Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH LAI CHÂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.94 KB, 83 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KHOA HỌC CẤP TỈNH

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM
HIỆN TRƯỜNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH LAI CHÂU

Các tác giả:
Lò Văn Vượng

Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu

Lai Châu - 2012


TRANG

1

MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm, yêu cầu áp dụng pháp luật trong kiểm

7

sát khám nghiệm hiện trường
1.2. Quy trình và nội dung áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám

7


nghiệm hiện trường

17

1.3. Các điều kiện bảo đảm áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám
nghiệm hiện trường

30

Chương 2:THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở TỈNH LAI CHÂU THỜI
GIAN QUA
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Lai Châu

36
36

2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám nghiệm
hiện trường của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Lai Châu
2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót

38
53

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT TRONG KIỂM SÁT KHÁM
NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN Ở TỈNH LAI CHÂU
3.1. Quan điểm và yêu cầu khách quan bảo đảm áp dụng pháp luật

trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường của Viện kiểm sát
nhân dân ở tỉnh Lai Châu

56

56

3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám
nghiệm hiện trường của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Lai
Châu

58

KẾT LUẬN

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

78

2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL

: Áp dụng pháp luật

BCA


: Bộ công An

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

ĐTV

: Điều tra viên

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KSĐT

: Kiểm sát điều tra

KSV

: Kiểm sát viên

Nxb

: Nhà xuất bản


VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện Kiểm sát nhân dân

3


MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Khám nghiệm hiện trường là hoạt động tố tụng, đồng thời là hoạt động
nghiệp vụ của Cơ quan điều tra (CQĐT). Khám nghiệm hiện trường có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong giải quyết án hình sự, vì đây là xuất phát điểm
của những hoạt động tố tụng điều tra sau này. Khám nghiệm hiện trường tốt sẽ
giúp cho cơ quan điều tra xác định đúng hướng điều tra, xây dựng đúng giả
thuyết điều tra và đối tượng phạm tội, nhằm chứng minh tội phạm và người
phạm tội. Ngược lại, nếu không khám nghiệm hoặc khám nghiệm hiện trường
không tốt sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động điều tra tiếp theo, thậm chí có
thể dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì công tác thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự là
một trong những công tác thực hiện chức năng của VKSND. Thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự giữ vị trí đặc biệt quan trọng,
trong đó có hoạt động kiểm sát điều tra việc khám nghiệm hiện trường. Điều

150 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “…Trong mọi trường hợp, trước khi
tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng
cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường
….”[27, tr.122, 123]. Thông qua hoạt động này, Viện kiểm sát có trách nhiệm
bảo đảm cho việc khám nghiệm hiện trường của Cơ quan điều tra thực hiện
đúng quy định của pháp luật, phản ánh đúng thực tế, thu thập đầy đủ những
dấu vết, tang vật … có tại hiện trường. Kết quả khám nghiệm hiện trường là
một trong những cơ sở quan trọng để cơ quan điều tra ra các quyết định tiếp
theo phù hợp với diễn biến, tính chất của vụ việc mang tính hình sự.
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, ngành Kiểm sát nhân dân tỉnh
Lai Châu đã thực hiện tương đối tốt công tác kiểm sát điều tra khám nghiệm
hiện trường, kết quả khám nghiệm hiện trường là chứng cứ quan trọng để
1


chứng minh tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, hoạt động kiểm sát điều
tra khám nghiệm hiện trường cũng còn bộc lộ những yếu kém, hạn chế nhất
định, làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án hình sự và đến việc đấu
tranh phòng, chống tội phạm tại địa phương.
Để thực hiện chủ trương của Đảng về “…tăng cường trách nhiệm của
công tố trong hoạt động đều tra”[04] theo yêu cầu cải cách tư pháp thì chất
lượng công tác kiểm sát điều tra khám nghiệm hiện trường cũng phải được
nâng cao. Muốn thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của VKSND trong kiểm sát
điều tra khám nghiệm hiện trường, Kiểm sát viên phải nhận thức đúng vai trò,
trách nhiệm của mình trong hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường
cũng như nắm vững các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục khi tiến
hành khám nghiệm hiện trường, nâng cao các biện pháp nghiệp vụ sẽ được sử
dụng trong quá trình khám nghiệm đáp ứng các yêu cầu nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động khám nghiệm hiện trường.
Xuất phát từ những lý do trên, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công

tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả
của công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân ở tỉnh Lai Châu, các Tác giả lựa chọn đề tài : “Áp dụng pháp luật
trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường của Viện kiểm sát nhân dân ở
tỉnh Lai Châu” làm nội dung nghiên cứu là đáp ứng yêu cầu khách quan hiện
nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật
trong hoạt động kiểm sát điều tra nói chung và áp dụng pháp luật trong hoạt
động kiểm sát điều tra khám nghiệm hiện trường nói riêng. Các nghiên cứu
này được công bố trên các tạp chí chuyên ngành, các sách, báo, trong các luận
văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Đáng chú ý một số công trình như:
- “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Nxb Chính
trị Quốc gia, năm 2004.

2


- “Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2006.
- “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra”, Tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên, Nxb Tư pháp, năm 2008.
- “Sổ tay Kiểm sát viên hình sự”, của Viện khoa học kiểm sát – Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Nxb Văn hóa dân tộc, năm 2006.
- “Quyền công tố ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học của Lê Thị
Tuyết Hoa, Viện Nhà nước và Pháp luật năm 2002.
- “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học
của Trịnh Duy Tám năm 2005.
- “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trong hoạt

động kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường các vụ tai nạn giao thông đường
bộ”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Bùi Thị Hồng Anh năm 2010.
- “Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra khám nghiệm hiện trường
ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của
Tạ Thanh Bình năm 2011.
- “Khám nghiệm hiện trường trong hoạt điều tra hình sự”, của Tiến sĩ
Nguyễn Văn Nhật, Tạp chí Kiểm sát, số 07/2005.
- “Cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 về khám nghiệm hiện trường”, của Tiến sĩ Ngô Sĩ Hiền,
Tạp chí Kiểm sát, số 10/2007.
- “Một số vấn đề cần chú ý trong công tác kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường”, của Tiến sĩ Đỗ Văn Đương, Tạp chí Kiểm sát, số 10/2007.
- “Hoàn thiện những quy định của pháp luật về khám nghiệm hiện
trường”, của Nguyễn Thanh Mai, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 04/2007.
- “Kiểm sát khám nghiệm hiện trường và một số giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường của Viện
kiểm sát nhân dân”, Tiến sĩ Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Tạp chí Nghề luật, số
01/2011.
3


Ngoài ra còn nhiều công trình, bài viết khác.
Tuy nhiên, trong số các công trình nghiên cứu đã được thực hiện, chưa
có công trình nào nghiên cứu, khảo sát về áp dụng pháp luật trong kiểm sát
khám nghiệm hiện trường của VKSND ở tỉnh Lai Châu, đây là công trình
nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này ở cấp độ đề tài khoa học cấp tỉnh. Các công
trình nghiên cứu đã được thực hiện nêu trên là nguồn tư liệu phong phú cho
các Tác giả thực hiện đề tài khoa học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích

Mục đích của đề tài là phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
công tác kiểm sát điều tra khám nghiệm hiện trường, qua đó đề xuất các giải
pháp nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật đúng đắn trong kiểm sát khám nghiệm
hiện trường của VKSND ở tỉnh Lai Châu.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích cơ sở lý luận của hoạt động áp dụng pháp luật trong kiểm
sát khám nghiệm hiện trường nói chung và hiện trường các vụ án hình sự nói
riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám
nghiệm hiện trường của VKSND ở tỉnh Lai Châu, bao gồm thực trạng, kết quả
hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường; nguyên nhân của những ưu
điểm và của tồn tại, thiếu sót trong hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện
trường.
- Phân tích và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật đúng
đắn trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án hình sự của VKSND ở
tỉnh Lai Châu trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường của VKSND ở
tỉnh Lai Châu.
4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu, khảo sát hoạt động áp dụng pháp luật trong kiểm
sát khám nghiệm hiện trường các vụ án hình sự của VKSND ở tỉnh Lai Châu
từ năm 2008 đến năm 2012.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, khoa học lý
luận về Lịch sử Nhà nước và Pháp luật nói chung, lý luận về áp dụng pháp
luật nói riêng. Đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp
được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết
số 49-NQ/ TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Triết học MácLênin. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh...
6. Đóng góp về khoa học của đề tài
Đề tài là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống
và toàn diện ở cấp độ đề tài khoa học cấp tỉnh về áp dụng pháp luật trong
kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án hình sự của VKSND ở tỉnh Lai
Châu, đề tài có một số đóng góp khoa học như sau:
Về phương diện lý luận: Làm sáng tỏ một số vấn đề về áp dụng pháp
luật trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường, xác định những vấn đề lý luận
của áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án hình
sự của VKSND ở tỉnh Lai Châu.
- Về phương diện thực tiễn: Đề tài đánh giá khách quan về thực trạng,
chỉ rõ nguyên nhân của ưu điểm và tồn tại, thiếu sót, đồng thời đề ra những
giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật trong kiểm
sát khám nghiệm hiện trường các vụ án hình sự của VKSND ở tỉnh Lai Châu.

5


7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.


6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, YÊU CẦU ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
1.1.1. Một số vấn đề chung về hiện trường và khám nghiệm hiện trường
1.1.1.1. Khái niệm hiện trường
Theo Từ điển Tiếng Việt, thì hiện trường được hiểu là “nơi xảy ra sự
việc”[32, tr. 438]. Đây là khái niệm có tính khái quát chung nhất cho các loại
hiện trường, chỉ rõ những thuộc tính cơ bản của hiện trường như sau:
Thứ nhất, hiện trường là “nơi”, nghĩa là phải có sự tồn tại của một địa
điểm trong không gian xác định, ở đó xảy ra một sự việc, hiện tượng và sự
việc, hiện tượng đó được kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ hai, hiện trường phải có sự việc xảy ra, nghĩa là mỗi sự việc, hiện
tượng, quá trình nào đó xảy ra trong hiện thực thì đều phải có hiện trường.
Trong khoa học hình sự, nhận thức một cách đầy đủ khái niệm hiện
trường có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác khám nghiệm hiện trường.
Khoản 1 Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Điều
tra viên tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm, nhằm phát
hiện dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa
đối với vụ án”[27, tr. 122, 123]. Theo quy định này, hiện trường phải là “nơi
xảy ra” hoặc “nơi phát hiện tội phạm”, nghĩa là công tác khám nghiệm hiện
trường được tiến hành khi xác định có một tội phạm được thực hiện. Tuy
nhiên, tại Khoản 2 Điều 150 BLTTHS cũng quy định “ …khám nghiệm hiện
trường có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình sự…”. Điều đó có nghĩa
là việc khám nghiệm hiện trường được tiến hành trước khi xác định có hay

không có hành vi phạm tội và thông qua việc khám nghiệm hiện trường giúp
cho cơ quan có thẩm quyền thu thập thông tin nhằm xác định có hành vi phạm
tội xảy ra hay không, trên cơ sở đó quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án
7


hình sự. Trên thực tế có nhiều trường hợp khám nghiệm hiện trường đã được
thực hiện nhưng không khởi tố vụ án hình sự, tức là không có tội phạm, từ đó
đồng nghĩa với việc hiện trường đã được khám nghiệm trước đó không phải là
“nơi xảy ra” hoặc “nơi phát hiện tội phạm” theo quy định của BLTTHS. Do
đó, quy định như Khoản 1 Điều 150 BLTTHS năm 2003 là chưa chặt chẽ.
Đề cập đến hiện trường, theo cuốn Giáo trình bảo vệ và khám nghiệm
hiện trường của Học viện Cảnh sát nhân dân, xuất bản năm 2004, thì “Hiện
trường là nơi xảy ra, nơi phát hiện các vụ phạm tội hoặc vụ việc mang tính
hình sự”[17, tr. 110]. Theo đó, hiện trường phải thỏa mãn hai dấu hiệu cơ
bản đó là:
Thứ nhất, hiện trường phải tồn tại với tư cách là một địa điểm cụ thể
trong một khoảng không gian xác định và trong khoảng thời gian xác định.
Hiện trường gồm hai loại địa điểm đó là nơi xảy ra và nơi phát hiện ra vụ việc
phạm tội hoặc vụ việc mang tính hình sự. Nơi xảy ra vụ việc là nơi mà quá
trình diễn biến của các vụ phạm tội hay vụ việc mang tính hình sự đã để lại
những dấu vết, vật chứng trên đó. Đó có thể là nơi chuẩn bị, nơi tiến hành, nơi
che giấu hành vi phạm tội hoặc hành vi thực hiện vụ việc mang tính hình sự.
Nơi phát hiện vụ việc có thể chính là nơi xảy ra tội phạm hay vụ việc mang
tính hình sự hoặc không phải là nơi xảy ra nhưng có thể là nơi tìm thấy được
các dấu vết, vật chứng có liên quan đến vụ việc đó. Trường hợp nơi phát hiện
vụ việc khác nơi xảy ra vụ việc, thì đó có thể là: Nơi phát hiện dấu vết, nơi
phát hiện công cụ, phương tiện phạm tội, nơi bắt giữ tội phạm đang trên
đường vận chuyển.
Thứ hai, hiện trường phải là nơi xảy ra các vụ phạm tội hoặc những vụ

việc mang tính hình sự. Đó là những hành vi phạm tội cụ thể được quy định
trong BLHS hoặc là những hành vi có dấu hiệu của tội phạm nhưng chưa xác
định được đầy đủ các yếu tố cấu thành của một tội phạm cụ thể.
Tác giả nhất trí với khái niệm hiện trường như trên trong khoa học hình
sự. Vì nội hàm của khái niệm này đã thỏa mãn được những dấu hiệu đặc trưng
cơ bản của hiện trường, có tính khái quát cao.
8


1.1.1.2. Khái niệm khám nghiệm hiện trường
Hiện nay, trong khoa học hình sự vẫn chưa có một khái niệm chính thức
về khám nghiệm hiện trường.
Trong cuốn Giáo trình Điều tra hình sự năm 2002 của Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội, viết về khám khám nghiệm hiện trường như sau: “Khám
nghiệm hiện trường là tổ chức việc nghiên cứu, phát hiện, ghi nhận, thu lượm,
bảo quản dấu vết vật chứng và các tin tức, tài liệu có liên quan trực tiếp tại
hiện trường”[10, tr. 120]. Khái niệm trên chưa chỉ ra được hoạt động khám
nghiệm hiện trường là hoạt động gì? Theo quy định pháp luật nào? Khái niệm
này chưa chỉ ra được hoạt động khám nghiệm hiện trường là hoạt động điều
tra theo tố tụng hình sự quy định. Bởi lẽ, chỉ khi kết quả khám nghiệm hiện
trường là kết quả của hoạt động tố tụng hình sự thì mới đảm bảo giá trị pháp
lý để chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội.
Khái niệm khám nghiệm hiện trường trong cuốn Giáo trình bảo vệ và
khám nghiệm hiện trường, xuất bản năm 2004 của Học viện Cảnh sát nhân
dân được nêu như sau: “Khám nghiệm hiện trường là hoạt động điều tra tố
tụng hình sự nhằm nghiên cứu, phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, đánh
giá các dấu vết, vật chứng và những tin tức, tài liệu có liên quan trực tiếp tại
hiện trường, phục vụ cho việc điều tra và xử lý tội phạm”[17, tr. 115].
Khái niệm về khám nghiệm hiện trường trong cuốn giáo trình này đã đề
cập đến tính căn cứ pháp lý của hoạt động khám nghiệm hiện trường, đó là

hoạt động được quy định trong BLTTHS. Do đó, nó đã thỏa mãn thuộc tính
thứ ba của chứng cứ, đó là tính hợp pháp của chứng cứ. Khái niệm cũng chỉ rõ
khám nghiệm hiện trường không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, phát hiện,
ghi nhận, thu lượm, bảo quản dấu vết, vật chứng cũng như các tin tức, tài liệu
khác tại hiện trường mà còn phải nghiên cứu, đánh giá dấu vết, vật chứng
cũng như các tin tức, tài liệu khác tại hiện trường.
Tuy nhiên, nếu cho rằng khám nghiệm hiện trường nhằm mục đích
phục vụ cho việc điều tra và xử lý tội phạm như được nêu trong khái niệm
trên là chưa hoàn toàn chính xác. Như quan điểm tác giả đã đề cập ở phần
9


trên, không phải hiện trường nào cũng là hiện trường của vụ phạm tội, trong
thực tế khám nghiệm hiện trường được tiến hành khi có vụ việc được nhân định
là mang tính hình sự xảy ra. Nhiều vụ việc, sau khi căn cứ vào kết quả khám
nghiệm hiện trường đã xác định không có sự kiện phạm tội. Do đó, không phải
kết quả của cuộc khám nghiệm hiện trường nào cũng phục vụ cho việc điều tra
và xử lý tội phạm. Cho nên, theo tác giả, mục đích bao quát của khám nghiệm
hiện trường là nhằm phục vụ điều tra, xử lý vụ việc đúng pháp luật.
Trên cơ sở nghiên cứu những quan điểm khác nhau đã nêu trên, tác giả
đưa ra khái niệm khám nghiệm hiện trường như sau:
Khám nghiệm hiện trường là hoạt động điều tra tố tụng hình sự, nhằm
nghiên cứu, phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, đánh giá dấu vết, vật
chứng và những tin tức, tài liệu tại hiện trường, phục vụ điều tra và xử lý vụ
việc đúng pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật
1.1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Pháp luật XHCN Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự thể hiện ý
chí, lợi ích của nhân dân lao động, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, có
tính bắt buộc chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện trên cơ sở kết hợp giáo

dục, thuyết phục và cưỡng chế, thu hút sự tham gia tích cực của toàn xã hội
vào hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật, nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh [11, tr. 337].
ADPL là một trong những hình thức quan trọng của việc thực hiện pháp
luật. Đó chính là hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước có
thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể
quan hệ pháp luật thực hiện được quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo
quy định của pháp luật. Thông qua hoạt động ADPL, bảo đảm cho pháp luật
được thi hành nghiêm minh và thống nhất; các quyền của chủ thể được thực
hiện và bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật được xử lý nghiêm
minh, kịp thời để bảo vệ trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
10


Tính chất tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước của ADPL thể hiện ở
chỗ hoạt động này chỉ do cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước có thẩm
quyền tiến hành, không theo ý chí của các chủ thể này mà theo quy định của
pháp luật. Quyết định ADPL có hiệu lực pháp lý thi hành và được nhà nước
bảo đảm thi hành. Cho nên, ADPL còn là một hình thức thực hiện quyền lực
nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
ADPL được tiến hành đối với các trường hợp sau:
Thứ nhất, khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi
phạm pháp luật hoặc cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước đối
với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ hai, khi các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể không mặc
nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước.
Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý
giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết
được. Trong trường hợp này, quan hệ pháp luật đã xuất hiện nhưng do có sự

tranh chấp giữa các bên về các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó nên các bên
không thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Ví dụ,
tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng kinh tế, dân sự cụ thể nào đó.
Thứ tư, trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải
tham gia để giám sát, kiểm tra hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ
đó. Hoặc nhà nước xác định sự tồn tại hay không tồn tại của một số việc, sự
kiện thực tế.
Từ những phân tích trên, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng:
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà
nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho
các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình
căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định áp dụng trong những
trường hợp cụ thể của đời sống xã hội [11, tr. 500].
1.1.2.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Thứ nhất, ADPL là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước.
11


Hoạt động ADPL chỉ do những cơ quan nhà nước hay nhà chức trách
có thẩm quyền tiến hành trong phạm vi thẩm quyền được giao ở một số hoạt
động ở một số hoạt động ADPL nhất định, ví dụ: Thẩm phán có quyền xét xử,
Kiểm sát viên có quyền thực hành quyền công tố … Trong quá trình ADPL
mọi khía cạnh, mọi tình tiết phải xem xét thận trọng và dựa trên những cơ sở
quy định, yêu cầu của pháp luật đã được xác định để ra các quyết định cụ thể.
Có thể nói, pháp luật là cơ sở xuất phát điểm để cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ADPL thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Việc ADPL được xem là sự tiếp tục khẳng định ý chí của Nhà nước đã
thể hiện trong pháp luật. Do vậy, việc ADPL phải phù hợp với pháp luật hiện
hành. Trong lĩnh vực tư pháp, ADPL được các cán bộ, công chức nhà nước có
chức danh pháp lý như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán … tiến hành,

khi tiến hành xác minh, điều tra thu thập chứng cứ cần làm rõ một cách thận
trọng các tình tiết khách quan của vụ án.
ADPL có tính bắt buộc đối với các chủ thể bị ADPL, với tổ chức và cá
nhân có liên quan. Trong những trường hợp cần thiết, quyết định ADPL được
bảo đảm bằng quyền lực nhà nước.
Thứ hai, hoạt động ADPL phải được tiến hành theo thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định. Do tầm quan trọng và tính chất phức tạp của ADPL, chủ
thể bị ADPL có thể được hưởng các quyền và lợi ích rất lớn nhưng cũng có
thể phải chịu những hậu quả bất lợi, vì thế nên pháp luật luôn có sự xác định
rõ ràng về trình tự, thủ tục, cơ sở, điều kiện, quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể trong ADPL.
Thứ ba, ADPL là hoạt động điều chỉnh có tính cá biệt, cụ thể đối với
quan hệ xã hội xác định. Đối tượng của ADPL là những quan hệ xã hội cần
đến sự điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong
quy phạm pháp luật. Có nghĩa là thông qua hoạt động ADPL, những quy tắc
xử sự có tính chất chung trong quy phạm pháp luật sẽ được cá biệt hóa một
cách chính xác thành mệnh lệnh cụ thể cho mỗi trường hợp cụ thể đối với
những chủ thể cụ thể.
12


Thứ tư, ADPL là đòi hỏi mang tính sáng tạo (sự sáng tạo trong phạm vi
quy phạm pháp luật). Bởi lẽ những tình huống dự liệu quy định trong các quy
phạm pháp luật chỉ là những dấu hiệu chung nhất, có tính khái quát cao, trong
khi đó những tình huống, sự kiện pháp lý diễn ra trong thực tế lại hết sức
phong phú, đa dạng nên hoạt động ADPL có tính thực tiễn cao và đòi hỏi tính
sáng tạo. Khi ADPL, người có thẩm quyền phải nghiên cứu kỹ vụ việc, cần
làm sáng tỏ các yếu tố cấu thành pháp lý của nó để từ đó lựa chọn quy phạm
pháp luật, ra văn bản ADPL và tổ chức thi hành một cách đúng đắn. Để đặt
được điều đó, đòi hỏi các nhà chức trách phải có kiến thức pháp luật cao, có

tri thức tổng hợp và có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức và tay nghề cao.
- Hình thức thể hiện của ADPL: Hình thức thể hiện chính thức và chủ
yếu của hoạt động ADPL là văn bản ADPL. Văn bản ADPL được thể hiện
trong những hình thức xác định như: Bản án, quyết định, lệnh. Căn cứ vào nội
dung, nhiệm vụ của văn bản ADPL, có thể chia thành hai loại: Văn bản xác
định quyền, nghĩa vụ và văn bản bảo vệ pháp luật chứa đựng những biện pháp
trừng phạt, cưỡng chế nhà nước đối với cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật.
Với tính cách là một mắt xích của cơ chế điều chỉnh pháp luật, văn bản
áp dụng pháp luật là văn bản pháp lý cá biệt mang tính quyền lực do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội được
nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở những quy phạm pháp luật, nhằm
xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của cá nhân, tổ chức hoặc xác
định các biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật [11,
tr. 505].
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám
nghiệm hiện trường
1.1.3.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám nghiệm
hiện trường
ADPL trong kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường là một dạng áp
dụng pháp luật đặc thù, thuộc trường hợp áp dụng pháp luật khi Nhà nước
thấy cần thiết phải tham gia bằng hình thức giám sát hoạt động điều tra các vụ
13


án hình sự của Cơ quan điều tra, cũng như các hành vi của những người tham
gia việc khám nghiệm hiện trường. Các quyết định của Cơ quan điều tra hoặc
các hành vi của những người tham gia việc khám nghiệm hiện trường được
ban hành, được thực hiện đúng hoặc không đúng quy định của pháp luật. Khi
đó nhà nước thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện
kiểm sát nhân dân kịp thời phát hiện những vi phạm, đề ra các yêu cầu, kiến

nghị khắc phục, sửa chữa; đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hình sự được
tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.
ADPL trong kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường các vụ án hình sự
là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của VKSND nhằm cá biệt hóa các
quy định của pháp luật, các quy phạm pháp luật nói chung và các quy phạm tố
tụng hình sự nói riêng đối với việc khám nghiệm hiện trường, nhằm bảo đảm
cho toàn bộ hoạt động điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra nói
chung và hoạt động khám nghiệm hiện trường nói riêng được tuân thủ theo
đúng quy định của pháp luật.
Trên cơ sở những phân tích trên, tác giả đồng ý với quan điểm:
Áp dụng pháp luật trong kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường là một
dạng áp dụng pháp luật đặc thù, là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
của VKSND, nhằm kịp thời phát hiện những vi phạm, đề ra các yêu cầu, kiến
nghị khắc phục, sửa chữa; đảm bảo cho việc khám nghiệm hiện trường và giải
quyết các vụ án hình sự được tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật [13,
tr. 11].
1.1.3.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám nghiệm
hiện trường
Thứ nhất, ADPL trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường chỉ do VKS
tiến hành.
Theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức VKSND thì VKS có
chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó
có hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nói chung và kiểm sát điều
tra khám nghiệm hiện trường nói riêng. Thông qua việc thực hiện chức năng
14


này, VKSND thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, góp phần
bảo vệ pháp chế và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, bảo vệ tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm của công dân. Bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của nhà nước,
của tập thể và lợi ích hợp pháp của công dân phải được xử lý nghiêm minh
trước pháp luật.
Thứ hai, ADPL trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường của VKSND
được tiến hành theo thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Tất cả các bước trong quá trình điều tra các vụ án hình sự, hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong quá trình điều tra vụ án
hình sự đều được quy định chặt chẽ theo các trình tự, thủ tục do pháp luật tố
tụng hình sự quy định.
Thứ ba, quyết định ADPL trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường của
VKSND được pháp luật bảo đảm thi hành.
Các quyết định ADPL của VKSND được bảo đảm thi hành trong quá
trình giải quyết các vụ án hình sự, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tại khoản 2 Điều 23 BLTTHS năm 2003 quy định:
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có
trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện
pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ
quan hoặc cá nhân này [27, tr 17].
Theo quy định tại Điều 115 BLTTHS thì “Những quyết định, yêu cầu của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải được
cơ quan, tổ chức và công dân nghiêm chỉnh chấp hành”[27, tr.92, 93].
1.1.4. Yêu cầu áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám nghiệm hiện
trường
Yêu cầu ADPL trong hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường
các vụ việc mang tính hình sự của VKSND là bảo đảm cho mọi hành vi vi
15



phạm và tội phạm phải được phát hiện, xử lý kịp thời, chính xác theo các
quy định của pháp luật hiện hành, bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và làm
oan người vô tội.
Để thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ trên, xác định yêu cầu cơ bản đối với
ADPL trong kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường của VKSND như sau:
- Yêu cầu về tính hợp pháp: Đây là yêu cầu cơ bản của quá trình ADPL
trong kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường các vụ việc mang tính hình sự
của VKSND. Yêu cầu này đòi hỏi khi ADPL phải phù hợp, đúng thẩm quyền,
đúng trình tự, thủ tục, đúng quy định của BLTTHS.
Tính hợp pháp của ADPL trong hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường các vụ việc mang tính hình sự của VKS thể hiện ở chỗ, VKS có
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ hay không.
Tính hợp pháp của ADPL trong hoạt động kiểm sát việc khám
nghiệm trường các vụ việc mang tính hình sự của VKS còn thể hiện ở việc
các quyết định ADPL phải được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và
thời hạn quy định.
Như vậy, ADPL phù hợp, đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục, thời
gian do pháp luật quy định là tất yếu và bắt buộc, không thể thiếu được của
việc ADPL trong hoạt động KSĐT khám nghiệm hiện trường các vụ việc
mang tính hình sự của VKSND.
- Yêu cầu về tính chính xác, khách quan: Tính chính xác, khách quan
khi ADPL trong hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường của Viện kiểm
sát thể hiện ở chỗ, Kiểm sát viên được phân công KSĐT khám nghiệm hiện
trường các vụ việc mang tính hình sự cần nghiên cứu, đánh giá tài liệu, chứng
cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ việc và qua hoạt động thực tế tại hiện
trường một cách khách quan và toàn diện.
Tính chính xác, khách quan của ADPL trong hoạt động kiểm sát khám
nghiệm hiện trường các vụ việc mang tính hình sự còn được thể hiện bằng
việc vận dụng đúng nội dung quy định của pháp luật, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng, Kiểm sát viên là những người có thẩm quyền khi đưa ra quyết định

16


phải đánh giá, phân tích kỹ những quy phạm pháp luật cần áp dụng; những
tình tiết, chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc đã thỏa mãn nội dung quy phạm
pháp luật cần điều chỉnh hay chưa.
- Yêu cầu về tính khả thi: Theo BLTTHS, các quyết định, yêu cầu, kiến
nghị của VKSND phải được chấp hành, thực hiện trong quá trình điều tra vụ
án hình sự. Tính khả thi đòi hỏi các quyết định ADPL trong hoạt động kiểm
sát vụ án hình sự phải được thi hành trên thực tế.
Như vậy, yêu cầu về tính hợp pháp, tính chính xác, khách quan và tính
khả thi là những yêu cầu cơ bản của việc ADPL trong hoạt động kiểm sát
khám nghiệm hiện trường các vụ án hình sự của VKSND. Thực hiện tốt các
yêu cầu này thì việc ADPL của VKSND trong kiểm sát khám nghiệm hiện
trường các vụ việc mang tính hình sự sẽ đạt hiệu quả cao, đảm bảo cho việc
điều tra các vụ án hình sự được theo đúng quy định của pháp luật.
1.2. QUY TRÌNH VÀ NỘI DUNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG KIỂM SÁT KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
1.2.1. Quy trình áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám nghiệm
hiện trường
- Một là, nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ có liên
quan đến sự kiện pháp lý, đối tượng và quyết định do Cơ quan điều tra cung cấp.
Đây là khâu đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng của ADPL trong hoạt
động kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ việc mang tính hình sự.
KSV phải nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tài liệu nhằm xác định có
tính căn cứ của việc khám nghiệm hiện trường và những vấn đề đang đặt
ra đối với việc khám nghiệm hiện trường; yêu cầu thu thập các dấu vết để
lại tại hiện trường để có cơ sở xác định có hành vi phạm tội xảy ra hay
không, ai là người thực hiện, xảy ra ở đâu, khi nào, tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội, hoàn cảnh, điều kiện phạm tội, công cụ, phương

tiện phạm tội.
- Hai là, lựa chọn các quy phạm pháp luật phù hợp để áp dụng trong
kiểm sát khám nghiệm hiện trường.
17


Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì KSV được giao
nhiệm vụ KSĐT khám nghiệm hiện trường vụ án hình sự cần phải xem xét,
đánh giá đầy đủ các tài liệu mà CQĐT đã thu thập, được yêu cầu và đề nghị
trong tiến trình khám nghiệm hiện trường; từ đó xác định nội dung và phạm
vi quy phạm pháp luật được lựa chọn để áp dụng trong hoạt động KSĐT
khám nghiệm hiện trường.
- Ba là, ban hành văn bản ADPL.
Ban hành văn bản ADPL trong kiểm sát khám nghiệm hiện trường các
vụ án hình sự là việc VKSND ra quyết định, yêu cầu, kiến nghị. Đây là giai
đoạn quan trọng nhất của quá trình KSĐT các vụ án hình sự. Quyết định của
VKSND được ban hành sau khi đã xem xét, đối chiếu một cách thận trọng,
khách quan với toàn bộ những tài liệu đã thu thập được.
- Bốn là, tổ chức thực hiện văn bản ADPL.
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình ADPL. Giám sát chặt chẽ và
đầy đủ việc thực hiện các văn bản ADPL của VKSND trong kiểm sát khám
nghiệm hiện trường các vụ án hình sự là chức năng, nhiệm vụ của VKSND do
pháp luật quy định. Đó là một trong những bảo đảm quan trọng để quyết định
của VKSND được tổ chức thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
1.2.2. Nội dung áp dụng pháp luật trong kiểm sát khám nghiệm
hiện trường
ADPL trong hoạt động kiểm sát khám nghiệm hiện trường đòi hỏi
Kiểm sát viên phải kiểm sát các nội dung cơ bản sau đây:
1.2.2.1. Đảm bảo về phương pháp và trình tự khám nghiệm hiện
trường

*) Đảm bảo về phương pháp khám nghiệm hiện trường
Phương pháp là cách thức tiến hành theo một nguyên lý chung để đạt
được mục đích đặt ra. Nội dung của phương pháp khám nghiệm hiện trường
cụ thể là:
- Tổ chức lực lượng khám nghiệm;

18


- Sử dụng những phương tiện kỹ thuật khám nghiệm có hiệu quả và phù
hợp với những phản ánh vật chất trên hiện trường.
- Trình tự thực hiện công việc khám nghiệm để thu nhận không những
đầy đủ các dấu vết mà có còn đảm bảo những thông tin chứa đựng trong các
dấu vết, vật chứng không bị mất mát hoặc bị sai lệch, phục tốt cho hoạt động
điều tra vụ án.
Do đó, các lực lượng tham gia khám nghiệm hiện trường cần căn cứ
vào các đặc điểm của từng hiện trường cụ thể, mục đích và nhiệm vụ của việc
khám nghiệm, lực lượng, phương tiện sử dụng trong khám nghiệm để bố trí
lực lượng, phương tiện và lựa chọn phương pháp khám nghiệm cho phù hợp.
Có thể tổng hợp các phương pháp khám nghiệm hiện trường cụ thể thành 4
nhóm phương pháp sau:
Một là, phương pháp khám nghiệm lần theo dấu vết.
Là phương pháp được tiến hành theo trình tự điểm bắt đầu và điểm tiếp
theo. Điểm bắt đầu khám nghiệm là điểm có nhiều dấu vết, vật chứng và điểm
tiếp theo là hướng vận động của thủ phạm tại hiện trường hoặc hướng để lại
các dấu vết tiếp theo trên hiện trường.
Phương pháp khám nghiệm này thường được áp dụng khám nghiệm
hiện trường trong các vụ trộm cắp, vụ cháy, hiện trường có tử thi … trong
hiện trường các vụ trộm cắp thì điểm bắt đầu khám nghiệm là điểm thủ phạm
đột nhập để trộm cắp tài sản, sau đó khám nghiệm theo hướng vận động của

thủ phạm tại hiện trường. Trong khám nghiệm hiện trường các vụ cháy thì
điểm bắt đầu khám nghiệm là điểm phát cháy đầu tiên, sau đó khám nghiệm
theo hướng lan tỏa của ngọn lửa. Trong hiện trường các vụ có người chết thì
điểm bắt đầu khám nghiệm là tử thi, sau đó khám nghiệm theo hướng vận
động của thủ phạm tại hiện trường.
Hai là, phương pháp chia ô, chia khu vực.
Là phương pháp tiến hành chia hiện trường ra làm nhiều ô, khu vực
khác nhau sau đó tiến hành khám nghiệm từng ô, từng khu vực, tạo điều kiện

19


tiến hành khám nghiệm một cách hệ thống, tỷ mỉ, tránh để sót, lọt các dấu vết,
vật chứng.
Phương pháp này thường được áp dụng đối với các hiện trường rộng, có
cấu trúc phức tạp, ta dựa vào những điều kiện tự nhiên, sẵn có của hiện trường
để phân chia cho hợp lý. Để khắc phục được nhược điểm khi khám nghiệm
từng ô, từng khu vực độc lập với nhau, toàn bộ quá trình khám nghiệm phải
được tổ chức thống nhất và kết quả khám nghiệm phải được đánh giá trong
mối quan hệ chặt chẽ trong tổng thể của hiện trường.
Ba là, phương pháp khám nghiệm cuốn chiếu.
Đây là phương pháp khám nghiệm theo trình tự lần lượt từ đầu đến cuối
hiện trường theo một trình tự thống nhất. Phương pháp khám nghiệm này có
ưu điểm là hiện trường được khám nghiệm có hệ thống. Khi tiến hành
phương pháp khám nghiệm này có thể tiến hành từ trong ra ngoài hoặc từ
ngoài vào trong tùy thuộc vào từng loại hiện trường cụ thể trong tình huống cụ
thể để quyết định cho phù hợp.
Bốn là, phương pháp khám nghiệm theo hình xoáy ốc.
Là phương pháp khám nghiệm từ ngoài vào trung tâm hoặc từ trung
tâm ra ngoài theo hình xoáy ốc, có thể tiến hành thuận chiều kim đồng hồ

hoặc ngược chiều kim đồng hồ.
Phương pháp này thường được tiến hành với những hiện trường rộng
ngoài trời, giúp cho cán bộ khám nghiệm có điều kiện xem xét hiện trường
một cách tỷ mỉ, phát hiện được tất cả các dấu vết, vật chứng ở hiện trường.
Tóm lại, để đạt được kết quả tốt trong công tác kiểm sát điều tra
khám nghiệm hiện trường, yêu cầu KSV phải biết đánh giá tình hình hiện
trường, tìm cơ sở và điểm xuất phát để xác định phương pháp khám nghiệm
hiện trường cụ thể cho phù hợp với loại hiện trường phải khám nghiệm. Có
thể sử dụng riêng lẻ từng phương pháp khám nghiệm cụ thể cho một hiện
trường cụ thể, xong cũng có thể sử dụng nhiều phương pháp khám nghiệm
cụ thể cho một hiện trường. Việc sử dụng riêng lẻ hay tổng hợp các phương
pháp khám nghiệm cụ thể là tùy thuộc vào hiện trường cụ thể, phụ thuộc
20


vào những dụng cụ, phương tiện và lực lượng khám nghiệm cụ thể để quyết
định cho phù hợp, đảm bảo thu được kết quả tối ưu cho công tác khám
nghiệm hiện trường.
*) Trình tự tiến hành khám nghiệm hiện trường
Trình tự tiến hành khám nghiệm hiện trường chính là sự sắp xếp lần
lượt, thứ tự trước sau của các bước tiến hành khám nghiệm hiện trường gồm:
Bước 1, quan sát hiện trường
Là việc KSV, Điều tra viên nắm, bao quát vị trí, trạng thái chung của
hiện trường, cũng như các dấu vết, vật chứng, tử thi … trên hiện trường. Trên
cơ sở đó lựa chọn phương pháp khám nghiệm hiện trường cụ thể để yêu cầu
phát hiện, thu lượm các dấu vết, vật chứng cũng như tài liệu khác liên quan
đến vụ việc xảy ra.
Mục đích của quan sát hiện trường là nắm được toàn cảnh và trạng thái
chung của hiện trường, vị trí các dấu vết, vật chứng, tử thi trên hiện trường,
xác định cụ thể phạm vi của hiện trường cần bảo vệ và khám nghiệm. Khi

quan sát hiện trường, KSV cần yêu cầu đặt thứ tự cho các dấu vết, vật chứng,
tử thi, tiến hành các hoạt động ghi nhận chung nhất như chụp ảnh, ghi hình, vẽ
sơ đồ mô tả hiện trường, từ đó giúp dự kiến và xác định phương pháp khám
nghiệm hiện trường cụ thể phù hợp với đặc điểm của hiện trường.
Kết thúc quá trình quan sát hiện trường, KSV, ĐTV và những người
được trưng cầu tham gia khám nghiệm cần đưa ra được những yêu cầu nhằm
phục vụ tốt cho quá trình khám nghiệm tỉ mỷ, các yêu cầu đó có thể là: Có cần
thiết phải tăng cường lực lượng, phương tiện cho quá trình bảo vệ và khám
nghiệm hiện trường hay không; Lựa chọn phương pháp khám nghiệm cụ thể,
hợp lý, xác định phương tiện, dụng cụ kỹ thuật trong quá trình khám nghiệm;
Xác định lối vào, ra khỏi hiện trường của thủ phạm cũng như hướng vận động
của thủ phạm trên hiện trường; Bố trí từng việc cụ thể cho các thành viên
khám nghiệm cho phù hợp với cấu trúc của hiện trường và yêu cầu của công
tác khám nghiệm đặt ra; Xác định chất lượng các dấu vết, vật chứng trên hiện

21


trường, có thể sử dụng các biện pháp nghiệp vụ khác hỗ trợ việc truy tìm thủ
phạm hay không.
Giai đoạn quan sát hiện trường là giai đoạn đầu đóng vai trò quan trọng
trong quá trình khám nghiệm, giúp định hướng cho hoạt động khám nghiệm.
Làm tốt giai đoạn này sẽ tạo tiền đề cho giai đoạn khám nghiệm tỉ mỉ đạt kết
quả tốt, vì vậy đòi hỏi ĐTV chủ trì khám nghiệm và KSV phải có năng lực
quan sát.
Bước 2, khám nghiệm tỉ mỉ
Đây là giai đoạn then chốt của quá trình khám nghiệm, nhiệm vụ của
KSV ở giai đoạn này là nghiên cứu chi tiết, tỉ mỉ hiện trường với sự hỗ trợ của
các phương tiện kỹ thuật, nhằm phát hiện tất cả các dấu vết, vật chứng và sử
dụng các phương tiện kỹ thuật để thu giữ dấu vết vật chứng đó.

Trong quá trình khám nghiệm, KSV phải yêu cầu cán bộ khám nghiệm
hiện trường xem xét kỹ từng nơi, từng đồ vật, nhằm phát hiện, tìm kiếm
những dấu vết, vật chứng phản ánh quá trình diễn ra vụ án, quá trình vận động
của thủ phạm trên hiện trường cũng như những vấn đề khác có ý nghĩa đối với
hoạt động điều tra. Việc tìm kiếm các dấu vết, vật chứng trên hiện trường là
một công việc khó khăn, phức tạp, bởi vì dấu vết để lại trên hiện trường dưới
nhiều dạng phong phú, khó phát hiện nhất là dấu vết ẩn, vi vết mà mắt thường
khó có thể mà phát hiện được. Ngoài việc sử dụng các công cụ, phương tiện
kỹ thuật để phát hiện, người cán bộ khám nghiệm hiện trường cần căn cứ vào
quy luật hình thành dấu vết, quy luật hoạt động của tội phạm, quy luật vận
động của thủ phạm trên hiện trường … mà dự đoán nơi để lại dấu vết, từ đó
mà phát hiện. Vì vậy, khi phát hiện bất kỳ dấu vết, vật chứng nào cũng cần
phân tích, đánh giá chúng để tìm ra mối liên hệ giữa chúng để phát hiện ra các
dấu vết, vật chứng khác.
Trong quá trình khám nghiệm tỉ mỉ cần căn cứ vào những đặc trưng của
từng loại tội phạm để dự đoán những dấu vết, vật chứng đặc trưng để có kiến
thức sử dụng công cụ, phương tiện tìm kiếm, phát hiện. Ngược lại, nhiều hiện
trường có những biểu hiện thiếu dấu vết đặc trưng, hoặc các dấu vết đặc trưng
22


×