Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN mầm non: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC TẠI TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.3 MB, 20 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọ đề tài:
Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta đã
nói “Non sông Việt Nam có được vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được
sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ vào công học
tập của các cháu”. Trẻ em là những mầm non tương lai của đất nước, đất nước
có giàu mạnh, phồn vinh là nhờ vào những thế hệ mầm non tương lai này.
Trường mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đối với
trẻ mầm non nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng trẻ rất nhạy cảm với nghệ thuật
ngôn ngữ. Âm điệu hình tượng của các bài hát ru đồng giao, dân ca đi vào tâm
hồn tuổi thơ, những câu chuyện cổ tích thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. Khi trẻ
được tiếp xúc thường xuyên với ngôn ngữ văn học qua các bài ca giao, đồng
giao, các câu chuyện kể, bài thơ qua giao tiếp hàng ngày ở trường mầm non. Sẽ
giúp trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp
trong hành vi, trong cuộc sống. Từ đó giúp trẻ thêm yêu quê hương, yêu đất
nước. Bằng hình thức văn học mở ra cho trẻ cuộc sống xã hội và thiên nhiên, các
quan hệ qua lại của con người, những hình tượng đó giúp trẻ nhận thức rõ ràng,
chính xác của từ ngữ, làm tăng vốn từ, câu, nói rõ ràng, chính xác
2. Mục đích nghiên cứu:
Với những ý nghĩa rất quan trọng như trên đã thôi thúc tôi chọn đề tài “Một
số biện pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học tại trường mầm non
Thị Trấn Nga Sơn” Làm đề tài nghiên cứu cho mình với mong muốn góp phần
nâng cao chất lượng cho trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua làm quen với tác
phẩm văn học.
3. Đối tượng nghiên cứu: Trẻ 5 - 6 tuổi trường mầm non Thị Trấn Nga Sơn.
4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Phương pháp
quan sát. Phương pháp thực hành trải nghiệm. Phương pháp trực quan.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trẻ 5 - 6 tuổi sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc, phát triển vốn từ chịu ảnh


hưởng lớn vào việc tích cực hóa vốn từ, ngôn ngữ của trẻ đã trở nên được mở
rộng hơn, có trật tự hơn, khả năng nói trình bày ý nghĩa, hiểu ngôn ngữ hoàn
cảnh của trẻ cũng đã phát triển, điều đó một phần cũng nhờ vào hoạt động cho
trẻ làm quen với các tác phẩm văn học.
Văn học là hoạt động rất quan trọng đối với trẻ mầm non, là phương tiện
phát triển ngôn ngữ cho trẻ có đủ vốn từ để giúp trẻ nói năng lưu loát, diễn đạt
gãy gọn biết sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, không những thế mà việc dạy trẻ
làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng thanh giúp
trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy
1


nghĩ. Thông qua nội dung các tác phẩm văn học giáo dục trẻ biết yêu quý người
hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè. Vì vậy việc nâng
cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học là vấn đề quan trọng
trong việc tổ chức hoạt động giáo dục mầm non.
Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc
cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô
giáo. Hoạt động làm quen với văn học này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm
nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở
trẻ sự rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng
nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các
hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò
chơi đóng kịch góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
Qua tác phẩn văn học, trẻ quen dần tính chất nhiều ý nghĩa và tinh luyện
của ngôn ngữ văn hoá, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực đến nghĩa bóng, từ
nghĩa văn cảnh đến ý tưởng nhà văn muốn truyền đạt. Khi cho trẻ làm quen với
tác phẩn văn học góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo
đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “Đọc sách”
Kỹ năng đọc và kể lại những tác phẩm văn học.

II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM.
Trường mầm non Thị Trấn Nga Sơn là trường trọng điểm chất lượng cao,
lá cờ đầu của ngành học mầm non. Trường có bề dầy thành tích nhiều năm liền
được UBND Huyện, UBND Tỉnh tặng giấy khen và Bằng khen, được Bộ GD &
ĐT, Thủ tướng chính phủ tặng Bằng khen, Năm 2007 trường Vinh dự được đón
nhận Huân Chương lao động Hạng 3 và nhiều phần thưởng khác, bên cạnh đó
nhà trường có đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên nhiệt tình yêu nghề mến trẻ, có
trình độ chuyên môn vững vàng, tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, chăm sóc trẻ.
Trường luôn đón nhận sự quan tâm của các cấp, các ngành của Huyện và
của Thị Trấn đầu tư xây dựng một ngôi trường tương đối khang trang có đầy đủ
các phòng học và phòng chức năng, đồ dùng đồ chơi đa dạng, phong phú về
chủng loại các cháu đến trường được ăn ngủ tại trường nên thuận tiện cho việc
vui chơi, học tập. Các bậc phụ huynh luôn tin tưởng đến chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ ở Trường mầm non Thị Trấn Nga Sơn.
Bản thân tôi là một giáo viên trẻ có bề dày kinh nghiệm nhiều năm liền
được BGH phân công chủ nhiệm lớp 5 - 6 tuổi là một giáo viên có tâm huyết với
nghề năng động sáng tạo, tìm tòi khám phá những điều mới lạ trong chương
trình mầm non mới mặt khác các cháu lớp tôi rất nhanh nhẹn, tự tin, hồn nhiên,
hiếu động.
Nhà trường có đầy đủ đò dùng, đồ chơi, trang thiết bị phục vụ cho hoạt
động phát triển ngôn ngữ.

2


Bên cạnh đó có hội phụ huynh luôn sát cánh cùng với nhà trường cho nên
công tác phối kết hợp giữa gia đình trẻ và cô giáo đã đạt hiệu quả cao.
Song nhìn chung mỗi cháu có một đặc điểm riêng mỗi cá tính khác nhau

nhưng có một điểm chung là đa số trẻ là dễ nhớ chóng quên.
Sự phát triển về ngôn ngữ của mỗi trẻ tuy cùng một lứa tuổi nhưng lại ở
mức độ khác nhau trẻ còn nói ngọng, nói lắp, trẻ ở các xã khác đến học cũng
nhiều nên còn nói tiếng địa phương, một số trẻ chưa tự tin trong mọi hoạt động.
Ngay bước vào đầu năm học mới tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm
và tôi thấy kết quả như sau:
* Kết quả khảo sát thực trạng đầu năm (Tháng 8/2015)
Đạt
T
T

Nội dung

Tổng

Tốt

Khá

Trung
bình

Chưa đạt

ST

%

ST


%

ST

%

ST

%

1

Trẻ mạnh dạn khi
giao tiếp.

37

10

27

10

27

12

32.4

5


13.5

2

Trẻ trả lời được các
câu hỏi đàm thoại.

37

9

24,3

8

21.6

14

37.8

5

13.5

Trẻ thể hiện được
3 cảm xúc của mình
với cô và các bạn.


37

8

21.6

10

27

14

37.8

5

13.5

Hiểu được một số từ
4 đơn giản gần gũi với
trẻ .

37

10

27

9


24.3

11

29.7

7

18.9

Trẻ diễn đạt được
câu, từ rõ ràng mạch
5
lạc, chính xác không
nói ngọng, nói lắp.

37

9

24.3

9

24.3

12

32.4


7

18.9

Kết quả đạt được trên trẻ thấp trẻ chưa mạnh dạn trong giao tiếp, tỷ lệ trẻ
diễn đạt được mong muốn cũng như cảm xúc và hiểu được một số từ đơn giản,
diễn đạt câu từ còn hạn chế nên tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp
nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông
qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học tại trường mầm non Thị Trấn
Nga Sơn” Do tôi chủ nhiệm.

3


III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng sư phạm về nội
dung giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua làm quen với tác
phẩm văn học.
Mặc dù chuyên đề cho trẻ “Phát triển ngôn ngữ ” Đã dược triển khai và tổ
chức thực hiện trong nhiều năm qua, bản thân đã nắm được bản chất của chuyên
đề và vận dụng vào hoạt động giảng dạy. Là một giáo viên đứng lớp 5 - 6 tuổi
để nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ ở lớp, tôi
đã không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng để nắm chắc nội dung, phương pháp,
sáng tạo trong khi dạy trẻ.
Tham gia các buổi hội thảo, các buổi dự giờ, thao giảng của các bạn đồng
nghiệp cũng như các trường trọng điểm trong huyện. Qua đó tôi cùng bạn bè
đồng nghiệp được tìm hiểu những kiến thức vô cùng bổ ích:
Ngoài ra tôi còn tự học tập, tự nghiên cứu qua các tài liệu, các tạp san, qua
mạng Internet về những kiến thức có liên quan
Như vậy: Qua việc được tiếp thu các chuyên đề, dự các buổi hội thảo, dự

giờ thao giảng các đồng ngiệp, học hỏi trường bạn để kịp thời uốn nắn bổ sung
những hạn chế tồn tại của bản thân.
Từ đó giúp tôi nắm vững kiến thức một cách cơ bản trong việc cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học nói chung và đặc biệt là cho trẻ 5 - 6 tuổi tàm quen
với tác phẩm văn học.
2. Tạo môi trường văn học phong phú cho trẻ tham gia vào hoạt động
làm quen với tác phẩm văn học.
2.1. Xây dựng môi trường trong lớp học
Ngay đầu năm học, tôi đã vận động phụ huynh và trẻ cùng tham gia làm đồ
dùng, đồ chơi, trang trí lớp nhằm giúp trẻ lĩnh hội, khám phá, tìm tòi và phục vụ
cho quá trình học tập của trẻ. Chẳng hạn tôi vận động phụ huynh cùng may các
con rối, may các trang phục đóng kịch cùng với cô giáo để giúp trẻ có các trang
phục đóng kịch. Hay vận động phụ huynh mang sách, báo có các câu chuyện,
bài thơ phù hợp đối với trẻ để những lúc trẻ hoạt động ở góc sách, trẻ mang ra
xem hình ảnh để trẻ kể chuyện sáng tạo. Bên cạch đó, trong lớp tôi luôn tận
dụng diện tích phòng học xây dựng góc thư viện, góc kể chuyện cùng bé yêu.
Chú ý bố trí, sắp xếp các đồ dùng, đội hình để tạo môi trường thoải mái cho trẻ.
Ví dụ: Ở chủ đề: “Gia đình” tôi đã trang trí lớp bằng cách trang trí các
hình ảnh của các nhân vật trong các câu chuyện, bài thơ để giúp trẻ nhớ và khắc
sâu nội dung câu chuyện, bài thơ. Chẳng hạn ở khu vực: “Vườn cổ tích của bé”
Tôi vẽ hình ảnh cô Tấm đang từ trong quả thị bước ra thì bà cụ rình bắt được,
không cho vào quả thị nữa, và một hôm hoàng tử đi qua bà cụ mời hoàng tử ăn
trầu cánh phượng. (Trong câu chuyện Tám Cám).

4


(Hình ảnh: Xây dựng môi trường văn học trong lớp)
Hay với chủ đề “Thế giới thực vật” .Tôi đặt tên cho góc là “Thư viện của
các loài hoa” Bên trong góc này tôi luôn tìm kiếm, sưu tầm, trưng bày các loại

tranh truyện chữ to, thơ chữ to, các bài ca dao, đồng dao, truyện kể sáng tạo,
truyện cổ tích, truyện dân gian Việt Nam và một số tranh ảnh, tạp chí khác phù
hợp. Khi cho trẻ xem tranh tôi hướng dẫn cho trẻ đọc từ trái sang phải, từ trên
xuống dưới, bản thân cũng tham gia đọc sách cùng trẻ, tập cho trẻ kể chuyện
theo tranh, giúp trẻ hiểu nội dung ý nghĩa của chữ viết, rèn luyện khả năng quan
sát, chú ý có chủ định của trẻ. Để trẻ có thể lĩnh hội những kiến thức đã học ,
thích khám phá những đề tài mới tôi đã tạo cho trẻ một góc thư giãn nhỏ để trẻ
có thể tự do xem tranh, ảnh, theo các nội dung câu chuyện, nghe những bài thơ,
bài hát mà tôi đã ghi âm. Qua đó trẻ cảm thấy hứng thú hơn khi tham gia các
hoạt động.
Ví dụ: Bài thơ “Cái bát xinh xinh” Tôi cũng đưa hình ảnh mẹ cha của em
bé làm nghề công nhân và mang về cho em bé cái bát xinh đẹp.

5


2.2. Môi trường ngoài lớp học.
Bên cạnh đó môi trường ngoài lớp cũng được tôi quan tâm như: Tạo môi
trường văn học và chữ viết bằng cách tận dụng những khoảng tường trống để vẽ
các nhân vật có trong các câu chuyện, các bài thơ, ca dao, đồng dao, xây dựng
vường cổ tích, Giúp trẻ cảm thấy gần gũi với các nhân vật hơn, biết yêu cái tốt,
học tập cái tốt, ghét cái xấu, lên án cái xấu. Gợi mở cho trẻ cùng nhau kể
chuyện, đọc thơ.

(Hình ảnh: Tranh vẽ tường bài thơ “Mèo đi câu cá”)

6


Hay tôi đã tham mưu với nhà trường để xây dựng “Vườn cổ tích” của bé

với các câu chuyện có trong chương trình như: Truyện Nàng bạch tuyết và bảy
chú lùn, Sự tích đàn ngỗng trời, Sự tích Quả dưa hấu.

(Hình ảnh: Môi trường cho trẻ làm quen với văn học ngoài lớp)
3. Nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua đọc thơ,
kể chuyện diễn cảm, các trò chơi đóng kịch.
Đọc thơ, kể chuyện diễn cảm cho trẻ nghe là một trong những cách tốt nhất
để khuyến khích trẻ ham đọc sách, phát triển ngôn ngữ trí tưởng tượng và cách
sáng tạo ở trẻ. Trẻ mẫu giáo luôn thích tìm tòi khám phá về thế giới xung quanh
bằng đôi mắt ngạc nhiên, thích thú qua các tác phẩm văn học để giúp trẻ đến
cảm thụ các tác phẩm văn học đạt hiệu quả và làm thoả mãn nhu cầu ham hiểu
biết. Muốn nội dung của tác phẩm đến với trẻ làm rung động lòng trẻ, gây hứng
thú nghe hiểu cho trẻ thì cô giáo phải là người tìm ra thủ thuật đọc kể diễn cảm.
Trước tiên phải xác định loại tác phẩm văn học thơ hay truyện từ đó tìm hiểu nội
dung truyện thơ, luyện giọng điệu, biến giọng điệu của mình thành giọng điệu
của tác phẩm và kết hợp với cử chỉ, điệu bộ nét mặt.
3.1. Thông qua các bài thơ.
Đối với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi khi nhu cầu về cái đẹp đang phát triển vì vậy
việc dạy thơ cho trẻ còn mang một ý nghĩa rất đặc biệt nó có tác động mạnh mẽ
về nhiều mặt đối với trẻ: Ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ. Vì vậy khi dạy thơ ca
cho trẻ tôi đã chú ý đến những nội dung sau:
Trước hết cần phải chọn bài thơ hay phù hợp với chủ đề, với cách cảm
nhận, cách nghĩ của từng độ tuổi, rồi đọc diễn cảm một cách tự nhiên, rõ vần,
nhịp điệu cho trẻ nghe, nhấn mạnh hình tượng trong các bài thơ nhằm giúp trẻ
cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ từng bài thơ.
7


Chuẩn bị đầy đủ về giáo án, đồ dùng trực quan. Cũng như việc khai thác
những hình ảnh đẹp là vô cùng quan trọng vì qua đó sẽ giúp trẻ hoà mình vào

thiên nhiên, trẻ dễ cảm nhận được cảm xúc như đến với chính mình.

Ví dụ: Khi dạy trẻ bài Thơ: “Bắp cải xanh” tôi đưa hình ảnh cây bắp cải
Cho trẻ cảm nhận được màu xanh mát của lá sắp vòng tròn.
Tôi luôn xác định giọng đọc của mình rất cần thiết phải xác định được
giọng điệu của bài thơ, ngắt nhịp rõ ràng, biết nhấn giọng vào những từ chứa
đựng nội dung chính, có thể đọc to, đọc kéo dài ra một chút hay đọc lắng xuống
và điều đặc biệt quan trọng là cách phát âm đúng, các thanh và các âm đầu, các
vần.
Ví dụ: Bài thơ: “Hoa nở”
“Hoa cà/ Tim tím
Hoa mướp /Vàng vàng
Hoa lựu / Chói chang
Đỏ như/ Đốm lửu
Với bài thơ: “Trăng ơi từ đâu đến” đây là bài thơ hay, có tác dụng luyện
âm cho trẻ. Cần hướng dẫn cho trẻ nhấn vào các câu, các từ mang hình ảnh so
sánh “Trăng hồng như quả chín”, “Trăng bay như quả bóng”, “Trăng tròn như

8


mắt cá”, biết đọc chậm rãi, biểu lộ sự băn khoăn, tự hỏi ở các câu: “Trăng ơi từ
đâu đến? Hay từ một sân chơi”
Ngoài những điều kiện trên thì khi đọc mẫu cô phải đọc diễn cảm, thể hiện
điệu bộ bài thơ, tạo được sự hứng thú của bài thơ. Để trẻ tiếp nhận bài thơ một
cách nhẹ nhàng thì việc thay đổi hình thức cũng rất quan trọng đó là việc chuyển
thể thơ ca thành bài hát quen thuộc:“Bài hạt gạo làng ta”, bài “Quà 8/3”. Sẽ
giúp trẻ tiếp nhận từ ngôn ngữ thơ ca sang ngôn ngữ âm nhạc. Đồng thời có thể
thay đổi bằng hình thức ngâm thơ.
Thơ có đặc điểm riêng, ngôn ngữ làm thơ giàu hàm súc âm hưởng, vẻ đẹp

của bài thơ không chỉ do nhạc điệu, nhịp điệu mà còn do vần điệu nối các câu
thơ thành một bài thơ. Vì vậy cần trao dồi kỹ thuật đọc thơ thì mới có thể trình
bày tác phẩm thơ một cách diễn cảm. Một điều không thể thiếu được trong cách
đọc thơ diễn cảm đó là sự kết hợp giữa giọng đọc và cử chỉ điệu bộ, giúp trẻ tiếp
nhận tác phẩm một cách dễ dàng hơn.
3.2. Thông qua thể loại truyện kể.
T hể loại truyện kể không như cách đọc chuyện bình thường chỉ dùng
giọng điệu của mình thành giọng điệu của tác phẩm mà phải cần giúp trẻ nghe,
cảm nhận như có sự hiện hữu của các nhân vật trong truyện biến nhân vật trong
truyện thành hình ảnh sống động có cá tính.
Ví dụ: Truyện “Quả bầu tiên” Cô phải thể hiện được ngữ điệu, giọng điệu
của các nhân vật: Giọng của tên nhà giầu, cao hơn bình thường, giọng của Chú
bé nhẹ nhàng, âu yếm, hiền lành, tốt bụng. Lúc này không còn là giọng của cô
nữa mà chính là giọng của các nhân vật. Qua đó trẻ sẽ cảm nhận được ngay tính
cách của nhân vật và nội dung câu truyện. Tôi luôn phải là người tìm hiểu
truyện, tìm ra tính cách của nhân vật để hòa mình vào nhân vật đó, cuốn mình
vào câu truyện để truyền đạt đến trẻ nội dung câu truyện.
Để kể diễn cảm một câu truyện hay đọc diễn cảm một bài thơ không nhất
thiết phải thuộc từng chữ như trong sách truyện hoặc thơ mà cần phải thể hiện
như cuộc đối thoại giữa nhân vật này với nhân vật khác, nhiều khi lại trở về là
người dẫn truyện, nhưng luôn phải lấy cốt truyện, nội dung truyện làm trọng
tâm. Để làm được điều đó tôi cần có phương pháp kể chuyện hấp dẫn và sáng
tạo để lôi cuốn trẻ, kết hợp với cử chỉ điệu bộ một cách phù hợp.
Ví dụ: Kể chuyện “Cây tre trăm đốt” Ngoài những lúc dùng hình ảnh
(Tranh truyện) Tôi còn dùng tay của mình làm điệu bộ, ngoài ánh mắt, gương
mặt giao lưu với trẻ tôi dùng tay gõ xuống bàn khi nói “khắc nhập, hoặc câu
khắc xuất).
Nếu chỉ đọc và kể diễn cảm chưa đủ mà còn phải biết dùng thủ thuật đọc kể
diễn cảm thì mới đem đến thành công trong hoath động. Khi thể hiện tác phẩm
phải ngắt nghỉ đúng, sử dụng âm thanh đúng, nói đúng ngữ pháp. Tôi luôn tìm

tòi sách báo thường xuyên để nâng cao thủ thuật đọc lên cao nhằm tạo cho trẻ sự
hứng thú, cảm nhận tác phẩm và hiểu tác phẩm sâu sắc và chú ý lắng nghe.

9


Ví dụ: Khi kể câu chuyện: “Tấm cám” Tôi đã xây dựng đoạn VideoClip
có nội dung câu chuyện, kèm nhạc đệm tạo sự hứng thú của trẻ tích cực tham gia
vào hoạt động.

Ví dụ: Truyện “Ba cô gái”
- Giọng của sóc nhẹ nhàng khi nói với chị út; Đanh thép gắt gỏng khi tỏ ra
giận dữ với chị cả và chị hai. Tôi luôn giúp trẻ tái tạo nội dung truyện, nhớ lại có
hệ thống các sự việc diễn ra trong câu truyện “Ba cô gái” tôi đã sử dụng các
dạng câu hỏi phù hợp từng đối tượng trẻ. Với trẻ yếu, trung bình có thể đặt câu
hỏi:
+ Các con vừa nghe cô kể câu truyện gì? Trong câu truyện bà mẹ sinh được
bao nhiêu cô con gái? Bà mẹ thương các cô con gái như thế nào? Vì sao Chị Hai
bị Sóc biến thành nhện? Vì sao Chị Cả bị Sóc biến thành rùa? Khi nghe báo tin
mẹ bị ốm, Chị Út làm gì?...
Với những trẻ khá hơn tôi đã nâng cao mức độ, sử dụng nhiều câu hỏi mở
nhằm giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo.
+ Bà mẹ nhờ Sóc mang thư, theo con có cách nào khác báo tin cho các con
của bà không? Khi bà ốm thì bà mong muốn điều gì? Chị Cả và Chị Hai đã trả
lời như thế nào mà làm Sóc con dận giữ Biến thành nhệ và rùa? So với Chị Cả
và Chị Hai chị Út có đức tính gì tốt?
Ngoài ra tôi còn sử dụng các câu hỏi đòi hỏi trẻ phải sử dụng nhiều mẫu
câu để trả lời như: Hành động nào con biết Chị Út rất thương mẹ? Trong 3
người con, con thích chị nào nhất? Vì sao? con có thể thay đoạn kết câu chuyện
như thế nào? Con có thể đặt tên khác cho câu chuyện là gì?.

Từ khâu xác định giọng kể, chuẩn bị đồ dùng trực quan, giáo án. Đến hệ
thống câu hỏi đàm thoại đến hình thức tạo hứng thú bằng các cách khác nhau:
Hội thi, trò chuyện, câu đố. Với những hình ảnh sinh động hấp dẫn kèm theo
giọng kể rõ ràng mạch lạc của giáo viên sẽ giúp trẻ chăm chú xem, lắng nghe,
10


trẻ sẽ chủ động nắm bắt được nội dung câu chuyện. Làm tốt các hình thức này
chắc chắn trẻ sẽ giúp trẻ cảm thụ truyện một cách tích cực hơn, trẻ nhớ nội dung
câu chuyện lâu hơn và khi cho trẻ đóng kịch trẻ sẽ tái tạo tính cách của nhân vật
tự nhiên hơn.Và đặc biệt khi trẻ trả lời các câu hỏi sẽ giúp cho ngôn ngữ của trẻ
phát triển hơn.
3.3. Thông qua trò chơi đóng kịch.
Đóng kịch là hình thức hoạt động chơi đặc biệt và độc lập thực sự của trẻ
nhằm phát triển trí nhớ và giáo dục trẻ tinh thần tập thể. Qua hoạt động này, trẻ
truyền đạt lại nội dung câu chuyện và làm sống lại tâm trạng, hành động và ngôn
ngữ hội thoại của các nhân vật đồng thời trẻ biết thể hiện tình cảm và đánh giá các
nhân vật trong truyện. Khi đóng kịch trẻ dễ dàng nắm được nội dung, ý nghĩa của
tác phẩm, nắm được tính liên tục của câu chuyện, điều này góp phần đẩy mạnh sự
phát triển tư duy và khả năng cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc ở trẻ.
Trước hết, để có một vở kịch cho trẻ đóng tôi chuyển thể tác phẩm văn học
sang thành kịch. Tôi đã lựa chọn những tác phẩm văn học có nội dung tư tưởng
sáng rõ để chuyển thể thành những kịch bản trò chơi đóng vai ngắn gọn. Nội
dung cốt truyện phát triển mạch lạc, nhân vật giàu màu sắc thẩm mỹ và tính
cách, hành động, ngôn ngữ rõ ràng. Từ đó giúp trẻ có những biểu tượng đúng
đắn hơn về hình tượng trong tác phẩm văn học hiểu được tính cách các nhân vật,
tư tưởng tác phẩm và xác định được thái độ của mình đối với các nhân vật.
Trong quá trình trao đổi với trẻ về tác phẩm, tôi đã đưa ra các câu hỏi giúp trẻ
hiểu sâu hơn về diễn biến hành động của các nhân vật.
Ví dụ: Trong truyện “Chú Dê đen” tôi đưa ra các câu hỏi như:

- Tại sao Chó Sói lại có thể to tiếng quát nạt Dê Trắng như thế ?
- Thái độ của Dê Đen trước con Sói hung ác ấy có giống Dê Trắng không?
Tại sao?
- Vở kịch này đã gợi lên cho chúng ta điều gì?
Khi trao đổi với trẻ về kịch bản, tôi gợi ý trẻ tưởng tượng ra vẻ ngoài của
các nhân vật và phẩm chất, tính cách nhân vật. Trẻ tưởng tượng ra vẻ ngoài của
các nhân vật, khung cảnh của hành động và nhanh chóng có những ấn tượng như
đã xem kịch, trẻ như nhìn thấy được toàn bộ cảnh trong kịch, như thấy mình
được diễn.
Trong quá trình trẻ học lời thoại, tôi không bắt trẻ học thuộc từng câu, từng
chữ giống cô mà tôi luôn khuyến khích trẻ tự sáng tạo. Trẻ có thể thêm, bớt từ,
những câu cảm thán, nhấn giọng tùy vào cảm xúc riêng mà trẻ có được trước
hoàn cảnh đó miễn sao không làm sai lệch nội dung cơ bản của tác phẩm đồng
thời tôi gợi ý hướng dẫn trẻ thể hiện sắc thái tình cảm của các nhân vật qua ngữ
điệu giọng nói, nét mặt.
Khi trẻ nhập vai, để giúp trẻ tưởng tượng sáng tạo tốt hơn, tôi có thể cho trẻ
xem thêm một số tranh minh họa thể hiện nét mặt, dáng vẻ của nhân vật trong
tác phẩm và phân tích nội dung bức tranh đó cho trẻ hiểu.
Ví dụ: Khi đóng kịch “Ai đáng khen nhiều hơn” tôi phân vai cho cháu
đóng nhân vật: Thỏ mẹ, thỏ anh, thỏ em, gà mơ, sóc.
11


Với câu truyện “Dê con nhanh trí” Tôi làm sân khấu có màn che, rồi trang
trí cảnh phù hợp với câu truyện. Bên cạnh việc làm mô hình sân khấu thì việc
hoá trang cho trẻ đóng kịch cũng rất cần thiết. Với nhân vật “Dê con nhanh trí”
tôi cho trẻ mặc mặt nạ hình dê con, sói, dê mẹ, bao tay, giầy hình chân dê mẹ, dê
con, sói và áo quần màu sắc khác nhau phù hợp với tính cách của từng nhân vật.
Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ đóng kịch tác phẩm “Sự tích hoa phù dung”.
Tôi mặc trang phục có màu sắc phù hợp màu của các loài hoa,


(Hình ảnh: Trẻ đóng kịch: Sự tích hoa phù dung)
4. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Ngoài các hoạt động có chủ định tôi còn dành thời gian phát triển ngôn
ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hàng ngày với bài sắp học, ôn bài
cũ, kể chuyện theo tranh.
* Trong hoạt động đón trẻ.
Trong hoạt động45 đón trẻ tôi mở các loại băng đĩa về các bài thơ phù
hợp với nội dung trong chương trình cho trẻ nghe, hay yêu cầu trẻ đọc, kể lại tác
phẩm mà cô đã cho trẻ làm quen trong chủ đề.
Hay vào mỗi buổi sáng đón trẻ, tôi nhắc các cháu chào tạm biệt bố, mẹ
bằng một bài thơ “Lời chào buổi sáng”
Ngoài ra, trong hoạt động đón trẻ, tôi trao đổi với phụ huynh về các
phương pháp dạy truyện, thơ cho trẻ như khi dạy bài thơ: “Mèo đi câu cá” của
chủ đề thế giới động vật, tôi đánh máy in bài thơ rồi gửi cho phụ huynh, hướng
dẫn phụ huynh dậy đọc thơ như: Phụ huynh đọc mẫu cho trẻ nghe 2- 3 lần, sau
khi đọc xong giảng nội dung cho trẻ nghe, rồi tập cho trẻ đọc theo mình từng
câu, từng đoạn. Đọc xong, có thể hỏi trẻ tên bài thơ, tên tác giả, hỏi theo nội
dung bài thơ. Để giúp trẻ nhanh nhớ tác phẩm , nhớ tên tác giả, nhớ nội dung tác
phẩm.
12


*Trong hoạt động góc.
Để tạo hứng thú cho trẻ tôi cho trẻ đọc bài thơ phù hợp với nội dung
chương trình và đàm thoại với trẻ về buổi chơi.
Trong hoạt động góc mở của chủ đề: “Thế giới động vật”. Tôi cho trẻ chơi
với lô tô các con vật sống trong rừng. Yêu cầu trẻ lấy ba lô - Tô động vật thích
ăn cà rốt. Trẻ lấy các chú thỏ, từ các chú thỏ, tôi yêu cầu trẻ kể chuyện sáng tạo
về các chú thỏ. Trẻ có thể kể sáng tạo theo ý của mình như: “Ngày xửa ngày

xưa, trong một khu rừng nọ có ba anh em nhà thỏ sống với nhau, cha mẹ Thỏ đi
công tác xa. Thỏ anh thì rất là ích kỷ, không thương hai chú em”. Sau khi trẻ kể
sáng tạo theo ý của mình xong tôi gợi ý để trẻ nghĩ ra tên truyện phù hợp với nội
dung câu chuyện, trò chuyện với trẻ về nội dung câu chuyện trẻ vừa kể.
* Hoạt động ngoài trời.
Với hoạt động ngoài trời việc lồng ghép cho trẻ làm quen tác phẩm văn học
càng gây được hứng thú nhiều hơn cho trẻ thông qua hoạt động quan sát và
thông qua trò chơi. Khi cho trẻ quan sát một đối tượng nào đó tôi cho trẻ đọc
một bài thơ và đi đến nơi quan sát.
Ví dụ: Trong chủ đề “Thế giới thực vật ” khi cho trẻ quan sát cây bắp cải
tôi cho trẻ đọc bài thơ “Cây bắp cải ” rồi đàm thoại trẻ.
Hay ở chủ đề “Thế giới động vật” khi cho trẻ quan sát con gà đang ấp tôi
có thể cho trẻ đọc bài thơ “Mười quả trứng tròn”. Tôi đã cho trẻ quan sát Đoạn
Videoclip hình ảnh. Như trong bài thơ “Gà nở” Tôi đã dùng những hình ảnh
thật về quả trứng đang nở: Cho trẻ quan sát gà mẹ đang ôm ấp và bảo vệ những
chú gà con xinh xắn, sau đó đàm thoại với trẻ về nội dung.

(Hình ảnh: Minh hoạ bài thơ “Gà nở” )
Khi tổ chức chơi trò chơi cho trẻ thì các bài đồng dao trong dân gian là tác
phẩm văn học dễ lôi cuốn trẻ với các câu từ gần gũi dễ hiểu, ngắn gọn và vui
tươi. Vì vậy trò chơi dân gian là trò chơi mà tôi hay tổ chức cho trẻ chơi.
Ví dụ: Trò chơi “Lộn cầu vồng” “Dung dăng dung dẻ” “Nu na nu nống”
13


* Khi ăn trưa: Trong khi ăn trưa để giúp trẻ ăn ngon miệng và cũng là cho
trẻ tiếp xúc thêm với tác phẩm văn học tôi đọc cho trẻ nghe các bài thơ, câu
chuyện ca dao, đồng dao vui tươi nhộn nhịp nói về các thực phẩm và giáo dục
trẻ trong bữa ăn.
Ví dụ: Ở chủ đề: “Thế giới thực vật ” Tôi cho trẻ đọc bài ca dao: “Lúa

ngô là cô đậu nành”
Khi giáo dục trẻ phải biết giữ gìn vệ sinh sạch rẽ ăn chín uống sôi tôi đọc
bài thơ “Bé ơi”.
*Khi ngủ trưa: Để giúp trẻ đi vào giấc ngủ nhẹ nhàng hơn và có tinh thần
thoải mái từ các bài thơ, bài ca dao được các nghệ sĩ ngâm và ru có nội dung
phù hợp với lứa tuổi tôi sưu tầm trên mạng trên thông tin đại chúng tôi làm
thành đĩa CD và mở nhỏ cho trẻ nghe khi trẻ bắt đầu đi ngủ.
*Khi trả trẻ: Kết thúc một hoạt động trong ngày thì hoạt động trả trẻ là
hoạt động giúp trẻ có được một tâm thế thoải mái trước khi ra về vì vậy các tác
phẩm văn học là yếu tố phù hợp nhất để cung cấp cho trẻ. Ở thời gian này tôi đã
sưu tầm các loại đĩa CD về các câu chuyện cổ tích và mở cho trẻ xem. Tùy vào
từng chủ đề mà tôi lựa chọn nội dung câu chuyện cho phù hợp .
5. Sử dụng đồ dùng trực quan sinh động khi cho trẻ làm quen với văn
học để kích thích trẻ phát triển từ.
Với trẻ mầm non thì việc sử dụng đồ dùng trực quan sinh động để kích
thích việc phát triển từ cho trẻ, sử dụng đồ dùng trực quan là yếu tố không thể
thiếu trong hoạt động cho trẻ làm quen với văn học, nó xuất phát từ đặc điểm
nhận thức của trẻ, từ tư duy trực quan cụ thể đến tư duy trừu tượng, từ cảm tính
đến lý tính và khả năng chú ý của trẻ thiếu bền vững dễ phân tán, chóng chán,
mệt mỏi. Sử dụng đồ dùng trực quan sẽ khắc sâu tác phẩm một cách dễ dàng. Đồ
dùng trực quan phong phú có thể là tranh ảnh, các con rối, mô hình minh họa có
từ và phù hợp mới gây hứng thú cho trẻ và khơi dậy những rung cảm thẩm mỹ ở
trẻ. Tạo cho trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.
5.1. Sử dụng nghệ thuật múa rối.
Việc sử dụng rối trong tiết học gây được sự chú ý, tò mò của trẻ tạo điều
kiện cho trẻ tiếp cận với nghệ thuật múa rối.
- Với truyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ” Tôi sử dụng mô hình sân khấu
là một ngôi nhà có các cây xanh, nhân vật trong truyện được cách điệu hoá, thỏ
gấu mặc quần áo, đi bằng hai chân. Khi tôi dạy, tôi điều khiển con rối bằng ba
ngón tay: Ngón cái, trỏ, giữa sao cho những cử chỉ phù hợp với lời thoại trong

truyện. Nhờ vào việc sử dụng nghệ thuật rối trong hoạt động học mà số trẻ có
khả năng cảm thụ tác phẩm văn học đạt hiệu quả cao, đa số trẻ nhớ được nội
dung câu truyện, lời thoại của các nhân vật trong truyện và qua đó trẻ biết nhận
xét đánh giá tính cách của nhân vật trong truyện như ai là người xấu? Ai là
người tốt. Từ đó tạo cho trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc và vốn từ được tốt
hơn.
5.2. Ứng dụng công nghệ thông tin.

14


- Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt khi cho trẻ hoạt động làm quen với tác
phẩm văn học, dù là thơ hay truyện. Muốn đạt kết quả cao thì việc đầu tiên tôi
phải chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học, đồ dùng đẹp hấp dẫn sẽ thu hút sự chú ý của
trẻ. Trước đây tôi và các đồng nghiệp thường sử dụng tranh minh hoạ làm đồ
dùng chính trong hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Song với
hình thức mới hiện nay, thời đại ứng dụng công nghệ thông tin nên tôi đã biết
ứng dụng để vào bài giảng mang lại kết quả rất cao.
- Với bài thơ “Màu của quả” Tôi đã chụp các loại quả có trong bài thơ và
in vào đĩa VCD. Sau đó tôi trình chiếu cho trẻ xem trước khi cho trẻ đọc bài thơ
“Màu của quả”. Tôi mở cho trẻ xem vào hoạt động chiều, hoạt động đón - Trả
trẻ để trẻ được củng cố ôn luyện và đọc lại bài thơ, trẻ thuộc và nhớ nội dung bài
thơ rất nhanh. Qua đó cũng phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.

(Hình ảnh: Chụp minh hoạ cho bài thơ “Màu của quả”)
Ví dụ: Với hoạt động thơ: “Hoa Cúc vàng” Tôi xây dựng chương trình
papol có hình ảnh bông hoa cúc vàng, trên mỗi bông hoa cúc có các chữ số từ 15. Mỗi bông hoa có một số và mỗi số tương ứng với một câu hỏi theo trình tự
nội dung bài thơ. Trẻ ở các đội sẽ cử đại diện lên chọn bông hoa số bằng cách
kích chuột vào số đó. Sau khi trẻ chọn xong bông hoa sẽ nở ra một câu hỏi, cô
giáo sẽ đọc và yêu cầu trẻ phải trả lời theo nội dung của câu hỏi cô vừa đọc.


15


6. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hệ thống câu hỏi đàm thoại.
Đàm thọai là một quá trình hỏi và đáp, trao đổi giữa cô và trẻ, trong đó cô
giữ vai trò chủ đạo giúp trẻ hiểu sâu và nhớ lại tác phẩm văn học. Câu hỏi đàm
thoại giúp trẻ tìm hiểu kỹ bản chất của sự vật hiện tượng xung quanh. Phát triển
ngôn ngữ, giúp trẻ nghe hiểu nghĩa của từng loại câu hỏi, câu trả lời của người
khác với câu hỏi trong đời thường, do đó tôi cần chuẩn bị các câu hỏi trước trò
chuyện, đàm thoại cùng với trẻ. Câu hỏi được chuẩn bị trước giúp tôi chủ động
hỏi trẻ, đưa ra những câu hỏi chính xác và dễ hiểu đối với trẻ. Trong quá trình
trò chuyện, đàm thoại, chúng ta nên sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau.
Ví dụ: Chuyện “Ba cô gái” Theo các con, ngoài Sóc ra thì còn cách nào để
bà mẹ báo tin cho các con mình biết? Khi bà mẹ bị ốm thì bà mong muốn điều
gì? Vì sao Sóc lại giận dữ biến chị Cả thành con rùa?
Ví dụ: Chuyện “Ba cô gái” Tôi hỏi trẻ: Hành động nào cho con biết cô út
thật lòng thương mẹ? Nếu cô út không về thăm mẹ thì chuyện gì sẽ xảy ra? Theo
con cô út sẽ làm gì khi thấy hai chị mình bị biến thành rùa và nhện?
Ngoài những dạng câu hỏi trên, tôi còn sử dụng loại câu hỏi giải thích và
phỏng đoán suy luận nâng cao. Đây là những câu hỏi khó có tính thu hút trẻ và
đòi hỏi trẻ phải có khả năng phỏng đoán, suy luận cao.
Tôi đưa ra những câu hỏi giúp trẻ suy nghĩ về nội dung tư tưởng của tác
phẩm bằng cách tôi hướng trẻ suy nghĩ vào nhân vật chính, phát hiện ra những
phẩm chất của nhân vật, đưa ra nhận xét về hình tượng nhân vật và xác định thái
độ của mình đối với các nhân vật.
Tôi đặt ra các câu hỏi: Các con thấy Tích Chu là người như thế nào? trong
truyện “Tích Chu” Các con có nhận xét gì về người anh và người em? Trong
truyện “Hai anh em”. Con thích nhân vật nào nhất trong câu chuyện “Cáo, Thỏ
và Gà Trống?” Vì sao con lại thích nhân vật đó?

7. Phối hợp với các bậc phụ huynh trong việc kể chuyện, đọc thơ cho
trẻ nghe ở gia đình giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Phối hợp với phụ huynh là một giải pháp vô cùng quan trọng, lôi cuốn sự
quan tâm của các bậc phụ huynh để họ cùng tham gia thực hiện như mua sắm
đầy đủ 100% đồ dùng học tập cho trẻ, đặc biệt là đồ dùng phục vụ cho hoạt
động làm quen với tác phẩm văn học nói riêng và các hoạt động nói chung, tạo
cơ hội để các bậc phụ huynh hiểu được công tác chăm sóc giáo dục trẻ dù vất vả
như thế nào. Từ đó thực hiện tốt lượng thông tin hai chiều để phối kết hợp chặt
chẽ bằng nhiều hình thức như:
- Tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức và tầm quan
trọng của trẻ làm quen với tác phẩm văn học nhằm phát triển hiểu biết và ngôn
ngữ của trẻ. Trò chuyện, trao đổi với các bậc phụ huynh, thông qua hoạt động
đón trả trẻ hàng ngày để họ nắm bắt được tình hình sức khoẻ, khả năng nhận
thức của trẻ.
- Bồi dưỡng cho trẻ kết hợp với các bậc phụ huynh thông qua các bài thơ,
truyện tạo điều kiện cho trẻ có khả năng phát triển ngôn ngữ và nhận thức riêng

16


của trẻ và những tình huống kích thích trẻ để trẻ được mạnh dạn, tự tin, tích cực
trong hoạt động.
- Trong chương trình học ở các chủ đề tôi in ấn các bài thơ, câu truyện treo
ở góc trao đổi phụ huynh và gửi về nhà cho phụ huynh nhờ phụ huynh về dạy trẻ
- Tổ chức họp phụ huynh theo định kỳ để thông báo tình hình học tập và
sức khỏe của trẻ.
VI. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT

ĐỘNG GIÁO DỤC VỚI BẢN THÂN ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG
* Kết quả khảo sát lần 2 cho thấy:

Đạt
T
T

Nội dung

Tổng

Tốt

Trung
bình

Khá

Chưa đạt

ST

%

ST

%

ST

%

ST


%

1

Trẻ mạnh dạn khi giao
tiếp.

37

15

40.5

10

27

12

32.4

0

0

2

Trẻ trả lời được các
câu hỏi đàm thoại.


37

14

37.8

8

21.6

14

37.8

0

0

Trẻ thể hiện được cảm
3 xúc của mình với cô
và các bạn.

37

13

35.1

10


27

14

37.8

0

0

Hiểu được một số từ
4 đơn giản gần gũi với
trẻ .

37

17

50

9

24.3

11

29.7

0


0

Trẻ diễn đạt được câu,
từ rõ ràng mạch lạc,
5
chính xác không nói
ngọng, nói lắp.

37

16

43.2

9

24.3

12

32.4

0

0

Như vậy qua việc áp dụng các biện pháp tích cực nêu trên ta thấy kết quả
đạt được trên trẻ cao hơn hẳn so với việc thực hiên theo phương pháp cũ. Tỉ lệ
trẻ đạt khá, giỏi tăng, tỉ lệ trung bình giảm và đặc biệt trẻ yếu kém giảm rõ rệt.

Trẻ tự tin khi giao tiếp với người lớn biết trả lời các câu hỏi đủ câu, biết kể lại
các câu chuyện đã được nghe. Vốn từ phong phú và đa dạng của trẻ đó là niềm
vui, niềm động viên lớn đối với tôi.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

17


Muốn giúp trẻ 5 - 6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua cho tẻ làm quen với
văn học tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ để có biện pháp giáo dục
phù hợp. Vận dụng các biện pháp giáo dục mọi lúc, mọi nơi. Chú ý đến trẻ cá
biệt, luôn tạo ra niềm tin, sự hứng thú cho trẻ.
- Đầu tư thời gian để nghiên cứu kĩ đề tài để có các phương pháp dạy học
cụ thể, phù hợp và đạt hiệu quả tốt nhất.
- Trước khi thực hiện một đề tài phải chuẩn bị chu đáo đồ dùng trực quan,
thuộc bài soạn cũng như gợi mở kiến thức cho trẻ. Thông qua các hoạt động ở
mọi lúc, mọi nơi nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trong quá trình thực hiện tôi đã đúc rút lên một số kinh nghiệm sau: Để
phát triển ngôn ngữ tốt cho trẻ thì nhiệm vụ của người giáo viên là: Tạo môi
trường giao lưu ngôn ngữ tự do, thoải mái. Tạo cơ hội cho trẻ nghe âm thanh
khác nhau từ môi trường xung quanh. Chú ý lắng nghe trẻ nói, giúp đỡ, khích lệ
động viên, thu hút trẻ trò chuyện với giáo viên, với các bạn và với những người
khác. Hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn học phù hợp với khả năng của
trẻ. Tổ chức cho trẻ hoạt động kết hợp với lời nói trong các trò chơi, bài hát,
đóng kịch. Tôn trọng khuyến khích sự sáng tạo của trẻ khi sử dụng câu, từ.
Trên đây là kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc nâng cao chất lượng phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 5- 6 tuổi tại trường mầm non Thị Trấn Nga Sơn. Trong
quá trình thực hiện đề tài này chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học, các cấp và bạn bè

đồng nghiệp để Bản thân được hoàn thiện hơn, nhằm không ngừng nâng cao
chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ một cách tốt nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Mai Thị Hoàn

Nga Sơn, ngày 1 tháng 11 năm 2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của tôi viết trên, không sao chép
của người khác.

Lê Thị Hương

18


MỤC LỤC
Tên đề tài
1. MỞ ĐẦU

Trang
1

- Lý do chọn đề tài

2

- Mục đích nghiên cứu


2

- Đối tượng nghiên cứu

2

- Phương pháp nghiên cứu

2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2

2.1: Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh ngiệm

2

2.1: Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

3

2.3: Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

5

2.4: Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục

18


3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:

19

Kết luận

19

Kiến nghị

19

19


Tài liệu tham khảo:
Cuốn: Những sáng kiến kinh nghiệm chọn lộc: (Dành cho giáo viên)
Tác giả: Phan Lan Anh - Lý THị Hằng - Nguyễn Thanh Giang (Nhà xuất bản
giáo dục Việt Nam)
- Chuyên đề : Phát triển ngôn ngữ cho trẻ
- Bồi dưỡng thường xuyên
- Bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ (2004- 2007)

20



×