụ là
một trong những mục tiêu ưu tiên đặt ra cho chúng ta trên con đường xây dựng đất nước
và xác định ưu thế so sánh của đất nước trong phân công lại lao động quốc tế bao gồm cả
sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Muốn vậy, tạo điều kiện và hỗ trợ phát triển các ngành dịch
vụ bên cạnh sản xuất hàng hố chính là chìa khố để hướng tới sự thành công.
Bên cạnh hai biện pháp chủ yếu trên, chúng ta cũng cần phối hợp với những biện
pháp vĩ mô khác để tiến trình thực hiện GATS đạt hiệu quả tốt nhất như xây dựng chiến
lược hội nhập phải mang tính tồn diện, tổng thể, chi tiết hố ở từng cấp, ngành; giải
quyết tốt mối quan hệ giữa bảo hộ và tự do hoá, ...
 Đổi mới và nâng cao nhận thức về thương mại dịch vụ.
Ngày nay, xu thế chung của thế giới cơ cấu kinh tế đang chuyển mạnh sang phát
triển dịch vụ, giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp, giá trị công nghiệp. Đối với nước ta đang
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nhất thiết phải tăng tỷ trọng công nghiệp cả
về giá trị và lao động. Nhưng phát triển cơng nghiệp có bốn trở ngại lớn, đó là vốn lớn,
lao động và cơng nghệ địi hỏi trình độ cao, quản lý phức tạp, sức cạnh tranh thấp; trong
khi phát triển dịch vụ thì bốn trở ngại đó khơng đến nỗi gay gắt như trong công nghiệp.
Như vậy, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang ngành dịch vụ có nhiều điều kiện thuận

lợi hơn. Thời gian qua, nhiều địa phương phát triển công nghiệp nơng thơn, đầu tư khá
lớn nhưng sản phẩm hàng hóa làm ra do chất lượng thấp, giá thành cao, không thể cạnh
tranh với sản phẩm do công nghiệp lớn trong nước sản xuất và hàng ngoại nhập với giá rẻ
nên phải chịu lỗ và nhiều nơi bị thất bại. Trong khi đó, một số địa phương làm tốt cơng
ThS. Thạch Hn

16

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
tác xuất khẩu lao động đã tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho địa phương.
Như vậy, về mặt nhận thức cần nhận rõ vai trò của ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế ở
nước ta. Thương mại dịch vụ của WTO chủ yếu là quan hệ thương mại quốc tế, nhưng
trong xu thế tồn cầu hóa thì sự phân biệt trong nước và nước ngồi chỉ có tính tương đối,
do đó mọi hoạt động dịch vụ trong nước cũng phải từng bước tiếp cận và thích nghi với
thương mại dịch vụ trong quan hệ quốc tế.
 Đổi mới cơ chế, chính sách để thích nghi với Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ. Để từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, cần quan tâm một số chính sách sau đây:
-Về chính sách cơ cấu kinh tế, cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo
hướng khai thác hợp lý và có hiệu quả tiềm năng và lợi thế sánh của từng vùng, từng địa
phương chú trọng phát triển mạnh ngành dịch vụ. Phát triển dịch vụ và thương mại dịch
vụ góp phần đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời khắc phục tình trạng
phân tán, manh mún, năng suất thấp và thiếu bền vững của nông nghiệp hiện nay. Cần
nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, xóa bỏ tình trạng độc quyền
trong kinh doanh của một số doanh nghiệp thuộc kinh tế nhà nước, không phân biệt đối
xử giữa các thành phần kinh tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
- Đối với các chính sách kinh tế khác, đặc biệt là chính sách thương mại, cần nhanh
chóng đổi mới để phù hợp với quy chế của GATS, trong đó đặc biệt tơn trọng ngun tắc

minh bạch , đảm bảo cho mọi cơ chế, chính sách của Nhà nước cũng như của doanh
nghiệp được công khai, rõ ràng, kịp thời. Đó khơng chỉ là ngun tắc quan trọng trong
quan hệ quốc tế mà còn là quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là giải pháp hữu hiệu
để phịng và chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
 Ba là, tạo lập môi trường thuận lợi phát triển thương mại dịch vụ. Mơi trường để
phát triển kinh tế nói chung và cho thương mại dịch vụ nói riêng là một hệ thống gồm
nhiều loại, bao gồm mơi trường: chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, pháp luật, thơng tin,
sinh thái…, chúng có quan hệ tác động lẫn nhau, hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm nhau và
phụ thuộc chủ yếu bởi hệ thống chính sách đã nêu trên đây. Đối với thương mại dịch vụ,
nếu có một mơi trường kinh tế vĩ mô ổn định, pháp luật nghiêm minh phù hợp với luật
pháp và thông lệ quốc tế thì sẽ khuyến khích làm giàu hợp pháp đi liền với xóa đói giảm
nghèo, giảm bớt bất cơng, chống tham nhũng, lãng phí, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển thương mại dịch vụ. Đặc biệt, trong thương mại dịch vụ phải rất coi trọng xây dựng
môi trường văn hóa – xã hội, mơi trường sinh thái để thu hút khách quốc tế đến nước ta.
3.2 Giải pháp vi mô
 Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp

ThS. Thạch Hn

17

Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
Các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng cạnh tranh rất thấp ở cả thị trường trong
nước lẫn thị trường quốc tế. Điều đó thể hiện ở các mặt: quy mơ vốn nhỏ, thiếu vốn; hiệu
quả kinh doanh thấp; công nghệ lạc hậu, không đồng bộ; chậm đổi mới phương thức quản
lý- kinh doanh; bộ máy quản lý cồng kềnh, vận hành nặng nề, chi phí cao mà hiệu quả lại
thấp; kém năng động do ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước…

Ngoài ra, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ Việt Nam cũng rất thấp vì
các loại hình dịch vụ nghèo nàn, khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng kém, giá cao,
thời gian chờ đợi lâu…
Với tình hình trên, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia nói chung, của
từng doanh nghiệp nói riêng là một yêu cầu hết sức quan trọng không chỉ đặt ra đối với
Chính phủ mà cịn đặt ra đối với các doanh nghiệp. Một quốc gia có hội nhập vào nền
kinh tế thế giới được hay không và hội nhập tới mức độ nào là phụ thuộc vào khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp của quốc gia đó. Để nâng cao sức cạnh tranh, các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ cần tận dụng triệt để nguồn hỗ trợ tài chính của Nhà nước,
nguồn lực nội tại để đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại. Ngoài ra, các
doanh nghiệp cần đồng thời thực hiện một số biện pháp khác để nâng cao khả nâng cao
khả năng cạnh tranh của mình: đánh giá đúng thực trạng, lợi thế của mình; tăng cường
hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp Việt Nam khác thông qua các hiệp hội; liên kết với
các doanh nghiệp của các quốc gia khác trên thế giới nhằm tranh thủ vốn và công nghệ;
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đầu tư đổi mới công nghệ; mở rộng danh mục sản
phẩm…
 Phát triển kiến thức, kỹ năng cho ngành nhân lực
Nhân lực là yếu tố then chốt đối với sự phát triển của mỗi công ty. Trong lĩnh vực
kinh doanh dịch vụ, khoảng cách giữa cung - cầu nhân lực ngày càng lớn, khiến cuộc đua
giữa các doanh nghiệp để tranh giành nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng căng
thẳng. Trong khi đó, chất lượng nguồn nhân lực trẻ hiện nay chưa đáp ứng được đòi hỏi
của doanh nghiệp cả về khả năng tiếp cận các thiết bị khoa học kỹ thuật hiện đại, trình độ
nghiệp vụ chun mơn, tính sáng tạo và chủ động trong cơng việc.
Vì vậy, trước hết doanh nghiệp phải đầu tư cho công tác tuyển dụng với mong muốn xây
dựng được đội ngũ nhân sự trình độ cao. Doanh nghiệp cần biết cách tạo cơ hội học tập
và phát triển cho nhân viên sẽ thu hút được nguồn nhân lực trẻ tiềm năng.

ThS. Thạch Hn

18


Nhóm 15


Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS
Bên cạnh hoạt động thu hút nguồn nhân lực mới, doanh nghiệp cũng cần chú ý tập
trung vào công tác đào tạo nguồn nhân lực hiện có, nguồn nhân lực cấp cao, thường
xuyên cập nhật bổ sung kiến thức cho toàn bộ nhân sự trong doanh nghiệp về các quy
định văn bản pháp luật của Nhà nước hướng dẫn tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, thực
hiện đúng theo cam kết GATS, cũng như chú trọng phát triển toàn diện về các kỹ năng,
trình độ nghiệp vụ chun mơn.

ThS. Thạch Hn

19

Nhóm 15



×