Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

MỐI QUAN hệ GIỮA TRIẾT học và KHOA học, ý NGHĨA của nó TRONG sự PHÁT TRIỂN của KHOA học và TRIẾT học HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.51 KB, 12 trang )

Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017

MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC, Ý NGHĨA CỦA NÓ
TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC VÀ TRIẾT HỌC HIỆN NAY

LỜI MỞ ĐẦU
Triết học và khoa học là những hình thái ý thức xã hội đặc thù phản ánh các lĩnh vực khác
nhau của thế giới. Chúng xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển trên cơ sở của những điều
kiện kinh tế - xã hội và chịu sự chi phối của những quy luật nhất định. Đồng thời, giữa chúng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Trong những năm gần đây, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển như vũ bão,
cũng như những biến động cách mạng lớn lao làm thay đổi tận gốc rễ bộ mặt của đời sống xã
hội, đòi hỏi các nhà triết học và các nhà khoa học chuyên môn giải quyết đúng đắn và kịp
thời những yêu cầu lý luận và thực tiễn cấp bách. Sự giải đáp này chỉ có thể thực hiện được
trên cơ sở nắm vững và vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo thế giới quan và phương
pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do đó việc nghiên cứu những vấn đề về mối
quan hệ giữa triết học và khoa học, vấn đề về chức năng phương pháp luận của triết học đối
với các khoa học có ý nghĩa quan trọng.
I. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Khái niệm về triết học
Xã hội loài người sở dĩ có thể tồn tại và phát triển được là nhờ có lao động sản xuất. Trong quá
trình sản xuất, một mặt, con người phải tác động vào giới tự nhiên để tìm hiểu những thuộc tính,
những quy luật của nó nhằm phục vụ lợi ích của mình. Mặt khác, sống trong môi trường xã hội,
giữa người và người hình thành những mối quan hệ rất phức tạp, đặc biệt từ khi xã hội phân chia
thành giai cấp mà lợi ích căn bản của họ đối kháng với nhau thì cuộc đấu tranh giai cấp là một
động lực thúc đẩy xã hội từ chế độ này sang chế độ khác tiến bộ hơn; con người cũng có nhu cầu
phải tìm những quy luật hoạt động và phát triển của mọi mặt trong đời sống xã hội. Nhận thức
những thuộc tính, những quy luật vận động và phát triển của tự nhiên và xã hội để chỉ đạo hoạt
động của con người cải biến tự nhiên và xã hội là yêu cầu tất yếu để con người bảo đảm sự tồn tại
và phát triển của mình. Nhận thức của con người khi trở thành một hệ thống những quan niệm
khái quát về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới gọi là thế giới quan.


Thế giới quan có kết cấu phức tạp bao gồm tri thức, tư tưởng, tình cảm, lý tưởng, niềm
tin....Thể hiện trong các lĩnh vực chính trị, triết học, tôn giáo, khoa học và nghệ thuật, trong đó
triết học là cơ sở lý luận và là hạt nhân của thế giới quan. Triết học chỉ có thể ra đời khi năng lực
tư duy trừu tượng của con người đạt đến một trình độ phát triển nhất định cho phép khái quát
những hiểu biết riêng lẻ, rời rạc thành một hệ thống những quan điểm và quan niệm chung về thế
giới. Xét về nguồn gốc xã hội, triết học chỉ có thể xuất hiện khi lực lượng sản xuất đã phát triển
đến một trình độ nhất định, có sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân tay, lịch sử loài
người bước vào chế độ chiếm hữu nô lệ. Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học có
nhiều biến đổi. Vào thời cổ đại, triết học là bộ môn tổng hợp bao hàm cả các lĩnh vực tri thức mà
ngày nay gọi là môn khoa học cụ thể như cơ học, vật lý học, thiên văn học, sinh học, xã hội học...

1


Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017
Song triết học bao giờ cũng đặt ra và giải quyết bằng lý luận những vấn đề về thế giới quan, tức là
xây dựng một hệ thống quan điểm và quan niệm về thế giới.
Vậy triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung của tổn
tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đặc điểm chủ yếu của triết học như một hình thái ý thức xã hội là ở chỗ, cố gắng đưa ra một
quan niệm chỉnh thể về thế giới, về các quá trình vật chất và tinh thần cũng như mối liên hệ tác
động của các quá trình đó, về nhận thức thế giới và con đường cải biến thế giới. Khác với triết
học, các khoa học cụ thể nghiên cứu những mặt riêng lẻ của hiện thực, như toán học nghiên cứu
mối quan hệ về số lượng và không gian; vật lý học nghiên cứu các quá trình nhiệt, điện, ánh sáng;
sinh học nghiên cứu những đặc điểm phát triển của thế giới thực vật và động vật; kinh tế học
nghiên cứu đặc trưng phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, các hình thức sản
xuất và phân phối. Triết học cũng khác với chính trị, nghệ thuật, đạo đức, vv...Triết học nghiên
cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình, khác với mọi khoa học cụ thể. Nó xem xét thế
giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó

chỉ có thể thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân
tư tưởng triết học.
2. Khái niệm khoa học tự nhiên
Khoa học tự nhiên là ngành khoa học nghiên cứu tất cả những biến đổi của vật chất, những
quy luật của thế giới tự nhiên trong đời sống xã hội hàng ngày. Khoa học tự nhiên bao gồm tất cả
các ngành khoa học như: Toán học, Vật lý học, Hoá học, Sinh học, Địa lý học. Trong mỗi ngành
khoa học riêng thì lại nghiên cứu một khía cạnh hay nói đúng hơn là một vấn đề riêng của đời
sống xã hội. Như vậy ta có thể nói khoa học tự nhiên là một phạm trù vật chất của xã hội loài
người nó không chỉ nghiên cứu những hiện tượng tự nhiên của trái đất của vũ trụ mà còn giải
thích nó một cách rất cặn kẽ với mục đích giúp con người có thể hiểu được các vấn đề có liên
quan tới các hoạt động tự nhiên đang ngày ngày diễn ra trên trái đất. Chính vì vậy khoa học tự
nhiên là một công cụ để nghiên cứu tất cả các mặt vấn đề của thế giới tự nhiên.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC, Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC VÀ TRIẾT HỌC HIỆN NAY.
1. Sự tác động của khoa học đối với sự phát triển của triết học
Trước khi triết học và khoa học xuất hiện, thế giới xung quanh được phản ánh trong ý thức
nguyên thủy của loài người dưới hình thức thần thoại. Trong thần thoại bên cạnh niềm tin vào
các lực lượng thần thánh, siêu tự nhiên, thì các vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới có
một vị trí đáng kể. Triết học và thần thoại ra đời như một nỗ lực nhằm giải thích thế giới. Thực
chất triết học cũng tìm cách trả lời cho các vấn đề mà trước đó đã được đặt ra trong thần thoại,
nhưng bằng một phương thức khác. Triết học là sự phân tích lý luận các vấn đề ấy dựa trên lôgíc,
các tri thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn. Về mặt lịch sử, sự ra đời của triết học trùng hợp
với sự xuất hiện những mầm mống đầu tiên của tri thức khoa học, với sự hình thành nhu cầu
nghiên cứu lý luận. Chúng ta có thể thấy rõ điều này ở Hy Lạp cổ đại. Triết học Hy Lạp cổ đại
khi mới hình thành không độc lập với các tri thức khoa học, mà thực chất là đồng nhất với chúng
để hình thành nên môn khoa học tổng hợp. Các nhà triết học đầu tiên ở Hy Lạp đồng thời cũng là
các nhà khoa học, như Thalets, Pithagore,...Triết học đặt nhiệm vụ tìm hiểu và giải thích tự

2



Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017
nhiên, xem xét thế giới như một chỉnh thể. Trong nền triết học tự nhiên, các khoa học nói chung
bị đẩy xuống vị trí thứ yếu và bị chi phối bởi triết học. Triết học tự nhiên thịnh hành ở phương
Tây vào lúc khoa học thực nghiệm chưa phát triển, không đủ để tìm ra quy luật của các hiện
tượng tự nhiên. Chính vì vậy mà trên thực tế, triết học tự nhiên là dòng triết học mang tính tư
biện (speculation): Những giải thích của nó về thế giới chủ yếu là dựa trên những phỏng đoán và
giả định. Nhưng bắt đầu từ thời Phục hưng và đặc biệt là trong các thế kỷ XVII - XVIII, sự phát
triển của khoa học, nhất là các khoa học tự nhiên ngày càng diễn ra nhanh chóng. Mối quan hệ
triết học - khoa học có sự đổi chiều. Khoa học tự nhiên từ chỗ phụ thuộc, bị dẫn dắt bởi triết học,
thì giờ đây, nó độc lập trong lĩnh vực nghiên cứu của mình, hơn nữa còn tác động quyết định đến
khuynh hướng phát triển của triết học và phương pháp tư duy. Chính sự thay đổi này đã tạo ra
tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa thực chứng. Chủ nghĩa thực chứng (posistivism) tuyên bố
rằng, chỉ có các khoa học cụ thể mới cần thiết, đem lại các tri thức tích cực (positive), còn triết
học thì không. Chính xác hơn, chủ nghĩa thực chứng thừa nhận trong quá khứ, khi mà các khoa
học còn chưa phát triển đầy đủ, thì triết học từng đóng vai trò tích cực là khoa học bao trùm, tổng
hợp mọi tri thức, thậm chí là “khoa học của các khoa học”. Nhưng khi các khoa học lần lượt
xuất hiện và trưởng thành, đem lại một khối lượng tri thức khổng lồ thì triết học dần đánh mất
vai trò lịch sử của mình. Số phận của triết học thật trớ trêu, chẳng khác gì King Lear - nhân vật
văn học của Shakespeare, người chia toàn bộ vương quốc và tài sản to lớn của mình cho các con
đã trưởng thành để rồi trở thành trắng tay và bị đuổi ra đường, và không còn nghi ngờ gì nữa, kể
từ thời kỳ Phục hưng trở đi, ảnh hưởng của khoa học đến triết học càng ngày càng rõ rệt. Theo
dõi sự phát triển của khoa học trong thời kỳ này, chúng ta thấy rằng quá trình phân ngành diễn ra
nhanh chóng: Cơ học, vật lý học, hóa học, sinh vật học, địa lý, thiên văn học,... lần lượt trở thành
các khoa học độc lập. Mỗi một khoa học tự xác định cho mình đối tượng nghiên cứu riêng. Giới
tự nhiên được chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau và trở thành đối tượng của những nghiên cứu
độc lập. Việc này là cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn phát triển đầu tiên của khoa học, khi mà
nhiệm vụ chủ yếu là phải sưu tập, tích lũy các tài liệu. Nhưng phương pháp được coi là cần thiết
và chính đáng ấy của khoa học tự nhiên cũng đã ảnh hưởng đến và in dấu lên tư duy triết học
đương thời - phương pháp tư duy siêu hình. Mặt khác, trong các khoa học tự nhiên thời bấy giờ,

chỉ có cơ học là môn khoa học được coi là đạt đến mức độ hoàn thiện nhất định và vì thế, tư duy
cơ học máy móc cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến triết học. Chúng ta có thể nói rằng, trong
thời kỳ Phục hưng và cận đại, khoa học tự nhiên đã có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển
của triết học. Mỗi bước tiến mới của khoa học bằng cách này hay cách khác đều tác động lên xu
hướng phát triển và tư duy của triết học.
Như chúng ta đã biết, một trong các tiền đề của chủ nghĩa duy vật biện chứng là trạng thái và
các thành tựu của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX. Khác với các thế kỷ trước đó, khoa học tự nhiên
trong thế kỷ XIX đã không còn là khoa học sưu tập nữa. Những gì nó tích lũy được trong thời kỳ
trước đã cho phép nó có thể sắp xếp, tổng hợp lại. Và nhiệm vụ này đến lượt nó, khiến người ta
phải chú ý nhiều hơn tới những mối liên hệ vốn có của bản thân giới tự nhiên: Sự thống nhất của
thế giới tự nhiên, sự vận động và phát triển nội tại của nó. Bên cạnh các khám phá thời đại ấy
trong khoa học tự nhiên, được cổ vũ bởi sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của kinh tế, kỹ
thuật, mỗi ngành đều để lại dấu ấn của mình lên các trang vàng của lịch sử, nhất là từ nửa sau thế
kỷ XIX. Trong vật lý học, R. Kirchhoff (1824-1887) xác lập phương pháp phân tích quang phổ,
Emanuel Clausius (1822-1888) phổ biến thuyết cơ học về nhiệt và đưa khái niệm entropy vào

3


Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017
môn vật lý, Michael Faraday (1791 - 1867) đưa ra thuyết trường điện từ, sau đó J. Maxwell
(1831-1879) xây dựng thuyết điện từ và ánh sáng. Trong hoá học, D. Mendeleev (1834-1907) tìm
ra quy luật tuần hoàn của các nguyên tố hoá học, Alecxandro Mikhailovich Butlerop (1828-1886)
xây dựng học thuyết cấu trúc hoá học các tổ hợp hữu cơ. Trong sinh vật học, E. Haeckel (18341919) hoàn thiện thuyết phát triển và tiến hoá, Luis Pasteur (1822-1895) đạt được những thành
quả bước đầu ở lĩnh vực vi sinh. Ngoài ra 3 phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX
trong các lĩnh vực vật lý và sinh vật, như định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, học
thuyết cấu tạo tế bào của hai nhà khoa học người Đức là Matthias Jakob Schleiden ( 1804 1881) và Theodor Schwam (1810 - 1882), thuyết tiến hóa các loài của Charles Darwin( 1809 1882), đã chứng minh trên những nét cơ bản và đem lại một cái nhìn duy vật biện chứng về thế
giới tự nhiên. “Nhờ ba phát hiện vĩ đại đó và nhờ các thành tựu khác của khoa học tự nhiên...”,
mà giờ đây đã có thể có được “một bức tranh bao quát về mối liên hệ trong tự nhiên dưới một
hình thức gần như có hệ thống”. Trước kia việc cung cấp một bức tranh bao quát như vậy là

nhiệm vụ của triết học tự nhiên. Triết học tự nhiên, như chúng ta đã đề cập trên, là khuynh
hướng triết học có từ thời kỳ cổ đại và tiếp tục phát triển trong nhiều thế kỷ sau đó, khi mà các
khoa học tự nhiên còn chưa phát triển. Vì vậy, triết học tự nhiên đã thay thế những những mối
liên hệ hiện thực, chưa biết bằng những mối liên hệ tưởng tượng, hư ảo, thay những sự kiện còn
thiếu bằng những giả định, phỏng đoán, thậm chí gán ghép cho tự nhiên nhiều sự tưởng tượng hư
ảo kỳ quái. Khi làm như thế triết học tự nhiên đã có nhiều tư tưởng thiên tài, dự đoán trước được
nhiều phát hiện sau này đồng thời cũng đưa ra nhiều điều vô lý, nhưng không thể nào khác được.
Ngày nay thì khác, những thành tựu quan trọng của khoa học tự nhiên đã cung cấp cho chúng ta
những bằng chứng chứng minh rằng giới tự nhiên là thống nhất. Ngày nay, một bức tranh bao
quát về những mối liên hệ không những trong các lĩnh vực riêng biệt, mà còn giữa các lĩnh vực
hầu như của toàn bộ giới tự nhiên, được rút ra chủ yếu từ những kết quả nghiên cứu do các khoa
học tự nhiên đem lại. Trong những điều kiện như vậy, thì một thứ triết học tự nhiên đứng ngoài
và đứng trên các khoa học là hoàn toàn không cần thiết. Mọi ý định khôi phục triết học tự nhiên
của các triết gia không còn phù hợp nữa, thậm chí, theo Ph.Ăngghen, phải coi ý định đó là
“những bước thụt lùi”.
Tác động của khoa học lên sự phát triển của triết học không phải là trực tiếp và theo đường
thẳng, mà là gián tiếp tạo ra bầu không khí tinh thần cho phép hình thành một kiểu tư duy, một
cái nhìn tương ứng với trạng thái đạt được của khoa học về thế giới. Thông qua những tri thức và
phát minh khoa học, các khái niệm, các phạm trù triết học có thêm những nội dung mới. Chẳng
hạn, thuyết nhật tâm của Copernicus khẳng định rằng, trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ,
thì rõ ràng nó đã giáng một đòn chí mạng vào Kitô giáo, mở đầu cho thời kỳ mới của khoa học
tách khỏi tôn giáo và thần học. Thuyết tiến hóa của Darwin đưa đến kết luận rằng, các loài động
vật, thực vật không phải ngẫu nhiên, được sự sáng tạo bởi những lực lượng thần thánh siêu tự
nhiên, mà là kết quả của một quá trình hoàn toàn do các lực lượng tự nhiên chi phối. Kết luận đó
là một quan điểm của triết học duy vật. Thuyết tương đối của Einstein một phát minh vạch thời
đại. Tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với không gian và thời gian làm cho thuyết tương
đối mang ý nghĩa duy vật sâu sắc. Sự phát triển của khoa học tự nhiên nhất định sẽ đưa đến
những kết luận triết học chung như là một sự tổng kết lý luận. Những kết luận triết học rút ra từ
các phát minh của khoa học tự nhiên thường do chính các nhà khoa học tự nhiên thực hiện. Ảnh
hưởng của khoa học đến sự phát triển của triết học có thể đưa đến những kết luận tích cực,


4


Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017
nhưng cũng có thể đưa đến những kết luận tiêu cực, phản khoa học. Những phát minh khoa học
những năm cuối thế kỷ XIX về sóng, về phóng xạ, về điện tử... đã khiến không ít nhà khoa học
hoài nghi về khái niệm “vật chất” - nền tảng của chủ nghĩa duy vật; rằng, cần từ bỏ chủ nghĩa
duy vật và thay thế chủ nghĩa duy vật bằng “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”. Kết luận triết
học được các nhà khoa học rút ra từ những kết quả của mình đa phần mang tính tự phát. Chỉ khi
được xem xét trên một nền tảng thế giới quan nhất định, chúng mới thực sự trở thành định hướng
tích cực cho sự phát triển khoa học.
Những thành tựu của khoa học tự nhiên nêu trên đã chứng minh được tính chất biện
chứng của các quá trình diễn ra trong tự nhiên. Chính sự phát triển của khoa học tự nhiên,
những thành tựu mới nhất của nó đã khiến cho phương pháp tư duy siêu hình cần phải được
thay thế. C.Mác và Ph.Ăngghen sở dĩ có những cống hiến lớn lao cho khoa học nói chung,
triết học nói riêng là bởi vì hai ông thường xuyên theo dõi sự phát triển của khoa học, phát
hiện ra những vận động nảy sinh, phát hiện những biến đổi diễn ra trong xã hội, diễn ra trong
đời sống của con người bởi tác động của khoa học tự nhiên, tác động của kỹ thuật máy móc.
Như chính Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Mỗi lần có một phát minh vạch thời đại, ngay cả
trong lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi
hình thức của nó”. Theo Ph.Ăngghen, sự phát triển của khoa học tự nhiên, những thành tựu
mới nhất của nó từ thế kỷ XVI trở đi cho thấy tính tất yếu của tư duy biện chứng, và chứng tỏ
rằng, trong tự nhiên không có những phạm trù và những quan hệ bất biến. Cũng chính từ việc
khẳng định về tính tất yếu của tư duy biện chứng như đã nêu trên giúp chúng ta đi tới khẳng
định: phép biện chứng chính là cơ sở phương pháp luận đối với khoa học tự nhiên, giúp các
nhà khoa học khắc phục những hạn chế trong khi tiếp cận với các vấn đề lý luận chung. Điều
này đã được Ph.Ăngghen luận giải: “Phép biện chứng là một hình thức tư duy quan trọng nhất
đối với khoa học tự nhiên hiện đại, bởi vì chỉ có nó mới có thể đem lại sự tương đồng và do
đó đem lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải

thích những mối liên hệ phổ biến, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang
một lĩnh vực nghiên cứu khác”. Rõ ràng các nhà khoa học trước hết là những người đang phải
giải quyết những vấn đề cơ bản, những vấn đề có tính chất nền tảng của khoa học, dù muốn
hay không cũng buộc phải tìm đến triết học. Nhưng triết học, như chúng ta đã biết, có nhiều
trường phái khác nhau. Có triết học đúng, khoa học, nhưng cũng có triết học sai lầm, phản
khoa học. Vậy, trong tình hình phát triển như vũ bão của khoa học như hiện nay, thì thứ triết
học nào thực sự là thứ triết học thực sự khoa học có thể đóng vai trò phương pháp luận phổ
biến, đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của khoa học?. Thực tiễn phát triển của khoa học hiện đại
đã chứng minh rằng, một phương pháp luận như thế chỉ có thể là phép biện chứng duy vật.
Như chúng ta đều biết, để có thể nhận thức được sự vật, đi sâu vào nghiên cứu chúng,
khám phá những bí ẩn của chúng, thì điều quan trọng đối với người nghiên cứu là phải có
trong tay những phương pháp, tức là các hình thức nắm vững hiện thực về mặt lý luận và thực
tiễn, xuất phát từ những quy luật vận động của khách thể được nghiên cứu. Phương pháp
không phải là những quy luật vận động trình bày tùy tiện muốn như thế nào cũng được.
Ngược lại, bao giờ nó cũng được xây dựng trên cơ sở các quy luật khách quan của sự vật mà
con người đã nhận thức được. Phương pháp có nhiều loại, tùy thuộc vào tính chất của các quy
luật mà dựa vào đó phương pháp được xây dựng. Đối với những khoa học riêng biệt chúng ta
có quy luật riêng và đi cùng với nó là phương pháp riêng. Với những quy luật chung hơn tác

5


Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017
động trong nhiều nhóm sự vật thì ta có phương pháp đặc thù. Nếu là quy luật mang tính phổ
biến tác động trong tất cả mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy thì chúng ta có phương
pháp chung nhất, áp dụng được cho tất cả mọi bộ môn khoa học.Mộtphương pháp như vậy
chỉ có thể là phương pháp biện chứng vì cơ sở khách quan của nó là quy luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy do phép biện chứng duy vật nghiên cứu. Điều đó có nghĩa là, nắm
được phương pháp biện chứng, tức là “phương pháp nắm sự vật và phản ánh sự vật trong tư
tưởng, chủ yếu là trong sự liên hệ, ràng buộc, vận động, phát sinh và tiêu vong của sự vật”

nhà khoa học sẽ có một công cụ hiệu nghiệm để nghiên cứu bất kỳ lĩnh vực khoa học nào và
ngược lại, trong bất kỳ lĩnh vực khoa học nào, người nghiên cứu muốn đạt được chân lý thì
cũng phải áp dụng phương pháp biện chứng. Nhà nghiên cứu cần phải tuân theo phương pháp
đó, không phải vì bị ai đó bắt buộc mà vì bản thân khách thể nghiên cứu đòi hỏi phải như thế:
Khách thể đó chỉ bộc lộ bản chất của mình cho người nào trong quá trình nghiên cứu, sử dụng
phương pháp được xây dựng trên cơ sở quy luật khách quan. Nói như vậy không có nghĩa là
chỉ cần nắm vững và vận dụng phương pháp biện chứng là đã đủ để đạt tới chân lý trong từng
lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. Phương pháp biện chứng là phương pháp chung nhất, phổ biến
nhất, nhưng cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại
của mình, bất cứ cái riêng nào cũng không được bao quát hoàn toàn trong cái chung. Vì vậy,
phương pháp biện chứng cần phải được cụ thể hóa, cá biệt hóa cho từng khoa học cụ thể.
Việc áp dụng phép biện chứng duy vật có thể diễn ra một cách tự giác, cũng có thể diễn ra
một cách tự phát. Lịch sử của khoa học đã chứng minh nhiều trường hợp như vậy. Ví như: Từ
hiện tượng năng lượng tách ra từ Ra, những người theo chủ nghĩa Makhơ và thuyết duy năng
ở cuối thế kỷ XIX đã rút ra kết luận: chủ nghĩa duy vật đã bị phá sản. Do đó, họ cho rằng
không cần tìm đại biểu vật chất của các thuộc tính phóng xạ. Nhưng M. Curie - nhà khoa học
thiên tài người Pháp lại đặt vấn đề ngược lại: Khả năng phát ra các tia phóng xạ gắn liền với
cái gì? Với trạng thái vật lý tạm thời của vật thể như sự điện phân hay đó là một thuộc tính cơ
bản của các nguyên tử thuộc loại vật chất đặc biệt? Nếu nó gắn liền với trạng thái vật lý tạm
thời của vật thể thì trong trường hợp đó việc tìm kiếm các nguyên tố phóng xạ sẽ là vô nghĩa.
Nhưng nếu đó là một thuộc tính cơ bản của các nguyên tử thuộc loại vật chất đặc biệt thì
trong khi đo các phóng xạ, cần tìm đại biểu vật chất của nó. Qua đây chúng ra thấy, với
những người theo chủ nghĩa Makhơ và thuyết duy năng, những kết luận của họ chỉ đi tới sự
kìm hãm của phát minh khoa học, phản khoa học. Còn với M.Curie, việc áp dụng phép biện
chứng một cách tự phát nhưng lại đi tới phát minh khoa học. Hay như việc phát minh ra định
luật tuần hoàn của các nguyên tố hóa học của Mendeleev và một ví dụ điển hình khi nói về
tác dụng của tư tưởng duy vật biện chứng tới nghiên cứu khoa học tự nhiên. Điều này đã
được Ph.Ăngghen khẳng định: “Nhờ áp dụng - một cách không có ý thức - quy luật của Hegel
về sự chuyển hóa lượng thành chất, Mendeleev đã hoàn thành một kỳ công khoa học có thể tự
hào đứng ngang hàng với kỳ công của Joseph Le Verrier (1811-1877) khi ông tính ra quỹ đạo

của hành tinh sao Hải vương tinh mà người ta chưa biết”.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng đã
góp phần giúp cho các nhà khoa học nhìn nhận được sự vật đúng như chúng vốn có, nhờ đó
giúp nhà khoa học sớm phát hiện ra được sự thật và xây dựng các lý thuyết phản ánh sự vật
một cách chính xác hơn, tránh được các sai lầm phiến diện, giản đơn hay máy móc, giáo điều
trong công tác nghiên cứu của mình. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn

6


Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017
hiện nay, khi mà khoa học đã có sự phân ngành ngày càng sâu sắc, khi mà khoa học tự nhiên
đã và đang đi vào những lĩnh vực chuyên môn rất hẹp và do đó dễ nhìn sự vật một cách phiến
diện. Đây cũng là vấn đề hết sức quan trọng trong bối cảnh của việc tổng hợp tri thức khoa
học ngày nay.
2. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển khoa học
2.1. Thế giới quan và phương pháp luận của triết học
Lịch sử phát triển của triết học cũng như của khoa học tự nhiên đã cho thấy, không phải
bất kỳ trào lưu triết học nào cũng giữ vai trò là thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn
đối với khoa học tự nhiên, thúc đẩy khoa học tự nhiên phát triển và ngược lại, không phải các
thành tựu của khoa học tự nhiên là cơ sở khoa học để chứng minh cho những luận điểm của
mọi trào lưu triết học. Xuất phát từ hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ngày một
cao hơn, những hiểu biết về những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội ngày một phát
triển, các nguyên lý, các lý thuyết về thiên văn học, toán học, vật lý, hoá học,... dần dần được
tích luỹ với những phát triển của khoa học triết học nói chung và khoa học cụ thể nói riêng.
Thực tế đã cho thấy, càng đi sâu vào nghiên cứu các hiện tượng khác nhau của tự nhiên, khoa
học tự nhiên càng vấp phải nhiều vấn đề mà tự nó không giải quyết được vì những vấn đề đó
tuy gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên nhưng lại là những vấn đề triết học. Điều này đã
được A.Einstein khẳng định: “Những khó khăn mà vật lý hiện nay đang vấp phải trong lĩnh
vực của mình đã buộc ông ta phải đề cập đến những vấn đề triết học nhiều hơn so với các nhà

vật lý của các thế hệ trước”.
Ngày nay, đứng trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, thì những khái niệm, những phạm trù, những tư tưởng, những phương pháp nghiên cứu
mới không ngừng ra đời. Mặt khác, cuộc cách mạng ấy cũng đang đặt ra hàng loạt vấn đề về
phong thái tư duy khoa khọc, về những bước phát triển mới của nhận thức, của khoa học
trong tương lai. Và đứng trước những đổi thay lớn lao của cách mạng khoa học - công nghệ,
đặc biệt là khoa học tự nhiên hiện đại, thì nhà khoa học không còn có thể chỉ dừng lại ở
những vấn đề chuyên môn hẹp của mình, họ không chỉ vấp phải những vấn đề phương pháp
luận mà cả những vấn đề triết học do chính lĩnh vực của mình đặt ra và buộc họ phải suy nghĩ
để giải quyết. Như Max Born (1882-1970) - nhà vật lý lý thuyết người Anh, một trong những
người sáng lập ra cơ học lượng tử, đã nhận xét: “Mỗi nhà vật lý đều tin tưởng sâu sắc rằng
công việc của ông ta quyện chặt với triết học và nếu không có sự hiểu biết nghiêm túc tài liệu
triết học thì đó sẽ là một việc làm hết sức vô ích. Bản thân tôi đã chịu sự chi phối của tư
tưởng đó và tôi cố gắng truyền nó cho học trò của mình”. Lâu nay một số người quan tâm đến
triết học đã có sự ngộ nhận rằng, triết học là một khoa học chỉ thuộc về nội dung của phạm
trù khoa học xã hội - nhân văn. Nhưng ngược dòng thời gian, chúng ta biết rằng, ngay từ khi
mới ra đời, triết học và khoa học tự nhiên đã không tách rời nhau và được gọi bằng một tên
chung: Triết học tự nhiên, bắt đầu từ khoa học tự nhiên. Nhưng như chính C. Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định, việc khôi phục triết học tự nhiên theo nghĩa đen của nó (triết học
là “khoa học của mọi khoa học”) vào thời kỳ nửa sau của thế kỷ XIX là điều không thể. Bởi
vì, khoa học triết học và các khoa học cụ thể hiện nay đã tồn tại trong môi trường mới với
những yêu cầu mới được đặt ra từ cuộc sống và từ vấn đề học thuật. Tuy vậy, mối liên hệ
giữa triết học và khoa học tự nhiên không vì thế mà giảm đi ảnh hưởng tác động lẫn nhau.
Đặc biệt là mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên là mối quan

7


Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017
hệ qua lại, nương tựa lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Có thể nói rằng, từ khi chủ

nghĩa duy vật biện chứng ra đời thì mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên mới thật
sự bước sang một giai đoạn mới. Từ những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại trong
thế kỷ XX như: Thuyết tương đối hẹp của Albert Einstein (1905) và thuyết tương đối rộng
(1916); thuyết lượng tử của Planck (1900); lý thuyết kết cấu nguyên tử lượng tử hoá của
Niels Bohr (1913); lý thuyết cơ học lượng tử của Heisenberg (1925), lý thuyết thông tin, lý
thuyết điều khiển (những năm 40 của thế kỷ XX); lý thuyết cô lập, lý thuyết phân hình, lý
thuyết hỗn độn, (những năm 70, 80 của thế kỷ XX), v.v... Đã tạo nên những cuộc tranh luận
ngày càng gay gắt về sự nhận thức của con người đối với thế giới. Chính điều này đã buộc
các nhà khoa học tự nhiên phải tìm đến với một thế giới quan triết học đúng đắn để từ đó lý
giải những vấn đề cụ thể trong lý thuyết khoa học của mình. Như Albert Einstein đã viết:
“Các kết quả nghiên cứu khoa học thường gây nên những sự thay đổi trong các quan điểm
triết học đối với những vấn đề vượt ra ngoài phạm vi của những lĩnh vực rất hạn chế của bản
thân khoa học”. Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học tự
nhiên chẳng những giúp cho các nhà triết học hiểu biết thêm những tri thức về khoa học tự
nhiên mà còn làm cho họ thấy rõ được cơ sở khoa học chính xác, khách quan để triết học dựa
vào đó khái quát thành những nguyên lý, những quy luật và những phạm trù triết học. Đồng
thời, nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên đã giúp cho các nhà khoa
học tự nhiên nhận thức và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo thế giới quan duy vật biện
chứng và phương pháp luận khoa học vào quá trình nghiên cứu khoa học tự nhiên, làm cho họ
luôn luôn ý thức được rằng, chỉ có cho mình một phương pháp biện chứng duy vật thì họ mới
có thể tiến xa hơn, đi sâu hơn vào các lĩnh vực mà họ đang và sẽ nghiên cứu. Khi đưa ra nhận
định về con đường phát triển phức tạp của vật lý học V.I.Lênin đã viết: “Vật lý học hiện đại
đang và sẽ đi, nhưng nó đi tới phương pháp duy nhất đúng, đi tới triết học duy nhất đúng của
khoa học tự nhiên, không phải bằng con đường thẳng, mà bằng con đường khúc khuỷu, không
phải tự giác mà tự phát, không nhìn thấy rõ “mục đích cuối cùng” của mình, mà đi đến mục
đích đó một cách mò mẫm, ngập ngừng và thậm chí đôi khi giật lùi nữa. Vật lý học hiện đại
đang nằm trên giường đẻ. Nó đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Một cuộc sinh đẻ đau
đớn. Kèm theo sinh vật sống và có sức sống, không tránh khỏi một vài sản phẩm chết, một
vài thứ cặn bã nào đó phải vứt vào sọt rác. Toàn bộ chủ nghĩa duy tâm vật lý học, toàn bộ
triết học kinh nghiệm phê phán, cũng như thuyết kinh nghiệm tượng trưng, v.v... đều thuộc

những thứ cặn bã phải vứt bỏ đi ấy”.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên còn giúp cho con người thấy
rõ được nguồn gốc chung của sự nảy sinh triết học và khoa học tự nhiên đó là giới tự nhiên;
giúp cho chúng ta thấy được rằng, sự liên kết giữa triết học và khoa học tự nhiên là không thể
tránh khỏi và sự hợp tác giữa các nhà triết học với các nhà khoa học tự nhiên là một tất yếu
lịch sử. Bởi, nếu không có sự liên kết và hợp tác đó thì chẳng những triết học và khoa học tự
nhiên không thể tiến lên được mà các nhà triết, các nhà khoa học tự nhiên cũng không thể
chiến thắng nổi trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo vốn đã kìm hãm
và trói buộc sự phát triển của triết học và khoa học.
Trong mối quan hệ giữa triết học duy vật và khoa học, một mặt, các khoa học cụ thể đem
đến cho triết học chất liệu sống, căn cứ vào đó các nhà triết học nêu lên và luận chứng các
quan điểm của mình phù hợp (dù không bao giờ có tính tuyệt đối) với những biến đổi của lịch

8


Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017
sử, và góp phần cùng những lĩnh vực tri thức khác dự báo, gợi mở những vấn đề của tương
lai. Mặt khác, triết học mà tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật biện chứng, đóng vai trò to lớn đối
với các nhà khoa học, vai trò đó có thể tìm thấy ở cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của triết học. Trong đó thế giới quan là hệ thống những quan điểm, tư tưởng khái quát của con
người về thế giới (bao gồm cả con người trong thế giới đó), về mối quan hệ giữa con người
với thế giới. Thế giới quan phản ánh hiện thực bên ngoài gián tiếp qua các nhu cầu, lợi ích,
các lý tưởng mang tính cá nhân hay xã hội. Tùy thuộc vào tính chất và phương thức biểu hiện
có thể có nhiều loại thế giới quan khác nhau, như: Thần thoại, tôn giáo, khoa học, đạo đức,
mỹ thuật, chính trị, triết học... Xét về phương thức biểu hiện, triết học là thế giới quan lý luận,
là hệ thống các tư tưởng được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nhận thức. Xét về tính
chất, triết học là sự khái quát chung nhất, mang đặc trưng tư duy tổng hợp.
Những quan điểm, tư tưởng khi trở thành niềm tin của con người, sẽ tích cực tham gia vào
định hướng thái độ của con người đối với các hiện tượng, các sự kiện quan trọng trong hiện thực

và trong đời sống, xác định “chỗ đứng của con người trong thế giới”. Đối với triết học, những
quan điểm tư tưởng ấy còn giúp hình thành nên các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo con người trong
các hoạt động của mình để đạt được mục đích; hay nói cách khác, là chúng thực hiện chức năng
phương pháp luận. Phương pháp luận triết học, do xuất phát từ những quan điểm, quan niệm
chung nhất về thế giới, con người và xã hội, nên cũng là phương pháp luận chung nhất. Nó nêu
lên những điều kiện chung cần thiết để giải quyết các vấn đề, các nhiệm vụ cụ thể, chứ không
phải trực tiếp giải quyết chúng.
2.2. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển khoa
học.
Chức năng thế giới quan và phương pháp luận chung của triết học đối với khoa học, được
hầu hết các nhà khoa học thừa nhận. Vấn đề ở chỗ, nếu có ai đó cho rằng, mình không cần đến
một quan điểm triết học nào, thì như thế cũng đã là có một quan điểm triết học rồi, song là
một quan điểm triết học mơ hồ. Đây cũng chính là tư tưởng của Ph.Ăgghen khi ông nói:
“Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi triết học bằng cách không để ý đến
nó hoặc phỉ báng nó… Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của
những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất. Dù những
nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề là ở chỗ
họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi
một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của
nó”.
Albert Einstein - một trong những nhà khoa học xuất sắc nhất của thể kỷ XX không ít lần
chỉ rõ các khái quát triết học cần dựa trên các kết quả khoa học. Max Planck - nhà vật lý, cha
đẻ của cơ học lượng tử đã khẳng định rằng, thế giới quan của người nghiên cứu luôn tham gia
vào việc xác định hướng nghiên cứu của người đó.
Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa học trước hết là ở
vai trò nhận thức của nó, làm gia tăng tri thức mới. Sự phân tích, lý giải triết học đối với các dữ
liệu khoa học cũng chính là sự nghiên cứu các hiện tượng ở mức độ khái quát chung và sâu sắc
hơn. Hàng loạt các phạm trù nền tảng của nhận thức được hình thành và phát triển như là các
phạm trù của triết học và các khoa học, ví dụ như các phạm trù “vật chất”, “không gian”, “thời
gian”, “vận động”, “nguyên nhân”, “lượng”, “chất”,... Triết học không đi sâu giải quyết các vấn


9


Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017
đề khoa học cụ thể, mà đi sâu giải quyết các vấn đề thuộc về lý luận nhận thức phổ quát. Phát
triển song hành cùng các khoa học cụ thể, triết học vạch ra lôgíc của các quá trình nhận thức, trở
thành phương pháp luận của nhận thức khoa học.
Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa học là ở sự tổng
kết các thành tựu đã đạt được của khoa học và làm sáng tỏ các nguyên lý chung của chúng. Tất
nhiên, trong mỗi khoa học đều có sự tổng kết, khái quát các tri thức thành các nguyên lý, các quy
luật nhất định. Nhưng những tổng kết, khái quát trong mỗi khoa học cụ thể chỉ được giới hạn
trong lĩnh vực mà nó nghiên cứu. Đặc điểm của khái quát triết học là những khái quát chung
nhất, có liên quan đến các hiện tượng và các quá trình của tự nhiên, xã hội và tinh thần.
Triết học là công cụ tổng hợp tri thức. Thực tế cho thấy trong sự phát triển của tri thức hiện
đại cùng với xu hướng xuất hiện chuyên ngành mới, chuyên sâu là xu hướng ngược lại: Xu
hướng liên ngành kết hợp nhiều khoa học thành một hệ thống thống nhất. Tính chất tổng hợp,
liên ngành của khoa học hiện đại không chỉ thể hiện ở sự kết hợp của các ngành khoa học truyền
thống thành các khoa học mới như lý hóa, hóa lý, sinh hóa, sinh tâm lý, sinh vật lý, địa vật lý...,
mà còn là sự xích lại gần nhau của các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học
nhân văn. Chính xu hướng liên kết này của các khoa học cho phép các nhà nghiên cứu đưa ra
một bức tranh khoa học chung về thế giới, tìm kiếm một cơ sở phương pháp luận chung thống
nhất, khắc phục tính chất phân tán manh mún của các khoa học chuyên ngành, xác lập cơ sở cho
sự hợp tác trong nghiên cứu khoa học. Ở đây, triết học đóng vai trò là hạt nhân lý luận kết nối
các ngành khoa học, là trung tâm phương pháp luận đem lại khả năng thâm nhập vào các quá
trình này một cách chủ động và tích cực.
Cuối cùng, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và vai trò ngày càng tăng của nó trong đời
sống xã hội, mối liên hệ hữu cơ của nó với các nhân tố, điều kiện phát triển xã hội và con người
khiến cho vấn đề quản lý khoa học và định hướng giá trị của nó trở nên cần thiết hơn. Quản lý và
định hướng giá trị khoa học ở đây không phải là quản lý sự sáng tạo khoa học, mà là quản lý các

thiết chế khoa học, kế hoạch chương trình phát triển khoa học; ứng dụng các kết quả nghiên cứu
khoa học vào sản xuất và đời sống. Việc quản lý và định hướng ấy chắc chắn không thể không
liên quan đến một thế giới quan nói chung, đến những quan điểm triết học nhất định. Mối quan
hệ giữa triết học và khoa học có một quá trình phát triển lâu dài. Mối quan hệ ấy không đơn giản,
bất biến, mà phức tạp, thay đổi và trở thành một trong những “vấn đề triết học”, nghĩa là xung
quanh nó luôn tồn tại những quan điểm khác nhau. Có thể thấy hai quan điểm nổi bật. Quan
điểm thứ nhất, tuyệt đối hóa vai trò của triết học, hạ thấp, coi thường vai trò của các khoa học.
Quan điểm thứ hai, tuyệt đối hóa vai trò của các khoa học, hạ thấp hoặc gạt bỏ vai trò của triết
học. Cả hai quan điểm này thực chất là cực đoan, chúng chỉ phản ánh và tuyệt đối hóa một xu
hướng nhất định đã có trong lịch sử triết học và khoa học mà chúng ta đã đề cập ở trên. Có thể
nói, cách tiếp cận như vậy về mối quan hệ giữa triết học và khoa học là biểu hiện của lối tư duy
siêu hình – lối tư duy, mà xét trong những điều kiện nhất định có thể được coi là chính đáng, cần
thiết, nhưng xét trong phạm vi phổ quát thì nó bộc lộ những hạn chế nhất định.
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đem đến một quan điểm mới, tích cực về mối quan
hệ giữa triết học và khoa học. Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học là mối quan hệ biện
chứng, thống nhất của các mặt đối lập. Tính đặc thù của mối quan hệ này nằm ở chỗ, tùy từng
giai đoạn phát triển cụ thể mà mặt này hay mặt kia nổi trội, tác động của mặt này lên mặt kia
không phải chỉ theo một hướng duy nhất. Các kết luận triết học được rút ra từ khoa học có thể là

10


Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017
tích cực, nhưng cũng có thể là tiêu cực. Điều đó phụ thuộc vào lý luận nhận thức của các nhà
khoa học được định hướng bởi thế giới quan triết học nào. Trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những phát minh mới của khoa học tự nhiên, như phát hiện ra tia X, hiện tượng
phóng xạ, điện tử,... đã làm bộc lộ những hạn chế của bức tranh cũ về thế giới vật lý, tạo nên tình
thế khủng hoảng. Phân tích “cuộc khủng hoảng của vật lý học” ấy, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, chủ
nghĩa duy tâm đã lợi dụng và xuyên tạc những thành tựu có tính cách mạng nói trên của khoa
học tự nhiên; rằng, các nhà khoa học - những người xuất sắc trong các lĩnh vực của mình, nhưng
lại bộc lộ các giới hạn nhận thức trong lĩnh vực triết học. Họ, vì không nắm vững bản chất của tư

duy biện chứng, cho nên đã dao động và tìm đến chủ nghĩa hoài nghi mà bỏ qua vai trò thực
chứng trong vật lý học của chủ nghĩa duy vật biện chứng. V.I.Lênin khẳng định rằng, trong
trường hợp này, chỉ có nắm vững phép biện chứng duy vật mới có thể thoát khỏi “cuộc khủng
hoảng vật lý” đó.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại với sự phát triển nhanh chóng của khoa học
cũng như những ứng dụng rộng rãi của nó trong thực tiễn đã và đang làm thay đổi sâu sắc đời
sống con người, góp phần làm bộc lộ những hạn chế của tư duy siêu hình. Con đường duy nhất
để khắc phục những giáo điều, những khuôn mẫu, trì trệ trong nhận thức và hành động là nắm
chắc và vận dụng đúng phép biện chứng duy vật, vì phép biện chứng duy vật là phương pháp
luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
3. Ý nghĩa của mối quan hệ giữa triết học và khoa học đến sự phát triển của khoa học và
triết học hiện nay.
Triết học và khoa học tự nhiên song song tồn tại, chúng bổ xung cho nhau, liên kết với nhau để
cùng phát triển. Sự phát triển của khoa học tự nhiên cũng là sự phát triển của triết học, khoa học
tự nhiên dựa vào triết học để giải thích thế giới, lấy triết học làm nền tảng cho những phát minh
khoa học - kỹ thuật và triết học là nền tảng, là chỗ dựa cho sự phát triển của khoa học tự nhiên…
Như vậy, ta có thể cho rằng triết học và khoa học tự nhiên không thể tồn tại một cách độc lập vì
chúng không thể tách rời và không thể tồn tại một cách độc lập được. Triết học và khoa học tự
nhiên đều là những "công cụ" để giải thích thế giới khách quan làm cho con người có thể hiểu
được bản chất của thế giới và có thể nắm vững được những quy luật vận động của nó.

KẾT LUẬN
Lịch sử hình thành và phát triển hơn hai nghìn năm của triết học và khoa học tự nhiên đã cho
thấy hai lĩnh vực tri thức ấy luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau mà còn chứng minh rằng, triết
học duy vật biện chứng tìm thấy ở khoa học tự nhiên những cơ sở khoa học vững chắc để khái
quát nên những nguyên lý, quy luật chung nhất của mình, còn khoa học tự nhiên lại tìm thấy
trong triết học duy vật biện chứng thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn, sắc bén để đi sâu
nghiên cứu giới tự nhiên. Việc nghiên cứu và nắm vững mối quan hệ này có vị trí và vai trò rất
quan trọng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Mối quan hệ giữa triết học và khoa học
không phải là vấn đề mới. Trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu dài, mối quan hệ ấy đã trở

thành một trong những “vấn đề triết học” được bàn luận sâu rộng với nhiều quan điểm khác
nhau. Mối quan hệ giữa triết học và khoa học là mối quan hệ hai chiều, nghĩa là, triết học và các
khoa học đều có tác động biện chứng lẫn nhau. Nếu như sự tác động của triết học đến khoa học
có thể chia thành những giai đoạn và mỗi giai đoạn có những hình thức nhất định, thì ngược lại,
sự tác động của khoa học đến sự phát triển của triết học không phải lúc nào cũng rõ ràng và có

11


Học viện hành chính quốc gia Hà Nội 1/2017
khuynh hướng rõ rệt. Từ chỗ lúc đầu là một sự hòa trộn đan xen giữa tri thức khoa học và triết
học, dần dần là sự tách ra của khoa học và sau đó, khoa học bắt đầu ảnh hưởng đến sự phát triển
của triết học. Mối liên hệ giữa triết học nói chung, triết học duy vật biện chứng nói riêng với
khoa học tự nhiên là một tất yếu có tính quy luật và ngày càng phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng luôn đặt cho mình nhiệm vụ phải khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự
nhiên để làm sâu sắc thêm, phong phú thêm những nguyên lý, những quy luật của mình. Và mỗi
bước ngoặt của khoa học tự nhiên, trước sự đổ vỡ của những nguyên lý cũ và sự ra đời của
những phát minh mới thì đại đa số các nhà khoa học tự nhiên đều đứng về phía chủ nghĩa duy
vật. Khoa học hiện đại ngày càng chứng tỏ mối liên hệ mật thiết giữa nó với triết học duy vật
biện chứng, chứ không phải với chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Tuy vậy, vẫn
có một số ít những nhà khoa học, do không nắm vững phép biện chứng, còn chịu ảnh hưởng của
các trào lưu triết học sai lầm, nên thường giải thích những thành tựu mới nhất của khoa học trên
lập trường của chủ nghĩa duy tâm và đưa khoa học tự nhiên đi lệch sang phía chủ nghĩa duy tâm.
Đây chính là lực cản của sự phát triển khoa học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.
3. N.A. Budrâykô, Những vấn đề triết học của Hóa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1979.
4. Bùi Huy Đáp, Triết học Sinh vật học, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962.
5. Thomas Kuhn, Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học, Nxb Tri thức, 2008.


12



×