Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.78 KB, 99 trang )

Header Page 1 of 161.

LUẬN VĂN:

Tăng cường vai trũ nhà nước trong nền
kinh tế thị trường theo định hướng xó hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Mở đầu

Footer Page 1 of 161.


Header Page 2 of 161.

1. Tính cấp thiết của luận văn
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta, trước hết và trọng tâm là đổi mới kinh tế
đồng thời từng bước đổi mới chính trị, được thực hiện từ quyết định quan trọng - Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986).
Đổi mới kinh tế - xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN là một
nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, phù hợp với
yêu cầu khách quan của thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước và xu thế phát triển của
thời đại.
Trong đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã bước đầu đề ra nội dung, hình thức
và bước đi cụ thể, thích hợp. Từng bước chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao
cấp sang nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Thực hiện đường lối đó, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đóng vai trò hết
sức quan trọng - quản lý và điều tiết nền KTTT, bảo đảm quá trình phát triển theo đúng
định hướng XHCN.
Thực tiễn từ 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà
nước, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta đã và đang đạt được nhiều thành tựu có ý


nghĩa quan trọng, song cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp - những thách thức, trở ngại
lớn như nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ - khóa VII đã chỉ rõ, đặc biệt là nguy cơ
chệch hướng XHCN.
Cùng với nguy cơ, thách thức trong nước, những diễn biến phức tạp của tình
hình thế giới - xu hướng khu vực hóa, quốc tế hóa và toàn cầu hóa đời sống kinh tế thế
giới... đem đến thời cơ, vận hội mới và những thách thức lớn cho nước đang ta.
Những năm qua, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã tích cực đổi mới
theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước đã phát huy vai trò, hiệu lực quản lý, phát triển kinh tế - xã
hội và đã đạt được một số hiệu quả rất quan trọng. Song trong quá trình thực thi quyền
lực còn tồn tại nhiều thiếu sót, khuyết điểm cần được khắc phục.

Footer Page 2 of 161.


Header Page 3 of 161.

Trước thực trạng đó, đặt ra vấn đề khách quan là Nhà nước phải tự đổi mới và
hoàn thiện mình như thế nào? Điều tiết, quản lý và can thiệp vào kinh tế bằng những nội
dung, giải pháp nào để phát huy vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm quyền
lực chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và phát triển nền KTTT đúng
định hướng XHCN...
Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề " Tăng cường vai trũ nhà nước
trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xó hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay "
làm luận văn Thạc sĩ Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, vấn đề nhà nước và thị trường, vai trò
của nhà nước trong nền KTTT đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau. Đặc biệt từ sau cuộc khủng hoảng năng lượng (những
năm 70) và khủng hoảng ở các nước XHCN (Liên Xô và Đông Âu tan rã)... đã đặt lại

vấn đề phải nghiên cứu về vai trò nhà nước trong đời sống kinh tế như thế nào để đạt
được hiệu quả. Theo hướng trên, đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng nhìn chung
những kết quả được rút ra đều tập trung vào một số quan điểm:
Thứ nhất: Nhà nước không thể can thiệp vào thị trường (nhà nước tối thiểu, thị
trường tối đa), thị trường có quy luật riêng, "Bàn tay vô hình" của thị trường sẽ tự nó
giải quyết tất cả. ở nơi nào có sự can thiệp của nhà nước thì ở đó thị trường thất bại,
kinh tế không phát triển được.
Thứ hai: Nhà nước hoàn toàn lãnh đạo, quản lý kinh tế bằng các kế hoạch trong
mọi lĩnh vực, mọi ngành kinh tế. Đại diện cho những quan điểm này là những nhà tân
mác xít, họ cổ vũ và khẳng định mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ (kiểu Xô
viết) coi đó là mô hình tối ưu cho sự phát triển.
Thứ ba: Thừa nhận KTTT, đồng thời nhà nước phải can thiệp tối đa bằng các
công cụ điều tiết vĩ mô (nhà nước tối đa). Theo quan điểm này chỉ có nhà nước (bàn tay

Footer Page 3 of 161.


Header Page 4 of 161.

hữu hình) mới có khả năng hạn chế và khắc phục những khuyết tật của KTTT, đặc biệt
là trong lĩnh vực xã hội.
Thứ tư: Một quan điểm khác, không nói đến nhà nước tối đa hay tối thiểu, họ
thừa nhận sự tham gia và can thiệp cần thiết theo chức năng của nhà nước trong KTTT.
ở nước ta, nhận thức về vai trò nhà nước trong nền KTTT cũng có nhiều thay
đổi. Từ tuyệt đối hóa vai trò nhà nước đến nhận thức ngày càng đúng đắn hơn về vai trò
của nó trong nền KTTT. Mặc dù vậy, những kết quả nghiên cứu về quan hệ giữa nhà
nước và thị trường còn chưa thỏa đáng, cần phải quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa.
Đảng ta chủ trương xây dựng một nền KTTT định hướng XHCN là hoàn toàn
đúng đắn. Song vấn đề đặt ra là: Vai trò Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong
nền KTTT định hướng XHCN như thế nào? Đây là vấn đề rất lớn cả về lý luận cũng

như thực tiễn và mới chỉ có những định hướng nhưng chưa được làm sáng tỏ về mặt
khoa học.
Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu khi nói đến vai trò nhà nước trong KTTT
thường vấp phải cách tiếp cận cơ giới, nghĩa là phân định nhà nước "tối thiểu", "tối đa",
"điều tiết vĩ mô"... Căn cứ vào kinh nghiệm nào đó, các nhà nghiên cứu dường như
muốn quy định một sân chơi riêng biệt cho nhà nước trong KTTT.
Theo ý kiến chúng tôi, cần khắc phục cách tiếp cận như vậy. Nên chăng, cần
nhìn nhận vai trò của nhà nước trong nền KTTT là giải quyết mối quan hệ giữa quyền
lực chính trị và kinh tế trong việc tìm con đường phát triển tối ưu cho một quốc gia. Nhà
nước không chỉ là "tham gia", "can thiệp" mà là "chủ thể" kinh tế có quyền lực chính trị
trong nền KTTT. Vì vậy luận văn này bước đầu thử đặt ra và lý giải một hướng tiếp cận
như vậy.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
- Trên cơ sở lý luận khoa học chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối
quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Nhà

Footer Page 4 of 161.


Header Page 5 of 161.

nước ta, và nhà nước của một số quốc gia, bước đầu xác định một cách tổng quát vấn đề
vai trò quyền lực nhà nước trong KTTT định hướng XHCN.
- Nêu lên một số thực trạng và giải pháp về vai trò nhà nước trong KTTT định
hướng XHCN ở nước ta, dưới góc độ Chính trị học.
Nhiệm vụ của luận văn:
Một là: Hệ thống hóa một cách khái quát các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và các lý thuyết hiện đại về vai trò, chức năng của nhà nước trong quản lý kinh tế
và KTTT, từ đó làm rõ và phân tích vấn đề đó ở nước ta.
Hai là: Phân tích thực trạng thực thi quyền lực của Nhà nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Ba là: Đề xuất một số định hướng, giải pháp nhằm xác định vai trò Nhà nước
trong nền KTTT ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Vận dụng lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan
điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về mối quan hệ chính trị và kinh tế, vai trò
nhà nước trong quản lý kinh tế và kinh tế XHCN; một số lý thuyết của khoa học kinh tế
và khoa học chính trị hiện đại cũng như một số kinh nghiệm nước ngoài... để lý giải
những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Phương pháp nghiên cứu:
Chủ yếu vận dụng phương pháp lôgíc - lịch sử và các phương pháp khác: Chính
trị học so sánh; xã hội học chính trị, so sánh, thống kê, định lượng...
5. Giới hạn nghiên cứu

Footer Page 5 of 161.


Header Page 6 of 161.

Tập trung nghiên cứu vai trò Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong phát
triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(12/1986) đến nay.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hóa những thành tựu nghiên cứu về quyền lực nhà nước
trong các nền kinh tế, luận văn góp phần làm rõ vai trò quyền lực Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Đề xuất một số định hướng và giải pháp cho việc tăng cường vai trò Nhà nước
trong nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết và
danh mục tài liệu tham khảo.

Footer Page 6 of 161.


Header Page 7 of 161.

Mục lục

Trang
Mở đầu

1

Chương 1: lý luận chung về vai trò nhà nước trong kinh tế và

6

kinh tế thị trường
1.1.

Quyền lực nhà nước trong phát triển kinh tế

6

1.1.1.

Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước trong phát triển


6

kinh tế và kinh tế thị trường
1.1.2.

Vài nét về một số lý thuyết và kinh nghiệm thế giới về vai trò chức năng

14

nhà nước đối với sự phát triển kinh tế
1.2.

Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò chức năng nhà

25

nước trong kinh tế thị trường
Chương 2: vai trò nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt

32

nam trong phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủn nghĩa từ năm 1986 đến nay
2.1.

Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

32

nghĩa ở Việt Nam từ 1986 đến nay

2.1.1.

Một số đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam trước và trong

32

đổi mới
2.1.2.

Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát triển nền kinh tế thị

39

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.2.

Thực trạng hoạt động của bộ máy nhà nước trong lĩnh vực
kinh tế từ 1986 đến nay

Footer Page 7 of 161.

42


Header Page 8 of 161.

2.2.1.

Hoạt động của bộ máy nhà nước trong quản lý hành chính về kinh


42

tế
2.2.2.

Hoạt động nhà nước trong quản lý điều tiết kinh tế (hoạch định

45

chính sách)
2.2.3.

Thực trạng kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị

49

trường ở nước ta hiện nay
2.3.

Đánh giá khái quát việc thực thi vai trò quyền lực nhà nước

52

trong kinh tế
Chương 3: một số định hướng và giải pháp nhằm tăng cường

56

vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

3.1.

Mục tiêu, phương hướng cơ bản phát triển kinh tế thị trường

56

định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
3.2.

Một số định hướng tăng cường vai trò nhà nước trong nền

57

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3.2.1.

Vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất

57

3.2.2.

Nhà nước quản lý, điều tiết vĩ mô

65

3.2.3.

Nhà nước hoạch định chính sách


68

3.2.4.

Nhà nước hoạch định các chính sách xã hội và tích cực giải quyết

73

vấn đề xã hội
3.3.

Một số giải pháp cơ bản để tăng cường vai trò nhà nước trong

77

nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
3.3.1.

Xác định đúng vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường định

77

hướng xã hội chủ nghĩa
3.3.2.

Đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động của thể chế nhà nước

Footer Page 8 of 161.

81



Header Page 9 of 161.

3.3.3.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội

90

Kết luận

95

Danh mục tài liệu tham khảo

101

Chương 1
Lý luận chung về vai trò nhà nước
trong kinh tế và kinh tế thị trường

1.1. Quyền lực nhà nước trong phát triển kinh tế
1.1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước trong phát triển kinh
tế và kinh tế thị trường
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, nhà nước luôn có chức năng kinh tế.
Nghĩa là, nhà nước ra đời và tồn tại không phải chỉ thuần túy để làm chính trị, không chỉ
quản lý xã hội mà còn quản lý và phát triển kinh tế. Nhà nước chính là đại diện cho giai

Footer Page 9 of 161.



Header Page 10 of 161.

cấp thống trị về kinh tế và chức năng kinh tế của nhà nước cũng chính là nhằm củng cố
địa vị của giai cấp cầm quyền. Khẳng định chức năng kinh tế của nhà nước, phân tích
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Lênin cho rằng: không có chính trị đơn thuần và
kinh tế đơn thuần mà chính trị và kinh tế luôn gắn bó với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau.
"Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, lập luận một cách khác đi là quên
mất điều thường thức của chủ nghĩa Mác" [20, tr. 349], "Chính trị tức là kinh tế được cô
đọng lại" [23, tr. 147].
Chính trị thực chất là quan hệ giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia
dân tộc. Trong đó trước hết và cơ bản là quan hệ về kinh tế. Trong chính trị, vấn đề
quyền lực chính trị (biểu hiện tập trung ở quyền lực nhà nước) là mục tiêu và trực tiếp
mà bất cứ giai cấp, nhóm xã hội nào cũng muốn nắm và chi phối. Vì nắm được quyền
lực nhà nước là nắm được công cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với
các giai cấp khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tất cả các cuộc đấu tranh giai cấp từ trước tới
nay, xét đến cùng đều vì mục đích kinh tế - giải phóng kinh tế và được tiến hành trước
hết vì lợi ích kinh tế. Và do đó một khi xã hội còn tồn tại giai cấp, còn tồn tại nhà nước
thì tất cả những vấn đề chính trị và bất kỳ một thái độ nào cũng đều ảnh hưởng từ vấn
đề kinh tế.
Vì vậy Lênin khẳng định: Trong quá trình phát triển xã hội, kinh tế quyết định
chính trị còn khi hoạch định chính sách thì chính trị phải chiếm hàng đầu, chiếm vị trí
ưu tiên, phải đưa vào các chính sách, các quan hệ giai cấp các lực lượng kinh tế xã hội.
"Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể
nào giữ được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành nhiệm vụ của
mình trong sản xuất" [21, tr. 350].
Sự tác động của chính trị vào kinh tế thể hiện thông qua vai trò hoạt động của

nhà nước - các thể chế và các chính sách của nhà nước. Sự tác động đó luôn diễn ra theo
hai hướng:

Footer Page 10 of 161.


Header Page 11 of 161.

- Nếu sự tác động cùng chiều sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Nghĩa là, nhà nước trước hết bằng các thể chế chính trị tạo ra các quan hệ kinh
tế phù hợp với sự phát triển của LLSX. Nhà nước nắm bắt các quy luật phát triển của
nền kinh tế, tạo môi trường pháp lý và hoạch định các chính sách để phát huy các mặt
tích cực của các xu hướng tích cực, đồng thời loại bỏ những mặt, những nhân tố tiêu
cực cản trở sự tác động của các quy luật kinh tế.
- Sự tác động của nhà nước theo hướng ngược chiều sẽ dẫn tới kìm hãm sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Nghĩa là, nhà nước duy trì các quan hệ kinh tế lỗi thời, không còn phù hợp với
sự phát triển của LLSX hoặc bảo vệ lợi ích của giai cấp phản động chống lại lợi ích của
giai cấp đang lên, lợi ích của nhân dân lao động. Hoạt động bất chấp quy luật khách
quan của kinh tế - xã hội.
Nhà nước với chức năng kinh tế, có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vai trò đó được phát huy và thực hiện có hiệu quả hay
không là phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ chính trị và bản chất giai cấp của từng
nhà nước.
Các nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản) đều bằng cách này hay cách khác
kiểm soát các hoạt động kinh tế của xã hội, đặt ra những chính sách, luật lệ nhằm giữ
vững vị trí thống trị của giai cấp cầm quyền. Ngay dưới CNTB, mặc dù các thể chế thị
trường phát triển cao, nhà nước TBCN tham gia vào các quá trình kinh tế với rất nhiều
hình thức (mà đỉnh cao là CNTB độc quyền nhà nước - sự liên minh giữa nhà nước và
các tập đoàn tư bản) cũng đều nhằm củng cố vị trí thống trị của giai cấp tư sản - giai cấp

cầm quyền.
Khác với nhà nước của các giai cấp bóc lột, nhà nước XHCN là nhà nước kiểu
mới - nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà nước thực hiện trấn
áp giai cấp bóc lột - giai cấp tư sản và bọn phản động, nhà nước dân chủ với quảng đại
quần chúng. Nhà nước có nhiệm vụ kinh tế và vì lợi ích kinh tế của nhân dân lao động.

Footer Page 11 of 161.


Header Page 12 of 161.

Trong hai chức năng trấn áp và xây dựng của nhà nước XHCN, chủ nghĩa Mác - Lênin
khẳng định rằng chức năng xây dựng là chủ yếu.
Để làm được việc đó, giai cấp vô sản phải bằng quyền lực nhà nước của mình,
tiến hành một cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trước hết, trọng tâm là phát triển kinh tế, cải tạo những cơ sở kinh tế cũ, xây dựng nền
tảng kinh tế mới với các quan hệ kinh tế lành mạnh vì mục đích con người. Với tư cách
là chủ thể kinh tế, nhà nước XHCN sử dụng những yếu tố vật chất (đất đai, tiền vốn, lao
động, tài nguyên) và tạo ra những quan hệ cần thiết để trực tiếp quản lý, sản xuất hoặc
lưu thông, dịch vụ trên những ngành, vùng chủ chốt. Đồng thời, nhà nước là người đại
diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, nắm trong tay các công cụ, phương tiện quản
lý (chính sách, kế hoạch, luật pháp, tài chính, ngân hàng...) và kiểm soát việc sử dụng
tài sản quốc gia, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế theo quan điểm
mục tiêu đường lối phát triển kinh tế của giai cấp lãnh đạo - giai cấp công nhân mà đại
biểu là Đảng cộng sản. Trong thời kỳ này, nhiệm vụ của nhà nước XHCN là phải làm
gì, làm như thế nào để tạo ra năng suất lao động ngày càng cao để chiến thắng hoàn toàn
CNTB.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định bước chuyển từ CNTB lên
CNXH không phải một sớm một chiều mà là một thời kỳ quá độ lâu dài - thời kỳ quá độ
lên CNXH (Mác gọi là những "cơn đau đẻ" kéo dài). Đặc trưng cơ bản của thời kỳ này

là kết cấu kinh tế - xã hội mới còn tồn tại đan xen với kết cấu kinh tế - xã hội cũ. Nền
kinh tế có nhiều thành phần tồn tại, tác động đan xen với nhau, trong đó thành phần
kinh tế XHCN thậm chí chưa thắng lợi hoàn toàn. Vì vậy việc nhà nước XHCN quản lý
nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu của thời kỳ quá độ. Chính Mác đã chỉ rõ:
Không một hình thức kinh tế nào, biến đi trước khi nó còn phục vụ được cho các lực
lượng sản xuất mà nó đã dọn khoảng đất trống cần thiết cho sự phát triển của các lực
lượng sản xuất ấy; Ngược lại, không một hình thức kinh tế nào có thể ra đời trước khi
xuất hiện đầy đủ các tiền đề vật chất cần thiết cho nó. Vì kết cấu nền kinh tế của thời kỳ
quá độ lên CNXH còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế nên hệ thống các quy luật kinh tế

Footer Page 12 of 161.


Header Page 13 of 161.

hoạt động trong thời kỳ này rất đa dạng. Bên cạnh những quy luật kinh tế XHCN mới
hình thành nhưng chưa phát huy đầy đủ tác dụng của nó, vẫn còn những quy luật tương
ứng với các thành phần kinh tế không XHCN còn hoạt động và phát huy tác dụng, tác
động đến nền kinh tế quốc dân với mức độ khác nhau.
Vì vậy trong quá trình quản lý nền kinh tế, nhà nước XHCN phải tính đến việc
vận dụng toàn bộ hệ thống các quy luật đó sao cho phù hợp, có lợi cho CNXH. Một mặt
tạo ra những điều kiện vật chất và xã hội để các quy luật kinh tế XHCN phát huy ngày
càng đầy đủ tác dụng của mình - là nhân tố chủ đạo; mặt khác, chủ động vận dụng các
quy luật kinh tế khác, hướng theo quỹ đạo của CNXH. Đây là việc khó khăn, phức tạp,
dễ phạm sai lầm "tả" hoặc "hữu khuynh". Do đó đòi hỏi nhà nước XHCN phải có bản
lĩnh, có khả năng tổ chức quản lý giỏi, biết tìm ra những hình thức, phương pháp mới
phong phú, đa dạng để hướng các thành phần kinh tế đi theo quỹ đạo của CNXH.
Từ thực tiễn nước Nga, khi chấm dứt nội chiến và chuyển sang thời bình, Lênin
đã nghiêm khắc rút ra những bài học của chính sách "cộng sản thời chiến", phê phán
những khuynh hướng tư tưởng chủ quan, nóng vội (muốn lập tức quốc hữu hóa, quốc

doanh hóa, hạn chế không sử dụng các hình thức kinh tế quá độ đang còn tồn tại và còn
tác dụng đối với việc phát triển LLSX), dẫn đến hậu quả nghiêm trọng: Kinh tế không
phát triển và gây sự bất bình của nhân dân đối với chính quyền Xô viết... Theo Lênin quá trình chuyển từ thời chiến sang thời bình "không những chỉ liên quan đến những cơ
sở của công cuộc kiến thiết kinh tế mà còn liên quan đến các cơ sở của những mối quan
hệ giữa các giai cấp còn tồn tại trong xã hội chúng ta". "Vấn đề này là vấn đề cần giải
quyết". Không thực hiện được bước chuyển ấy sẽ là thất bại của Đảng của giai cấp công
nhân.
Lênin cho rằng, điều kiện thời bình phải xem xét lại tất cả các quan điểm lý
luận và thực tiễn sự phát triển kinh tế - xã hội nước Nga, thậm chí thay đổi căn bản cách
tiếp cận với CNXH. Chính từ thực tiễn nước Nga, Lênin đã đưa ra NEP, trong đó Người
nêu rõ những nhiệm vụ và chính sách kinh tế mà nhà nước chuyên chính vô sản phải
thay đổi là:

Footer Page 13 of 161.


Header Page 14 of 161.

- Nhà nước vô sản phải thực hiện xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần,
phát triển các quan hệ thị trường dưới sự điều tiết của nhà nước XHCN. Các thành phần
kinh tế đó bao gồm: (1) Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; (2) kinh tế sản xuất hàng hóa
nhỏ (chủ yếu là nông dân); (3) kinh tế CNTB tư nhân; (4) kinh tế CNTB nhà nước; (5) kinh
tế của CNXH [21, tr. 248].
Các thành phần kinh tế trên đây đan xen với nhau, trong đó thành phần tiểu tư
sản (nông dân) chiếm ưu thế. Các thành phần này đấu tranh với nhau mà chủ yếu là
cuộc đấu tranh giữa thành phần tiểu tư sản và tư bản tư nhân với CNXH và CNTB nhà
nước. Nghĩa là đấu tranh giữa khuynh hướng sản xuất nhỏ và sản xuất lớn. Thắng lợi
của CNXH phụ thuộc vào thắng lợi của khuynh hướng sản xuất lớn.
Trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH, Lênin đặc biệt chú ý và luôn
luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của thành phần kinh tế CNTB nhà nước, đặt hầu hết sự

chú ý của nhà nước Xô viết vào việc phát triển thành phần kinh tế này. Thậm chí bước
sang giai đoạn thực hiện NEP, Lênin coi đó là bắt đầu một thời kỳ quá độ, là một bước
tiến từ "một nước Cộng hòa Xô viết XHCN chuyển sang CNTB nhà nước" [21, tr. 247]
và ở Nga từ kinh tế tiểu tư sản đến CNXH và CNTB nhà nước đều trải qua một con
đường [21, tr. 254] CNTB nhà nước theo Lênin là "sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho
CNXH, là phòng chờ đi vào CNXH, là nấc thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó) với
nấc thang được gọi là CNXH thì không có một nấc thang nào ở giữa cả" [21, tr. 250].
CNTB nhà nước (trong đó có cả chính sách tô nhượng) mà mục đích của nó dưới
CNXH theo Lênin là kiểu quan hệ kinh tế mà bên trên có vẻ một sự liên minh với
CNTB nước ngoài, cái kiểu quan hệ kinh tế ấy sẽ tạo cho chính quyền của giai cấp vô
sản có khả năng tiến hành ở bên dưới việc trao đổi tự do với nông dân, Lênin còn cho
rằng "hoặc là những quan hệ kiểu ấy hoặc là không có gì hết" [21, tr. 82].
Vấn đề CNTB nhà nước, vấn đề mà "ngay cả Mác cũng không viết một lời nào"
là một đóng góp quan trọng của Lênin trong quá trình phát triển chủ nghĩa Mác về xây
dựng CNXH trong điều kiện còn lạc hậu về kinh tế kỹ thuật. Đây cũng chính là một chỉ

Footer Page 14 of 161.


Header Page 15 of 161.

dẫn quý báu của Lênin về việc sử dụng quyền lực nhà nước của giai cấp vô sản trong
phát triển kinh tế.
Trong điều kiện nước Nga sau Cách mạng tháng Mười, Lênin coi CNTB nhà
nước là thành phần kinh tế cao hơn, đứng trên thành phần kinh tế XHCN. Vấn đề khác
nhau của CNXH và CNTB nhà nước chính là vấn đề chính trị, tức là vấn đề giai cấp
cầm quyền. Lênin nêu vấn đề, mà theo Người là "chân lý": "tốt hơn là nên trước hết hãy
thực hiện CNTB nhà nước để rồi sau đó, đi đến CNXH" [23, tr. 326]. Đó là một trong
những nhiệm vụ mấu chốt của nhà nước vô sản. Để đánh tan những hoài nghi, phê phán
cách hiểu kinh viện về CNTB nhà nước, Lênin giải thích rằng "CNTB nhà nước mà

chúng ta nói đó là một thứ CNTB mà chúng ta có thể hạn chế, có thể quy định giới hạn,
CNTB nhà nước đó gắn liền với nhà nước, mà nhà nước chính là công nhân, chính là bộ
phận tiên tiến của công nhân, là đội tiền phong, là chúng ta" [23, tr. 102]. Khi thực hiện
CNTB nhà nước Lênin coi trọng "sự lãnh đạo chính trị của giai cấp vô sản". Sự lãnh
đạo này phải hướng vào giải quyết những nhiệm vụ mấu chốt, cấp thiết nhất. Mà trong
một nước tiểu nông thì đó là "phục hồi ngay những LLSX của kinh tế nông dân" [21, tr.
263]. Trong lĩnh vực này những ý kiến của Lênin đặc biệt có giá trị phương pháp luận
cho các Đảng cộng sản ở các nưóc nông nghiệp. Trong các nước ấy, cũng như ở nước
Nga "tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân,
không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của CNTB, một sự phát triển
không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại
dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế,
chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành
một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản" [21, tr. 267].
Để thực hiện được các nhiệm vụ "quy định", "giới hạn" CNTB nhà nước, Lênin
nhấn mạnh nhà nước chuyên chính vô sản phải cải tiến phương pháp làm việc của bộ
máy Xô viết theo hướng tăng cường quyền lực trong điều kiện nền KTTT.
Bộ máy nhà nước Xô viết là chuyên chính vô sản, nhà nước của giai cấp công
nhân và nông dân, nhưng bộ máy ấy không phải sau khi giành được chính quyền đã

Footer Page 15 of 161.


Header Page 16 of 161.

hoạt động tốt. Vì theo Lênin, bộ máy đó chưa thực sự là công nông, còn nhiều tàn dư
phong kiến và tư sản nên phải xây dựng lâu dài. Những đảng viên cộng sản làm việc
trong bộ máy còn chưa có kinh nghiệm quản lý, làm việc kém hiệu quả; bộ máy còn
cồng kềnh và thiếu sự kiểm tra giám sát từ phía nhân dân. Vì vậy, việc xây dựng nhà
nước Xô viết là một nhiệm vụ nối tiếp quan trọng sau khi hoàn thành cuộc cách mạng

giành chính quyền vĩ đại.
"Tôi biết rõ ràng chúng ta có những khuyết điểm trong bộ máy tổ chức quần
chúng", nhưng "vấn đề không phải là ở chỗ lấy việc cải tổ nhanh chóng để cải tiến bộ
máy đó, mà vấn đề là ở chỗ phải quán triệt cuộc cải tạo chính trị đó để đạt tới một trình
độ kinh tế - văn hóa khác" [22, tr. 401].
Lênin đưa ra ví dụ về ủy ban đặc biệt toàn Nga - tổ chức an ninh đặc biệt chống
lật đổ. Nhưng chuyển sang giai đoạn mới cần phải xác định rõ chức năng và quyền hạn
của nó và giới hạn công tác của nó vào những nhiệm vụ chính trị, mà chủ yếu là thực
hiện các chính sách kinh tế mới - KTTT. "Phải thu hẹp phạm vi hoạt động của các cơ
quan chuyên giáng trả lại" [22, tr. 403-404]. "Sắc lệnh thì chúng ta có quá nhiều và
chúng ta làm sắc lệnh đó một cách quá vội vàng... nhưng việc chấp hành thực tiễn đó thì
không được kiểm tra lại" [23, tr. 17]. Vấn đề không chỉ ở chỗ ra sắc lệnh mà là ở chỗ
làm thế nào để thực hiện được các sắc lệnh đó.
Lênin đã từng chỉ rõ vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng. Nhưng giai cấp công nhân sau khi đã giành được chính quyền thì "cái mấu chốt
không phải là chính quyền mà cái mấu chốt chính là biết lãnh đạo" [23, tr. 128].
Thực chất những quan điểm về xây dựng bộ máy chính quyền Xô viết mà Lênin
nêu ra là khắc phục những sai lầm khuyết điểm trong quản lý nền kinh tế của nhà nước
trong nền kinh tế nhiều thành phần với những quan hệ thị trường. Nghĩa là trong điều
kiện mới, nhà nước phải tăng cường quyền lực của mình không phải bằng các mệnh
lệnh hành chính quan liêu mà phải bằng các thể chế kinh tế - chính trị, công cụ để quản
lý kinh tế. Phải có kế hoạch, chiến lược, hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế

Footer Page 16 of 161.


Header Page 17 of 161.

hợp lý, đúng đắn để quản lý chứ không phải can thiệp vào các quá trình hoạt động kinh
tế như trong thời chiến...

Tóm lại, Lịch sử phong trào XHCN thế giới đã chứng minh tính đúng đắn của
chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của nhà nước XHCN trong phát triển kinh tế. Mặc dù
ngày nay hệ thống XHCN đã tan rã do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ở đây chúng ta
không đề cập đến, nhưng mô hình phát triển kinh tế thống nhất và có kế hoạch của Liên
Xô và của các nước XHCN trước những năm tám mươi của thế kỷ XX đã đưa lại những
kinh nghiệm thành công mẫu mực về nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế.
Những luận điểm này đã mang lại nhiều thành công trong thực tiễn của nhà
nước XHCN lãnh đạo, quản lý nền KTTT như: Thời kỳ NEP của Liên Xô, giai đoạn
đầu của mô hình kinh tế tự quản ở Nam Tư; những thành quả to lớn trong chính sách cải
cách mở cửa của Trung Quốc; và đổi mới ở Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn của các nước xây dựng CNXH chỉ ra rằng,
nhà nước XHCN có thể sử dụng các hình thức quản lý quá độ, hỗn hợp, trong đó có thể
sử dụng các quan hệ thị trường để quản lý và phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên, nhà nước quản lý nền kinh tế XHCN như thế nào, còn là vấn đề
chưa có câu trả lời cuối cùng và vấn đề đó còn tùy thuộc vào điều kiện từng nước và bối
cảnh chung của thế giới. Nhưng không thể phủ nhận vai trò đặc biệt của nhà nước
XHCN trong phát triển nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong nền KTTT định hướng
XHCN hoặc thị trường XHCN.
1.1.2. Vài nét về một số lý thuyết và kinh nghiệm thế giới về vai trò chức
năng nhà nước đối với sự phát triển kinh tế
Các tác giả nổi tiếng là Ađam Smít và Đavit Ricarđô do đánh giá quá cao vai
trò của lao động, đất đai và mậu dịch tự do, nên chủ trương nền kinh tế phải được điều
khiển bởi "bàn tay vô hình". Các ông chưa đánh giá đúng vị trí của nhà nước trong đời
sống kinh tế. Lý thuyết của các ông là cơ sở cho chủ nghĩa tự do cũ và mới. Chủ nghĩa
tự do mới cổ vũ cho sự tham gia tối thiểu của nhà nước vào KTTT. Điển hình cho mô

Footer Page 17 of 161.


Header Page 18 of 161.


hình KTTT theo chủ nghĩa tự do là Mỹ. Từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX, CNTB
phát triển chủ yếu theo khuynh hướng này. Đặc điểm hoạt động của giai đoạn này của
CNTB là dựa trên sự bóc lột không thương xót giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, lấy tự do cạnh tranh làm động lực. Sự phát triển của CNTB thường kèm theo
khủng hoảng định kỳ, tổng khủng hoảng, chiến tranh xâm chiếm thuộc địa và thị
trường, cao hơn là chiến tranh thế giới để phân chia thị trường. Nhà nước trong sự
phát triển này thực sự là công cụ đắc lực của giới chủ tư bản. Nhân dân thế giới phải trả
giá đắt về xã hội cho sự phát triển TBCN. Chính vì phải trả giá đắt về xã hội cho KTTT,
chính vì sự bất lực của nhà nước trước các thế lực tài phiệt, nửa cuối thế kỷ XIX đã xuất
hiện sự liên minh giữa nhà nước và tư bản hình thành CNTB nhà nước. Mặc dầu vậy
CNTB nhà nước cũng không giải quyết được những căn bệnh của CNTB đó là khủng
hoảng kinh tế, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, phá hủy môi trường, chạy đua mù
quáng vì lợi nhuận...
Những năm 30 đến những năm 50 của thế kỷ XX những cuộc khủng hoảng kinh
tế nổ ra thường xuyên cho thấy "bàn tay vô hình" không thể bảo đảm những điều kiện
cho phát triển kinh tế. Trình độ xã hội hóa càng cao đặt ra vấn đề cần phải có lực lượng
nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình kinh tế, điều tiết kinh tế. Nhà kinh tế học
người Anh - J.M. Keynes đã đưa ra lý thuyết điều tiết KTTT. Ông cho rằng để khắc
phục tình trạng khủng hoảng kinh tế, nhà nước phải can thiệp vào quá trình kinh tế, phải
huy động vốn để mở mang sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu
nhập cho dân cư, làm cho cầu tiêu dùng tăng lên, khuyến khích mở rộng sản xuất kinh
doanh. Để làm được việc đó nhà nước phải can thiệp vào quá trình kinh tế cả ở vĩ mô và
vi mô. Tuy nhiên với quan điểm này, ông gần như phủ nhận những quan hệ khách quan
của KTTT.
Cuối giai đoạn này đã xuất hiện sự hoài nghi đối với KTTT. Hơn thế nữa phong
trào cộng sản và công nhân thế giới đấu tranh chống lại sự phát triển thị trường TBCN,
đề xuất một mô hình phát triển mới cho nhân loại, mô hình XHCN dựa trên nền kinh tế
kế hoạch hóa thống nhất.


Footer Page 18 of 161.


Header Page 19 of 161.

Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 80 của thế kỷ XX,
KTTT mất uy thế trước kinh tế kế hoạch hóa (đặc biệt theo mô hình Xô viết). Cuộc tổng
khủng hoảng đầu những năm 70 đã làm tăng mối hoài nghi về KTTT. Nhiều nước, đặc
biệt là các nước mới giành được độc lập dân tộc, các nước đang phát triển lựa chọn con
đường phát triển phi thị trường, hướng theo con đường kế hoạch hóa tập trung kiểu Xô
viết. Một số nước kết hợp mô hình KTTT với mô hình Xô viết tạo ra mô hình hỗn hợp.
Giai đoạn từ những năm 80 đến nay, sau khi khắc phục được khủng hoảng, các
nền KTTT có bước phát triển mới trên cơ sở thay đổi cơ cấu, đầu tư công nghệ cao, có
sự tham gia điều tiết của nhà nước. Lúc này các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã
bộc lộ những nhược điểm cơ bản, lâm vào khủng hoảng, thậm chí phải chấp nhận sụp
đổ để cải tạo lại. Đó là thất bại của việc tuyệt đối hóa vai trò nhà nước trong phát triển
kinh tế. KTTT đã chứng minh được ưu thế và sức sống của mình. Ngày nay, hầu hết các
nước trên thế giới hoặc là đang tồn tại và phát triển KTTT hoặc là chuyển đổi nền kinh
tế của mình sang KTTT.
Hiện nay vấn đề tham gia của nhà nước vào đời sống KTTT đã trở thành vấn đề
không tranh cãi. Vấn đề là nhà nước tham gia như thế nào, ở lĩnh vực gì mà thôi... ở đây
chúng ta thấy câu trả lời là không đơn nghĩa.
Nhìn chung, các nhà khoa học và quản lý đều nhất trí cho rằng, trong nền
KTTT, nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước như là người điều tiết thị
trường bằng cách tạo những khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động kinh tế; xây dựng
những điều kiện cho cạnh tranh hợp pháp; chống độc quyền; xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội trong tổng thể; tham gia khắc phục những thất bại của thị trường.
Nghiên cứu một số lý thuyết, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề: Nhìn chung
các lý thuyết cổ điển đều cho rằng thị trường là nhân tố chính của sự phát triển, trong đó
nhấn mạnh những yếu tố sản xuất trực tiếp như vốn, đất đai và tích lũy có ý nghĩa quyết

định. Tuy nhiên các lý thuyết này chỉ phù hợp với giai đoạn phát triển thấp, chủ yếu dựa
vào lao động cơ bắp, vốn, tài nguyên.

Footer Page 19 of 161.


Header Page 20 of 161.

Một số lý thuyết hiện đại đã thấy được tầm quan trọng của khoa học kỹ thuật,
thị trường và nhà nước. Nhưng còn tuyệt đối hóa KTTT, hoặc khoa học kỹ thuật, hay
vai trò nhà nước mà chưa thấy được tiềm năng con người. Một số lý thuyết đã nhấn
mạnh vai trò quyết định của các thể chế trong quá trình phát triển.
Kinh nghiệm thế giới hiện đại cho thấy, việc phát triển kinh tế không thể áp
dụng tuyệt đối một lý thuyết nào. Hầu hết các nước thành công trong phát triển kinh tế
đều áp dụng một cách tổng hợp linh hoạt mềm dẻo các lý thuyết và kinh nghiệm khác
nhau vào thực tiễn phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể của đất nước. Các nước
HPAEs đã cung cấp những kinh nghiệm quý báu.
Từ 1960 đến nay, HPAEs đã lựa chọn cho mình một khuynh hướng phát triển
đúng đắn là: Kinh tế thị trường với "sự can thiệp có lựa chọn" của nhà nước; cách mạng
công

nghệ,

đặc

biệt



tin


học;

thực

hiện

công

bằng

xã hội.
Từ năm 1960, HPAEs tăng trưởng nhanh gấp đôi các nền kinh tế Đông á, gấp 3
lần so với Mỹ La tinh và Nam á, gấp 5 lần so với châu Phi, cận xa mạc Xahara. Tuổi thọ
trung bình tăng từ 65 tuổi năm 1960 lên 71 tuổi năm 1990. Tỷ lệ người đói giảm năm
1960: 58% xuống 17% năm 1990. Tăng trưởng GDP theo đầu người từ 1965 đến 1990:
HPAEs từ 5 - 6% năm trong khi các nước Đông á (trừ HPAEs) chỉ tăng từ 2 - 3% năm,
châu Phi cận xa mạc Xahara 0,5% năm... [16, tr. 21].
HPAEs đã tập trung xây dựng một nhà nước đủ mạnh để "can thiệp có lựa
chọn", nhà nước đó được xây dựng dựa trên ba điều kiện: (1) Giải quyết các vấn đề hoạt
động chức năng của các thị trường; (2) thực hiện diễn ra trong môi trường nền tảng
đúng đắn; (3) nhà nước đưa ra và quản lý các chuẩn mực hoạt động kinh tế thích hợp.
Như vậy các HPAEs đã tập trung vào xây dựng môi trường thể chế cho các hoạt động
kinh tế mà trong đó hoạch định các chính sách đóng vai trò quan trọng. Nhà nước bằng
các thể chế kinh tế - chính trị, đã can thiệp một cách có hệ thống thông qua nhiều kênh,
với nhiều hình thức: Hỗ trợ tín dụng tới các ngành được lựa chọn, kìm giữ tỷ suất tiền
gửi ở mức thấp; duy trì mức trần đối với tỷ suất cho vay để tăng lợi nhuận; bảo hộ các

Footer Page 20 of 161.



Header Page 21 of 161.

ngành thay thế nhập khẩu ở trong nước, tài trợ các ngành suy giảm; hỗ trợ tài chính cho
các ngân hàng nhà nước; đầu tư công cộng; phát triển các thị trường xuất khẩu; thông
tin kịp thời...
ở các nước Đông Bắc á, chính phủ không những đặt ra chuẩn mực rõ ràng cho
những can thiệp có lựa chọn mà còn giám sát được các hoạt động của thị trường trong
khi chi phí cho những can thiệp này đều không quá cao. Trên thực tế, sự can thiệp có
lựa chọn buộc các chính phủ dựa vào quản lý kinh tế vĩ mô một cách thận trọng. Ví dụ
các giải pháp chính phủ đưa ra và thực hiện là: Thực hiện đầu tư cao luôn đạt 20% GDP
và phân bổ nguồn vốn hợp lý, tập trung vào các ngành có hiệu quả kinh tế cao, đầu tư
lớn vào con người (nguồn nhân lực), tài chính ổn định và bảo đảm.
Ngoài ra các chính phủ, điển hình nhất là chính phủ Nhật Bản đã tạo ra những
cuộc chạy đua kết hợp với sự cạnh tranh trên cơ sở thị trường với những lợi ích hợp tác
giữa khu vực nhà nước với tư nhân (các nước Nhật Bản, Hàn Quốc đã phát triển các cơ
cấu thể chế trong đó các công ty cạnh tranh với nhau để giành giữ phần thưởng có giá
trị kinh tế. Nhật thực hiện các cuộc thi đấu trên cơ sở thị trường, ngăn cấm độc quyền.
Nhà nước Nhật Bản cho rằng, thà tạo ra cạnh tranh giữa một số ít công ty cân sức còn
hơn để một công ty lớn cạnh tranh với nhiều đối thủ nhỏ, đây là một nguyên tắc có thể
nhận thấy ở thi đấu thể thao theo hạng cân). Thực chất, nhà nước tổ chức các cuộc thi
đấu và đưa ra các luật lệ và trọng tài.
Thực hiện nguyên tắc ổn định kinh tế vĩ mô và chính sách gia tăng xuất khẩu,
Chính phủ các nước này đã rất tôn trọng các giải pháp chính sách chính thống - đặc biệt
là duy trì mức thâm hụt ngân sách ở mức có thể bù đắp được, đồng thời đẩy mạnh xuất
khẩu. Do đó lạm phát luôn luôn được kiểm soát, quản lý được nợ trong nước và nước
ngoài. Bằng cách lập ra các tổ chức kiểm soát như: Ban Tiền tệ ở Singapo, dựa vào luật
lệ cân bằng ngân sách ở Inđônêxia, hệ thống tỷ giá hối đoái ở Thái Lan... Các nước này
đã duy trì mức thâm hụt ngân sách ở mức có thể quản lý được, lạm phát ở mức thấp và
ổn định trong suốt thời kỳ tăng trưởng đã không gây mất ổn định kinh tế vĩ mô (tỷ lệ

lạm phát trung bình từ 1961 - 1991 ở Hồng Công 8,8%; Inđônêxia: 12,4%; Hàn Quốc

Footer Page 21 of 161.


Header Page 22 of 161.

12,2%; Malaixia 3,4%; Singapo 3,6%, Đài Loan 6,2%; Thái Lan 5,6%) [16, tr. 184].
Cùng với duy trì lạm phát ở mức thấp, họ đã kiểm soát tốt nợ nước ngoài (ví dụ như ở
Hàn Quốc: Năm 1984, là con nợ đứng thứ 4 thế giới. Từ năm 1986, chính phủ Hàn
Quốc đã theo đuổi một chính sách giảm nợ tích cực dựa vào các khoản dự trữ ngày càng
tăng do xuất khẩu mang lại để thanh toán trước kế hoạch, do đó: năm 1990, tỷ lệ nợ so
với GDP giảm xuống còn 14%) [16, tr. 188]. Cùng với những hành động trên, các chính
phủ HPAEs đã tập trung đối ứng nhanh khi nền kinh tế bị sức ép về tài chính và những
cú sốc về kinh tế, nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, vượt qua được những thách thức về
chính trị. Ví dụ: ở Thái Lan với cú sốc dầu lửa - những năm 1970 nền kinh tế đã bước
vào bùng nổ chi tiêu công cộng và tư nhân. 1980 - 1981 thâm hụt trong khu vực công
cộng chiếm 7% GDP. Chính phủ mới đắc cử 1980 đã nhận thức được rằng: Cần phải
điều chỉnh kinh tế vĩ mô; lựa chọn chính sách tiền tệ bị hạn chế bởi tỷ giá hối đoái cố
định và thị trường vốn tương đối mở. Do đó họ đã lựa chọn con đường khác thu hẹp tài
chính, tiến hành từng bước trong nhiều năm cắt giảm chi tiêu và tăng thu nhập. Kết quả
là thâm hụt của chính phủ giảm từ 8% GDP (năm 1981 - 1982) xuống còn 1,6% GDP
(năm 1986 - 1987). Trong khi đó thu nhập thuế tăng từ 1,3% GDP (năm 1982) lên 16%
(năm 1998) [16, tr. 198-199].
Bên cạnh các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô như nguyên tắc tài chính ổn định
và tiết kiệm công cộng cao, giữ được sức cạnh tranh... Họ đã tập trung vào khuyến
khích xuất khẩu, thực hiện tín dụng xuất khẩu, nhập khẩu có lợi cho sản xuất, miễn thuế
cho các nhà xuất khẩu lớn, giảm bớt bảo hộ nhập khẩu... đã góp phần làm ổn định kinh
tế vĩ mô.
Đặc biệt, để thực hiện được tăng trưởng, các chính phủ đã tập trung vào việc tạo

dựng nền thể chế mạnh với ý tưởng tăng trưởng cùng chia sẻ - đây là giải pháp hữu hiệu
trong việc tăng cường vai trò nhà nước trong lĩnh vực xã hội ở các nước này.
Thực hiện nguyên tắc đầu tư lớn vào con người trên ý tưởng tăng trưởng cùng
chia sẻ, các HPAEs đã tập trung vào xây dựng các thể chế cho tăng trưởng mạnh và mở
rộng cho các nhóm người trong xã hội đều có lợi. Tập trung vào việc tạo nguồn vốn con

Footer Page 22 of 161.


Header Page 23 of 161.

người (ưu tiên giáo dục ở các cấp thấp, phổ cập giáo dục tiểu học, mở rộng giáo dục
trung học cơ sở, giảm tỷ lệ phát triển dân số, đào tạo nghề...), đồng thời tăng tiết kiệm
và đầu tư; phân bố hiệu quả và thay đổi năng suất; thị trường lao động linh hoạt. Bên
cạnh đó họ thực hiện cải cách ruộng đất và tạo ra một chế độ sở hữu công bằng, giải
quyết vấn đề nhà ở cho các đối tượng là các hộ gia đình có thu nhập thấp,... Tất cả
những điều đó đã bảo đảm được sự tăng trưởng gắn kết với công bằng xã hội, hạn chế
những thất bại của thị trường...
Để làm được việc đó, các HPAEs đã tập trung xây dựng một nhà nước mạnh có
đủ năng lực để tạo môi trường pháp lý cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Bước
đầu tiên là tuyển dụng những công chức công minh, tài giỏi, trung thực, có khả năng
vạch ra chiến lược có tính khả thi. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và hoạch định
các chính sách bám sát với quyền lợi của các khu vực, các lực lượng kinh tế.
Xin nêu một ví dụ có tính chất kinh nghiệm về xây dựng một nhà nước mạnh hệ thống pháp lý mạnh ở một số nước ASEAN (Inđônêxia, Singapo, Malaixia, Thái
Lan, Philippin).
Sau khi thoát khỏi sự thống trị của đế quốc phương Tây, giành được độc lập dân
tộc, các nước này bước vào xây dựng đất nước. Nhưng qua nhiều thập kỷ, kết quả mà
họ thu được không như mong muốn. Đến những năm cuối thập kỷ 70, họ ý thức được
rằng muốn phát triển KTTT thì trước hết phải tạo môi trường chính trị ổn định. Do đó
họ tập trung xây dựng một nhà nước mạnh và hệ thống pháp luật kinh tế một cách đồng

bộ. Bộ máy nhà nước được xây dựng trên cơ sở tập trung quyền lực, lấy hiệu quả trong
hoạt động làm tiền đề thúc đẩy sự phát triển. Bằng việc tập trung quyền lực, nhà nước
đồng thời đưa ra những thể chế và hoạch định chính sách phù hợp, đưa vào bộ máy
chính quyền những cán bộ am hiểu và thạo nghiệp vụ chuyên môn, tích cực loại trừ các
quan chức tham nhũng. Nhờ đó nhà nước kiểm soát được các quan hệ kinh tế - xã hội,
huy động được các nguồn lực trong xã hội hướng vào việc phát triển đất nước.
Hệ thống pháp lý của các HPAEs luôn được điều chỉnh phù hợp với thực tiễn
của nền kinh tế và những biến chuyển của xã hội. Nhờ hệ thống các văn bản pháp luật

Footer Page 23 of 161.


Header Page 24 of 161.

đồng bộ có tính khả thi, nhà nước đã thu hút được các nguồn đầu tư trong và ngoài nước
và cũng qua đó nhà nước kiểm soát, điều chỉnh được nguồn đầu tư sao cho quyền lợi
người lao động và môi trường sinh thái trong nước được bảo vệ.
Để có một nhà nước mạnh, các HPAEs đã tập trung trí tuệ cao độ cho các hoạt
động của nhà nước thông qua cơ chế đào tạo sử dụng và nuôi dưỡng nhân tài. Đây là nội
dung cốt lõi trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền trong nền KTTT. Để có đội ngũ
đủ phẩm chất năng lực họ đã chú ý tìm nguồn phục vụ cả trước mắt và lâu dài. Đồng
thời thực hiện chế độ thi tuyển và trả lương xứng đáng, xử lý nghiêm theo pháp luật
những công chức vi phạm pháp luật tham nhũng.
Chính việc xây dựng một nhà nước mạnh, không những đủ năng lực quản lý
kinh tế - xã hội đã đem lại khả năng đoàn kết dân tộc và khai thác được mọi nguồn lực
trên thực tế phục vụ cho sự nghiệp phát triển. Đồng thời cũng tạo ra khả năng thực tế để
toàn dân tham gia vào đấu tranh bài trừ tham nhũng một cách hiệu quả.
Việc xây dựng một nhà nước mạnh, hệ thống pháp lý hoàn thiện và đồng bộ,
làm cơ sở cho mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và giữ được độc lập dân tộc. Đây là lĩnh
vực thành công nhất của các nước HPAEs. Họ đã biết tận dụng thời cơ trong bối cảnh

quốc tế hóa nền kinh tế thế giới, biến ngoại lực thành nội lực để phát triển kinh tế. Có
thể nói, từ thập kỷ 70 đến nay, tuy các nước này gặp không ít khó khăn trong nền KTTT
(nhất là khủng hoảng tài chính những năm gần đây). Nhưng bằng việc tập trung xây
dựng một nhà nước mạnh có đủ năng lực và đã phát huy vai trò của nó trong nền KTTT,
đã giúp cho các nước HPAEs có được sự thành công. Nền kinh tế tăng trưởng ổn định
trong nhiều thập kỷ.
ở Mỹ la tinh các cải cách bắt đầu sau một cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực
kéo dài 15 năm. Các đường lối cải cách được bắt đầu bằng việc từ bỏ "con đường thứ
ba", tức là con đường phát triển thỏa hiệp giữa mô hình kinh tế CNXH và CNTB. Trước
cải cách, ở các nước Mỹ la tinh, nhà nước quản lý một tỷ trọng 70 - 80% nền kinh tế,
chủ yếu là các ngành công nghiệp, tài chính, tín dụng và coi đó là một đảm bảo cho phát

Footer Page 24 of 161.


Header Page 25 of 161.

triển kinh tế và độc lập về chính trị. Mặc dù vậy nền kinh tế vẫn không thoát khỏi trì trệ
và khủng hoảng.
Khi chuyển sang KTTT mở cửa vào những năm 80, cùng với việc xây dựng các
thể chế thị trường tự do các nước này thực hiện quá trình phi nhà nước hóa tối đa các
hoạt động kinh tế, ủng hộ DNTN, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài, cho
phép rộng rãi các công ty nước ngoài mở các doanh nghiệp tự đầu tư tới 100% vốn.
Với việc giảm bớt tỷ trọng thành phần nhà nước trong nền kinh tế quốc dân,
cùng với việc tự do hóa kinh tế và giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước trong những
năm cải cách, kinh tế Mỹ la tinh khởi sắc, đạt mức tăng trưởng GDP hàng năm từ 3 5%.
Mặc dầu vậy những thành công của KTTT ở Mỹ la tinh phải chịu những trả giá
cao về mặt xã hội. Sự phân hóa giàu nghèo hết sức lớn, Mỹ la tinh là nơi còn tồn tại
nhiều bất công trong quá trình cải cách. ở nhiều nước, KTTT đã tạo ra sự bất ổn xã hội,
tạo điều kiện cho các chế độ độc tài lên cầm quyền. Điển hình của nước trả giá đắt về xã

hội cho thị trường theo chủ nghĩa tự do là Chi-Lê. ở đất nước này 6.677 tổ chức công
đoàn và 34.000 đoàn viên công đoàn phải chịu đàn áp hoặc cấm hoạt động. Những
thành quả xã hội của nhân dân lao động Chi-Lê hầu như bị phá vỡ. Cho
đến những năm cuối thế kỷ XX có 40% cư dân Chi-Lê sống ở mức nghèo khổ [27, tr.
20].
ở các nước Đông Âu và Liên Xô cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội của mô hình
CNXH hành chính nhà nước (nhà nước quản lý nền kinh tế bằng kế hoạch tập trung
thống nhất theo phương pháp hành chính quan liêu) đã buộc các nước này phải tiến
hành các cuộc cải cách kinh tế. Nội dung những cuộc cải cách này là chuyển nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT. ở các nước này khi hệ thống
cung cấp của nhà nước không cung cấp đủ hàng hóa và dịch vụ, người dân đã bắt đầu
tìm đến thị trường mà trước hết là thị trường chợ đen. Và cũng chính lúc này quyền lực
nhà nước suy giảm. Cho đến đầu những năm 90, các cuộc cải cách theo hướng KTTT ở
các nước XHCN Đông Âu đã trở thành xu hướng không đảo ngược được. Các bước quá

Footer Page 25 of 161.


×