Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Văn hóa kinh doanh trong các doanh nghiệp nhật bản ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.01 KB, 115 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Viết Lộc đã tạo mọi điều
kiện, động viên, hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn này. Trong suốt
quá trình nghiên cứu, thầy đã kiên nhẫn hướng dẫn, trợ giúp và động viên tôi rất
nhiều. Sự hiểu biết sâu sắc về khoa học, cũng như kinh nghiệm của thầy chính là
tiền đề giúp tôi đạt được những thành tựu và kinh nghiệm quý báu.
Xin được trân trọng cảm ơn các thày, cô giáo ở Khoa Quản trị kinh doanh,
Phòng Đào tạo, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập tại nhà trường và nghiên cứu, thực
hiện luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn bạn bè và gia đình đã luôn cổ vũ, động viên tôi vượt
qua những khó khăn để hoàn thành tốt luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

1


LỜI CAM ĐOAN
Đề tài này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu có
tính độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố nội
dung bất kỳ ở đâu; các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận văn được chú thích
nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của tôi.
Hà Nội, ngày 27 tháng 10 năm 2015
Tác giả

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT



Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1

CĐTNN

Cục Đầu tư nước ngoài

2

DN

Doanh nghiệp

3

ĐĐKD

Đạo đức kinh doanh

4

KCN

Khu công nghiệp

5


KTTT

Kinh tế thị trường

6

MKT

Marketing

7

ODA

Vốn viện trợ không hoàn lại

8

TLKD

Triết lý kinh doanh

9

VHDN

Văn hóa doanh nghiệp

10


VHKD

Văn hóa kinh doanh

11

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới

3


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ

4


5


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ 21 với xu hướng toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ tác động tới nhiều

khía cạnh như kinh tế,văn hóa,xã hội,chính trị … đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế,với
sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) giúp cho việc tự do thương mại
giữa các nước ngày càng phát triển.Việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của WTO (ngày 11-1-2007) càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp
(DN) tham gia đầu tư vào Việt Nam. Trong bối cảnh cạnh tranh giữa các DN ngày
càng khốc liệt, dù là DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI),hay DN trong nước, để có
thể tồn tại và phát triển bền vững trên thị trường, yêu cầu các DN phải xây dựng
được một nền văn hóa kinh doanh (VHKD) có tính thích nghi cao.

Sau gần 30 năm đổi mới hội nhập nền kinh tế thế giới,đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng. Theo thống kê của CĐTNN tính đến
20/06/2015 Việt Nam đã có 103 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt
Nam với 18.529 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là 257,8 tỷ USD.
Kể từ khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 21
tháng 9 năm 1973,trong vòng 40 năm qua,quan hệ giữa hai nước Việt Nam và
Nhật Bản luôn có những bước phát triển tiến bộ vượt bậc trên nhiều lĩnh vực
từ kinh tế,chính trị đến văn hóa. Hai nước đã đưa quan hệ lên tầm đối tác
chiến lược toàn diện. Viện trợ ODA của chính phủ Nhật Bản dành cho Việt
Nam liên tục tăng lên.Trong lĩnh vực quan hệ kinh tế, số lượng doanh nghiệp
Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng,đến thời điểm hiện tại
Nhật Bản là nhà đầu tư thứ 2 sau Hàn Quốc vào Việt Nam ,có khoảng hơn
1100 doanh nghiệp Nhật Bản với 2.661 dự án còn hiệu lực, với tổng số vốn
đầu tư là 37,7 tỷ USD.Số lượng doanh nghiệp tập trung ở các khu công
nghiệp chiếm số lượng lớn góp phần tạo ra được hàng nghìn việc làm cho lao
động Việt Nam.Có thể nói,các DN FDI Nhật Bản là một thành phần quan
6


trọng của nền kinh tế và xã hội Việt Nam .Các DN Nhật Bản khi vào tiến
hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam đã phát huy được các thế mạnh trong

bản sắc kinh doanh của mình trong việc mang tới các sản phẩm và dịch vụ tốt
tới khách hàng.Mặc dù vẫn còn có một số vấn đề đã xảy ra gây ảnh hưởng
đến hình ảnh của DN Nhật Bản như đình công ở một số khu công
nghiệp(KCN) lớn,hoạt động chuyển giá,tiếp tay cho tham nhũng ở VN trong
sử dụng nguồn vốn ODA , hầu hết các DN tuân thủ theo đúng pháp luật nước
sở tại,thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội của DN ,tạo môi trường lao động
mang lại nguồn thu nhập và phúc lợi xã hội ổn định cho người lao động,qua
đó cũng góp phần giúp cho DN phát triển ổn định.
Vậy những yếu tố tạo nên thành công của các DN Nhật Bản ở Việt
Nam là gì ?Tại sao DN Việt Nam ta lại không có được sự thành công ngay
trên sân nhà cũng như khó tiếp cận và đáp ứng được các yêu cầu của doanh
nghiệp Nhật Bản? Nguyên nhân là do đâu? Có phải là do sự khác biệt về
VHKD giữa hai quốc gia hay không? Để tìm ra câu trả lời cho những vấn đề
này,theo tác giả cần phải tìm hiểu,phân tích rõ về VHKD của các doanh
nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam để các DN Việt Nam có thể hiểu được bài học
thành công của DN Nhật Bản và qua đó rút ra những giá trị tham khảo cho
mình.Từ đó giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận dễ dàng hơn với
doanh nghiệp Nhật Bản.Ngoài ra,tác giả cũng xác định đây là cơ hội tốt để
vận dụng những kiến thức đã được đào tạo vào thực tiễn,phù hợp với chương
trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Quản trị kinh doanh tại trường đại học
Kinh tế-Đại học quốc gia Hà Nội.Đó là những lý do tác giả chọn đề tài :
“Văn hóa kinh doanh trong các doanh nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam” để
nghiên cứu và làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

7


2.1 Mục đích nghiên cứu luận văn
Căn cứ vào cơ sở lý luận về văn hóa kinh doanh của các DN Nhật Bản ở Việt

Nam, tác giả nghiên cứu thực trạng về VHKD của các DN Nhật Bản ở Việt Nam và
tìm ra mô hình VHKD của các DN Nhật Bản ở Việt Nam từ đó đề xuất giải pháp
đóng góp nhằm hoàn thiện VHKD của các DN Nhật Bản ở Việt Nam.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
-Hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về VHKD trong các DN Nhật Bản ở
VN.
-Phân tích thực trạng của VHKD trong các DN Nhật Bản ở VN
-Đưa ra một số gợi ý giải pháp tham khảo cho các DN Nhật Bản cải thiện
VHKD khi kinh doanh ở Việt Nam và rút ra những giá trị tham khảo trong xây
dựng VHKD của DN Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là VHKD Nhật Bản,cụ thể hơn đi sâu vào
nghiên cứu VHKD trong các DN Nhật Bản tại VN.
Đối tượng khảo sát là các DN Nhật Bản tại VN.
3.2.Phạm vi nghiên cứu
+Về nội dung :VHKD được nghiên cứu dưới góc độ nghĩa rộng, là toàn bộ các
nhân tố văn hóa trong hoạt động kinh doanh của DN.
+Về không gian : Do điều kiện nghiên cứu có hạn, tác giả sẽ tập trung nghiên
cứu VHKD của các doanh nghiệp Nhật bản trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tác giả
sẽ tập trung vào các doanh nghiệp Nhật Bản thuộc các khu công nghiệp, khu chế
xuất trên địa bàn thành phố Hà Nội.
+Về thời gian :Nghiên cứu các số liệu tổng hợp trong thời gian từ 2012-2014.
Số liệu mới được điều tra thu thập chủ yếu trong năm 2015.

4. Dự kiến đóng góp mới của đề tài

8



-Hệ thống được các vấn đề lý luận và thực tiễn VHKD trong các DN
Nhật Bản ở Việt Nam
-Làm rõ thực trạng của VHKD trong các DN Nhật Bản ở Việt Nam
-Đưa ra một số giải pháp tham khảo cho các DN Nhật Bản khi xây dựng
VHKD ở Việt Nam và rút ra những giá trị tham khảo trong xây dựng VHKD của
DN Việt Nam.

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn dự kiến được chia làm 4 chương như sau :
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu,những vấn đề lý luận và thực tiễn
của VHKD trong các DN Nhật Bản ở Việt Nam.
Chương 2: Phương pháp và thiết kế nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng VHKD của các DN Nhật Bản ở Việt Nam
Chương 4: Một số gợi ý giải pháp cải thiện VHKD trong các DN Nhật Bản ở
Việt Nam

9


CHƯƠNG 1 :
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VĂN HÓA KINH DOANH TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP NHẬT BẢN Ở VIỆT NAM.
1.1.Tình hình nghiên cứu
1.1.1 Nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu về VHKD nói chung và VHKD của các DN FDI được nhiều nhà
nghiên cứu tại Việt Nam quan tâm.Các nghiên cứu trong nước hiện nay chủ yếu đề
cập đến các vấn đề như: lý luận về VHKD, nghiên cứu về VHKD của một số tập
đoàn, DN trong và ngoài nước, vùng miền hoặc đặc trưng của một vài quốc gia.

Những nghiên cứu này ngoài việc cung cấp những lý luận cơ bản về VHKD thường
đề cập đến những yếu tố có tác động và ảnh hưởng tới VHKD như: nền tảng văn
hóa dân tộc, tư tưởng truyền thống dân tộc, cơ chế, chính sách của nhà nước và môi
trường văn hóa xã hội. Một số nghiên cứu khác có đưa ra những giải pháp, gợi ý
chính sách xây dựng VHKD của Việt Nam. Ngoài ra, còn có những nghiên cứu về
VHKD ảnh hưởng đến vấn đề đạo đức trong kinh doanh của các DN.
Về những nghiên cứu về lý luận VHKD đã hệ thống khá đầy đủ về các cơ sở
hình thành, khái niệm về triết lý kinh doanh,đạo đức kinh doanh,văn hóa doanh
nhân,đặc điểm, đặc trưng, các mô hình, các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng... như
các nghiên cứu của các tác giả: Phạm Xuân Nam (1996), Nguyễn Hoàng Ánh
(2002), Dương Thị Liễu và các tác giả (2008), Phùng Xuân Nhạ(2011), Đỗ Minh
Cương (2010)... đã nghiên cứu sâu sắc về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế
,kinh doanh.Các nghiên cứu tiêu biểu đề cập đến những yếu tố ảnh hưởng tới
VHKD qua đó đưa ra những gợi ý và giải pháp cho việc xây dựng và phát triển
VHKD có công trình nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Ánh (2004), Đỗ Minh Cương
(2001), Trần Quốc Dân (2008), Hoàng Huy Hòa, Nguyễn Đại Lai, Nguyễn Thị
Hoài (2007), Đào Duy Quát, Vũ Tiến Lộc, Nguyễn Hữu Thọ (2007), Hoàng Văn
Hoa (2010), Đỗ Minh Cương(2013)....Tuy nhiên,một số tác giả vẫn còn có các quan

10


điểm khác nhau trong một số vấn đề ví dụ như là về các yếu tố cấu thành VHKD do
chưa có sự thống nhất về khái niệm,đặc trưng của VHKD.
Về nghiên cứu về VHKD của các DN nước ngoài nói chung và về VHKD của
các DN Nhật Bản ở Việt Nam nói riêng đã có những công trình nghiên cứu về
VHKD của một tập đoàn hay một DN ,cá nhân cụ thể,trong đó tập trung nghiên
cứu ảnh hưởng của các nhân tố văn hóa tới hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp,hay văn hóa ứng xử đặc trưng của mỗi nước(Nguyễn Văn Dân-2006;Phạm
Mai Hương-2005,).Cũng có nghiên cứu bước đầu đã chỉ ra được một số nét đặc

trưng trong VHKD của Nhật Bản và đưa ra những gợi ý cho DN Việt Nam(Đào Thị
Lơn, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Quang Tú, Đinh Hữu Hải-2009;).Một số nghiên
cứu khác mang tính tổng thể về chính trị,lịch sử,văn hóa nước Nhật(Vĩnh Sính2014);Tìm hiểu về con người Nhật Bản(Trần Minh Tiết-2015) hay về quá trình Duy
Tân của Nhật Bản(Đào Trinh Nhất-2015),kinh nghiệm của Nhật Bản(Võ Văn Sen2009)
Một số tác giả khác tập trung phân tích ảnh hưởng của cơ chế ,chính sách,ảnh
hưởng của các yếu tố môi trường đầu tư,thu hút vốn đầu tư nước ngoài(Phùng Xuân
Nhạ-2006;Lê Quý Đức-2005).Các nghiên cứu đã đề xuất được một số giải pháp để
cải thiện môi trường kinh doanh,phát huy vai trò các nhân tố của VHKD,tuy nhiên
mới dừng lại ở các ý kiến riêng lẻ mà chưa xây dựng thành hệ thống,cơ chế,chính
sách,giải pháp cụ thể.
1.1.2 Nghiên cứu ngoài nước
VHKD đã được các nhà nghiên cứu nước ngoài nghiên cứu từ những năm 70
của TK trước, tuy nhiên phải đến cuối TK 20, VHKD mới là đối tượng được chú ý
và nghiên cứu nhiều khi mà những yếu tố văn hóa ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh doanh của DN.
Một số nghiên cứu như của G.Hofstede (1994) đưa ra những lý luận về VHKD
trong đó chủ yếu nói đến ảnh hưởng của VHKD Phương Tây đến hiệu quả hoạt
động kinh doanh,về đạo đức kinh doanh của Farrell, O.C, Fraedrich, J.& Farrell, L.

11


(2002). Ngoài ra các công trình nghiên cứu về VHKD của T.Peter&R.Waterman
(1996) P.Duckle (1989), Fons Trompenaars ,Charles Hampden - Turner (1998) đi
vào nghiên cứu các yếu tố cấu thành và vai trò của các nhân tố văn hóa như hệ
thống các nhân tố và giá trị văn hóa, hệ thống các giá trị VHDN, doanh nhân...và
những tác động cũng như ảnh hưởng của giá trị những nhân tố văn hóa đến hoạt
động kinh doanh và hoạt động kinh doanh trong môi trường quốc tế hóa,kinh doanh
trong môi trường đa văn hóa, bốicảnh toàn cầu hóa(Thomas L.Friedmen-2007; Fons
Trompenaars&Charles Hammpden-Turner-2006),hay những tác động của văn hóa

vào kinh doanh và đưa ra những bộ công cụ cho các nhà quản lý khi làm việc với
các nền văn hóa(Trompenars, F. and Wooliams-2004),văn hóa tổ chức và lãnh
đạo(Edgar H.Schein)...
Nghiên cứu của nước ngoài về VHKD của các DN Nhật Bản,tương tự như một
số nghiên cứu trong nước,có một số công trình nghiên cứu ,phân tích về văn hóa
kinh doanh,phương thức kinh doanh,những giá trị tạo nên chất lượng Nhật Bản của
một số tập đoàn ,cá nhân tiêu biểu (Jeffrey K.Liker-2003),hay qua các tác phẩm tự
sự của những người sáng lập nên những tập đoàn nổi tiếng của Nhật Bản cho thấy
được quá trình hình thành và phát triển của công ty,nhân cách của những nhà sáng
lập (Akio Morita-2014;Honda Shoichiro-2006;Inamori Kazuo-2013).Nghiên cứu về
nguồn gốc và hoạt động thực tiễn của các công ty Nhật Bản(Rodney Clark2014),văn hóa làm việc với người Nhật(John C.Condon&Tomoko Masumoto2015),hay nghiên cứu về những nét văn hóa người Nhật hay dùng trong kinh
doanh(Akihisa Kumayama-1991; Mark Zimmerman-),đạo đức kinh doanh của Nhật
Bản(Noboru Yoshimura,Philip Anderson-1997).
Nhìn chung,nghiên cứu về VHKD trong DN Nhật Bản tại Việt Nam,hiện nay
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện.Một số nghiên cứu đề cập
đến các vấn đề cần lưu ý ,những nét đặc trưng cơ bản về VHKD của các DN hay
con người Nhật Bản, nói chung chứ chưa có sự nghiên cứu riêng biệt về các DN
Nhật Bản tại Việt Nam.Hầu hết mới dừng lại dưới dạng một bài viết,bài phân tích
nhỏ lẻ về một số khía cạnh,đặc điểm văn hóa,phong cách quản lý,điều hành,phương

12


thức kinh doanh,hình thức tiếp thị sản phẩm..Đặc biệt ,thiếu các nghiên cứu về
VHKD của các DN Nhật Bản tại Việt Nam một cách tổng thể mà có thể làm giá trị
tham khảo cho các DN Việt Nam.
1.2.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.2.1 Khái niệm cơ bản
1.2.1.1 Văn hóa kinh doanh
Văn hóa là những sáng tạo của con người và mang lại giá trị cho con

người.Văn hóa hiện diện trong mọi hoạt động của đời sống con người như một yếu
tố không thể thiếu của tổng thể xã hội. Các nhà nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu
những sắc thái văn hóa của các hoạt động như: văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật,
văn hóa giáo dục, văn hóa gia đình... Kinh doanh là một hoạt động đặc thù của con
người, do vậy nó cũng là một phạm trù của văn hóa.
Có khá nhiều quan niệm, định nghĩa về VHKD. Trước khi đi đến một định
nghĩa mang tính khái quát cao, chúng ta khảo sát một số định nghĩa điển hình:
Một số nhà nghiên cứu quốc tế đã đưa ra một số định nghĩa như sau:
- Theo Cavusgil, Knight, Riesenberger quan điểm văn hóa trong kinh doanh
(hay chính là VHKD) được đưa ra trừu tượng như một quá trình những tư duy trí
tuệ cao để điều khiển hành vi trong kinh doanh: “Culture is the collective mental
programming of people. It influences consumer behavior, managerial effectiveness,
and the range of value-chain operations, such as product and service design,
marketing (MKT), and sales. Culture is not inherited, right or wrong, or about
individual behavior. Culture is like an iceberg in that most of its elements and
influence are hidden below the surface” [63, trang 153]. Tác giả tạm dịch: “Văn
hóa (ở đây được hiểu chính là VHKD) là sự lập trình tập hợp trí tuệ của con người.
Nó ảnh hưởng đến hành vi người tiêu dùng, hiệu suất biên, và vị trí trong chuỗi sản
xuất, cụ thể như sản phẩm và cấu trúc dịch vụ, tiếp thị, và bán hàng. Văn hóa
không đơn giản chỉ là sự kế thừa, đúng hay là sai, hay là hành vi cá nhân. Văn hóa

13


giống như một tảng băng mà hầu hết nhân tố và ảnh hưởng của nó đều bị ẩn dưới
bề mặt”.
- TheoVern Terspstra và Kenneth David, tác giả cũng có quan điểm tương
đồng, tuy nhiên định nghĩa của 2 tác giả cụ thể hơn: "bao gồm những nguyên tắc
điều chỉnh việc kinh doanh, việc ấn định ranh giới giữa hành vi cạnh tranh và các
ứng xử vô đạo đức, những quy tắc phải tuân theo trong các thỏa thuận kinh doanh"

[66, trang 14].
-Theo các nhà nghiên cứu của viện Kinh doanh Nhật Bản-Hoa Kỳ(JABA),
“VHKD có thể được định nghĩa như ảnh hưởng của những mô hình văn hóa của
một xã hội đến những thiết chế và thông lệ kinh doanh của xã hội đó” [5, trang13].
Ở Việt Nam,các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số định nghĩa về VHKD như
sau:
- Quan điểm về VHKD trong bài nghiên cứu của PGS-TS Lâm Quang Huyên
về Hội nhập kinh tế khu vực và VHKD: “VHKD (hay kinh doanh có văn hóa) có
nghĩa là hoạt động kinh tế có hiệu quả, đạt năng suất, sản lượng, giá trị cao, giá
thành thấp, sản phẩm đạt chất lượng cao, tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường
trong nước và ngoài nước, làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước” [3, trang 224].
-Theo giáo sư Phạm Xuân Nam: “VHKD là phương pháp kinh doanh bằng
nắm bắt thông tin,ra sức cải tiến kỹ thuật,công nghệ,tiết kiệm nguyên liệu,nhiên
liệu,quan tâm thích đáng đến đời sống vật chất và tinh thần của người lao động,bồi
dưỡng và phát huy tiềm năng sáng tạo của họ trong việc tạo ra những hàng hóa và
dịch vụ có chất lượng tốt,hình thức đẹp,giá cả hợp lý,đáp ứng được nhu cầu của
thị trường,giữ được chữ tín với người tiêu dùng” [22,trang 15].
-Theo giáo sư Nguyễn Duy Quý: “Trong hoạt động kinh doanh có một nền
VHKD thể hiện sự vận động khoa học và kỹ thuật,tổ chức và quản lý kinh doanh,ở
những cách thức giao tiếp và ứng xử trong kinh doanh thương mại”
- Qua các cách tiếp cận như trên ta thấy VHKD đó là sự vận dụng các nhân tố
văn hóa vào trong sản xuất-kinh doanh ,cụ thể là các yếu tố về khoa học,kỹ
thuật,công nghệ,phương thức quản lý sản xuất và dịch vụ để tạo ra sản phẩm đáp

14


ứng được nhu cầu của thị trường về chất lượng và giá thành trên cơ sở những
nguyên tắc giao tiếp, ứng xử trong kinh doanh và thực hiện đúng những quy định
của pháp luật,thể hiện được chữ tín và đạo đức trong kinh doanh,mang lại lợi ích

cho cộng đồng, xã hội. Như vậy, theo các quan điểm này thì VHKD là cách thức mà
DN vận dụng để mang lại lợi ích cho mình và cho xã hội.
Một định nghĩa khác nhận được nhiều chú ý trong việc tiếp cận VHKD từ
phương diện là những nhân tố văn hóa được lựa chọn đưa vào hoạt động kinh doanh
và những nhân tố được tạo ra trong hoạt động kinh doanh của chủ thể kinh doanh là
của PGS.TS Đỗ Minh Cương: “là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong
hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra
trong quá trình kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc
thù của họ…" [15, trang 50].Trên thực tế thì thường không có sự tách bạnh rõ ràng
mà các nhân tố thường đan xen lẫn nhau để tạo nên các yếu tố cấu thành VHKD.
- Theo PGS.TS Phùng Xuân Nhạ: “VHKD là một hệ thống các giá trị,chuẩn
mực,quan niệm và hành vi do chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh
doanh,được thể hiện trong cách ứng xử của họ với xã hội-tự nhiên ở một cộng đồng
hay khu vực nào đó”[11,trang 42]. Theo cách tiếp cận này có thể hiểu là VHKD là
hệ thống các giá trị,chuẩn mực,hành vi được DN và ban lãnh đạo tạo dựng và tích
lũy trong quá trình hoạt động của DN.
- Theo PSG.TS Dương Thị Liễu với sự phát hiện về bản chất của VHKD là
“làm cho cái lợi gắn bó chặt chẽ với cái đúng, cái tốt và cái đẹp” đã đưa ra khái
niệm: “VHKD là toàn bộ các nhân tố văn hóa, được chủ thể kinh doanh chọn lọc,
tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh tạo nên bản sắc kinh
doanh của chủ thể đó” [33,trang 23].
Khái niệm trên đây của PGS.TS Dương Thị Liễu tuy không đề cập một cách
cụ thể đến tác động của VHKD đến các nhân tố trong kinh doanh như sản phẩm,
quan hệ khách hàng…nhưng đã cụ thể hóa và khái quát hóa về một hệ thống các
phạm trù tạo nên VHKD.
Qua các phân tích trên,có thể đưa ra được khái niệm chung vể VHKD như sau:

15



“VHKD là toàn bộ các nhân tố văn hóa, được chủ thể kinh doanh chọn
lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh tạo nên bản sắc
kinh doanh của chủ thể đó”.
Các nhân tố được chọn lọc như là các nhân tố văn hóa xã hội(phong tục,tập
quán,thói quen,giá trị,thẩm mỹ,ngôn ngữ,giáo dục,tôn giáo,vùng miền,..),văn hóa
dân tộc để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh,từ đó chủ thể kinh doanh tạo ra
các nhân tố văn hóa mang tính đặc thù của mình(phong cách,phong thái,hệ giá
trị,mẫu mã sản phẩm,tiêu chuẩn chất lượng,VHDN…) và sử dụng các nhân tố đã
chọn lọc,tích lũy,tạo ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả
kinh doanh,tạo nên bản sắc riêng của DN.
1.2.1.2 Văn hóa doanh nghiệp
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay,văn hóa doanh nghiệp(VHDN) là một khái
niệm được nói đến khá nhiều mỗi khi người ta đánh giá về một doanh nghiệp nào
đó,nó là một dấu ấn,một nét bản sắc riêng của DN.Nó là cái giúp ta phân biệt giữa
DN này với DN khác.VHDN đó là các giá trị văn hóa được gây dựng nên trong quá
trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp,nó trở thành các giá trị ,chuẩn
mực,phương thức hành động của DN đó và những nét văn hóa đó,sẽ là những kim
chỉ nam trong hành động cho nhân viên của DN đó trong quá trình sản xuất kinh
doanh.VHDN là biểu hiện của VHKD,là những giá trị “bề nổi”mà ta có thể nhìn
thấy,cảm nhận thấy qua những quan sát về DN đó.Khi nhắc đến các DN Nhật
Bản,nét văn hóa đầu tiên ta thường thấy là văn hóa cúi chào và trao danh
thiếp,khách hàng được phục vụ với thái độ kính trọng hết mực qua sản phẩm ,dịch
vụ chất lượng,sự tận tâm trong lối nói kính ngữ và những cử chỉ lịch sự.Người ta có
thể thấy ngay sự thể hiện VHDN qua đồng phục công ty,lô gô,biểu trưng hay những
khẩu hiệu(slogan) của doanh nghiệp,qua các yếu tố tạo nên thương hiệu về chất
lượng sản phẩm,thành tích trên thị trường,qua phong cách giao tiếp của DN trong
nội bộ cũng như đối với khách hàng.VHDN nhiều khi thể hiện những nét văn hóa

16



dân tộc,xã hội nơi doanh nghiệp tồn tại,ngoài ra còn là sự đúc kết các yếu tố văn
hóa khác do chủ thể chọn lọc và áp dụng.
Ngày nay, các DN ngày càng chú trọng đến việc tạo dựng cho mình hình ảnh,
dấu ấn riêng, dễ nhận biết trong hệ thống kinh tế hàng triệu DN. VHDN thường
được kết tinh từ chính nền văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội nơi DN tồn tại, tuy
nhiên, VHDN cũng được các chủ nhân DN học hỏi, đúc kết, sáng tạo để đưa vào
thực thi, tạo điểm đặc biệt, khác biệt cho DN của mình.
Có nhiều định nghĩa về VHDN được đưa ra:
-Theo quan điểm của tổ chức lao động quốc tế ILO: “VHDN là sự trộn lẫn
đặc biệt các giá trị, các tiêu chuẩn, thói quen và truyền thống, những thái độ ứng
xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy nhất đối với một tổ chức đã biết” [33,trang
259].
-Edgar Schein-chuyên gia nghiên cứu các tổ chức đã đưa một khái niệm mà
nhiều học giả đã sử dụng trong nghiên cứu của mình: “VHDN là tổng hợp những
quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được trong quá trình giải
quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề với môi trường xung quanh” [33,trang
259].
Hai quan điểm trên cho thấy VHDN là những giá trị được tạo ra trong quá
trình hoạt động của DN,đã trở thành thói quen, thành truyền thống trong DN để xử
lý các vấn đề nội bộ và các vấn đề có liên quan đến DN, tạo cho DN những nét
riêng so với DN khác.
-Theo PGS.TS Phùng Xuân Nhạ: “VHDN là một hệ thống các giá trị(tôn
trọng khách hàng,giữ chữ tín,đề cao con người,coi trọng môi trường…) do doanh
nghiệp sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động kinh doanh,trong mối quan
hệ với môi trường xã hội và tự nhiên của mình.VHDN được hiểu là tập hợp những
niềm tin,mong đợi và giá trị được các thành viên của DN cùng học hỏi và chia sẻ
với nhau,được truyền từ thế hệ nhân viên này đến thế hệ nhân viên khác”.Khái niệm
chỉ ra rằng VHDN hình thành trong quá trình hoạt động và tương tác giữa DN với
môi trường xung quanh DN và được cấu tạo bởi hệ thống các giá trị [18,trang 60].


17


-Theo PSG.TS Dương Thị Liễu: “VHDN là toàn bộ giá trị tinh thần mang đặc
trưng riêng biệt của DN có tác động tới tình cảm,lý trí và hành vi của tất cả các
thành viên DN”.
-Theo nhà nghiên cứu Trần Quốc Dân: “VHDN được hiểu là một hệ thống bao
gồm những giá trị, truyền thống, tập quán, lối ứng xử, nghi lễ, biểu tượng, chuẩn
mực được hình thành trong quá trình xây dựng và phát triển của DN, có khả năng
lưu truyền, tạo nên bản sắc riêng, có tác động sâu sắc tới tâm lý và hành vi của tất
cả các thành viên trong DN” [18, trang 71]. Đây là một khái niệm tương đối bao
quát,tổng hợp được các yếu tố cấu thành VHDN.
Nhìn chung,các định nghĩa đã nêu lên được các yếu tố cấu thành tạo nên đặc
trưng VHDN từ bên trong doanh nghiệp.Tuy nhiên,bản sắc của VHDN còn chịu ảnh
hưởng của những yếu tố bên ngoài DN đó là môi trường văn hóa và những yếu tố
văn hóa hợp thành trong quá trình sản xuất kinh doanh của DN.
Vì vậy,VHDN sẽ bao gồm :
Môi trường văn hóa nội tại của DN
Hệ thống các giá trị của DN
Các nhân tố văn hóa hợp thành trong quá trình sản xuất ,kinh doanh của DN.
Một khái niệm súc tích ,ngắn gọn,khái quát hóa được những khía cạnh
trên,thống nhất với khái niệm về VHKD mà tác giả lựa chọn sẽ là khái niệm cho
VHKD trong luận văn này đó là khái niệm được đưa ra trong cuốn bài giảng VHKD
- Đại học kinh tế quốc dân:
VHDN là toàn bộ những nhân tố văn hóa được DN chọn lọc, sử dụng và
biểu hiện trong hoạt động kinh doanh, tạo nên bản sắc kinh doanh của DN đó.
Các mô hình VHDN hiện nay:
VHDN được hình thành không chỉ bởi yếu tố công nghệ và thị trường , mà
còn bởi ưu tiên văn hóa của lãnh đạo và nhân viên.Sự khác biệt còn do yếu tố vùng

miền,vị trí của DN.Ngay cả các công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia ở
các quốc gia khác nhau cũng có sự khác nhau vì họ luôn gìn giữ logo riêng và các

18


thủ tục kinh doanh riêng.Họ khác nhau căn bản về cấu trúc logic và ý nghĩa hoạt
động chung.
“Có ba khía cạnh về cấu trúc doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định trong việc
xác định VHDN.
Mối quan hệ phổ biến giữa nhân viên và tổ chức.
Hệ thống phân cấp về quyền lực xác định cấp trên và cấp dưới.
Quan điểm chung của nhân viên về số phận,mục đích,mục tiêu và vị trí của họ
trong DN.
Vì vậy,chúng ta cần phân biệt văn hóa theo một chiều,ví dụ như:Khái quát
hóa-cụ thể hóa và chủ nghĩa cá nhân-chủ nghĩa cộng đồng.Khi nhìn vào một
DN,chúng ta cần phải xem xét cả hai chiều,theo mọi góc độ.Chiều hướng để chúng
ta phân biệt mô hình VHDN là:công bằng-trật tự và hướng tới từng cá nhânhướng tới từng nhiệm vụ.” [19, trang 287]
Trong môi trường kinh doanh đa văn hóa hiện nay,các nhà kinh tế đã khái
quát hóa lên bốn mô hình đa văn hóa và chỉ ra những ảnh hưởng của những nền văn
hóa bản địa ảnh hưởng đến từng mô hình như thế nào.Đó là các mô hình :
i)Mô hình văn hóa gia đình;
ii)Mô hình văn hóa tháp Eiffel;
iii)Mô hình văn hóa tên lửa dẫn đường;
iv)Mô hình văn hóa lò ấp trứng.
Mỗi một mô hình VHDN đều là “mô hình lý tưởng”,pha trộn hoặc bao hàm
lẫn nhau với một mô hình văn hóa thống trị.Các thuật ngữ minh họa mối liên hệ
giữa nhân công với quan điểm của họ về DN.Hình 1.1 dưới đây có thể sử dụng để
nhận diện về VHKD của một DN.


19


Người theo chủ nghĩa
bình quân
Mô hình lò ấp

Mô hình tên lửa

trứng:
Con người

điều khiển:

Hướng hoàn

Hướng nhiệm

thiện
Mô hình gia

vụ
Mô hình tháp

đình:

Nhiệm vụ

Eiffel:


Hướng cá nhân

Hướng vai trò

Hệ thống thứ bậc
Hình 1.1. Mô hình văn hóa doanh nghiệp
Nguồn : Fons Trompenaars-Charle Hampden-Turner(2006),Chinh phục các
làn sóng văn hóa,Nxb Trí thức,Hà Nội,trang 289.
1. Mô hình văn hóa gia đình
Khái niệm “gia đình” trong mô hình này dùng để tả mối quan hệ trực tiếp, gần
gũi nhưng có thứ bậc trên dưới. VHDN theo mô hình này hình thành nên một mô
hình văn hóa hướng quyền lực người lãnh đạo có vai trò như “người cha” biết nên
làm điều gì và biết điều gì tốt cho “con cái”, là loại quyền lực hướng đến sự thân
thiện, ôn hòa, tạo ra môi trường làm việc như một gia đình.
Trong mô hình này, động cơ làm việc, năng suất lao động và khả năng giải
quyết mâu thuẫn được tạo ra từ sự hài lòng trong các mối quan hệ. Quyền lực được
thực thi lớn nhất thông qua sự hòa hợp giữa các thành viên. Dù có thể nhưng không
cần thiết phải thực thi quyền lực.Sự trừng phạt lớn đối với các thành viên là họ
không còn được yêu mến hay nắm giữ vị thế trong gia đình.Áp lực đối với họ là
tính đạo đức chứ không phải tài chính hay tính pháp lý. VHDN theo mô hình gia
đình có xu hướng trở thành một môi trường khép kín.Mối quan hệ có chiều hướng
khuếch tán.
Quyền lực và sự phân biệt địa vị là tự nhiên, người lãnh đạo không bị đánh giá
về khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Mô hình văn hóa gia đình thiên về trực giác hơn
là trình độ kiến thức, quan tâm đến sự phát triển con người hơn là triển khai hay sử

20


dụng con người, kiến thức cá nhân được đánh giá cao hơn kinh nghiệm cá nhân.

Việc khích lệ, khen thưởng được thực hiện bằng sự tán dương hay đánh giá cao hơn
là bằng tiền. Việc giải quyết mâu thuẫn phụ thuộc vào sự khôn khéo của lãnh đạo, ít
phê phán công khai mà chỉ dưới hình thức gián tiếp.
Mô hình văn hóa gia đình ít quan tâm đến năng suất mà chú trọng ưu tiên cho
hiệu quả. Các tập đoàn theo mô hình văn hóa gia đình thường là ở những nơi diễn ra
quá trình quá độ từ phong kiến lên công nghiệp hóa nhanh, tồn tại nhiều thành tích
phong kiến như: Ai Cập, Italia, Nhật, Singapore, Triều Tiên, Tây Ban Nha, Pháp.
2.Mô hình tháp Eiffel
Ở phương Tây,thường phân chia lao động theo vai trò và chức năng. Tháp
Eiffel, biểu tượng của Paris là hình ảnh đại diện cho mô hình này bởi hình khối của
tháp với độ dốc đứng, cân đối, thu hẹp ở đỉnh, nới rộng ở đáy, chắc chắn, vững chãi.
Đây là sự biểu tượng cho thời đại cơ khí, cấu trúc quan trọng hơn chức năng. Hệ
thống cấp bậc trong mô hình tháp khác xa so với mô hình gia đình.Thứ bậc cao hơn
được phân chia một cách rõ ràng,thể hiện chức năng điều hành thứ bậc thấp
hơn.Cấp dưới phải tuân lệnh ông chủ vì họ có vai trò chỉ đạo,đủ quyền lực pháp lý
để ra lệnh hay áp chế.Nếu bạn hay bất cứ cấp dưới nào không tuân thủ,hệ thống
không thể thực hiện được chức năng của nó.Trong mô hình tháp Eiffel,mỗi vị trí có
vai trò nhất định.Hệ thống cấp bậc trong mô hình tháp rất khách quan,dựa trên pháp
lý,tất cả mọi người đều tuân thủ các quy định của công ty,và áp dụng cho mọi cấp
bậc.
Biểu tượng đại diện cho mô hình này chỉ ra tính logic của sự phụ thuộc rõ ràng
là rất hợp lý và có tính phối hợp, mục tiêu đạt được qua kiến trúc hình tháp vững
chãi, nếu theo chiều hướng khác sẽ khó đạt được mục tiêu.
Trong mô hình này, thứ tự cao hơn được phân chia một cách rõ ràng, thể hiện
chức năng điều hành thứ tự thấp hơn. Quyền hành của lãnh đạo là do quy định của
công ty. Mỗi vị trí đều có vai trò nhất định. Hệ thống cấp bậc rất khách quan, dựa
trên pháp lý. Các quy định của công ty là bắt buộc và mọi người, mọi cấp bậc phải
tuân thủ theo, làm tăng tính hiệu quả, tính áp chế.

21



Mô hình kim tự tháp coi trọng việc học hỏi và tích lũy những kỹ năng cần thiết
để có thể phù hợp với vai trò và vị trí cao hơn, nguồn nhân lực được coi như một
nguồn vốn. Sự thay đổi diễn ra thông qua sự thay đổi điều lệ, diễn ra phức tạp và
tốn kém thời gian điều này khiến các DN theo mô hình văn hóa này không thích
nghi kịp trước sự biến động của môi trường. Nhiệm vụ là khái niệm cực kỳ quan
trọng đối với nhân viên, nhân công kỹ tính và nghiêm ngặt. Mâu thuẫn được xem là
sự vô lý, xúc phạm tới hiệu quả công việc, phê phán hay tưởng thưởng đều thông
qua điều lệ và thủ tục pháp lý.
Các tập đoàn ở những quốc gia áp dụng mô hình này là những tập đoàn ưu
tiên vai trò hơn yếu tố con người chủ yếu ở các nước Bắc Mỹ và Tây Bắc Âu,Đông
Bắc Á.
3.Mô hình văn hóa tên lửa dẫn đường
Mô hình văn hóa tên lửa dẫn đường khác với mô hình văn hóa gia đình và
tháp Eiffel ở chủ nghĩa quân bình,khác mô hình gia đình và giống mô hình tháp ở
tính khách quan và hướng nhiệm vụ. Mục tiêu là nhân tố căn bản trong mô hình
này. Mọi thứ được thực hiện để giữ vững chiến lược và đạt được mục tiêu. Mô hình
này gần tương tự mô hình tổ chức làm việc theo nhóm (Team work),hướng nhiệm
vụ do một đội ngũ hay nhóm đảm trách.Các thành viên hiểu rõ nhiệm vụ của mình
và phải làm bất cứ điều gì để đạt được mục tiêu cuối cùng.Tất cả đều tham gia hoạt
động gần như ngang nhau.Nhóm cần một người lãnh đạo hoặc điều phối vì mục tiêu
chung.Giá trị nhân văn tối cao được thể hiện qua cách thức làm việc và mức độ
đóng góp vào mục tiêu chung.
Trong mô hình này, cá nhân học hỏi bằng cách hòa hợp với mọi người, nhanh
chóng thích nghi và đảm đương vai trò còn thiếu trong tập thể, thực hành nhiều hơn
lý thuyết. Đánh giá công việc của mỗi cá nhân là do người ngang hàng hay cấp dưới
chứ không phải là cấp trên.
Trong mô hình văn hóa tên lửa dẫn đường,sự thay đổi diễn ra nhanh
chóng,mục tiêu luôn vận động dẫn đến hình thành mục tiêu mới và nhóm mới.Các

cá nhân thường luôn chuyển giữa các nhóm,trung thành với công việc và chuyên

22


môn hơn công ty.Mô hình này đối lập với mô hình gia đình về mối liên hệ bền vững
lâu dài.Khích lệ là yếu tố cần thiết trong mô hình,để các thành viên luôn hướng tới
mục tiêu chung,sản phẩm cuối cùng.
Mô hình này có xung hướng cá nhân hóa,các cá nhân kiên định theo đuổi con
đường phát triểm của mình trong dự án.Họ có phong cách riêng và hợp tác với nhau
vì tiền chứ không phải vì mục tiêu chung.
Thường thấy mô hình này được áp dụng ở các công ty, tập đoàn lớn,tổ chức
nghiên cứu của Anh, Mỹ như cơ quan hàng không vũ trụ (NASA),Apple...
4. Mô hình văn hóa lò ấp trứng
Dựa trên quan điểm về thuyết hiện sinh, mô hình này ưu tiên sự hoàn thiện cá
nhân hơn là cơ cấu tổ chức, tổ chức là cái nôi của sự tự thể hiện và tự hoàn thiện.
Mô hình này mang tính chất cá nhân và quân bình.Mục tiêu là giải phóng con người
khỏi lề thói và phát huy sự sáng tạo, những cá thể xung quanh đóng vai trò xác
nhận, phê phán, phát triển, tìm nguồn lực để giúp hoàn thành sản phẩm hay dịch vụ.
Trong mô hình này, hệ thống thứ bậc được tinh giản, quyền lãnh đạo là do đạt được
chứ không phải là được quy cho, người lãnh đạo thường kết tinh sự nghiêm khắc,
có ý tưởng gây hứng thú, tạo sự hứng khởi, cuốn hút những cá thể xung quanh.
Mô hình này đề cao sự sáng tạo, đổi mới. các cá thể có quan hệ thân thiết,
cùng chia sẻ nguồn cảm hứng để dẫn đến mục tiêu phi thường. Cũng do sự gắn bó
mật thiết giữa các thành viên nên sự thay đổi trong mô hình có thể diễn ra bột phát,
nhanh chóng. Mô hình này duy trì sự sáng tạo và các thành viên học cách sáng tạo
chứ không phải là cách tồn tại khi nhu cầu của thị trường thay đổi. Hạn chế của mô
hình là sự giới hạn về phạm vi kiểm soát của người lãnh đạo.
Mô hình này thường được áp dụng ở các công ty đổi mới quy mô nhỏ hoặc
các tổ chức theo kiểu nhóm hành nghề, nhóm kỹ năng…thường được thấy ở các

công ty của Thụy Điển, Thung lũng Silicon của Mỹ, thung lũng hẹp Silicon Glen
của Anh.

23


Trong thực tế thì các DN có xu hướng kết hợp giữa các mô hình và có xu
hướng nổi trội ở một mô hình nào đó.Sự khác biệt tùy thuộc vào xu hướng ở mỗi
quốc gia.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành VHKD
VHKD rất phong phú và đa dạng,được tạo ra trong quá trình sản xuất,kinh
doanh.Theo các nghiên cứu hiện nay,VHKD có các yếu tố cấu thành cơ bản sau:
Triết lý kinh doanh, ĐĐKD, Văn hóa doanh nhân, Quan hệ và ứng xử trong kinh
doanh.Mỗi nhân tố đều có tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh.
1.2.2.1. Triết lý kinh doanh
Triết lý kinh doanh(TLKD) là một trong những biểu hiện của văn hóa trong
hoạt động kinh doanh.Mỗi doanh nhân,doanh nghiệp cần xây dựng TLKD cho mình
hoặc cho doanh nghiệp như một kim chỉ nam để giúp DN đạt được mục tiêu . Mỗi
DN sẽ đặt ra cho mình mục tiêu nhất định và sử dụng các phương thức để đạt được
mục tiêu và đạt mối liên kết với môi trường và xã hội xung quanh. TLKD được ví
như là việc xây dựng một con đường để DN đi khai phá mảnh đất kinh doanh, con
đường này tốt hay xấu, nó hướng đến đâu chính là tự trong bản chất của DN biểu
hiện ra. Triết lý kinh doanh chính là cốt lõi của VHDN, triết lý kinh doanh đặt ra
cho DN những quy tắc, mục tiêu, phương pháp mà DN hay các nhân viên trong DN
phải tuân theo và hướng tới.
Triết lý kinh doanh có thể hiểu là cốt lõi để từ đó, DN xây dựng các nguyên
tắc, quy tắc trong quan hệ ứng xử, trong hoạt động của DN để hướng tới mục tiêu
định sẵn, và như vậy, triết lý kinh doanh duy trì và dẫn dắt sự thay đổi của DN bất
chấp những vấn đề về nhân sự trong DN. Triết lý kinh doanh thường được hình
thành trước hoặc trong quá trình khởi nghiệp.

Nhiều quan điểm trước đây cho rằng triết lý kinh doanh là một thứ xa xỉ chỉ
xuất hiện khi DN đã vững mạnh. Tuy nhiên, sự lựa chọn xây dựng triết lý kinh
doanh dẫn đường ngay từ những ngày đầu khởi nghiệp là sự lựa chọn mang giá trị
thực tiễn. Triết lý kinh doanh dẫn đường cho DN tới mục tiêu nhất định,cũng từ
24


triết lý kinh doanh đó, DN được người tiêu dùng biết đến, xã hội biết đến và tôn
vinh họ, sử dụng sản phẩm của họ. Triết lý kinh doanh thường được hình thành
trong sự tương tác và tác động, ảnh hưởng của nền văn hóa dân tộc, sự giao thoa
văn hóa trong cạnh tranh, sự ảnh hưởng của các mối quan hệ phát sinh trong quá
trình thực hiện các hoạt động kinh doanh.Con đường chung của sự hình thành các
TLKD đó là sự tổng kết các kinh nghiệm thực tiễn của những người hoạt động kinh
doanh,các doanh nhân từng trải.Vì vậy, theo cách thức hình thành thì:
“Triết lý kinh doanh là những tư tưởng triết học phản ánh thực tiễn kinh doanh
thông qua con đường trải nghiệm, suy ngẫm và khái quát hóa của các chủ thể kinh
doanh và chỉ dẫn cho hoạt động kinh doanh.”[33, trang 54]
Triết lý kinh doanh gồm những nội dung sau (xem bảng 1.1.)
- Sứ mệnh và mục tiêu cơ bản của DN.
- Phương thức hành động.
- Các nguyên tắc tạo ra một phong cách cư xử, giao tiếp và hoạt động kinh
doanh đặc thù của DN.
Các triết lý kinh doanh thường được xây dựng dựa trên những điều kiện cơ
bản đó là:
Cơ chế pháp luật
Thời gian hoạt động của doanh nghiệp và kinh nghiệm của người lãnh đạo
Bản lĩnh và năng lực của người lãnh đạo
Sự chấp nhận tự giác của đội ngũ cán bộ công nhân viên
Các triết lý kinh doanh dù rất đa dạng nhưng thường hướng đến:
- Việc tuân theo các quy tắc cạnh tranh cơ bản của thị trường.

- Có ý chí tấn công.
- Có định hướng về lòng trung thành.
- Định hướng về những đóng góp cho xã hội.
Hộp 1. Triết lý kinh doanh Toyota
1.Tôn vinh những quy định và tinh thần luật pháp của mọi quốc gia đồng thời

25


×