Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Lí luận văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.48 KB, 50 trang )

. Ví dụ thứ nhất: Phân tích bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của Bà
Huyện Thanh Quan.
- “Những bài làm văn mẫu lớp 11”, mở bài viết:
“Hoài cổ” là nhớ xưa. “Thăng Long thành hoài cổ” là trước cảnh thành
Thăng Long nhớ về xưa. Nguyễn thị Hinh quen gọi là Bà Huyện Thanh Quan, quê
làng Nghi Tàm ven Hồ Tây, là người Thăng Long, đất kinh kỳ bao đời. Bà lại có
học thức và lịch duyệt. Trước những thăng trầm của đất nước ở thế kỷ 18 đầu thế
kỷ 19, nhìn cảnh Thăng Long, bà động lòng nhớ cổ thương kim là chuyện dĩ nhiên
và dễ hiểu:
“Tạo hóa gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đến người đây luống đoạn trương”.
Chữ nghĩa bài thơ đã khái quát cả thời đại non một kiếp người. Sự suy thoái
của chế độ phong kiến Đàng ngoài lẫn Đàng Trong đã đến tận cùng: bế tắc, phản
động, sụp đổ. Sụp đổ rồi gượng dậy, để đi đến phản động hơn và cuối cùng là đầu
hàng, mất nước.
- Bài “Thăng Long thành hoài cổ” của Bà Huyện Thanh Quan, chỉ đọc qua
một lần, nhưng cái điệu thơ, hồn thơ làm ta bâng khuâng mãi:
“Tạo hóa gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đất người đây luống đoạn trường”.


Nữ sĩ sống trong nửa đầu thế kỷ 19 ở nước ta. Bà chỉ để lại khoảng 6 bài thơ
Nôm, thể thất ngôn bát cú Đường luật. “Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà”,
“Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”… là những bài thơ tuyệt bút. Ngôn
ngữ trang nhã, giọng thơ du dương, điệu thơ chậm và buồn, màu sắc cổ kính, tài
hoa… là phong cách thơ của nữ sĩ.
Làng Nghi Tàm ven Hồ Tây là quê cha đất tổ của Bà Huyện Thanh Quan:
xuất thân trong một gia đình quý tộc đời Lê, nên Thăng Long mãi mãi đẻ lại trong
tâm hồn nữ sĩ những tình cảm vô cùng sâu sắc. Đầu thế kỷ 19, Phú Xuân trở thành
kinh đô cảu triều Nguyễn, Thăng Long được đổi thành Hà Nội. Nôi niềm tâm sự
nhớ xưa kinh thành Thăng Long là nỗi niềm của người đi xa. Có thể Bà Huyện
Thanh Quan viết bài thơ này trong thời gian làm nữ quan “Cung trung giáo tập” tại
Phú Xuân, những tháng ngày xa cố hương, xa nơi nghìn năm văn vật(?)”.
- Tác giả bài số 32 cuốn “Giảng văn văn học Việt Nam” đã viết mở bài như
sau:
“Lại một bức tranh thuỷ mặc với mấy nét chấm phá không phải về một buổi
trời chiều mà là về một bức tranh cổ: Thành Thăng Long xưa. Nếu gọi “Chiều hôm
nhớ nhà” mang nặng tình non nước là có phần chưa thật thoả đáng thì với “Thăng
Long thành hoài cổ” chúng ta được chứng kiến cái thế giới hoài cổ của nữ sĩ khi
viết bài này. Ai cũng đều biết: đế đô Thăng Long từ triều Lý đến triều Hậu Lê đã
ngót 800 năm lịch sử bi hùng. Lúc Gia Long lên ngôi (1802) lấy Huế làm kinh đô
và đến triều Minh Mệnh thì đổi tên cựu đô Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Chưa
biết lúc Bà Huyện Thanh Quan vào tân đô nhận chức Cung trung giáo tập dưới
thời Minh Mệnh thì Thăng Long đã đổi thành Hà Nội chưa? Chắc chắn bài thơ này
ghi lại sự kieenj trọng đại kể trên đã làm xúc động các cựu thần củ a tiên triều và
nhân dân cả nước. Quả thật, “Thăng Long thành hoài cổ” (Nhớ Thăng Long xưa)
là một tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Quan, bởi vì nó tiêu biểu đầy đủ nội dung
biểu đạt và hình thức thể hiện của chùm thơ bà”.
2. Minh họa phân tích một phần trong thân bài
* Ví dụ: Phân tích hai câu 5, 6 trong phần luận bài thơ “Đất Vị Hoàng”
của Tú Xương.

- Tác giả bài 49 cuốn “Giảng văn văn học Việt Nam” viết:
“Keo cú người đâu như cứt sắt,
Tham lam chuyện thở những hơi đồng”.
Tính “keo cú”, tính “tham lam” vốn là sản phẩm của những mặt tiêu cực của
cuộc sống đô thị hóa; con người hà tiện, keo cú để tích luỹ vốn liếng: con người
sống trong môi trường kinh tế hàng hóa, thị trường, chạy theo đồng tiền, tham lam.
Lối so sánh “keo cú như cứt sắt” ta vẫn gặp trong lời nói hằng ngày của nhân dân.
“Tham lam chuyện thở những hơi đồng”, cách nói này ta cũng đã gặp trong
“Truyện Kiều”: “Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê”. Tú Xương đã sử dụng những
hình ảnh so sánh, hình ảnh ẩn dụ có trong truyền thống văn hóa cổ truyền để vạch
trần những nét tiêu cực của tính cách con người trong thời đô thi hóa ở làng Vị
Hoàng buổi ấy”.
- “Sổ tay văn học lớp 11” đã phân tích:
“Hai câu trong phần luận mở rộng ý thơ trong phần thực, làm cho bức tranh
“Đất Vị Hoàng” được tô đậm sắc màu hiện thực. Không còn ước lệ nữa. Hai nét vẽ
về cảnh đời đáng buồn, đáng thương hại đối nhau. Một bộ tứ bình biếm họa hoàn
chỉnh. Ở cái đất Vị Hoàng thuở ấy nhan nhản những loại người “tham lam” và
“keo cú”. “Keo cú” đến bần tiện, ghê tởm và hôi hám. Nhà thơ ngạc nhiên hỏi và
so sánh: “người đâu như cứt sắt” sao mà đáng sợ, đáng khinh bỉ! Lại có loại người
“tham lam” đến cùng cực, nhịp sống cuộc đời họ chỉ là chuyện thở rặt hơi đồng”.
“Thở” là nhãn tự, rất linh diệu; nếu thay bằng chữ “nói” hay một từ nào khác thì
không lột tả được bản chất loại người tham lam, đê tiện này. Vì đã “thở” phải đi
liền với “hơi” – “hơi đồng”, tiền bạc. “Truyện Kiều” cũng có câu: “Máu tham hễ
thấy hơi đồng thì mê!”. Chỉ vì tiền, coi tiền bạc là trên hết, là trước hết trong mọi
mối quan hệ gia đình và xã hội. “Rặt” là từ cổ, là nói cách dân gian, nghĩa là “toàn
là”, “đều là”. Phép đảo ngữ rất có giá trị thẩm mỹ, tạo nên ngữ điệu dữ dội, khinh
bỉ, một tiếng chửi đời cay độc, lên án loại người tham lam, keo cú mất hết nhân
tính:
“Keo cú // người dâu như cứt sắt,
Tham lam// chuyện thở rặt hơi đồng”.

* Ví dụ: Phân tích một đoạn thơ trong bài “Tây Tiến của Quang Dũng:
“Sài Khao sương lấp… Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
- Thái Văn Vinh, lớp 12 chuyên Bình Định viết:
“Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy, nhớ về rừng núi ấy
thiết tha như thẻ làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và
núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của một
vùng rừng núi biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm cái nội dung bên trong
chúng ta đã có thể hình dung ra cái con đường mà Quang Dũng miêu tả qua thanh
luật của đoạn thơ. Kết cấu của đoạn thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau,
trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khiễng. Nhạc điệu êm ả,
triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng… Tất cả chỉ
lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng mỗi địa
danh gắn liền với một đặc điểm của địa vật: nếu ta chỉ thay “Sài Khao” bằng một
tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước
trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở gập ghềnh của con đường. Đã “dốc len
khúc khuỷu” mà lại còn “dốc thăm thẳm”, thì đúng là độ cao chất ngất, ngoằn
ngoèo khó đi. Đã “ngàn thước lên cao” rồi lại “ngàn thước xuống”, tất cả những
đặc điểm ấy diễn tả nỗi khó khăn của đoàn Tây Tiến khi hành quân. Nó có ghi lại
một ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt. Quang Dũng có
những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nối
thành cồn “heo hút”, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ “súng ngửi trời”
là đủ đưa ta đến tuyệt đỉnh cao vời. “Súng ngửi trời” nghe thật ngộ nghĩnh. Phải
chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong

cuộc. Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết cấu âm của đoạn thơ cũng đã
đủ vẽ lên trước mắt ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng
đi qua. Có những câu thơ dùng toàn thanh bằng rất hay, rất đắt:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Sau khi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, người chiến sĩ Tây Tiến
như đứng trước đỉnh núi cao nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa.
Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong màn mưa trắng. Thanh bằng của
từng chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng”.
(Trích bài thi Giải nhi 16 điểm, thi học sinh giỏi Văn toàn quốc)
- Nguyễn Thị Minh Tâm, lớp 12 trường PTTH Đồng Hới, Quảng Bình đã
phân tích:
“(…) Nỗi nhớ dẫn tác giả trở về với những kỷ niệm khó quên. Đó là những
vất vả, gian nan mà người lính đã trải qua:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Người lính hay nhớ đến những đêm dài hành quân, bởi đời lính thường gắn
với những cuộc hành quân. Nói đến người lính là nói đến những cuộc hành quân
dài, vất vả, gian khổ, mệt nhọc mà vẫn thắm đẹp chất oai hùng. Quang Dũng cũng
nói đến những cuộc hành quân như vậy:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
Ta chợt thấy lạ! Ít ai nói như Quang Dũng: “đoàn quân mỏi”. Nhưng đâu có
sai, mỏi chứ, những cuộc hành quân suốt ngày đêm; vượt qua hàng chục cây số
đèo dốc thì “mỏi” là đúng. Đưa hình ảnh “đoàn quân mỏi” vào đây mà lại hay, hay
ở chính cái thực của nó. Và hay bởi vì còn xó câu thơ tiếp theo:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
“Đoàn quân mỏi” nhưng tâm hồn, ý chí của họ không “mỏi”. Cho nên tâm

hồn của họ vẫn biết hướng vào cái đẹp, vẫn nghĩ đến những cái còn cao hơn, đẹp
hơn những gian khổ mà họ đã trải qua: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Lại
những thanh bằng tạo nên trong lòng ta một cảm giác thật nhẹ nhàng, nó cân bằng,
trung hòa với những gì mà câu thơ tạo ra. Có như thế, những câu thơ mạnh mẽ,
gãy khúc, nhịp thơ ngắn, nặng lại đi với những câu thơ nhẹ nhàng, mênh mang:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Có thực sự sống trong cuộc kháng chiến như Quang Dũng, thì mới có những
câu thơ thực và đúng về những gian khổ của người lính như thế. Những câu thơ
làm cho ta tưởng như được thấy, được trải qua gian khổ đó. Đã “dốc lên khúc
khuỷu” rồi lại còn “dốc thăm thẳm” nữa. Chỉ hai từ “thăm thẳm” thôi mà vẽ lên
trong ta một hình ảnh rõ nét, tạo cho ta cảm giác choáng ngợp: “thăm thẳm” là cao,
lại là sâu. Không phải là “cao chót vót” mà là “thăm thẳm” thì mịt mù lắm, cao
lắm, nó vượt ra khỏi tầm mắt của ta. Cũng vì có từ “thăm thẳm” cho nên mới “heo
hút”, chứ “chót vót” thì không thể “heo hút” được. Cái tài của Quang Dũng là đó.
Và chợt ta bắt gặp hình ảnh “súng ngửi trời”. Phải là “súng ngửi trời” thì mới nói
hết độ cao của dốc, của gian khổ. Nhưng cũng vì có hình ảnh “súng ngửi trời” mà
câu thơ viết về gian khổ lại không mang chút bi quan mà phảng phất chút dí dỏm.
Đã dốc “khúc khuỷu”, đã “thăm thẳm”, “heo hút” rồi lại còn “Ngàn thước lên cao,
ngàn thước xuống” nữa mới thật rõ cái gian khổ, vất vả của người lính. Nhưng từ
đỉnh cao “ngàn thước” đó, tâm hồn người lính lại mở ra, phóng tầm mắt ra giữa
ngút ngàn trời đất:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Vẫn là một câu thơ rất nhẹ với những thanh bằng, với vần “ơi” mênh mang,
tạo nên trong ta một cảm giác mênh mông, dàn trải, lại vừa gợi lên một màn mưa
lưa thưa, mờ mờ. Đó chính là nét thi sĩ trong tâm hồn người lính - học sinh. Câu
thơ như thoảng một chút mơ màng, một chút mộng mơ rất đáng yeu”.
(Những bài văn đựoc điểm cao)

3. Minh họa phần kết bài
* Với đề bài văn “Phân tích những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân thể hiện trong bài ký “Người lái đò Sông Đà” có những cách viết
kết bài sau:
- Tác giả cuốn “99 bài văn” viết:
Đọc “Người lái đò Sông Đà” ta biết thêm một Nguyễn Tuân uyên bác, tài
hoa, độc đáo. Tả cảnh thì biến hoá, trong bốn mùa, trong mọi thời gian, đa thanh
và phức diệu lúc nói về thác, ghềnh… Bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác
mạnh đầy mầu sắc và góc cạnh với một kho chữ nghĩa giàu có. Văn của Nguyễn
Tuân đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa; cần mẫn và sáng tạo, đem thơm
thảo cho đời. Câu văn xuôi tài hoa, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì
mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
Đọc “Người lái đò Sông Đà”, ta yêu thêm con người Việt Nam dũng cảm,
cần cù và tài hoa; ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là
quà tặng của thiên nhiên:
…“Ôi những dòng sông bắt đầu từ đâu
Mà khi về Đất nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đo, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
(“Đất nước” - Nguyễn Khoa Điềm) (Tr 563-564)
- Phan Huy Dũng, trong cuốn “Để viết hay bài làm văn lớp 12”, đã kết bài để
văn trên như sau:
“Người lái đò Sông Đà” cho thấy một số nét đặc sắc của phong cách Nguyễn
Tuân, nổi bật nhất là ở cái nhìn sắc sảo, tài hoa cảu một nghệ sĩ bậc thầy luôn phát
hiện ra những điều mới lạ của sự vật, con người và thể hiện chúng thật độc đáo;
độc đáo trong dùng từ tạo câu, độc đáo trong lựa chọn hình ảnh, ví von, so sánh.
Và cả ở niềm say mê thiên nhiên, núi sông Tổ quốc đi liền với sự hiểu biết cặn kẽ,
sâu sắc và phong phú về những gì nhà văn miêu tả lên mỗi trang viêt. Bút ký này
cho chúng ta hiểu và thêm quý trọng tài năng và phong cách độc đáo của Nguyễn
Tuân”. (Tr. 114)

Trên đây, chúng tôi đã đưa ra một số “mẫu” để minh hoạ cho độc giả tham
khảo, dàn ý phân tích văn và một vài thao tác như mở bài, kết bài, phân tích một
chi tiết, một khía cạnh, một phần của tác phẩm. Văn chương cần sáng tạo; người
sáng tác thơ văn tất sáng tạo để vươn lên, tiếp cận cái đẹp. Người học sinh làm một
bài văn trên lớp trong phòng thi – cũng phải sáng tạo. Học tập và đọc sách là để
sáng tạo, chứ không để sao chép; xin giới thiệu một vài ý kiến xa, gần:
- Đỗ Phủ viết:
“Độc thư phá vạn quyển
Hạ bút như hữu thần”.
(Đọc sách phá vạn quyển,
Hạ bút (viết) như có thần).
Ông lại nói:
“Rất trọng (cái hay trong thơ) của người đời nay, nhưng cũng rất quý (cái
hay trong thơ) của cổ nhân. Câu hay lời đẹp của họ ta đều yêu mến cả. Trộm mong
được kề vai sát cánh cùng đi với Khuất Nguyên, Tống Ngọc, chứ không muốn đi
theo cái mặt trái (uỷ mỵ, yếu đuối của thơ ca) đời Tề, Lương.
Chưa bằng được các bậc tiền hiền càng không nghi ngờ, rồi đây biết lấy ai là
người khôi phục thuật lại được người xưa. Cắt phăng những cái giả tạo, hư nguy,
lập nên vẻ phong nhã mới, học tập cái hay của những người khác, biến thành cái
hay của mình”.
Viết văn đòi hỏi một cuộc sống phong phú, đồng thời đòi hỏi phải đọc sách.
Học văn cũng vậy. Có đọc sách (sách tốt) mới có thể mở rộng tầm nhìn, tích luỹ tri
thức, năng lực tưởng tượng được phong phú hơn và năng lực biểu đạt cũng được
tăng thêm. Lưu Hiệp trong “Văn tâm điêu long” cũng có chỉ rõ: “Kiến văn rộng là
lương thực để giải cứu sự nghèo nàn” (Bác kiến vi quỹ bần chi lương).
Không đọc sách theo lối “ăn sống nuốt tươi:, sao chép, bắt chước sách vở
một cách tuỷ tiện, trở thành “cái hòm đựng sách”. Người học văn cũng như “Người
làm thơ vốn là người đọc sách, mà chẳng dùng một chữ nào ở trong sách” (Tác thi
nguyên thị độc thư nhân, bất dụng thư trung nhất cả tự).
Viên Mai trong “Tuỳ viên thi thoại” có nhắc:

“ Tằm ăn lá dâu nhưng nhả ra tơ chư không phải nhả ra lá râu.Ong hút nhụy
hoa mà gây thành mật,chư không phải gây thành nhụy hoa.Dọc sách như ăn cơm
vậy, kẻ “khéo ăn”, tinh thần sẽ lớn lên, kẻ không khéo ăn “ sinh ra đởm, bướu”.
Học văn mà không đọc sách, ít đọc sách, đọc sách mà thiếu phương pháp,
hoặc thiếu ý thức học tập cái tinh hoa của người thì khó mà đến hai chữ văn
chương.Lỗ Tấn, văn hào Trung quốc từng nhắc nhũ các nhà văn trẻ:
“Không nên đọc riêng tác phẩm của mọi người, để đề phòng họ bị trói chặt
chân tay mình, mà phải học tập rộng ở nhiều người, tiếp thu những cái hay ở họ,
chỉ có như vậy thì về sau mói đứng độc lập được”.
Hiện nay, tuổi trẻ học đường đọc sách thì ít mà xem ti vi hơi nhiều. Không
thể lấy trực giác thay cho tư duy trừu tượng, thay cho tư duy ngôn ngữ văn chương
được. Mong độc giả đọc các ví dụ minh họa trong cuốn sách này với tinh thần tằm
ăn dâu và ong hút nhụy hoa vậy.
Định nghĩa
- Tác phẩm văn học là sáng tác cụ thể, văn bản ngôn ngữ hoàn chỉnh, vừa có ý nghĩa vừa có tính
thẩm mỹ.
- Một bài ca dao hai câu, một bài thơ tứ tuyệt, một truyện ngụ ngôn nửa trang, một truyện ngắn
mi-ni, bộ Tam quốc chí,… đều là tác phẩm văn học.
Thế giới hình tượng của tác phẩm văn học
1. Khái niệm:
Thế giới hình tượng là hệ thống các hình tượng được dệt nên bởi các chi tiết, tình tiết, quan hệ,
… cho phép ta hình dung được sự hiểu biết và cảm nhận của tác giả đối với thế giới và con người.
- Chú ý: Cần phân biệt các khái niệm: hình ảnh, ngôn ngữ hình tượng, thế giới hình tượng.
2. Ví dụ:
Trong ca dao, thuyền và bến; trong thơ Xuân Diệu, bài Biển thì sóng và bờ, trong bài Thuyền và
biển, Sóng của Xuân Quỳnh thì thuyền, biển - là cặp hình tượng nói về tình yêu lứa đôi.
Các lớp nội dung của tác phẩm văn học
Đề tài, chủ đề, cảm hứng, nội dung triết lý, sắc điệu thẩm mỹ - là năm lớp nội dung của tác
phẩm văn học.
1. Đề tài:

- Đề tài là hiện tượng đời sống được thể hiện qua miêu tả.
- Ví dụ: “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “Tắt đèn”,… viết về đề tài nông dân.
2. Chủ đề:
- Chủ đề là vấn đề chính, vấn đề chủ yếu mà tác phẩm muốn nêu lên qua một hiện tượng đời
sống.
- Ví dụ: Chủ đề truyện “Đời thừa” là bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội
thực dân phong kiến.
3. Cảm hứng:
- Cảm hứng “là nội dung tình cảm của tác phẩm”
- Ví dụ, bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan, cảm hứng chủ đạo là nỗi
buồn cô đơn, lạnh lẽo và nỗi buồn nhớ nhà của người lữ khách.
4. Nội dung triết lý:
- Quan niệm về thế giới, quan niệm về con người là nội dung triết lý của tác phẩm văn học.
- Ví dụ, nội dung triết lý của truyện ngắn “Đời thừa” là gì?
+ Là khoái cảm của văn chương “dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng”
+ Là nghề văn tuy nghèo mà sang trọng: “Tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc
vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi (Hộ), chưa chắc tôi đã đổi”.
+ Là quan niệm về kẻ manh: “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”.
5. Sắc điệu thẩm mỹ của tác phẩm là vẻ đẹp chủ yếu tương ứng với cảm hứng và chủ đề tác
phẩm.
- Ta thường nói: “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” là một cách đánh giá sắc điệu thẩm
mỹ của tác phẩm văn học.
- Nói về sắc điệu thẩm mỹ trong “Nhật ký trong tù”, Hoàng Trung Thông viết:
“Văn thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”.
dân tộc biểu hiện trong tác phẩm văn học ở những phương diện nào? Liên hệ với thực tế văn học.
Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn
BÀI LÀM
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa, đâu trời đẹp hơn!

Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mù che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.
(Nguyễn Đình Thi)
Đọc bốn câu thơ của Nguyến Đình Thi, ta nghe văng vẳng đâu đây hồn đất nước, hồn cha ông
đang hào quyện vào “biển lúa rập rờn”, vào “cánh cò bay lả rập rờn” hoà quyện vào lời tha thiết
“Việt Nam đất nước ta ơi” của người dân Việt, và ta nhận xét rằng: “Đây là bài thơ có tính dân tộc
cao”.
Vậy “dân tộc” là gì? Đó là một cộng đồng người có chung tiếng nói, ngôn ngữ, chung tập
quán, tâm lí, chung phong tục, cùng bảo vệ bờ cõi... Những yếu tố ấy tạo thành “xã hội”. Tính dân
tộc trong văn học là một phẩm chất thuộc bản chất xã hội của văn học. nó được biểu hiện qua
nhiều hoạt động thực tiễn trong tâm lí, trong nếp sống văn hoá và nhiều giá trị tinh thần khác của
xã hội... Đặc biệt trong hoạt động văn nghệ và trong các tác phẩm văn học nghệ thuật, tính dân tộc
được bộc lộ một cách sâu sắc nhất. Khi tìm hiểu tính dân tộc trong văn học, thông thường có hai
loại ý kiến: Hoặc xem tính dân tộc như thuộc tính hoặc như phẩm chất của văn học. Chúng ta cần
phân biệt hai phương diện “thuộc tính” và “phẩm chất” gắn bó với nhau, nhưng phạm vi rộng hẹp
của chúng khác nhau trong tính dân tộc.
Nói đến dân tộc ta nói đến xã hội, và ngược lại, nói đến xã hội là nói đến dân tộc. Đại văn hào
Nga, M.Gorki cho rằng “Văn học là nhân học”, tức là “đối tượng của văn học là con người” mà
nhiều cá nhân hợp thành xã hội. Do đó, văn học phải phản ánh tính dân tộc là điều tất yếu. Văn
học là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”, khách thể và chủ thể ở đây nói chung là thuộc
một dân tộc nhất định, cho nên tính dân tộc là một thuộc tính tất yếu của văn học. Nói “thuộc tính”
là không bao hàm sự đánh giá. Nhà phê bình văn học Nga Bê – ê – lin – xki cho rằng: Mỗi nhân
vật phải gắn với một dân tộc nhất định, một thời địa nhất định. Vì nếu con người không có tính
dân tộc không phải là con người thực sự mà là một khái niệm trừu tượng. Vì vậy mà rõ ràng tính
dân tộc trong tác phẩm không phải là một thành tích mà là một thuộc tính tất yếu của việc sáng
tạo”.
Một nhà văn dù có tài hay không, và dù ý muốn chủ quan của họ có muốn hay không, họ vẫn
phải sử dụng một số phương diện biểu hiện quen thuộc của hình thức nghệ thuật dân tộc họ từ thể
loại, ngôn từ đến các chất liệu của đời sống xã hội và thiên nhiên của dân tộc mình: do đó, ý kiến
của Bê – ê – lin – xki có phần đúng. Tuy nhiên, ngoài thuộc tính, tính dân tộc chủ yếu được xem

như là một phẩm chất của tác giả văn học. Ngay từ những ngày đầu trong công cuộc dựng nước và
giữ nước, các tác phẩm có gái trị cảu cha ông ta giàu tính dân tộc. Niềm tự hào về dân tộc, ý chí
quyết tâm chiến đâud của cha ông ta đer bảo vệ non sông được thể hiện rõ nét nhất trong bài thơ
Thần của Lí Thương Kiệt.
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Nguyễn Trãi đã phát biểu về ‘tính dân tộc” một cách khá khao học trong bài Bình Ngô đại
cáo:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương...
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm có tính dân tộc sâu sắc nhất, từ nội dung đến
hình thức. Lối thơ lục bát trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du tiên sinh là lối thơ cổ
truyền của người Việt Nam, tấm lòng nhân đạo của nhà thơ, sự dồng cảm, thương xót những số
phận con người khổ đau, những kiếp sống lầm than trong xã hội... Đó cũng là những đặc trưng của
đạo đức người Việt Nam. Khi Pháp xâm lược Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng từng
trăn trở về dân tộc:
Bờ cõi xưa đã chia đất khác:
Nắng sương nay há đội trời chung.
Và nhà thơ yêu nước này từng mơ ước về một tương lai tốt đẹp của dân tộc mình:
Chừng nào thánh đế ơn soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.
(Ngóng gió đông - Nguyễn Đình Chiểu)
Từ sau Cách mạng tháng Tám, đường lối văn nghệ của Đảng chủ trương nân cao tính dân tộc,
“Đề cương văn hoá Việt Nam” năm 1943 nhấn mạnh ba phương châm lớn của văn hoá văn nghệ

đó là: Dân tộc, Khoa học, Đại chúng.
Trong hội nghị văn háo toàn quốc lần thứ nhất, Hồ Chủ tịch căn dặn văn nghệ sĩ phải “trau
dồi cho văn háo Việt Nam thật nhiều tinh thần thuần tuý Việt Nam”. Trong đại hội văn háo toàn
quốc năm 1948, đồng chí Trương Chinh cũng nhận xét: “Văn hoá dân chủ mới Việt Anm tiêu biểu
cho tinh hao dân tộc”. Quả thật, văn học nước ta giai đoạn sau Cách Mạng tháng Tám mang tính
dân tộc rất đậm nét. Tính dân tộc của tác phẩm văn học được biểu hiện ở nhiều khía cạnh, trước
hết là ở ngôn ngữ. Lối xưng hô mang tính chất họ hàng, gia đình, khiến cho ta có cảm giác thoải
mái, dễ chịu khi đọc tác phẩm văn học. Nhân vật Việt trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia
đình” của Nguyễn Thi được gọi là “cậu Tư”, nhân vật Tánh, chỉ huy của Việt, được gọi là “anh
Hai”... Những cái tên nghe thật thân mật và trìu mến, gợi lên một không khí gai đình ấm cúng.
Hoặc lối xưng hô bằng cách nói trổng “ai”, “đằng ấy” cũng tạo nên một dư vị đặc biệt trong lòng
người đọc:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà giằm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai gánh nước bên đường hôm nao.
CA DAO
“Ai” ấy là ai, nếu không phải là người mà anh hằng “thầm thương trộm nhớ”. Hàn Mạc Tử
cũng có câu thơ rất hay:
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang...
(Mùa xuân chín – Hàn Mạc Tử)
Tính dân tộc còn được thể hiện trong cách cảm thụ thế giới. Do dân tộc việt Nam ta có nền
kinh tế nông nghiệp, nhiều cây trái, nên có lẽ vì thế mà cây, canh, hoa, trái... được người Việt Nam
cảm nhận biến thành quan hệ xã hội, quan hệ thiên nhiên, quan hệ giữa cá nhân trong cộng đồng.
Ví dụ như khi nói đến tình duyên thig nhân dân ta mượn câu thơ Nguyễn Du:
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa
Hoặc khi nhớ đến cha mẹ thì có câu:
Một cây gác vác biết bao nhiêu cành...
Về hình thức, tính dân tộc thể hiện trong thể loại của tác phẩm văn học .Người Việt Nam ta ưa

thích cuộc sống trữ tình, chính vìvậy mà ta ưa thích biểu hiện là thơ ca. Nội dung của tác phẩm
văn học có tính dân tộc là những đề tài được khai thác trong cuộc sống dân tộc như thiên nhiên,
cảnh sắc, diện mạo, con người Việt Nam. Nói đến người mẹ, ta không thể quên hình ảnh người mẹ
trong thơ Tố Hữu :
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội xuống bùn tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu....
(Bầm ơi ! - Tố Hữu)
Chiếc áo chàm, chiếc áo nâu nhuôm bùn giản dị được đưa vào các tác phẩm văn học như một
biểu tượng cho người dân, cho quê hương Việt Nam:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Bác Hồ đó chiếc áo nâu giản dị
Mầu quê hương bền bỉ đậm đà
(Sáng tháng năm - Tố Hữu)
Một trong phong tục tập quán tốt đẹp nhất của nhân dân Việt Nam “Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây”. tưởng nhớ đến người đã khuất :
Đốt nén hương thơm mát dạ Người
Hãy về vui chút mẹ Tơm ơi !
(Mẹ Tơm – Tố Hữu)
Tính cách dân tộc cũng được thể hiện trong tác phẩm có tính dân tộc. Đó là những phẩm chất,
tính cách lặp đi lặp lại nhiều lần tạo nên thành phẩm chất của dân tộc. Tư tưởng “thương người
như thể thương thân” niềm tự hào về cộng đồng, tiền nhân... Đặc biệt, truyền thống yêu nước của
người Việt dường như có tính bản năng:
Ơi Việt Nam ! Tổ quốc thân yêu
Trong đau khổ Người đẹp hơn nhiều

Như người mẹ sớm chiều gánh nặng
Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng
Biết đau thươgn nên chẳng nhiều lời
Gì quý hơn giá trị trên đời?
Ta hiểu vì sao ta chiến đấu
Ta hiểu vì sao ta hiến máu...
( Xuân 67 - Tố Hữu)
Một tác phẩm văn học thể hiện được nội dung và những vấn đề phù hợp với tình cảm và tâm
lý dân tộc thì tác phẩm ấy có tính dân tộc. Do những điều kiện riêng về hoàn cảnh địa lí, về lịch sử
phát triển của xã hội, nếp sống văn hoá, phong tục tập quán...mà mỗi dân tộc có những tình cảm và
tâm lí riêng. Nếu như Puskin, đại thi hào Nga, phát biểu về dân tộc Nga là “Vừa vui táo tơn, lại
buồn sâu xa” thì nhà thơ Huy Cận nhìn nhận về dất nước Việt Nam với cá tính khác:
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thật, sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà....
Tính cách anh dũng bất khuất của nhân dân Việt Nam luôn đi đôi với lòng nhân ái. Những
phẩm chất tinh thần cao quý ấy được hình thành và tôi luyện trong quá trình dựng nước và giữ
nước bốn nghìn năm lịch sử. Bên cạnh những tính cách cao đẹp ấy còn có lòng kiên nhẫn.Nhà thơ
Bungari Đimitrova có nói :
“Đất nước Việt Nam cho tôi gặp gỡ lòng kiên nhẫn, có lẽ ở đó là gương mặt thực sự nhất của con
người”.
Đó cũng là ý kiến về “tiếng đàn bầu Việt Nam”. Khi dây đàn căng thật nhiều, sắp đứt, thì lúc
đó nó lại viết nên bản hùng ca làm cho chất người bay bổng hơn, cao cả hơn.
Ngôn ngữ dân tộc ta giàu và đẹp. Các nhà văn, nhà thơ đã góp phần nâng cao sự phát triển
ngôn ngữ dân tộc trong việc sáng tạo, và vận dụng ngôn ngữ dân tộc. Ở những tác phẩm có tính
dân tộc sâu sắc dường như người viết đã nắm bắt được một phương diện nào đó của tâm hồn dân
tộc như hồn quê trong thơ Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bính, hồn non nước trong thơ Phan Bội Châu,
Hồ Chí Minh.
Đề bài

Thế nào là một nhân vật điển hình trong văn học?
Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn
BÀI LÀM
Thuở bé tôi đã ngủ say bên cuốn Nghìn lẻ một đêm, đã nằm trong giấc mơ có bàn tay cô
Tấm. Và lớn lên khi đã hiểu đôi chút về cuộc đời, tôi biết thấu hiểu nỗi đau của nàng Kiều,
của Chí Phèo rồi sự cực khổ của số phận chị Dậu. Tất cả những hình tượng điển hình của
một thời đại, một số phận đó in dấu mãi trong tôi và trong lòng người đọc. Những nàng Kiều,
Chí Phèo hay chị Dậu tôi nghe như quen lắm, gần gũi lắm và cũng lạ lắm, xa cách lắm. Bởi
vì họ là nhân vật trong văn chương, mà lại là một điển hình. Có phải điền hinh như nhà phê
bình văn học Nga Bê-ê-lin-xki viết “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu nổi bật của
tính mới mẻ trong sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói được rằng : Tính điển hình là huy
chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết” không.
Văn học là mĩ học của ngôn từ. Văn học làm đẹp trái tim, tâm hồn con người. Nó khai
thác những tình cảm phong phú của con người. Đó là những cảm xúc tế nhị hay mãnh liệt
của con người vươn tới tự do, dân chủ, vươn tới thế giới của tình thương. Văn học nghệ thuật
hướng tự do,hạnh phúc và nhân phẩm của con người. Nhà văn thể hiện tất cả điều đó thông
qua hình tương. Và tác phẩm nào cũng thế, đều có hình tượng. Hình tượng đó là những gì
sinh động, cụ thể nhất, trực giác nhất, nơi đó tác giả gởi một thông điệp tinh thần, tình cảm,
một cách nhìn nhận hiện thực.... được thể hiện bằng ngôn từ....và ngôn ngữ vốn dĩ là một cơ
thể sống phức tạp, vận động, nhiều thanh âm, nhiều màu sắc, mỗi tiếng, mỗi từ khi được nhà
văn dùng để xây dựng hình tượng chúng đều có những lớp nghĩa mới, những gía trị mới...
Điều đó chứng tỏ hình tượng rất đa dạng. Nó thể hiện tài năng của nhà văn ói lên đựơc phẩm
chất và thành tựu xuất sắc của văn học, nó phản ánh một xã hội. Điển hình ? Không phải nhà
văn nào cũng làm được điều đó. Xây dựng hình tượng văn học thì dễ dàng, song để đưa sản
phẩm tinh thần của mình lên ngang mức điển hình phải đi lên từ một hình tượng độc đáo,
phải tâm trí người đọc những lăn sóng tình cảm nhiều, rộng , có khi vô bờ bến, nó vang dội
trong nhiều thế kỉ. Rõ ràng hơn điển hình chính là khái quát. Khái quát đến mức có thể làm ta
liên tưởng đến cái tương tự ở ngoài đời. Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình tưọng
nhân vật Thuý Kiều, không chỉ thế Kiều đã trở thành nhân vật điển hình trong văn học. Nhân
vật này đã ăn sâu vào tiềm thức người đọc đến độ người ta có thể hình dung tên Kiều để chỉ

một số người có hoàn cảnh như thế trong xã hội. Có khi người ta dùng tên Tú Bà hay Sở
Khanh để chỉ bọn người sống bằng những nghề “đưa người cửa trước, rước người cửa sau”
và lũ “chải chuốt, dịu dàng” chuyên quyến rũ đàn bà, con gái nhẹ dạ.
Trong đời sống xã hội ta thường gặp những khái niệm điển hình :học sinh điển hình,
một gia đình điển hình cho khu phố về nề nếp giáo dục con cái. Chúng có nghĩa là những cái
bình thường nhất, thường xảy ra nhất, lặp đi lặp lại nhiều nhất , tiêu biểu nhất, lí tưởng nhất
của một người nào đó, mội điều gì hoặc một môi trường nhất định. Song điển hình nghệ
thuật không hoàn toàn giống hệt điển hình xã hội. Về bản chất, điển hình không phải là cá
biệt nhưng lại là cái cá biệt, là một cá tính xác định, độc đáo riêng biệt khác nhau, có ở nhân
vật này mà không có ở nhân vật khác. Đó chính là “người lạ” theo cách nói của Bê –ê-lin-
xki. Chí phèo là nông dân. Một anh trai lực hiền lành như đất, thế nhưng từ bốn bức tường
lao lí ra cuộc đời Chí đã trở thành “con quỷ” của làng Vũ Đại. Chí cứ mãi chìm đắm trong
những cơn say, và ngủ trong lúc say, dường như chưa bao giờ Chí tỉnh cả. Và cứ mỗi lần có
con ma men trong người, Chí lại rạch mặt ăn vạ, và cứ hễ “rượu xong là hắn chửi”. Tiếng
chửi của Chí từ trang sách cứ âm vang trong người đọc mãi, hoàn toàn không giống với tiếng
bước chân chạy thình thịch lo âu tất tưởi của chị Dậu. Chị Dậu là nông dân. Chị cũng là một
nông dân nghèo nàn không khác chi anh Chí. Chị cũng bị áp bức. Chị cũng mang bao điều
đau khổ. Song, cùng đứng trước hiện thực như nhau, nhưng mỗi nhà văn lại có một điểm
nhìn khác nhau, mỗi nhà văn lại có một “nhãn quan” khác nhau. Sự thật lồ lộ trước mắt có
thể là ai cũng nhìn thấy nhưng khi vào tác phẩm , qua lăng kính chủ quan của nhà văn, nó trở
thành một tấm ảnh với nhiều góc độ, nhiềm gam màu khác biệt. Chị Dậu khác Chí Phèo, Chí
Phèo phản kháng lại xã hội bằng con đường lưu manh hoá. Còn chị Dậu, chị âm thầm chịu
đựng, chạy ngược chạy xuôi lo từng hào nhỏ để đóng thuế cho chồng, cho em chồng. Nếu
Nam Cao xây dựng một nhân vật điển hình của ngừơi nông dân bế tắc đi đến con đường gần
như mất hẳn nhân tính. Thì ngược lại, Ngô Tất Tố lại xây dựng một chị Dậu ngời ngời phẩm
chất cao đẹp của phụ nữ Việt nam với những lo suốt đời vất vả....
Về hình thức, nói như trên không có nghĩa là điển hình văn học rất trừu tượng mà trước
tiên nó rất sống động và cụ thể. Bên cạnh cái “lạ” thì nó chính là cái quen biết. Điển hình
trong văn hcọ thể hiện chủ yếu ở hai khía cạnh chính là sản phẩm được nhào nặn từ hoàn
cảnh cụ thể điển hình cho nên nó rất sống động và gần gũi. Chính vì sự sống động nên rất

thực, rất quen, Chí Phèo rất cá biệt, cá biệt từ tính cách đến hành động....Chí Phèo vừa là con
quỷ dữ trong mái nhà tranh với thú vui vườn ruộng. Chí Phèo vừa là cục sáp trong bàn tay
nóng của bọn thống trị vừa là một nô lệ thức tỉnh. Và chính nhờ những cá tính cá biệt đó mà
Chí trở thành điển hình của người dân thuộc địa tủi nhục, bần cùng. Đọc Chí Phèo, ta như
đang lật lại từng trang sử tâm hồn Việt Nam tràn ngập niềm đau khổ.
Môi trường hay hoàn cảnh là cái khuôn để nhà văn đúc nên những nhân vật. Nhân vật
điển hình thểhiện những cái chung phổ biến đối với môi trường. Một nhân vật điển hình phải
nằm trong hoàn cảnh điển hình, cụ thể. Những nhân vật không thể không có số phận, những
bước đi lệch khỏi hoàn cảnh ấy, môi trường ấy. Tất cả là những tinh tú quay quanh mặt trời.
Có thể có những nhân vật thăng hoa từ nguyên mẫu có thực trong đời sống cụ thể, môi
trường cụ thể. Cũng có thể có những nhân vật đi lên từ hiện thực qua trí tưởng tưởng của nhà
văn. Nhưng dù đi lên từ đâu, thì nhân vật điển hình cũng có nghĩa tiêu biểu cho cuộc sống
đó, môi trường đso. Hay đúng hơn là hoàn cảnh điển hình tạo ra nhân vật điển hình. Chí
Phèo sống trong hoành cảnh xã hội cực kì thảm hại, sống trong hoàn cảnh điển hình nhất của
thời kì dân tộc chìm sâu trong máu và nước mắt. Một môi trường hỗn loạn như Nam Cao
từng viết “quần ngư tranh thực” và Chí là đại diện đau đớn nhất của môi trường ấy. Là một
anh làm thuê hiền lành an phận, Chí thật sự trở thành miếng mồi ngon cho bọn cường hào ác
bá và từ con người bình thưòng Chí trở thành một con quỷ, một con thú độc hình nhân.
Rõ ràng tính cách của Chí không thể thoát ra được những quy luật chung của môi trường
mà anh đang sống. Bản thân Chí bước trên con đưòng tha hoá, không phải để lại những dấu
vết đầu tiên, mà anh bước đi là anh giâẫ lên những dấu chân của những kẻ như Năm Thọ,
Binh Chức phải cầm dao để sống , để buộc Chí phải rơi từng giọt máu, bán lần nhân phẩm để
mưu sinh, để đè bẹp cái khát khao lương thiện của Chí bằng những chuỗi dài say rượu triền
miên. Ánh trăng thiên nhiên đã một phần trả lại tính người cho Chí, ánh trăng dịu dàng đã
cho Chí Phèo tìm lại ánh sáng đó, đó là cho Chí một Thị Nở. Đối với người khác, Thị Nở dở
hơi còn đối với Chí, chị cũng là người phụ nữ tuyệt vời, là ngừơi đầu tiên không biết xa lánh,
ghê tởm Chí. Và chính bát cháo hành đầy tình người của Thị Nở dã khơi dậy ngọn lửa thiện
– nhân vốn ẩn tàng trong con người Chí thuở nào bừng lên. Chí tìm lại đựoc chính mình.
Hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ đã tạo nên Chí và Chí tiêu biểu cho hoàn cảnh xã hội đó,
đó là lẽ tất nhiên. Nhân vật điển hình và hoàn cảnh điển hình là hai yếu tố biện chứng lẫn

nhau. Đấy là hai mặt cảu một tờ giấy không thể tách rời nhau, nhưng không hoàn toàn giống
nhau. Bởi vì sao? Dù có tính khái quát rộng, dù miêu tả cụ thể, sinh động , dù đi lên từ hiện
thực, nhân vật điển hình vẫn là một hình tượng nghệ thuật do nghệ sĩ tạo ra, là tấm lụa màu,
được dệt bằng những sợi tơ hiện thực, bằng màu sắc cá tính, bằng bàn tay và khối óc của nhà
văn. Cho nên phần nào nhân vật điển hình chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn. Nhà văn
nào cho ra một điển hình riêng với những suy tư trăn trở riêng, và nhân vật điển hình trở nên
đẹp hơn hoặc xấu hơn tùy theo quan điểm chủ quan của tác giả.
Có nhân vật điển hình tiêu biểu cho hoàn cảnh nhất định, nhưng cũng có nhân vật điển
hình mang theo dấu vết dân tộc, đôi khi toàn nhân loại . Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất
Tố là một nhân vật điển hình của một môi truờng xã hội thực dân phong kiến, của một dân
tộc “đói nghèo trong rơm rạ” (Chế Lan Viên) trong gông cùm nô lệ, suốt cuộc đời chỉ sống
trong cực khổ không thấy một ngày thậm chí một giờ được hạnh phúc, đó là dân tộc Việt
Nam. Một dân tộc luôn đau khổ, luôn bị chèn ép, song ý chí phấn đấu, sức mạnh tự vệ có thể
bùng nổ. Chị Dậu dịu dàng chân thạt, chỉ biết ban phát tình yêu cho chồng, tình thương vô bờ
bến cho con nhưng cũng có thể quật ngã bọn cường hào khi đi đến đường cùng giành sự
sống. Và Chí Phèo, Chí không những là nhân vật điển hình của một xã hội mà Chí còn là
điển hình nhân loại. Mâu thuẫn trong tác phẩm giữa cái thiện và cái ác, mâu thuẫn giữa “con
quỷ” và “con người”, mâu thuẫn giữa sự tuyệt quyền làm người và khát khao được hoà đồng
với con người bình thường, lương thiện... Đó là bi kịch của con người trên trái đất này cứ
không dừng lại ở anh Chí Phèo của một làng quê bé nhỏ. Mối tình của Rômêô và Julliet
không chỉ là một câu chuyện tình bi ái ở Anh, ở Ý trong tác phẩm Sechxpia mà đó là giọt lệ
đau đớn của nhà văn khóc cho vạn cuộc tình trên đời này, ở đâu đấy trên trái đát này có
nhiều, rất nhiều cuộc tình bi thương như thế...
Những nhân vật ấy cứ theo thời gain cứ tồn tại mãi, bất tử trong tim độc giả. Con thoi
thời gian cứ bay, không những lớp bụi thời gian không làm mờ đi những nhân vật đó, mà
ngược lại các nhân vật ấy càng điển hình hơn cho “một thời” cụ thể. Grăngđê của Banlzac,
A.Q cảu Lỗ Tấn, Natasa Rostova cảu L. Tônxtoi, Xuân Tóc đỏ, Nghị Hách của Vũ Trọng
Phụng, Chí Phèo của Nam Cao...mãi mãi trường tồn, vẫn đem lại giá trị nhận thức và sức
truyền cảm cho nhiều thế hệ.
Một lần nữa tôi xin mượn câu của Bê- ê- lin- xki để kết lại vấn đề:

“Tính điển hình là một trong những dấu hiệu của tính mới mẻ trong sáng tạo, hay nói
đúng hơn là bản thân sức sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói rằng tính điển hình là huy chương
của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết”.
Ý kiến bạn đọc
Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú
ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. (Nguyễn Văn Siêu, 1799 –
1872). Hãy giải thích và bình luận ý kiến trên.
Bài giải chi tiết | Viết cách giải khác của bạn
BÀi LÀM
Không đợi đến thế kỉ XX này con người mới có nhiều quan điểm về văn chương mà
ngay ở thế kỉ XiX, Nguyễn Văn Siêu, một danh sĩ thời Nguyễn đã từng có ý kiến “Văn
chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở
văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Song nói như Lê Quý Đôn “Văn
chương là của công thiên hạ, ý kiến của mỗi người mỗi khác, phân tích thì đuợc chứ không
nên chê mắng”. Cho nên, ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đáng nên hiểu lại và hiểu như thế nào
cho đúng.
Nguyễn Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được người đời
tôn thờ là “Thần Siêu, Thánh Quát”. Quan niệm của ông không phải là một quan niệm dễ dãi,
điều quan trọng là ta phải hiểu cho đúng ý nghĩa của câu nói “Văn chương chuyên chú ở văn
chương”, “văn chương chuyên chú ở con người” là như thế nào?
“Văn chương chuyên chú ở văn chương” là loại văn chương chỉ chăm chút gò câu đẽo
chữ, tìm những chữ thật kêu, những điển tích cổ bí ẩn...nói chung đấy là loại văn chương
thuần tuý, là “văn” kkhông cần biết nội dung, về tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về
hình thức.
“Văn chuyên chú ở con người” chính là loại hình văn chương viết lên từ cuộc sống của
con người, hướng đến con người, “làm cho người gần người hơn” (Đời thừa – Nam Cao). Ở
đây là các yếu tố hình thức là sự phát tiết anh hoa một cách tự nhiên, không cố ý. “Vọt lên từ
suối là nước, từ tim người là máu” (Lỗ Tấn).
Như vậy đại ý của câu nói của họ Nguyễn là : Văn chương có giá trị khi lấy đề tài cảm
hứng từ con người và vì con người.

Đầu tiên Nguyễn Văn Siêu nói “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ”.
Ông thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì tốt lành cho con người,
văn chương như thế là loại “không đáng thờ” không đáng để đọc, để học hỏi. Văn chương là
gì nếu không nói về con người, về nhân sinh? Văn chương đầu cần đến những người thợ mà
văn chương chỉ cần những khối óc của những “kĩ sư tâm hồn”. Văn chương mà chỉ như
những đoá hoa đẹp nhưng hữu sắc mà vô hương, thì nó đâu còn là văn chương nữa. Quan
niệm của Nguyễn Văn Siêu rất giống như Cao Bá Quát đương thời:
“Đáng phàn nàn cho ta đóng chửa mà gọt giũa câu văn
Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ
Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?”
(Đề sát viện Bùi Công, yên đài anh ngữ khúc hậu)
Không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bắt đầu từ lòng thương
cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương “một tấc đến trời” , chỉ là một con sâu bé nhỏ
hèn mọn ngạo mạn lố bịch có những ý nghĩa ngông cuồng, múôn đo cả vũ trụ. Những lời văn
viết ra bằng sự khổ công gọt giũa trong bốn bức tường văn lạnh lẽo sẽ như một sinh vật tự
dưỡng, văn chương thiếu cái mở lòng ra đón những vang động cuộc đời, thiếu sự hô hấp các
dưỡng khí ngoài cuộc sống thì chỉ nhạt nhẽo, bủng beo có chăng chỉ là những đồ lạ mắt ! Họ
Cao cho đó là “đồ con trẻ” là sản phẩm của một đôi tay khéo léo trong tâm hồn rỗng toếch và
giả dối. Anh đóng cửa phòng văn để viết những gì? Trong khi văn chương của anh là kia, là
bầu trời bạt ngàn gió mới, là nắng ban mai hồng tươi sắc ngói. Anh đóng cửa để làm nghệ
thuật, để đuổi bắt nghệ thuật khi nghệ thuật của anh ở ngoài kia, ở ngoài thanh sắc trần gian
đầy sôi động: Anh có biết rằng :
Bài thơ anh làm chỉ một nửa mà thôi
Còn một nửa do mùa thu làm lấy
(Chế Lan Viên)
Văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mĩ làm đích thì thử coi có đáng thờ chăng? “Văn
chương phải có quan hệ với đời” (Ngô Thi Sĩ ) và “ Cuộc đời là nơi đi tới cũng là điểm khởi
đầu của văn chương” (Tố Hữu). Nếu L. Tônxtôi vĩ đại bởi kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình”
thì cũng chính là kết quả của những lần ông xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi chép. Nếu
“đóng cửa phòng văn hì hục viết thì Chiến tranh và hoà bình nó có ra đời không? Nếu không

gắn bó, đau đời Nguuyễn Du có một Đoạn trường tân thanh không?
Văn chương không thể là như thế, văn chương để người ta gần gũi và tôn kính chứ
không phải văn chương “hũ nút” mà người ta có thể “kính nhi viễn chí”. Văn chương như
vậy tuyệt đối là không đáng thờ. Khổng Tử đã từng dạy học trò rằng “Từ đạt nhi dĩ hí”
(nghĩa là : văn từ cần đạt mà thôi, dễ hiểu mà thôi) điều quan trọng là cái “tâm” của người
viết, nghĩa là thực tế, phải sống trong cuộc đời. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu gần giống
như những văn học hiện thực Việt Nam vào giai đọn 1930-1945, lấy con người làm chủ thể
sáng tạo, ngòi bút hướng vào con người.
Cuộc đời cũ vốn cuồn cuộn sóng gió bão táp đau khổ ngày đêm cứ đổ dồn dập vào con
người, vào nhân loại , là “lương tâm của mọi thời đại” (Balzac). “Văn phải chở đạo”, phải
làm cho con người tốt hơn tự hoàn thiện hơn hay ít ra cũng bắt gặp mình trong đó thì đấy
mới là “văn đáng thờ”.
Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn đã viết những ý kiến thật xác đáng: “Người quân
tử đời sau biết chăm học chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở thành người có văn chuơng
ấy là người bậc nhất. Những người tập làm văn chương rồi thấy đươc nghĩa lí trong đó, là
bậc thứ ahi. Còn hạng bét thì chỉ biết có văn chuơng mà thôi”.
Nói đến “Văn chương đáng thờ” Nguyễn Văn Siêu múôn nói đến cái giá trị của văn
chương. Là nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người thì văn chương phải vì con
người, vì cuộc sống con người, là chiếc đũa thần gợi mở trong con người những cái đẹp cái
hay mà triệt tiêu những gì xấu xa, có hại. Văn chương phải hướng đến Chân - thiện- mĩ phải
khơi ở lòng người những tình cảm nhân ái, phải đem đến cho con người một tia nhìn mới. Có
ai đã không từng thấy một thằng say nhâng nháo chửi đời nhưng có ai nhìn ra một anh Chí ao
ứôc một thiên đường lương thiện như Nam Cao chưa? Có ai thấy đựơc thế giới tâm hồn của
A. Q chưa? Và có ai đã nhìn thấy được cái tình yêu cao quý của một “thằng gù” cực kì xấu xí
như Quazimôđô dành cho Extiranđa chưa? Đọc số phận của chàng Quazimôđô hay Chí Phèo
ai mà khôgn nghe dâng lên một tí gì của xốn xanh, của một niềm thương yêu tủi hận như
muốn nghẹn ngào...Và ta khẳng định rằng : Vâng, chỉ có những hình tượng xúc động lòng
người mói là văn chương, còn thuần tuý dùng kĩ thuật chạm trổ cầu kì, làm xiếc ngôn từ để
người ta xem như một trò giải trí, “đọc rồi quên ngay sau lúc đọc” đấy chỉ là “thợ” đàu với
những con chữ, chứ không là nhà văn, nhà thơ. Người ta thường truyền giai thoại cụ Nguyễn

Công Trứ đả kích lối sống sáo rỗng. Ông gặp các thầy cử trên đưòng khoa bảng, theo yêu cầu
của họ, ông ngồi trên lưng bò vàng tủm tỉm đọc “Sông Nhị Hà sâu ba mươi sáu thước. Chim
ăn chưa béo, cá không ăn bay về núi Hồng Sơn. Nhớ thủa xưa vua Thần Nông giá sắt, vua
ĐẾ Thuấn canh vấn. Cùng quăng, cùgn quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại bò vàng chi liếm
lá”. Một mớ ngôn từ vô cùng như thế mà ai cũng cho văn hay ý lạ. Cái tủm tỉm của Tồn Chất
thâm thuý hay thay.
Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đúng song nếu so sánh với quan điểm nghệ thuật của
Thạch Lam - Thế hệ hậu bối của “Thần Siêu” – thì có lẽ nhà văn trẻ này phát biểu toàn diện
hơn : “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay
sự quên, trái lại,văn chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúgn ta có, để vừa
tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc đựơc thêm
trong sạch và phong phú hơn”
Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà cụ Nguyễn Du viết:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài
(Truyện Kiều)
Rõ ràng, thi sĩ Tiên Điền không hề phủ nhận chữ “tài”. Nhưng nếu coi văn học là một
cái cây thì chữ “tài” chỉ là lá cành mà chữ “tâm” kia mới là gốc là ngọn. Cho nên nếu “văn
chương” mà chỉ đơn thuần “chuyên chú ở con người” mà không “chuyên chú ở văn chương”
thì liệu có còn giá trị nữa không? Còn là một bộ môn nghệ thuật nữa chăng?
Có văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng. M.Gorki đã khẳng định :
“Văn học là nhân loại”, ta phải hiểu rằng không thể tách rời văn chương và con người cũng
như tách rời nội dung và hình thức biểu đạt của nó. Đành rằng người ta nói “tốt gỗ hơn tốt
nước sơn” nhưng nếu cả gỗ và nước sơn đề tốt thì sao? Lẽ dĩ nhiên là tốt hơn ! Cho nên nếu
cái đẹp đích thực thì có chăng là ở thế giới của con người, và vì vậy văn chương chân chính (
nghĩa là văn chương của cái đẹp ) là văn chương luôn đi đến con người và thế giới con
người. Văn chương là nghệ thuật, tức là nó đi tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp nhưng không thể có
một cái đẹp thuần tuý lung linh nào ngoài cái thế giới con người. Đề tài cái đẹp văn chương
không cần đâu xa lạ mà ở ngay những giản đơn bình thường nhất. Thực ra, văn chương
chuyên chú ở văn chương và “văn chương chuyên chú ở con người” là hai mặt của một tờ

giấy trắng. “Văn chương chuyên chú ở con người” nhưng không hề quay lưng với cái Đẹp,
và ngược lại. Đỗ Phủ đã từng viết “Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu” ngôn ngữ phải làm cho
người ta kính phục nhưng cái chứa đựng trong ngôn ngữ kia là gì mới là quan trọng. Một tác
phẩm có giá trị thì không bao giờ là một tác phẩm thô vụng về ý thức: Khi anh nhìn thấy
được những gì ẩn chứa sâu xa nhất của cuộc sống, anh đã có một cái tâm vĩ đại thì ắt hản anh
không phải là một con người tầm thường, mà anh biết làm thế nào để nhân laọi này hiểu anh,
hiểu cái “tâm” của anh - Nguyễn Du để lại một Đoạn trường tân thanh tràn ngập lòng nhân
đạo, nhưng ông cũng để lại một công trình nghệ thuật ngôn từ rất đặc sắc phong phú mà nếu
thiếu chúng thì nội dung truyện Kiều chẳng làm say mê bao thế hệ con người.
Ở trên ta bàn đến cái khả năng có thể có sự kết hợp giữa “văn chương chuyên chú ở văn
chương” và “văn chương chuyên chú ở con người”.Nhưng nếu có một ai đó đưa bạn một sản
phẩm và yêu cầu lựa chọn “Đây cái này là tốt gỗ” và đưa một sản phẩm khác bảo là tốt nước
sơn, nếu biết giá trị của một cái hào nhoáng nhưng không ra gì và một cái giản dị nhưng vĩ
đại bạn sẽ chọn bên nào?
Câu hỏi đó có lẽ sẽ là thừa. Cho nên, nếu văn chương chuyên chú ở con người thì dễ có
giá trị hơn, nhưng “văn chương chuyên chú ở văn chương” thì chưa hẳn đã hay vì người ta
chỉ đọc “đọc rồi quên ngay sau khi đọc”.
Cái “tâm” là nguồn nuôi dưỡng để phát huy cái tài. Còn dù có tài đến đâu nếu dửng
dưng trước đồng loại đến số phận con người thì cũng khó làm nên một ánh văn chương có
giá trị. Vì tâm hồn con người không chỉ tiếp thu cái đẹp mà còn lại cái “nhân” rộng lớn, cái
“tình” muôn thuở.
Cho nên, dẫu là gì đi nữa thì “chất” ở bên trong vẫn là yếu tố quyết định. Chữ “tâm” là
động lực là yếu tố cần thiết nhất. Lịch sử văn học đã có ghi những hiện tượng có những
người không hề có ý định làm văn, làm thơ nhưng lại là những người nghệ sĩ lớn, còn có
những nhà văn nàh thơ trọn đời cũng không viết được một câi thơ có giá trị nào dù rất kiên
tâm, rất dày công đẽo gọt ngôn từ.
Ý kiến bạn đọc
1. Khái niệm về thể loại văn học:
- Thể loại văn học là phương thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo văn
bản.

- Ví dụ, cùng viết về đề tài người mẹ trong chiến tranh, Tố Hữu viết về
người mẹ ở hậu phương qua tâm hồn người lính bằng thơ lục bát trữ tình
(Bầm ơi). Con Nguyễn Thi lại viết về một người mẹ, người vợ cụ thể - chị Út
Tịch - đang cùng chồng và đồng bào quê hương cầm súng đánh giặc - bằng thể
ký: “Người mẹ cầm súng”.
2. Sự phân loại tác phẩm văn học:
- Phân loại tác phẩm văn học, chủ yếu theo ba tiêu chí sau:
+ Phương thức tái hiện đời sống, cấu tạo tác phẩm.
+ Loại đề tài, chủ đề.
+ Thể văn.
- Thể loại tác phẩm văn học gồm có:
+ Tự sự.
+ Trữ tình.
+ Kịch.
Thể loại - thể văn
1. Tự sự (kể và tả…), gồm có:
- Truyện đời xưa: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ
ngôn, truyện nôm (thơ).
- Truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài (tiểu thuyết)
- Phóng sự, ký sự, bút ký,…
2. Trữ tình: (tả tâm trạng, cô đúc, giọng điệu, vần điệu,…)
- Ca dao trữ tình, thơ trữ tình, thơ trào phúng.
- Các khúc ngâm, tuỳ bút, trường ca hiện đại.
- Phú, văn tế, thơ ca trù.
3. Kịch
- Sân khấu dân tộc: chèo, tuồng, cải lương.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×