Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Truyền cho lí luận văn học linh hồn của chủ nghĩa Mác là phép biện chứng pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.99 KB, 13 trang )

Truyền cho lí luận văn học
linh hồn của chủ nghĩa Mác là
phép biện chứng

Nhìn vào những cơng trình lí thuyết hiện có ở Việt Nam, nhất là hệ
thống sách giáo khoa, giáo trình đang được sử dụng trong các trường đại
học và cao đẳng từ Bắc chí Nam, mọi người đều thấy, nền lí luận văn học
của chúng ta đã quá già cỗi, xơ cứng, lạc hậu một cách thảm hại. Ai cũng
muốn có sự đổi mới. Mươi mười lăm năm trở lại đây, giới nghiên cứu đã đổ
nhiều tâm trí và giấy mực nhằm đẩy nhanh tiến trình hiện đại hố nền lí
luận văn học nước nhà. Nhưng đổi mới lí luận văn học xem ra chẳng mấy
dễ dàng, không phải là chuyện ngày một ngày hai. Do đâu mà đổi mới lí
luận văn học lại khó đến thế? Nên làm những gì để đổi mới lí luận văn học?
Tơi nghĩ rằng, muốn đổi mới lí luận văn học, nên giải quyết mấy vấn đề cốt
tử sau đây:

1. Thứ nhất: Đổi mới mơ hình lí thuyết, mở rộng hệ quy chiếu của lí


luận văn học(1). Rất dễ nhận ra, nền lí luận văn học của chúng ta được
kiến tạo trên nền tảng của loại mơ hình lí thuyết truyền thống. Các mơ hình
lí luận văn học hiện đại thường dồn trọng tâm lí thuyết vào những phạm trù
bản thể luận nghệ thuật. Nghiên cứu các phương thức tồn tại của văn học
như một nghệ thuật là loại vấn đề quan trọng nhất nằm trong hệ quy chiếu
của nó. Các mơ hình lí luận văn học truyền thống lại thường dồn trọng tâm
vào các phạm trù ngoài văn học, như “tự nhiên”, “đạo”, “ý niệm tuyệt đối”,
“hiện thực”... Hệ quy chiếu của nó chủ yếu là những vấn đề nhận thức luận,
quyết định luận nghệ thuật. Dựa vào sự phân biệt đại quát như thế, tơi đặt
nền lí luận văn học hiện nay của Việt Nam vào hàng ngũ những mơ hình lí
thuyết truyền thống. Có đủ cơ sở tư liệu để chứng minh, đây là mơ hình lí
thuyết được hồn thiện ở Liên Xô và Trung Quốc vào những năm 30 và


những năm 40 của thế kỉ trước. Nó được hồn thiện trên cơ sở những ý
kiến của Mác, Ăngghen, Lênin về văn nghệ.

Ta biết, các vị kinh điển của chủ nghĩa Mác bàn về những vấn đề mĩ
học và văn học nghệ thuật chủ yếu từ góc độ của các nhà triết học, các nhà
hoạt động chính trị - xã hội, chứ khơng phải từ góc độ của các nhà mĩ học.
Chủ nghĩa Mác là một thế giới quan hoàn chỉnh, đồng thời cũng là một hiện
tượng lịch sử. Bởi vì, với tư cách là những nhà hoạt động chính trị - xã hội,
các vị kinh điển của chủ nghĩa Mác phải giải quyết những nhiệm vụ lịch sử
mà thời đại họ đặt ra. Chính Lênin đã nhận xét như thế này về quá trình
phát triển lịch sử của chủ nghĩa Mác: “Những thời điểm lịch sử khác nhau
đã đặc biệt đưa lên hàng đầu khi thì là mặt này, khi lại là mặt khác của chủ
nghĩa Mác. ở Đức vấn đề được đặc biệt đưa lên hàng đầu trước 1848 là
kiện toàn triết học của chủ nghĩa Mác, vào những năm 50 và những năm 60
là học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác”(2). Nhắc lại ý kiến của Lênin để
chúng ta ghi nhớ, rằng di sản của các vị kinh điển chủ nghĩa Mác không
phải là cuốn cẩm nang có thể mở ra tra cứu tất cả các vấn đề mĩ học ở mọi
thời đại.

Thời đại của Mác và Ăngghen là thời kì thống trị của chủ nghĩa duy


tâm lịch sử. Đến thời Lênin, chủ nghĩa duy tâm vật lí lại tấn cơng vào nền
tảng nhận thức luận của chủ nghĩa Mác. Vậy là lịch sử đã đặt trước Mác và
Ăngghen nhiệm vụ kiện toàn chủ nghĩa duy vật “ở bên trên”. Với Lênin, lịch
sử lại đặt ra nhiệm vụ bảo vệ nền tảng chủ nghĩa duy vật “ở bên dưới”.
Chính việc giải quyết những nhiệm vụ lịch sử ấy đã quy định hướng phân
tích, giải thích các vấn đề mĩ học và lí luận văn học của Mác, Ăngghen,
Lênin. Bước ngoặt vĩ đại mà Mác và Ăngghen đã tạo ra cho mĩ học là ở
chỗ, các vị đã chỉ ra cách kiến giải mọi vấn đề của văn học nghệ thuật từ

quan điểm duy vật lịch sử. Tức là các vị đặt nền tảng khoa học cho nhận
thức luận, phản ánh luận nghệ thuật. Phát triển quan điểm của Mác, Lênin
đặc biệt nhấn mạnh bản chất tư tưởng hệ của văn học nghệ thuật. Quan
điểm xem văn học nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc thù, có nguồn
cội từ lao động, ln ln phản ánh tồn tại xã hội, là quan điểm gốc của
Mác, Ăngghen. Lênin lại giải thích các hiện tượng văn học nghệ thuật như
kết quả đấu tranh giữa các khuynh hướng tư tưởng xã hội đương thời,
trong đó, trình độ tự nhận thức của nhân dân và tính tích cực xã hội của
chủ thể sáng tạo giữ vai trò quyết định. Ta hiểu vì sao khi phân tích tác
phẩm của Banzắc, Mác và Ăngghen nhấn mạnh sự chiến thắng của chủ
nghĩa hiện thực đối với thiên kiến tư tưởng của nhà văn. Nhưng khi phân
tích sáng tác của L. Tơnxtơi, Lênin lại đặc biệt chú ý tới sự chiến thắng của
thế giới quan, tới việc Tônxtôi “đã đoạn tuyệt với tất cả các quan niệm thịnh
hành” của cái giai cấp mà ông xuất thân để đến với lập trường nông dân gia
trưởng. Ta cũng hiểu vì sao Mác và Ăngghen chỉ nhắc tới tính khuynh
hướng của văn học nghệ thuật, cịn Lênin là tác giả của bài báo nổi tiếng
Tổ chức đảng và văn học mang tính đảng (1905).

Vào những năm 30, 40 của thế kỉ trước, tinh thần thực tiễn và tính
chiến đấu trong quan điểm mĩ học của Mác, Ăngghen, Lênin có sức hấp
dẫn to lớn đối với lí luận văn nghệ Mac-xit. Dựa vào những ý kiến về văn
học nghệ thuật của các vị kinh điển chủ nghĩa Mác, lí luận mĩ học và nghệ
thuật ở Liên Xơ, Trung Quốc, tiếp theo là ở Việt Nam và các nước xã hội
trước kia đã xây dựng một mơ hình lí thuyết mà hệ quy chiếu của nó là các


vấn đề phản ánh luận, nhận thức luận và tư tưởng hệ. Hệ quy chiếu của
nền lí luận được kiến tạo theo mơ hình truyền thống này đã mở ra một
trường nhìn vào thế giới văn học mà các hệ thống lí thuyết được xây dựng
trên nền tảng của những hệ quy chiếu khác không thể biết tới. Nhưng ở đời

“bỉ sắc tư phong”, cái được thường đi liền với cái mất. Dồn trọng tâm vào
các phạm trù ngoài văn nghệ như “hiện thực xã hội”, “thế giới quan”, “lập
trường tư tưởng”, “quan điểm giai cấp”…, chính hệ quy chiếu của cái mơ
hình lí luận nghệ thuật rất ưu việt kia cũng đã tạo ra thành luỹ ngăn chắn
tầm mắt người ta hướng về phía khác. Quả là khó có thể tìm thấy trong di
sản của Mác, Ăngghen, Lênin những ý kiến phân tích mang tính chất mở
rộng về những vấn đề bản thể luận, hình thái luận của văn học nghệ thuật.
Điều đó khơng có nghĩa là các vị kinh điển không nghĩ tới đặc trưng của
hoạt động thẩm mĩ. Nhưng, như đã nói, Mác, Ăngghen, Lênin bàn về văn
học nghệ thuật chủ yếu từ góc độ triết học, xã hội học và những nhiệm vụ
lịch sử mà thời đại đặt ra. Cho nên, khi phân tích tác phẩm của Hômerơ,
Sêcxpia, Gơt, Banzắc…, Mác và Ăngghen không thể nhấn mạnh những nét
đặc thù của văn học, mà chỉ nhấn mạnh những điểm khiến văn học ở mức
độ này hay mức độ kia giống với các hình thái ý thức xã hội khác. Cũng
như thế, xuất phát từ góc độ tư tưởng hệ và nhận thức luận triết học, Lênin
đặt vấn đề về quan hệ giữa văn học và xã hội, văn học và cách mạng. Là
nhà hoạt động chính trị - xã hội, Lênin đặc biệt coi trọng việc sử dụng văn
nghệ như vũ khí tuyên truyền, tổ chức, giác ngộ cách mạng cho quần
chúng.

Ngày nay, chúng ta nói văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Nhưng khi phân tích tác phẩm văn học, ta chỉ quan tâm tới thế
giới khách quan, mà chưa mấy ai chú ý tới cơ chế hoạt động của phương
diện chủ quan. Nhấn mạnh bản chất tư tưởng hệ, nhiều khi ta qn vai trị
của vơ thức, trực cảm trong văn học nghệ thuật. Tơi ngờ rằng, chưa có nhà
lí luận nào của chúng ta nảy ra trong óc cái ý đồ viết một cuốn sách về tâm
lí học nghệ thuật. Chúng ta nói văn học phản ánh đời sống bằng hình
tượng. Nhưng rõ ràng, chúng ta chưa có lí luận về đặc trưng của phương



thức tư duy này. Ai cũng nói văn học là nghệ thuật ngôn từ, nhưng đặc
trưng của ngôn từ nghệ thuật lại là bình diện mà chúng ta ít hiểu biết nhất.
Ta có nhiều cơng trình viết về lịch sử văn học như một phương diện của
tiến trình lịch sử tư tưởng - xã hội, nhưng chưa có cuốn sách nào viết về
lịch sử văn học như như một tiến trình tự nó. Ta quan tâm nhiều đến trào
lưu, phương pháp sáng tác mà không mấy chú ý tới sự vận động của
phong cách, hoặc cuộc đấu tranh lâu đài, quyết liệt của các thể loại. Nói
theo lời của M. Bakhtin, chúng ta bỏ qúa nhiều công sức vào việc nghiên
cứu cái bề mặt “ồn ào”, “sặc sỡ”, nên bỏ quên “những nhân vật cơ bản
nhất”, “chính yếu nhất” của “tấn kịch văn học”. Cho nên, giữa lí luận nghệ
thuật với thực tiễn nghiên cứu và sáng tạo nghệ thuật thấy xuất hiện một hố
sâu ngăn cách ngày một lớn hơn. Ta hiểu vì sao, giới phê bình, giới nghiên
cứu lịch sử văn học, nhất là giới sáng tác, nếu khơng chê bai, bài bác, lạnh
nhạt thì cũng thường tỏ thái độ “kính nhi viễn chi” đối với lí luận văn học.

Đã đến lúc phải đổi mới mơ hình lí thuyết ngót nghét một trăm năm
tuổi. ở phương Tây, người ta cũng thường xun tìm cách đổi mới các mơ
hình lí luận văn học. Để đổi mới lí thuyết văn học, các trường phái hậu hiện
đại có vẻ như muốn quay lại với những nguyên tắc truyền thống. Tôi không
tán thành cách làm siêu hình, lấy sự cực đoan này thay thế cho một sự cực
đoan khác, đem một mô hình lí thuyết này thay thế cho một mơ hình kia.
Bởi vì làm như thế khơng bao giờ có được sự đổi mới chân chính. Trong
thế giới hiện đại hơm nay, muốn mở đường cho tư suy sáng tạo và tư duy
khoa học, mĩ học và lí luận nghệ thuật phải mở rộng các hệ quy chiếu, dân
chủ hoá tri thức để có thể nhìn vào thế giới văn học từ nhiều bình diện,
nhiều góc độ khác nhau.

2. Thứ hai: Giải phóng lí luận thốt khỏi ý thức thẩm mĩ và quan niệm
nghệ thuật về một nền văn học chức năng. Xu thế vận động của tiến
trình văn học bao giờ cũng chịu sự chi phối trực tiếp bởi ý thức thẩm mĩ và

quan niệm nghệ thuật của thời đại. Quan niệm nghệ thuật và ý thức thẩm
mĩ của thời đại là hiện tượng phức tạp, không thuần nhất, tồn tại dưới nhiều


hình thức. Nó tồn tại trong tư duy sáng tạo của nhà văn, nhà thơ. Nó hiện
hữu trong cách đánh giá, giải thích các hiện tượng nghệ thuật của giới
nghiên cứu, phê bình văn học. Nó có mặt trong hoạt động tiếp nhận văn
học của cơng chúng độc giả. Lí luận văn học như một hệ thống khoa học
nghiêm ngặt chỉ là nơi thể hiện tập trung nhất, trực tiếp nhất ý thức thẩm mĩ
và quan niệm nghệ thuật của thời đại. Chính ý thức thẩm mĩ và quan niệm
nghệ thuật của mỗi thời đại là nền tảng để kiến tạo ra các mơ hình lí thuyết.
Chừng nào chưa có một cuộc cách mạng làm đổi thay ý thức thẩm mĩ và
quan niệm nghệ thuật của thời đại, chừng ấy chưa thể nói tới việc thay đổi
các mơ hình lí thuyết. Ta hiểu vì sao, có những mơ hình lí thuyết đã trở nên
xơ cứng mà vẫn khơng ai có thể lay chuyển được thành luỹ của nó. Cho
nên, đổi mới ý thức thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của thời đại là một
trong những điều kiện tiên quyết để đổi mới lí luận văn học.

Từ đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại
hoá. Hiện đại hoá văn học thực chất là quá trình giải phóng ý thức thẩm mĩ
thốt khỏi những mục đích vụ lợi trực tiếp của các thể loại chức năng, làm
cho văn học trở thành một môn nghệ thuật có thể tồn tại độc lập. Đó cũng là
q trình giải phóng con người cá nhân và cá tính sáng tạo thoát khỏi sự
ràng buộc của kinh nghiệm cộng đồng và những công thức, luật lệ quy
phạm trong văn học trung đại. Q trình giải phóng này đã tạo nên sự thay
đổi cực lớn, thay đổi tận gốc rễ trong đời sống văn học. Tất cả các thể loại
văn học chức năng và cả những thể loại văn chương tao nhã theo truyền
thống văn học phương Đông, như văn, thơ, phú, lục từng ngự trị nhiều thế
kỉ trên văn đàn, đến đây đều không tránh được sự suy vong và buộc phải
nhường chỗ cho các thể loại văn học mới: thơ, kịch, tiểu thuyết. Nhưng nhu

cầu hiện đại hoá của văn học dân tộc có vẻ như khơng thuận chiều với tiến
trình chung của lịch sử xã hội Việt Nam. Tiến trình chung của lịch sử xã hội
địi hỏi ưu tiên giải quyết cấp bách các nhiệm vụ chiến lược của cuộc cách
mạng dân tộc - dân chủ trước năm 1945, cuộc kháng chiến chống Pháp và
sau đó là cuộc chiến tranh chống Mĩ tiến tới thống nhất đất nước trước năm
1975. Đây chính là nguyên nhân làm bùng nổ nhiều cuộc tranh luận giữa


một bên là những người phát ngôn cho ý thức thẩm mĩ và quan niệm nghệ
thuật hiện đại, với một bên là những người chỉ quan tâm tới chức năng xã
hội và lợi ích trực tiếp của văn học. Trước năm 1945, phái “vị nghệ thuật”
muốn văn chương phải trở thành vương quốc của cái đẹp, nhà văn phải trở
thành nghệ sĩ mà tâm hồn là “cây đàn muôn điệu”. Phái “vị nhân sinh”
khẳng định quyết liệt tính chiến đấu và tính giai cấp của văn học nghệ thuật.
Văn học phải trở thành vũ khí đấu tranh giai cấp, nhà văn phải trở thành
chiến sĩ, dùng “cán bút làm đòn chuyển xoay chế độ. Mỗi vần thơ, bom đạn
phá cường quyền”. ở giai đoạn “nhận đường” của văn học Cách mạng thời
kì đầu kháng chiến chống Pháp cũng diễn ra những xung đột tương tự như
vậy về ý thức thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật. Đây là lời tâm sự của Nam
Cao trong nhật kí ở rừng: “Mỗi ngày ngồi cặm cụi viết bài. Từ bài “phòng”
đến một cái tin vắn đều phải cố viết sao cho thật ngắn, viết xong đưa cho
một chú giao thông Thổ đọc trước, hỏi xem có hiểu cả khơng. Chỗ nào chú
khơng hiểu, viết lại. Chữ nào chú chưa quen, thay bằng chữ khác. (…)
Chiều chiều, các anh các chị Thổ ở các lán chung quanh đến lán chúng tơi
nói chuyện hay đọc báo. Tơi cũng có dịp hiểu trình độ hiểu biết, lời ăn tiếng
nói, cách làm ăn và những băn khoăn mong muốn của họ hơn. Dựa vào
đây tôi uốn nắn lời văn và tìm ra những đầu đề viết. Nói được một điều thiết
thực, đăng được một cái tin làm người ta phải kể lại với nhau, làm được
những câu ca dao thật mộc mạc nhưng không đến nỗi thành vè, viết được
một bài thật ít lời nhưng vẫn đủ ý và đọc lên đàn bà, trẻ con cũng hiểu, tôi

cũng thấy sung sướng như viết được một truyện ngắn chính tơi ưng ý. Đơi
lúc, anh em và chính tơi cũng lo rằng lối viết như vậy có thể làm hỏng lối
văn tiểu thuyết đã có ít nhiều người thích của tơi. (…) Bây giờ đây, tơi thấy
n lịng về những bài viết cỏn con của tơi hơn. Nó chẳng nói được điều gì
sâu sắc lắm đâu. Nhưng nó làm cho người đọc hiểu biết hơn, tin tưởng vào
cuộc kháng chiến của ta hơn, nó đẩy họ cũng hăng hái giúp ích cho cuộc
kháng chiến của tồn dân và gợi cho họ những việc họ có thể làm để giúp
ích cho kháng chiến. Tơi chỉ mong có thế”(3). Đọc lại những lời tâm sự chân
thành của Nam Cao, ta hiểu vì sao trong những cuộc tranh luận ở Việt Bắc,
thơ tự do, thơ không vần bị phê phán gay gắt đến thế. Ta cũng hiểu vì sao
Nam Cao viết Đơi mắt, và vì sao Tơ Hồi gọi truyện ngắn này là “tuyên


ngôn nghệ thuật” của thế hệ nhà văn cùng lứa với Nam cao trong những
ngày đầu tham gia cách mạng và kháng chiến. Tuyên ngôn nghệ thuật
trong Đôi mắt trước hết là tuyên ngôn về chỗ đứng, về thái độ cơng dân của
đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ quyết tâm từ bỏ thói quen sinh hoạt cũ, lập
trường tư tưởng cũ, từ bỏ cả quan niệm về một thứ “nghệ thuật cao siêu”
để phục vụ kháng chiến, phục vụ cách mạng. Trong bản tuyên ngôn ấy, nội
dung văn học được tách ra khỏi hình thức thẩm mĩ để đặt hình thức vào vị
trí thứ yếu; chức năng xã hội được đặt lên trước phẩm chất nghệ thuật để
đồng nhất nghệ thuật với tuyên truyền.

Có cơ sở để chứng minh, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa thốt ra
bên ngồi ý thức thẩm mĩ gắn với quan niệm về một nền văn nghệ chức
năng. Tuyệt đối hoá chức năng “vũ khí tư tưởng”, thường xuyên nhấn mạnh
tính chiến đấu nhắm vào những lợi ích xã hội trực tiếp là đặc điểm nổi bật
của ý thức thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật từng chi phối tồn bộ hoạt
động lí luận và phê bình văn học của chúng ta trong nhiều năm qua. Chính
ý thức thường trực về một nền văn nghệ chức năng đã hướng chúng ta đổ

nhiều công sức để xây dựng một mơ hình lí thuyết dồn trọng tâm vào các
phạm trù ngoài văn học, lấy tư tưởng hệ và nguyên tắc phản ánh hiện thực
làm nền tảng quy chiếu. ở phương diện tiêu cực, khi cơ chế quan liêu bao
cấp ngự trị trong mọi lĩnh vực đời sống, mơ hình lí luận này đã mở đường
cho bệnh sơ lược, công thức trong sáng tạo nghệ thuật, biến sáng tạo nghệ
thuật thành việc ghi chép, minh hoạ cho đường lối, chủ trương và các cuộc
vận động xã hội. Sự hình thành của chủ nghĩa đề tài và bệnh suy tư tưởng
trong văn học có nguồn cội từ đấy. ở phương diện tích cực, mơ hình lí luận
nói trên chỉ cung cấp nền tảng để xây dựng loại hình văn học nghiêm túc,
chính thống, quan phương. Đó là loại hình văn học chỉ nhận thức con người
từ góc độ chính trị, xã hội, miêu tả hiện thực đời sống như những hoạt động
quốc gia, ngày nào cũng “đều là cách mạng”. Nó chỉ biết đến cái hào hùng
và sự cao khiết của tinh thần, mà không mấy quan tâm tới sự phồn tạp của
cuộc sống thường nhật đầy chất văn xi. Nó tỏ ra bất lực khi phải nhận
thức phương diện thế sự nhân sinh, nhất là khi tiếp xúc với thế giới đời tư


đầy phức tạp vốn là nền tảng miên viễn của dịng đời sinh hố hồn nhiên.
Cho nên, sau 1975, khi chiến tranh kết thúc, nền văn học dân tộc chuyển từ
loại hình sử thi qua loại hình thế sự và tiểu thuyết, người ta nhận ra ngay
sự bất cập của lí luận văn học Việt Nam.

Có những lúc lịch sử đặt con người vào tình thế buộc nó phải lựa
chọn, phải hi sinh. Sáu mươi năm trước, ghi nhật kí ở rừng, Nam Cao tự an
ủi: “Sao tôi lại không thể dằn cái ý muốn kiêu căng của tôi xuống, để góp
sức vào cơng việc “khơng nghệ thuật” lúc này chính là để sửa soạn cho tơi
một nghệ thuật cao hơn”(4). Chiến tranh giờ đây đã lùi xa vào quá vãng, đất
nước đã thống nhất, cuộc sống trở lại với những quy luật thường nhật, thời
đại cho ta những điều kiện đủ để xây dựng “một nghệ thuật cao hơn”, mà
khơng địi hỏi nghệ sĩ phải dồn sức vào những việc “khơng nghệ thuật”. Tơi

muốn nói, đã đến lúc có thể giải phóng lí luận văn học thốt khỏi ý thức
thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật về một nền văn học chức năng gắn với
những lợi ích xã hội trực tiếp. Đó là điều kiện để đổi mới lí thuyết, làm cho lí
thuyết trở thành mũi nhọn khoa học có sức mạnh đặc biệt.

3. Thứ ba: Lí luận văn học phải trở thành một khoa học. Trên phạm vi
toàn thế giới, trước thế kỉ XVII, tất cả các hệ thống lí luận văn học đều chưa
phải là khoa học đúng với ý nghĩa hiện đại của nó. Bởi vì, từ thế kỉ XVII đổ
về trước, quan niệm lịch sử về tiến trình văn học chưa xuất hiện. Tư duy lí
thuyết của nhân loại chưa nhận ra lịch sử văn học là một tiến trình vận động
tự nhiên, khơng lặp lại. Khi sự tiến hoá của văn học chưa được phát hiện,
thì lí thuyết khơng thể tách khỏi tiến trình lịch sử để nghiên cứu văn học như
một đối tượng có thể xem xét, khám phá bằng cái nhìn từ phía bên ngồi.
Nói lí luận văn học từ thế kỉ XVII đổ về trước chưa thực sự trở thành khoa
học là với ý nghĩa như thế. Quả vậy, ở thời cổ đại, lí luận văn học và mĩ học
chưa tách khỏi cái cây trí tuệ chung của nhân loại. Tư duy nguyên hợp và
phép biện chứng tự phát không cho phép Platôn và Aritxtôt, những đại biểu
xuất sắc nhất của mĩ học cổ đại, cảm nhận văn học như một tiến trình
khơng ngừng vận động và phát triển. Các nhà lí luận Phục hưng cũng


khơng nhìn thấy hoạt động sáng tạo ở thời đại họ đã mở ra một giai đoạn
mới trong lịch sử phát triển của nghệ thuật nhân loại. Họ không xem thời
đại Phục hưng là thời đại mới. Trong ý thức của họ, đây chỉ là thời đại trở
về với những giá trị, những cội rễ đích thực của đời sống, thời đại hồn
ngun của những chuẩn mực từng có từ thời cổ đại, nhưng đã bị phôi pha,
nghiêng lệch trong suốt đêm trường trung cổ. Cho nên, mĩ học Phục hưng
thường đối chiếu, so sánh văn học đương đại với văn học cổ đại, nhưng đó
khơng phải là sự đối sánh khoa học. Người ta so sánh chẳng qua là để kêu
gọi nghệ thuật đương đại mô phỏng cổ đại, xem nghệ thuật cổ đại là chuẩn

mực để phân tích, đánh giá, điều chỉnh hoạt động sáng tạo nghệ thuật của
thời đại mình. Thế kỉ XVII vẫn chưa nhận ra nghệ thuật cổ đại có thể trở
thành đối tượng nghiên cứu lịch sử. Mĩ học của chủ nghĩa cổ điển ở thế kỉ
XVII đề cao vai trò tối thượng của lí trí. Boalơ và các nhà lí luận của chủ
nghĩa cổ điển không khái quát những nguyên tắc mĩ học từ chất liệu của
thực tiễn nghệ thuật, mà có tham vọng lập pháp, áp đặt cho nghệ thuật
những chuẩn mực quy phạm. Trong cuốn Nghệ thuật thơ ca, Boalô đưa ra
nguyên tắc mô phỏng tự nhiên, mô phỏng cổ đại, xem đó như là điều kiện lí
tưởng để tạo ra những tác phẩm hoàn thiện.

Phải đến thế kỉ XVIII, mĩ học và lí luận văn học mới thực sự trở thành
khoa học. Cách mạng tư sản Pháp đã thắp lên ngọn lửa có khả năng soi
sáng tồn bộ lịch sử nhân loại. Dưới ánh sáng của nó, người ta thấy rõ, ở
những thời đại khác nhau, nhân loại sinh sống rất khác nhau; lịch sử là một
tiến trình và nghệ thuật cũng là một tiến trình. Quan điểm lịch sử về thế giới
bắt đầu hình thành. Đến khi triết học và mĩ học Hêghen xuất hiện thì quan
điểm lịch sử về tiến trình văn học thực sự được hồn thiện. Xuất phát từ lập
trường duy vật biện chứng, các vị kinh điển của chủ nghĩa Mác đã đưa ra
những kiến giải sâu sắc về bản chất, quy luật của tiến trình văn học như
một bộ phận của quá trình lịch sử xã hội. Quan điểm lịch sử về tiến trình
văn học mở đường cho các khoa học về văn học phát triển rực rỡ. Từ ngữ
văn học, các bộ phận phê bình văn học, lịch sử văn học và lí luận văn học
lần lượt tách ra trở thành những lĩnh vực hoạt động độc lập. Thế kỉ XX đánh


dấu bước phát triển có tính chất bước ngoặt của lí luận văn học: từ chủ
nghĩa hiện đại chuyển qua giai đoạn hậu hiện đại. Nhiều trường phái, nhiều
khuynh hướng thi nhau đưa ra những hệ thống lí thuyết hết sức độc đáo về
văn học nghệ thuật.


Có thể khái quát lại như thế này. Từ thế kỉ XVII đổ về trước, phép
biện chứng tự phát và tư duy siêu hình chỉ cho phép lí luận văn học xem
văn học là đối tượng tác động. Cho nên, lí luận văn học bao giờ cũng thấy
nó có sứ mệnh định chế, lập pháp, đưa văn học vào khuôn phép, luật lệ.
Cũng bởi thế, tính quy phạm là đặc điểm chung của các hệ thống lí luận
văn học thời cổ đại, Phục hưng và cổ điển chủ nghĩa. Từ thế kỉ XVIII, phép
biện chứng lịch sử buộc lí luận văn học xem văn học là đối tượng nghiên
cứu, cần phải phân tích, giải thích bằng cái nhìn từ bên ngồi. Lí luận văn
học nhờ thế trở thành khoa học. Nó vừa là lí thuyết lịch sử văn học, có
nhiệm vụ khái quát các khái niệm, phạm trù phản ánh bản chất, quy luật
vận động của tiến trình văn học, vừa là lí thuyết phương pháp, có chức
năng đề xuất hệ thống nguyên tắc, thao tác, thủ pháp tiếp cận văn học với
những cấu trúc và phương thức tồn tại đặc thù của nó.

Nền lí luận văn học hiện đại Việt Nam cịn vơ cùng non trẻ. Như đã
nói, đó là một mơ hình lí thuyết được kiến tạo trên nền tảng những ý kiến
của các vị kinh điển chủ nghĩa Mác về văn học nghệ thuật. Trong mơ hình lí
thuyết ấy, ý kiến của các vị kinh điển khơng cịn là đối tượng khảo cứu lịch
sử, mà đã được biến thành những chân lí duy nhất đúng, những nguyên lí
bất di bất dịch của văn học nghệ thuật. Chẳng hạn, trong thực tiễn sáng tạo,
văn học có thể thiên về sự biểu hiện tư tưởng, tình cảm. Nhưng dựa vào ý
kiến của các vị kinh điển, hệ thống lí luận của chúng ta chỉ thừa nhận
nguyên lí văn học phản ánh hiện thực. Hoặc tính giai cấp vốn chỉ là một
hình thái lịch sử của nhân tính, nhưng lí luận văn học của chúng ta lại xem
nó giống như là thuộc tính trường cửu của văn chương. Không phải ngẫu
nhiên, suốt một thời gian dài, sách mĩ học và lí luận văn học viết theo quan
điểm Mác xit thường được gọi là sách “nguyên lí”:Nguyên lí mĩ học Mác -


Lênin, Ngun lí lí luận văn học... Hình như để phù hợp với nội dung của

những “nguyên lí”, sách lí luận văn học của chúng ta thường sử dụng ngôn
ngữ chính luận nhiều hơn là ngơn ngữ khoa học. Có thể tìm thấy trong
nhiều cuốn giáo trình lí luận văn học đang được sử dụng giảng dạy ở hệ
thống các trường đại học, cao đẳng của chúng ta tên gọi các chương mục
đầy chất chính luận theo kiểu thế này: Kiên trì quan điểm giai cấp, phê phán
“tính người” và “chủ nghĩa thành phần”; Nêu cao lí tưởng nhân đạo chân
chính, vạch trần chủ nghĩa bá đạo và chủ nghĩa nhân đạo giả hiệu; Tiêu
chuẩn tính nhân dân trong tác phẩm văn học…(5). Biến những khái quát lí
thuyết vốn dĩ mang tính lịch sử của các vị kinh điển chủ nghĩa Mác thành
những “nguyên lí”, thực chất là biến lí luận văn học thành bộ phận có chức
năng định chế, lập pháp cho văn học nghệ thuật. Đây là nguyên nhân khiến
cho hệ thống lí luận văn học hiện đại cịn rất non trẻ của chúng ta khó tránh
khỏi tính quy phạm và bệnh công thức, giáo điều.

Sự thật là, lí luận văn học của chúng ta vẫn đang nói nhiều câu
chuyện rất cũ, theo những cung cách rất cũ. Khơng thể phủ nhận sự non
nớt về trình độ khoa học, mỗi khi câu chuyện đụng chạm tới chất lượng
trong nhiều cơng trình lí luận văn học của chúng ta. Muốn xây dựng một
nền lí luận văn học ngang tầm thời đại, khơng thể khơng giải phóng lí thuyết
thốt khỏi chức năng lập pháp nghệ thuật để lí luận văn học thực sự trở
thành khoa học mũi nhọn của nghiên cứu văn học(6).
*
Nền lí luận văn học Việt Nam được xây dựng trên nền tảng những ý
kiến của Mác, Ăngghen, Lênin về văn học nghệ thuật, mà hình như vẫn còn
thiếu linh hồn của chủ nghĩa Mác. Linh hồn của chủ nghĩa Mác là phép biện
chứng. Hãy thổi linh hồn ấy vào nền lí luận văn học của chúng ta để truyền
cho nó sự sống. Phép biện chứng nghiên cứu sự vật trong những mối liên
hệ phổ biến. Nó địi hỏi mở rộng hệ quy chiếu của lí luận văn học để đổi
mới một mơ hình lí thuyết đã trở nên xơ cứng. Giải phóng lí luận văn học
thốt khỏi ý thức thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật về một nền văn học

chức năng cũng là nhu cầu cấp bách của phép biện chứng, vì phép biện


chứng khẳng định quy luật vận động nội tại của mọi sự vật, hiện tượng.
Phép biện chứng là phương pháp tư duy khoa học. Cần giải phóng lí luận
văn học thốt khỏi chức năng lập pháp nghệ thuật để nó có thể trở thành
một khoa học đúng với ý nghĩa đích thực của từ ấy. Phép biện chứng là sản
phẩm của nền văn hoá, văn minh hiện đại. Truyền linh hồn phép biện
chứng của chủ nghĩa Mác cho lí luận văn học, chắc chắn, là công việc
không phải của riêng ai./.



×