TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐHQGHN
BỘ MÔN NGUYÊN LÝ
---------BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÓM
Tên vấn đề nghiên cứu:
Liên minh công nông trong thời kì quá độ lên CNXH
và thực tế Việt Nam về liên minh công nông
trong thời kì CNH-HĐH
LỚP: NGUYÊN LÝ 4
Hà Nội, 12-2012
1
I - TÍNH TẤT YẾU VÀ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA
LIÊN MINH CÔNG NÔNG :
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh bền bỉ, kiên trì và đầy
khó khăn để đem lại tự do, bình đẳng cho nhân dân. Dưới sự lãnh đạo tài
tình của Đảng và Bác Hồ, dân tộc Việt Nam đã bảo vệ vững vàng Tổ quốc
và đang từng bước xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa to đẹp hơn, giàu
có hơn, sánh vai cùng bè bạn năm châu.
Có được thành quả to lớnn này, dân tộc ta đã trải qua bao khó khăn,
mất mát và hi sinh, mỗi người dân là một chiến sĩ nhất loạt đồng tâm đoàn
kết trong một mặt trận dưới sự lãnh đạo của Đảng, đó là cuộc đấu tranh của
toàn dân tộc. Ngay từ những ngày đầu Đảng ta đã xác định dùng chiến tranh
vũ trang để giành chính quyền, xây dựng khối liên minh công - nông trong
đó giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong tiến lên giành độc lập. Đây là
sự sáng suốt của Đảng ta, khẳng định vai trò to lớn của liên minh công –
nông trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự ra đời của khối liên minh công - nông là một tất yếu trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rõ ràng rằng: “trong
một số nước nông nghiệp đại đa số dân chúng là nông dân thì vấn đề giai
cấp công nhân liên minh với họ là điều tất yếu. Nguyên tắc cao nhất của
cách mạng là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai
cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”.
Không chỉ công cuộc bảo vệ Tổ quốc mà trong quá trình xây dựng đất
nước, khối liên minh công - nông cũng là nhu cầu cần thiết để gắn kết ba
lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế xã hội cho đất nước.
Ở nước ta, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
con đường đấu tranh cách mạng. Từ ngày đầu khi Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời đã thành lập khối liên minh trong mặt trận dân tộc. Đảng khẳng định:
lực lượng cách mạng chủ chốt là công nhân, nông dân, nhưng cách mạng
cũng cần có lực lượng trí thức công nhân, nông dân, trí thức cần phải đoàn
kết thành một khối. Với những đặc trưng cơ bản trong xã hội Việt Nam, liên
minh công - nông có nhiều thuận lợi đem đến tiền để cho sự phát triển.
Trong giai đoạn mới xây dựng Nhà nước chủ nghĩa xã hội Việt Nam,
liên minh công - nông tiếp tục được Đảng và Nhà nước khẳng định là một
yếu tố tất yếu, một nhu cầu khách quan để giai cấp công nhân giữ vững vai
trò lãnh đạo, giai cấp nông dân được giải phóng và sự phát triển của tầng lớp
trí thức.
2
1. Vị trí, vai trò của giai cấp công nhân, nông dân
- Giai cấp công nhân: CNTB ra đời đã đánh dấu một bước tiến vĩ đại
về sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất đặt nền tảng cho nền sản xuất đại
công nghiệp và sản sinh ra ra ngững công nhân đại diện cho lực lượng sản
xuất tiến bộ. ở các xã hội tư bản, giai cấp công nhân là cơ sở cho sự giàu có
của xã hội, họ bị bóc lột nên hiện thân của họ biểu hiện cho sự binh đẳng của
xã hội, họ có trách nhiệm xóa bỏ giai cấp tư bản để giải phóng mình, giải
phóng xã hội
+ Được sản sinh rèn luyện từ nền sản xuất đại công nghiệp nên giai
cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất có tinh thần cach mạng triệt để nhất,
có tính tổ chức kỉ luật cao, đại biểu cho lực lượng sản xuất và cao hơn, tiến
bộ hơn giai cấp tư sản. Sự tiến của giai cáp công nhân là biết vạch đường lối,
có khả năng vận động và tập hợp các giai cấp khác cùng bị áp bức bóc lột
đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, và qua các cuộc đấu tranh ấy
nhận thức được xã hội, hình thành các ý thức giai cấp. Song, để đấu tranh đi
đến thắng lợi hoàn toàn, giai cấp công nhân có chính đảng tiên phong của
mình là đảng cộng sản, lãnh đạo giai cấp công nhân đứng lên giành chính
quyền và tiến hành cuộc cách mạng đối với xã hội tư bản, xây dựng xã hội
XHCN, tức là tạo những điều kiện xây dựng xã hội cộng sản, một xã hội
không có giai cấp.Đó là yêu cầu khách quan sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân.
- Giai cấp nông dân: là giai cấp của những người lao động trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp bao gồm: Trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư
nghiệp….
+ Giai cấp nông dân có nhiều ưu điểm như: Lao động rất cần cù, chịu
khó, tạo ra lương thực, thực phẩm nuôi sống con người, cung cấp nguyên
liệu cho công nghiệp và hàng xuất khẩu. Là lực lượng chiếm số đông trong
xã hội, và gắn bó lâu đời với cội nguồn của dân tộc nên có nhiều công lao
đóng góp trong sự nghiệp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Trong xã hội cũ, nông dân bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất nên họ có
tinh thần phản kháng chống áp bức, bóc lột và bất công.
+ Về hạn chế: Giai cấp nông dân là những người tư hữu nhỏ, tuy
nhiên tư hữu của nông dân không đồng nhất với tư hữu của giai cấp bóc lột.
Do phương thức sản xuất phân tán nên nông dân không có sự liên kết chặt
chẽ cả về kinh tế, tư tưởng và tổ chức. Giai cấp nông dân không có hệ tư
tưởng độc lập mà tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị xã hội. Nên nông dân không thể tự mình giải phóng mình. Muốn
được giải phóng, nông dân phải tham gia vào khối liên minh và chịu sự lãnh
đạo của giai cấp nông dân.
3
Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức là vấn đề có tính chất chiến lược lâu dài, có tính chất sinh tử của mọi
quá trình cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo. Điều này được xác
định trong cương lĩnh và đường lối chung của các Đảng Cộng sản, Lênin chỉ
rõ: “Nhân tố thắng lợi khồn phải ở chỗ công nhân tức vô sản hoàn toàn
chiếm ưu thế trong dân số toàn quôá và ở tính tổ chức của họ mà là ở chỗ vô
sản được ủng hộ của người nông dân nghèo khổ và bị phá sản.”
Điều đó cho thấy, để đảm bảo sự thắng lợi của cuộc cách mạng, liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân
dân lao động khác là một tất yếu khách quan. Muốn đưa cuộc cách mạng vô
sản đến thắng lợi phải làm cho cuộc cách mạng đó có tính nhân dân. Điều đó
có nghĩa là Đảng của giai cấp công nhân phải vạch ra được đường lối chiến
lược, sách lược cụ thể, có hiệu quả nhằm thu hút và tập hợp được đông đảo
quần chúng tham gia. Điều này vô cùng quan trọng đối với một nước tiểu
nông như nước ta.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng giải phóng người
lao động về mọi phương diện, do đó nó tạo ra khối liên minh tự nhiên giữa
các giai tầng trong xã hội vì lợi ích của chính mình. Cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa là một cuộc cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ, nó diễn ra
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, việc tập hợp lực lượng,
việc huy động sự sáng tạo của cả một cộng đồng vào sự nghiệp vĩ đại đó, là
vấn đề có tính quyết định sự thắng lợi. Lênin chỉ rõ: “Chuyên chính vô sản
là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản – đội
tiên phong của những người lao động với đông đảo những tầng lớp lao động
không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, người dân, trí thức)”.
4
Chủ nghĩa xã hội ngay từ khi mới ra đời đã gắn bó không chỉ với giai
cấp công nhân, nông dân mà còn cả với lực lượng trí thức tiến bộ và chân
chính. Cũng chính nhờ có một bộ phận trí thức gắn với cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình, xác định được
phương hướng – mục tiêu của cuộc đấu tranh. Chính thông qua những người
trí thức cách mạng ở mỗi quốc gia, mà chủ nghĩa xã hội thâm nhập được vào
cuộc đấu tranh của nhân dân lao động. Trong di huấn của mình, Ph.Ănghen
đã khẳng định: “Sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân đòi hỏi phải có
những bác sĩ, kĩ sư, nhà hóa học và các chuyên gia khác. Vấn đề là ở chỗ
giành quyền lãnh đạo không chỉcó bộ máy chính trị mà còn phải toàn bộ
nền sản xuất – xã hội nữa mà ở đây cần đến những kiến thức vững chắc, chứ
không phải những luận điểm huyênh hoang rỗng tuếch”.
Qua phân tích cơ cấu xã hội TBCN và kinh nghiệm lịch sử đấu tranh
của giai cấp công nhân, từ những tổn thất, thất bại trong cuộc đấu tranh đó,
các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng, vì đã không tổ chức liên minh với “người
bạn tự nhiên” của mình đó là nông dân Lê - nin đã vận dụng và phát triển lý
luận về liên minh công nông và các tầng lớp lao động khác của Mác trong
giai đoạn CNTB phát triển cao - giai đoạn ĐQCN, đã tổ chức liên minh và
nhờ đó giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Mười vĩ đại. Trong hoàn
cảnh lịch sử mới, giai cấp công nhân đã xoá bỏ được chế độ xã hội cũ, bước
đầu xây dựng xã hội mới, Lê nin lãnh đạo Đảng cộng sản tiếp tục mở rộng
liên minh, không chỉ chủ yếu công - nông trước đây mà các tầng lớp lao
động, đặc biệt nhấn mạnh hơn vai trò của tầng lớp trí thức.
Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, đã vận dụng một cách sáng tạo
nguyên lý đó, từng bước xây dựng được khối liên minh công - nông ngày
càng vững chắc và góp phần to lớn vào thắng lợi trong trong suốt quá trình
cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Từ Đại hội lần thứ II năm 1951, Đảng
ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của “liên minh công nhân với nông dân.
Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân trong thời kỳ quá độ lên CNXH, không phải xuất phát từ ý chí
chủ quan của các nhà kinh điển hay của các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín
5
muồi của những yếu tố, điều kiện khách quan.
Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp trong CNTB, C.Mác chỉ ra, ngoài
giai cấp công nhân là giai cấp đang phát triển mạnh mẽ cùng với nền công
nghiệp hiện đại thì còn các giai cấp và tầng lớp lao động xã hội khác thống
nhất với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và cùng đối lập với lợi ích cơ
bản với giai cấp tư sản. Từ những cuộc đấu tranh mang tính đối đầu đầu tiên
của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản bị thất bại, theo Mác là do công
nhân chiến đấu đơn độc, chưa liên hệ được với nông dân nên trở thành “bài
ca ai điếu”. Trong Cách mạng tháng Mười và sau khi giai cấp công nhân đập
tan chính quyền của giai cấp thống trị bóc lột, Lênin khẳng định “Chuyên
chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp
vô sản, đội tiền phong của những người lao động với đông đảo những tầng
lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”
Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là
công việc hoàn toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng không chỉ cho
giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá
độ còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số.
Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò
khác nhau. Để thực hiện được vai trò lãnh đạo tiên phong của mình, giai cấp
công nhân mà đứng đầu là ĐCS phải tổ chức tập hợp được mọi lực lượng xã
hội, trong đó chủ yếu là nông dân, trí thức. Muốn thế phải nắm bắt được đặc
điểm, vai trò, nhu cầu của các giai cấp tầng lớp.
Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày
càng đông đảo theo sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp trong nước
cũng như trên thế giới. Họ có những đặc điểm riêng có, ưu việt mà không có
giai cấp nào có được. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi thế giới, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất
tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi đầu trong việc giải phóng con
người, giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách
mạng, vì sự nghiệp cách mạng nào cũng là sự nghiệp của quần chúng. Việc
tìm đến với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là một nhu cầu tự thân.
Giai cấp nông dân là một tập đoàn xã hội đông đảo sinh sống trên địa
bàn nông thôn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với tư liệu sản xuất đất
rừng, sông biển, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị
trường về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất
khẩu. Nông dân có tính hai mặt, vừa là người lao động, đồng thời là người tư
hữu nhỏ. Trong mọi chế độ xã hội nông dân không có hệ tư tưởng độc lập,
luôn luôn phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị đương thời. Luôn
có nguyện vọng được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng chưa bao
6
giờ tự làm nổi cuộc cách mạng tự giải phóng của mình. Tuy nhiên, nông dân
luôn có vai trò to lớn trong mỗi chế độ xã hội, là lực lượng cách mạng của
giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ của các giai đoạn lịch sử.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi
chế độ áp bức bóc lột, nhưng đa số nông dân vẫn có đời sống còn thấp kém
hơn các giai tầng xã hội khác. Mặt khác nông dân lại có vai trò to lớn trong
cuộc cách mạng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Họ là lực lượng sản
xuất đông đảo đầy tiềm năng, là nguồn cung cấp nhân lực cho công nghiệp
hóa, là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu cho xã hội, thị trường
đầy tiềm năng trong nền kinh tế thị trường của thời kỳ quá độ. Giai cấp nông
dân đã được giai cấp công nhân giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu
cầu tìm đến với giai cấp công nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ, nên là
người bạn tự nhiên, gần gũi nhất của giai cấp công nhân. Đây chính là mối
quan hệ đồng hành, gắn bó khách quan tạo ra sự cố kết chặt chẽ công –
nông.
Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
đều là những lực lượng lao động sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với
những đặc điểm, vai trò xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp đông đảo
nhât trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt đối với các nước tiền tư bản,
nông nghiệp lạc hậu quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH đây là lực
lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công
nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách
quan từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó
không chỉ giành được sự thắng lợi mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ
nổi”
Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công - nông,
không chi trong giai đoạn giành chính quyền, mà còn đặc biệt lưu ý trong
giai đoạn xây dựng CNXH “trong thời đại chuyên chính vô sản”. Trong cuộc
cách mạng giành chính quyền, cần phải liên minh thì trong sự nghiệp xây
dựng xã hội mới liên minh càng phải được tiếp tục duy trì và củng cố.
Muốn xây dựng được khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân với các tầng lớp lao động khác trong tiến trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa cần phải đảm bảo những nguyên tắc sau đây:
+ Phải đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
V.I.Lênin cho rằng, xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân không có nghĩa là chia quyền lãnh đạo của hai giai cấp
này mà phải đi theo đường lối của giai cấp công nhân. Giai cấp nông dân là
giai cấp gắn với phương thức sản xuất nhỏ, cục bộ, phân tán, không có hệ tư
tưởng độc lập. Do đó, chỉ có đi theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân mới
7
có thể tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Lênin khẳng định: “… chỉ
có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mới có thể giải phóng quần chúng tiểu
nông thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản và dẫn họ tới chủ nghĩa xã hội”.
+ Phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện
V.I.Lênin đã nhiều lần nhắc nhở những người cộng sản ở Ngà là phải
bẳng những việc làm cụ thể để cho giai cấp nông dân thấy rằng, đi với giai
cấp vô sản có lợi hơn đi với giai cấp tư sảnm từ đó họ tự nguyện đi với giai
cấp công nhân. Có thực hiện trên tinh thần tự nguyện thì khối liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân mới có thể bền vững, lâu dài.
+ Kết hợp đúng đăn các lợi ích
Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân có những lợi ích cơ bản là
thống nhất, bởi vì họ đều là những người lao động, đều bị bóc lột dưới chủ
nghĩa tư bản. Sự thống nhất lợi ích này tạo điều kiện thực hiện sự liên minh
giữa họ. Song, giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là những chủ
thể kinh tế khác nhau. Giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất
mới cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp nông dân gắn vớ chế độ tư hữu nhỏ. Mà
chế độ tư hữu nhỏ thì mâu thuẫn với phương thức sản xuất cộng sản chủ
nghĩa là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy cần phải quan tâm
giải quyết mâu thuẫn này, phải thường xuyên phát hiện những mâu thuẫn
nảy sinh và giải quyết kịp thời, phải chú ý tới những lợi ích thiết thực của
nông dân. Sau nội chiến ở Nga, V.I.Lênin đã áp dụng Chính sách kinh tế
(NEP), thay chính sách trưng thu lương thực thừa bằng chính sách thuế
lương thực. Nhà nước quy định nghĩa vụ đóng thuế lương thực cho nông
dân. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thuế, người nông dân có thể tự do trao đổi
phần lương thực thừa. Điều đó đã phát huy được tính tích cực của người
nông dân, đã nhanh chóng đưa nước Nga thoát khỏi những khó khăn sau
thời kỳ nội chiến. V.I.Lênin cho rằng: “Chúng ta phải để cho nông dân, với
tư cách là người sản xuất nhỏ, có được một phạm vi tự do khá lớn. Không
nâng cao kinh tế nông dân, chúng ta không thee giải quyết được tình hình
lương thực”; cần phải có những những nhượng bộ nhất định đối với nông
dân.
“Nguyên tắc cao nhất của CCVS là duy trì khối liên minh…để giai cấp
vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo và chính quyền nhà nước”. Trên cơ
sở đó để giai cấp công nhân thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội mới, như
mục tiêu Đảng ta đã đề ra là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Vai trò đó chỉ được giữ vững và thực hiện có kết quả tốt khi
tổ chức tốt liên minh công, nông và trí thức. Xét về lợi ích cơ bản và mục
tiêu của Nhà nước XHCN là xây dựng thành công CNXH, vì lợi ích của toàn
thể nhân dân, nhưng nhân dân lại tập trung chủ yếu trong công nhân, nông
dân. Đó là tất yếu về chính trị - xã hội. Vì mục têu chung cũng như lợi ích
8
chính trị của từng giai cấp, tầng lớp là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và
những thành quả của cách mạng XHCN, các giai cấp tâng lớp không được
tách rời nhau hoặc hoạt động tự phát mà phải gắn bó hữu cơ với nhau thành
một khối liên minh vững mạnh. Liên minh phải được Đảng cộng sản - đội
tiền phong của gia cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức hoạt động, thống nhất
cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì mới làm cơ sở cho Nhà nước XHCN
và nòng cốt của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở gắn kết của các giai
cấp tầng lớp công - nông ở nước ta còn tất yếu chính trị từ trong cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ. Nhờ sự lãnh đao của Đảng, họ đã đoàn kết lại trong
mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó liên minh công nông là nòng cốt. Lợi
ích, niềm tin của công nhân, nông dân, trí thức đối với Đảng đã được thiết
lập vững chắc. Bước vào thờI kỳ quá độ, mối liên kết chính trị đó tiếp tục
được phát huy cao độ hơn. Sự phân tích trên cho thấy cơ sở khách quan, là
diều kiện chính tri- xã hội để liên minh công - nông ngày càng bền chặt hơn.
Lê - nin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang
giai đoạn “ chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong
lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy
kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật
của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, mà nhiệm vụ trung tâm là
CNH, HĐH. Do đó phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công
nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh
tế nông nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng
được nền công nghiệp. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ về tính tất yếu này: biến
nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Tư tưởng đó tiếp tục được thể
hiện trong hội nghị trung ương bảy( Khóa IX), trung ương bảy (Khóa X).
Tóm lại, khi liên minh công - nông được thiết lập, củng cố trên cơ sở các
điều kiện khách quan đó thì liên minh trở thành nền tảng chính trị - xã hội
vững chắc cho sự lãnh đạo của ĐCS, cho Nhà nước. Để tập hợp lực lượng
rộng rãi quần chúng nhân dân trong khối Đại đoàn kết toàn dân cũng phải
lấy liên minh công – nông làm nòng cốt. Có liên minh cũng là điều kịên bảo
đảm ổn định chính trị cho công cuộc đổi mới, cải cách của CNXH.
II. NỘI DUNG CỦA LIÊN MINH CÔNG NÔNG:
9
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin cho rằng liên minh giữa công nhân – nông
dân – trí thức là sự liên minh toàn diện bao gồm cả kinh tế, chính trị và văn
hóa – xã hội
1. Nội dung liên minh về chính trị
-
Cùng tham gia vào chính quyền nhà nước
Cùng bảo vệ chế độ và thành quả cách mạng
Dựa trên lập trường chính trị của giai cấp công nhân
Trên lĩnh vực chính trị, liên minh giữa giai cấp công nhân với nông
dân và tầng lớp tri thức nhằm tạo lập một nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà
nước mang bản chất giai cấp công nhân, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Liên minh về chính trị là tạo ra sự thống nhất giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức về ý chí, về tình cảm, về sức mạnh
và trí tuệ trong việc giành chính quyền, giữ chính quyền và xây dựng nhà
nước chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên
minh này taọ ra sức mạnh và trí tuệ giữ vững và tạo lập sự ổn định về chính
trị và phát triển kinh tế đất nước. Chính trị ổn định tạo điều kiện phát triển
kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
theo sự phát triển của đất nước. Vì vậy, bảo đảm sự ổn định về chính trị là
một nội dung cực kỳ quan trọng của liên minh. Đảng cần có trách nhiệm
nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng nhân dân, làm cho mọi
thành viên trong khối liên minh giác ngộ, thấu hiểu, tin tưởng và đường lối,
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Liên minh trên lĩnh vực chính trị là phải từng bước xây dựng một nhà
nước pháp quyền phù hợp với đạo lý và truyền thống Việt Nam. Để rút ngắn
khoảng cách và trình độ phát triển giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới,
chúng ta phải phát huy cao độ nội lực dân tộc, phát huy dân chủ, phát huy
sức mạnh của khối liên minh.
Phát huy dân của phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực
hiện quản lý xã hội pháp luật một cách có hiệu quả, tạo sự thống nhất lợi ích
giữa công nhân, nông dân, tri thức và những người lao động khác. Với một
thể chế dân chủ hiệu quả, công nhân, nông dân và trí thức sẽ có điều kiện thể
hiện tâm huyết và trí tuệ của mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh, dộng lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
10
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc”.
Như vậy, liên minh công nhân, nông dân và tri thức cần phải trở thành
hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Việc đoàn kết mọi người dân
Việt Nam là một nhiệm vụ trong đại của khối liên minh nhằm phát huy sức
mạnh của cả cộng đồng dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Liên minh trên lĩnh vực chính trị bao gồm cả việc đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ tổ
quốc, bảo vệ chế độ chính trị và giữ vững thành quả cách mạng, loại trừ mọi
mưu toan làm mất uy tín của Đảng, làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà
nước.
2. Nội dung liên minh về kinh tế
- Xây dựng nền công – nông nghiệp hiện đại
- Dựa trên chế độ công hữu về TLSX chủ yếu
- Xây dựng hệ thống chính sách KT phù hợp
- Đặc biệt quan tâm đến GCND
Đây là nội dung có tính chất quyết định nhất của liên minh, nhằm đảm
bảo sự tồn tại, ổn định và phát triển của đất nước. Nội dung liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức về kinh tế trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa phải dựa trên cơ sở là sự liên kết hỗ trợ phát
triển giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ để phát
triển kinh tế. Sự liên kết giữa các ngành kinh tế sẽ tạo ra một mối quan hệ
mật thiết tự nhiễn giữa công nhân với nông dân và trí thức để xây dựng cơ
sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nền kinh tế công nghiệp,
nông nghiệp hiện đại và khoa học tiên tiến.
Nội dung liên minh trên lĩnh vực kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, trước hết phải đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại
hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kì này là phải
xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, trong đó có công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan
trọng trên cần phải tiến thành chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành
nền kinh tế công nghiệp.
Thực chất của nội dung liên minh trên lĩnh vực kinh tế chính là thông
qua các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp, nguồn lực con người trong công nhân, nông dân, trí thức và
11
những người lao động khác để đa dạng hóa các hình thức hợp tác, liên kết,
giao lưu kinh tế nhằm rút ngắn thời gian công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Trong điều kiện hiện nay, sự liên minh về kinh tế là nội dung quan
trọng, là cơ sở để đạt tới liên minh có hiệu quả về chính trị. Đồng thời liên
minh về chính trị vừa là định hướng, vừa là điều kiện đảm bảo bền vững cho
sự liên minh về kinh tế. Do đó, công nghiệp hóa – hiện đại hóa phải đảm bảo
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ bao gồm:
- Độc lập tự chủ về đường lối, chính sách phát triển kinh tế và
hợp tác kinh tế quốc tế
- Có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có mức tích lũy ngày càng cao
từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.
- Có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh, kết cấu hạ tầng
ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp then
chốt.
- Có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng
ứng dụng các công nghệ hiện đại tiếp cận trình độ thế giới.
- Giữ vững ổn định kinh tế - tài chính vĩ mô, bảo đảm an ninh
lương thực, an toàn năng lượng tài chính, môi trường.
Với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiềm năng, trí tuệ của
khối liên minh được phát huy. Chúng ta có khả năng xây dựng thành công
nền kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đấy đủ hơn với các thể chế kinh
tế toàn cầu, khu vực, song phương, đa phương, lấy phục vụ lợi ích đất nược
làm mục tiêu cao nhất.
3 . Nội dung liên minh về văn hóa:
- Nâng cao dân trí
- Xây dựng một xã hội nhân văn, nhân đạo
- Tạo điều kiện cho nhân dân tham gia quản lí nhà nước
Phát triển giáo dục đào tạo – là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững
Cần chú ý bồi dướng cho công nhân, nông dân, trí thức và đặc biệt là
thế hệ trẻ yêu nước
Cần có chính sách đào tạo và xây dựng một đội ngũ công nhân, nông
dân, trí thức có được những kiến thức cơ bản, làm chủ kĩ năng nghề nghiệp,
nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên nắm bắt khoa học công nghệ
12
Bên cạnh đó cần coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học
sinh nhằm tạo lập một đội ngũ công nhân, nông dân, trí thức có năng lực, có
tay nghề thích ứng với thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xây dựng nền văn hóa tiến đậm đà bản sắc dân tộc, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội.
Đây là một nhiệm vụ trọng tâm của khối liên minh. Bởi vì mọi hoạt
động văn hóa, xã hội đều nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo,
có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, tôn trọng nghĩa tình
Cần có chính sách để đội ngũ trí thức và nghệ sĩ thâm nhập vào đời
sống lao động xã hội của công nhân, nông dân để tìm hiểu, sang tác phục vụ
nhu cầu của công nông.
Nâng cao trình độ mọi mặt cho nhân dân.
Do nhiều nguyên nhân trình độ của nhân dân ta ở nông thôn vẫn rất
thấp so với thành thị. Số lao động trong công nghiệp, nông nghiệp chưa qua
đào tạo cần phải được đào tạo lại còn lớn. Hệ thống chính sách về văn hóa,
khoa học, kĩ thuật phục vụ nông thôn, phát triển giáo dục, y tế, vệ sinh môi
trường sinh thái… còn nhiều hạn chế, bất cập. Do vậy phải “Phát huy tinh
thần tự nguyện, tinh thần tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong
đời sống văn hóa. Đa dạng hóa các hình thức hoạt động của phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đẩy mạnh phong trào
“người tốt việc tốt”, ngăn chặn việc phục hồi các hủ tục, khắc phục và ngăn
chặn tệ nạn xã hội, làm cho văn hóa thâme sâu vào từng khu vực dân cư,
từng gia đình, từng người. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh
tế - chính trị - xã hội và sinh hoạt của nhân dân. Tạo điều kiện để nhân dân
ngày càng nâng cao trình độ thẩm mý và thưởng thức nghệ thuật, và chính
họ trở thành chủ thể sang tạo văn hóa, đồng thời được hưởng thụ ngày càng
nhiều hơn các thành quả văn hóa.
Giải quyết các hậu quả, vấn đề lao động, việc làm và phân hóa giàu nghèo
trong xã hội.
13
Lao động và việc làm là những vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng lớn đến đời
sống của các giai cấp trong khối liên minh, tác động trực tiếp đến đời
sống của công nhân, nông dân và trí thưc.
Đây là nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết của
liên minh.
Giải quyết tốt vấn đề này không chỉ xóa đói giảm nghèo mà còn là điều
kiện tạo lập vật chất và tinh thần cho các thành viên trong khối liên minh,
ngăn chặn có hiệu quả các tệ nạn xã hội.
Do đó, cần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các cơ sở sản
xuất, kinh doanh. Khôi phục và phát triển các làng nghề, mở rộng thị
trường lao động trong nước. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức và
có hiệu quả, khuyến khích người lao động tự đi tìm việc làm, nâng cao
trình độ đào tạo lại, học nghề mới, đẩy mạnh phong trào lập nghiệp của
thanh niên.
Bên cạnh vấn đề lao động về việc làm cũng cần phải thực hiện chương
trình xóa đói giảm nghèo một cách có hiệu quả nhất.
III – LIÊN MINH CÔNG NHÂN – NHÂN DÂN – TRÍ
THỨC TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN
NAY:
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức’’ là nhiệm vụ lớn thứ tư trong 12 nhiệm vụ lớn mà Nghị quyết Đại Hội
X của Đảng đã đề ra. Trong nhiệm vụ này, Liên minh công, nông, trí đóng
một vai trò vô cùng quan trọng.
Trước hết, để trở thành một thành viên tích cực trong Hiệp hội các nước
Đông Nam Á (ASEAN), Hiệp hội kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC)
cũng như để trở thành một thành viên đáng tin cậy trong Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) như bạn bè quốc tế mong đợi, chúng ta phải tích cực
phát huy sức mạnh của Liên minh công, nông, trí. Chỉ có sức mạnh này mới
có thể thực hiện tốt nhiệm vụ trên, tạo ra thế đứng vững vàng, tăng thêm uy
tín quốc tế để chúng ta hoàn thành tốt trách nhiệm là thành viên Không
thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp Quốc mà Việt Nam mới được
bầu chọn với tỷ lệ phiếu bầu cao hiếm khi có được (183/190). Nói đến sức
mạnh của Liên minh công, nông, trí, chúng ta cần nhìn qua nguồn gốc ra đời
và lịch sử vẻ vang của tổ chức chính trị quan trọng này.
1- Nguồn gốc ra đời và lịch sử vẻ vang.
14
Lịch sử cho thấy đại đa số công nhân Việt Nam ra đời trong chế độ thực
dân nửa phong kiến hồi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều xuất thân từ
nông dân. Như vậy, ngay từ khi giai cấp công nhân Việt Nam mới ra đời,
giữa công nhân và nông dân đã có mối quan hệ gắn bó máu thịt.
Gắn bó về xã hội đi đôi với gắn bó về kinh tế, chính trị trong cuộc sống.
Cụ thể là, những người lao động từ nông thôn ra vùng mỏ đều cố giữ lấy
một mảnh ruộng công hay tư ở quê nhà, dẫu phải chịu sưu cao hơn những
người cùng đinh vô sản. Mục đích là nhằm khi thất cơ lỡ vận còn có thể trở
về bám lấy cái cuống nhau làng xã mà sống. Cũng vậy, người nông dân khi
ra vùng mỏ trở thành công nhân rồi vẫn gắn kết các cuộc đấu tranh của công
nhân với các cuộc đấu tranh của nông dân quê hương. Liên minh công nông từ đây đã hình thành một cách tự nhiên. Đông đảo nhất là công nhân
các mỏ than (khu mỏ Hồng Gai) và công nhân đường sắt (Hà Nội - Lào Cai,
Bắc - Nam...). Họ là những người đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh chống đế
quốc phong kiến, nơi đây đã cho ra đời những cơ sở đầu tiên của cách mạng
và góp phần đào tạo nên nhiều nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng qua phong
trào vô sản hoá. Nhắc qua các mối quan hệ kể trên để thấy, đó là tiền đề quý
báu để xây dựng nên Liên minh công-nông vững chắc từ khi Đảng ra đời
đến nay. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về “Liên minh côngnông’’, Đảng ta đã xây dựng nên khối đoàn kết rộng rãi giữa các giai cấp
tầng lớp yêu nước, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy Liên minh
công-nông làm cơ sở, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đường lối
đó đem lại thành công to lớn qua các thời kỳ cách mạng.
Kế thừa di sản lịch sử thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, Đại hội lần thứ
VI của Đảng đã phát huy vai trò Liên minh công-nông trong công cuộc đổi
mới với sáng tạo độc đáo Việt Nam là ‘’Đổi mới tư duy”. Đại hội nêu rõ:
“Đảng phải đổi mới nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế’’.
Điều này có tác dụng quan trọng đến việc củng cố liên minh công, nông, trí.
Các Hội nghị TƯâ khoá VI tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
đều có chú ý đến củng cố liên minh công, nông, trí: Hội nghị TW lần thứ 2
(4-1987) bàn những vấn đề cấp bách về “lưu thông phân phối”. Hội nghị TƯ
lần thứ 6 (3-1989) quyết định rõ 12 chủ trương, chính sách lớn, trong đó
nhấn mạnh đến những vấn đề quan trọng hàng đầu là điều chỉnh cơ chế kinh
tế, tập trung thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế, thực hiện
nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng
lực sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý, chuyển mạnh sang hạch toán kinh
doanh, nhấn mạnh yếu tố thị trường, coi thị trường vừa là một căn cứ, vừa là
một đối tượng của kế hoạch hoá. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (còn gọi là
‘’khoán 10’’) năm 1988, khoán đến hộ gia đình đã đưa sản xuất nông nghiệp
15
phát triển. Thành quả cụ thể, như chúng ta đã biết: Lạm phát bị đẩy lùi từ ba
con số xuống còn 2 con số, sản xuất nông nghiệp phát triển, từ chỗ phải
nhập khẩu gạo (năm 1988 còn nhập 45 vạn tấn) thì từ năm 1989 trở đi chúng
ta đã có gạo xuất khẩu… Đây là sự tháo gỡ quan trọng các khó khăn vướng
mắc do thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội (1978-1985) để lại, đồng thời
cũng là tháo gỡ khó khăn trong yêu cầu củng cố và phát triển khối liên minh
công - nông.
2- Từ Liên minh công - nông đến Liên minh công, nông, trí.
Chính trong quá trình tìm đường thoát ra khỏi khủng hoảng, Trung ương
Đảng đã coi trọng sử dụng trí thức khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,
khiến các ngành khoa học này có đóng góp đáng kể vào Đại hội VI và vào
quá trình thực hiện Nghị quyết của Đại hội. Nếu trước kia khoa học xã hội
chỉ nhằm để thuyết minh các nghị quyết của Đảng thì từ nay các chương
trình khoa học xã hội đã góp phần tích cực vào việc xây dựng các Nghị
quyết của Đảng, xây dựng Cương lĩnh, Chiến lược của Đảng và Nhà nước.
Khoa học tự nhiên - kỹ thuật cũng được trọng dụng, đội ngũ khoa học kỹ
thuật tăng lên đã đóng góp được nhiều vào công cuộc đổi mới. Nhờ thắng lợi
do Đại hội VI đem lại, mà văn hoá, khoa học phát triển, đội ngũ trí thức tăng
lên và được trọng dụng.
Đó là một trong những nguyên nhân làm chuyển biến nhận thức của
Đảng, đưa đến sự ra đời Liên minh công, nông, trí trong Đại hội VII.
Đại hội VII nêu rõ: “Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi mở
rộng nền tảng của khối liên minh công-nông, từ liên minh công-nông thành
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức’’
(Văn kiện Đại hội VII, Nxb ST, 1991, tr.114). Từ đây kinh tế xã hội tăng
trưởng ngày một cao, văn hoá, khoa học ngày càng phát triển. Quá trình
“Công-nông trí thức hóa” và “Trí thức công nhân hoá’’ diễn ra nhanh chóng.
Nhiều gia đình công nhân, nông dân, trí thức có con cháu trở thành trí thức.
Từ tiểu trí thức, tốt nghiệp cấp III phổ thông (xưa là tú tài) đến trung trí thức
(đại học, cao đẳng - cử nhân, kỹ sư) đến trí thức cao cấp (tiến sĩ, giáo sư).
Các nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà thơ, kể cả các doanh nhân và lớp chủ
trang trại làm ăn khá giả ngày càng nhiều, có khi bằng cấp không cao nhưng
trí tuệ lại rộng, hàm lượng trí thức chứa trong sản phẩm lại cao. Tất cả đều
mang trong mình cái chất mới của thời đại: chất công-nông-trí kết hợp ở thế
kỷ XXI. Công, nông, trí đan xen lẫn nhau, thâm nhập vào nhau, chuyển hoá,
thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển... Ngoài quan hệ với nhau có tính chất máu
thịt còn có quan hệ về kinh tế, văn hoá, xã hội… khiến sức mạnh của Liên
minh công, nông, trí được nhân lên gấp bội. Những mâu thuẫn gay gắt về
16
giai cấp như giữa tư sản và vô sản thường xẩy ra trong xã hội TBCN đã
không bộc lộ gay gắt ở đây (nhờ có Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước
điều chỉnh trong quan hệ phân phối sản phẩm lao động). Đến cả sự cách biệt
về mức độ hưởng thụ, độ chênh lệch giữa giàu và nghèo cũng được từng
bước giảm dần nhờ các chủ trương xoá đói giảm nghèo, tương trợ, hợp tác…
Bước đầu đã có những hình thức tổ chức mới để phát huy sức mạnh của
Liên minh công, nông, trí:
-Tổ chức Liên kết 4 nhà: Nhà nước, Nhà nông, Nhà khoa học, Nhà
doanh nghiệp trong phát triển nông nghiệp, nông thôn (báo Nhân Dân, 7-102003)
- Liên kết giữa Mặt trận Tổ quốc và các ngành văn hoá thông tin trong
xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá ở nông thôn, đô thị
- Liên kết giữa ngành Công nghệ Thông tin với các địa phương, các
trường học, các cơ quan... nối mạng Internet về nông thôn
- Liên kết giữa ngành Bưu chính Viễn thông với các địa phương phát
triển hệ thống các Nhà Bưu điện văn hoá xã, mà đến nay đã có hàng vạn đơn
vị đi vào vận hành có hiệu quả…
3- Phát huy tác dụng của Liên minh công, nông, trí “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức”””
trong quá trình hội nhập quốc tế.
Hiện nay giai cấp công nhân Việt Nam đang phấn đấu để có thể đóng
được vai trò chính trong phát triển lực lượng sản xuất đưa đất nước chuyển
nhanh từ nền văn minh công nghiệp lên nền văn minh trí tuệ mà nền tảng là
kinh tế tri thức.
Về kinh tế tri thức, trong phần “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức”, Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng
đã chỉ rõ: “Tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm
năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh
tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại
hoá’’ (ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG,
H, 2006, tr.87). Kinh tế tri thức tuy không phải là một hình thái kinh tế xã
hội, nhưng lại là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước
hiện nay và là một trong những nhân tố có tính quyết định trong sự phát
triển của hình thái kinh tế xã hội XHCN của chúng ta. Kinh tế tri thức là nền
kinh tế tạo ra sản phẩm xã hội mới là “người công nhân tri thức” (knowledge
worker). Do đó, nét mới của thành phần trí thức trong Liên minh công, nông,
trí hiện nay là: Cùng với số lao động và công nhân trí thức nói chung
17
(Intellectuel labour, Intellectuel worker) được quy định theo bằng cấp, học
hàm, học vị, cùng những lao động có tay nghề cao, có sản phẩm có hàm
lượng trí tuệ cao trong mọi ngành sản xuất, còn có lớp người mà khoa học
thế giới thống nhất gọi là lao động tri thức hay công nhân trí thức. Lớp
người lao động này đang xuất hiện trong các ngành công nghệ thông tin,
công nghệ vật liệu mới, trong công nghiệp điện tử, nguyên tử, vũ trụ học,
điều khiển học, vật lý, hoá học, thiên văn, hàng không, bưu chính viễn
thông, dầu khí vv... ở đây sản phẩm chủ yếu là từ tri thức mà ra. Để “Đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức” theo
Nghị quyết của Đảng, chúng ta phải đặc biệt coi trọng phát triển nhanh đội
ngũ “Công nhân trí thức” - đội ngũ chủ chốt của giai cấp công nhân trong
nền văn minh trí tuệ.
Theo một quy định chung hiện nay đã được nhiều nước chấp nhận thì
những “tiêu chí của nền kinh tế tri thức” được gói gọn trong con số 70%:
a/ Trên 70% GDP là do các ngành sản xuất và dịch vụ ứng dụng công
nghệ cao mang lại
b/ Trong cơ cấu giá trị gia tăng, trên 70% là kết quả của lao động trí óc
c/ Trên 70% là công nhân trí thức
d/ Trên 70% vốn là vốn về con người.
Hiện nay, trong các tiêu chí a/, c/, chúng ta chỉ mới đạt được khoảng từ
10 đến 15%. Đảng và Nhà nước cần có chính sách đẩy nhanh sự phát triển
của đội ngũ công nhân trong các công nghệ cao như: Công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, điện tử, nguyên tử, vũ trụ học, công nghệ vật liệu mới,
cũng như trong bộ máy Chính phủ điện tử, Thương mại điện tử nhất định sẽ
phải ra đời... để có nhiều công nhân trí thức. Đây là những ngành đã được đề
cập đến trong định hướng phát triển kinh tế xã hội do các Đại hội Đảng đề ra
trong giai đoạn hiện nay.
Biện pháp cụ thể trong thực hiện mục tiêu này là:
a/ Kiểm tra thực trạng các ngành công nghệ cao và đề ra chỉ tiêu cụ thể
cho việc đào tạo, tuyển dụng, phát triển hàng năm và trong cả kế hoạch 5
năm. Một khi đã đề ra chỉ tiêu trong kế hoạch Nhà nước thì phải có chính
sách và biện pháp hữu hiệu để thực hiện.
b/ Có chính sách ưu tiên trong chu cấp kinh phí, tạo nguồn nhân lực và
đào tạo nhân tài trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
c/ Có chính sách thu hút nhân tài trong và ngoài nước. d/ Có chính sách
thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trong đào tạo, tuyển dụng, sử dụng lao
động.
d/ Có chính sách khen thưởng, cổ vũ những “Nhân tài đất Việt” trong
các lĩnh vực.
18
e/ Mục tiêu nhằm đưa số lượng công nhân trí thức từ trên dưới 10% hiện
nay, lên đạt tới 20% năm 2010...
Liên minh công, nông, trí với sự tăng cường số lượng công nhân tri thức
sẽ có thể góp phần giải quyết được những yêu cầu mà hội nhập quốc tế đặt
ra:
1/ Yêu cầu từ thực tiễn trong nước đặt ra với liên minh công, nông, trí là
phải:
a/ Làm thế nào để có thật nhiều cánh đồng cho trên 50 triệu đồng/ha sản
phẩm năm? Có thật nhiều nông hộ có doanh thu trên 50 triệu đồng/năm?
b/ Làm thế nào để nông sản biến thành sản phẩm công nghiệp, không
phải xuất thô với giá rẻ mạt?
c/ Làm thế nào để cung cấp đủ nhân lực có tay nghề đáp ứng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và số lao động dôi dư ở nông thôn có
được việc làm, hạn chế được nạn thất nghiệp?
d/ Làm thế nào để các khu công nghiệp mới triển khai xây dựng hay các
trục giao thông cần mở rộng lại, được nông dân tích cực góp phần nhanh
chóng giải phóng mặt bằng?
đ/ Làm thế nào để ngăn chặn được nạn ma tuý?
e/ Làm thế nào để nhanh chóng xoá được đói, giảm được nghèo?
g/ Làm thế nào để hạn chế được nạn tham nhũng hiện đang là quốc nạn?
…
2- Yêu cầu do thực tiễn hội nhập quốc tế đặt ra đối với liên minh công,
nông, trí là phải :
a/ Làm thế nào để tăng được hàm lượng trí tuệ trong mọi loại sản phẩm
xã hội?
b/ Làm thế nào để ngoại thương của ta có thể mở rộng ra thị trường quốc
tế và tăng cường được sức cạnh tranh quốc tế?
c/ Làm thế nào để có thể cân bằng được xuất-nhập khẩu, cố gắng đạt tới
xuất siêu, giảm thiểu nhập siêu?
d/ Làm thế nào để bảo đảm được Việt Nam luôn có vai trò là một thành
viên đáng tin cậy trong ASEAN, WTO và APEC...
đ/ Liên minh công, nông, trí phải tăng cường sức mạnh của mình để góp
phần tích cực, thậm chí đóng vai trò chủ chốt trong giải quyết các yêu cầu
trên. Hay nói một cách khác là, tất cả đều cần đến bàn tay của Liên minh
công, nông, trí mới đạt đuợc hiệu quả cao.
Thực tế lịch sử vừa qua đã cho thấy rõ: Từ thiếu đói những năm 80 của
thế kỷ trước, đến nay mới qua hơn 20 năm, Việt Nam đã trở thành nước xuất
khẩu gạo đứng thứ hai, xuất khẩu hạt tiêu, hạt điều đứng thứ nhất trên thế
giới... Đó là điều chứng minh hùng hồn cho vai trò liên minh giữa nhà nông
và công nhân nông nghiệp, chế biến sản phẩm nông nghiệp với các nhà khoa
19
học nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng... Các ngành kinh tế
khác cũng có những thành quả đáng khích lệ do Liên minh công-nông góp
phần tạo nên.
Lịch sử đang mở ra một chân trời mới cho sự phát triển của Liên minh
công, nông, trí. Vấn đề còn lại là sự nỗ lực của chúng ta
* Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Do điều kiện lịch sử ở một nước thuộc địa, GCCN Việt Nam ra đời và
trưởng thành gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên xây
dựng CNXH. GCCN Việt Nam có mối quan hệ tự nhiên, máu thịt với giai
cấp nông dân, với tầng lớp trí thức và nhân dân lao động.
Đó là những cơ sở để xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức bền
vững ở nước ta. Đó cũng là cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc bảo đảm vị trí
lãnh đạo của Đảng trong điều kiện hiện nay. Sau hơn hai mươi năm tiến
hành đổi mới, từ một nước nông nghiệp là chủ yếu, chúng ta đang chuyển
dần thành một nước công nghiệp theo xu hướng hiện đại. Tham gia vào đủ
các thành phần kinh tế. GCCN Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và đã có nhiều cố gắng để
phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong những năm đổi mới,
GCCN nước ta đã có những bước phát triển tích cực, mạnh mẽ, đang tăng
nhanh về số lượng, ngày càng đa dạng về cơ cấu, đồng thời chất lượng đội
ngũ được nâng lên, đã xuất hiện bộ phận công nhân trí thức. Cùng với các
giai cấp, giai tầng xã hội khác trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, GCCN
đã có đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Về mặt sản xuất, GCCN là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trò to lớn trong
nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng GCCN ở nước ta chiếm tỷ lệ
không lớn trong tổng số dân cư (khoảng 13%) nhưng nắm giữ những cơ sở
vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định
phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế. GCCN là lực lượng lao
động đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. Hằng năm GCCN đóng
góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60% ngân sách nhà
nước. Sự lớn mạnh của GCCN là nhân tố quan trọng để đưa công cuộc đổi
mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Hội nghị
T.Ư 6 (khóa X) khẳng định: "Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử
to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến;
20
giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt
trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng". Mục tiêu phấn đấu của chúng ta đến năm 2020
là đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Trong thời gian từ nay đến mốc thời gian đó, kinh tế thế giới chuyển
mạnh sang nền kinh tế tri thức, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ cao, khoảng
cách giữa các nước giàu và nghèo sẽ ngày càng gia tăng. Do vậy, sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước phải đẩy mạnh hơn, CNH phải gắn với kinh tế tri thức
để rút ngắn thời gian, bảo đảm kinh tế phát triển bền vững, môi trường được
bảo vệ, an sinh xã hội được tăng cường, xã hội phát triển hài hòa, nguồn
nhân lực ngày càng có chất lượng, trình độ cao. Trong bối cảnh đó, nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ
đi lên CNXH ở nước ta, với đầy đủ những mặt tích cực và cả những mặt trái
của nó đặt ra cho GCCN Việt Nam những đòi hỏi mới, những thử thách mới
phải vượt qua. Tuy vậy, việc nhận thức đúng và phát huy vai trò của giai cấp
công nhân trong thời kỳ mới còn nhiều bất cập. Nghị quyết Hội nghị T.Ư 6
(khóa X) chỉ rõ: "Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng
quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công
nhân trong thời kỳ mới. Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật xây
dựng giai cấp công nhân, nhưng chính sách, pháp luật này vẫn còn hạn
chế..."; "tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn
thấp... Lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với
những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình;
việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó
khăn, bức xúc...". Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa được thể hiện
đầy đủ. Sự phát triển của giai cấp công nhân cũng chưa đáp ứng được yêu
cầu về số lượng, về cơ cấu và trình độ học vấn, về chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp cho sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng
ta vẫn còn thiếu nghiêm trọng đội ngũ chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý
giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động ở một
bộ phận công nhân còn nhiều hạn chế; những nông dân và các tầng lớp lao
động xã hội khác mới gia nhập hàng ngũ GCCN chưa được đào tạo cơ bản
và có hệ thống. Nhằm khắc phục những tồn tại yếu kém để xây dựng GCCN
đủ sức đảm nhiệm được sứ mệnh của mình là lực lượng chủ yếu đẩy mạnh
CNH, HĐH, Đảng ta yêu cầu: Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát
triển lý luận về GCCN trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN;
đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hóa
GCCN; quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp,
21
tính dân tộc cho công nhân; sửa đổi, bổ sung, xây dựng hệ thống chính sách,
pháp luật để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân;
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò công đoàn và các tổ chức
chính trị - xã hội khác trong xây dựng GCCN. Xây dựng giai cấp công nhân
lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới
sự lãnh đạo của Đảng, giữa GCCN với tất cả các tầng lớp xã hội trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc - động lực chủ yếu của sự nghiệp phát triển đất
nước, đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với GCCN
trên thế giới. Chiến lược xây dựng GCCN lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước, hội nhập
kinh tế quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và chăm lo xây dựng GCCN; bảo đảm
hài hòa lợi ích giữa công nhân và người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn
xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân,
quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách đang đặt ra của
GCCN. Giai cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu mới
của sự nghiệp cách mạng. Để xứng đáng là lực lượng đi đầu, GCCN phải
vươn lên về mọi mặt. Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh, ngang
tầm với sự nghiệp CNH, HĐH, chủ động vững bước vào quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay, là trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị cũng như mỗi người công
nhân. Cả hệ thống chính trị, nòng cốt là cấp ủy và chính quyền các cấp cùng
tổ chức công đoàn cần ra sức quán triệt và thực hiện sáng tạo tư tưởng chỉ
đạo của Nghị quyết Hội nghị T.Ư 6 (khóa X) để xây dựng GCCN vững
mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 1 năm 2011, tại Hà Nội đã diễn ra Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội lần
thứ XI của Đảng đã tổ chức thảo luận và thông qua nhiều nội dung quan
trọng trong đó có chiến lược xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt
Nam trong thời kỳ mới, trong đó khẳng định: "Quan tâm giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng
cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp,
tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Phát huy vai trò của giai
cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam"1. Có thể thấy, quan điểm trên đây của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong Đại hội XI không chỉ là sự tiếp tục kiên trì khẳng định
22
các quan điểm của các kỳ Đại hội, các Hội nghị Trung ương trước đó, đặc
biệt là Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành
Trung ương khóa X về "Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", mà còn thể hiện của
tư duy mới, sách lược mới trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân
Việt Nam trong điều kiện mới. Tuy nhiên, nhìn từ thực thực trạng phát triển
giai cấp công nhân Việt Nam những năm vừa qua cho thấy bên cạnh những
thành tựu nhất định thì cũng còn bộc lộ rất nhiều hạn chế, trong đó nhìn tổng
quát về số lượng, chất lượng đội ngũ còn chưa ngang tầm với vai trò là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là giai cấp đóng
vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam như chúng ta kỳ vọng. Bài viết này
muốn xuất phát từ việc đanh giá thực trạng, nguyên nhân để đi đến góp phần
đề xuất một số giải pháp bước đầu nhằm xây dựng và phát triển giai cấp
công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Trong suốt tiến trình lịch sử của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn
khẳng định: giai cấp công nhân luôn là động lực chính, là lực lượng lãnh đạo
của cách mạng Việt Nam. Mặc dù là đội tiền phong của giai cấp công nhân
Việt Nam những kể từ khi ra đời Đảng lại luôn chú trọng tới việc xây dựng
và phát triển giai cấp công nhân và sự phát triển của giai cấp công nhân
trong suốt tiến trình cách mạng đã qua càng không thể thiếu vai trò lãnh đạo
của Đảng. Lịch sử xây dựng và trưởng thành của giai cấp công nhân Việt
Nam trong các giai đoạn cách mạng đã qua, đặc biệt trong tiến trình đổi mới
hiện nay đã chứng minh điều đó.
Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng
trở thành lực lượng chính trị tự giác thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh
giáo dục, đã sớm giác ngộ, mục tiêu, lý tưởng chân lý của thời đại: độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn luôn có tinh
thần và bản chất cách mạng triệt để. Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ
nhất kết thúc trở đi, do ảnh hưởng sâu sắc của cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917 và sự truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân
Việt Nam đã có bước chuyển biến sâu sắc về chất. Giai cấp công nhân đã
từng bước giác ngộ về mình, về địa vị, vai trò của mình trong xã hội, trong
cách mạng Việt Nam và ngày càng tiến tới sự tự giác. Sự ra đời của Công
hội đỏ Bắc Kỳ (28/7/1929) và Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) là mốc
lịch sử đánh dấu bước phát triển mới về chất của giai cấp công nhân Việt
Nam: từ sự tự phát lên sự tự giác.
23
Từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam - đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của
giai cấp công nhân - đã không ngừng vươn lên và phát triển mọi mặt, từng
bước giác ngộ và thực hiện hoá sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Và cũng
từ đây giai cấp công nhân Việt Nam - thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cao trào
cách mạng năm 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh và cao trào
cách mạng dân chủ 1936-1939 chứng tỏ sự trưởng thành nhanh chóng vượt
bậc của giai cấp công nhân Việt Nam về mặt chính trị, về ý thức giai cấp, về
tinh thần đoàn kết, tính kỷ luật trong đấu tranh cách mạng. Với thắng lợi của
cách mạng Tháng Tám năm 1945, không những mở ra một kỷ nguyên mới
cho lịch sử dân tộc, cho cách mạng thế giới mà còn là dấu mốc đưa giai cấp
công nhân và nhân dân lao động từ địa vị của người dân mất nước, người lao
động làm thuê lên địa vị người làm chủ của đất nước. Sự thành công của
cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 cũng chứng tỏ vai trò lãnh đạo không thế
thay thế của giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiền phong của
mình là Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cuộc cách mạng mới ở Việt Nam.
Lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại đã trao cho giai cấp công nhân Việt
Nam vai trò sứ mệnh lịch sử ấy và giai cấp công nhân Việt Nam đã hoàn
thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn cách mạng này.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chỉ có giai cấp công nhân là
dũng cảm nhất cách mạng nhất, luôn luôn đương đầu với bọn đế quốc thực
dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô
sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất
và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”2.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới hiện nay gắn liền với quá trình đổi mới
thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập ngày càng sâu
rộng vào nền kinh tế quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đang có sự biến
đổi to lớn cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ. Nghị quyết Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương lần thứ Sáu (Khóa X) khẳng định: đội ngũ công
nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển "bao gồm
những người lao động chân tay và trí óc, làm công và hưởng lương trong các
loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh
doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp"3; thuộc các doanh nghiệp nhà
nước, hợp tác xã, hay thuộc tư nhân, hợp tác đầu tư với nước ngoài. Họ hình
thành giai cấp thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, thông
qua Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bằng Chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất
nước.
24
Theo số liệu thống kê của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tính đến
hết năm 2010, tổng số công nhân nước ta ước tính có khoảng 12,6 triệu
người4, bao gồm số công nhân đang làm việc trong các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tư nhân
và tập thể, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); số công nhân làm việc
trong các hộ sản xuất kinh doanh cá thể (trong lĩnh vực công nghiệp hoặc có
tính chất công nghiệp); số lao động Việt Nam đang làm việc theo hợp đồng
ở nước ngoài (chủ yếu làm việc trong các doanh nghiệp); số lao động chân
tay trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể.
Sau gần 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những
chuyển biến quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; đóng góp trực tiếp
to lớn vào sự phát triển của đất nước. Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là
lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc
dù về số lượng giai cấp công nhân ở nước ta chiếm tỷ lệ không lớn trong
tổng số dân cư (chiếm tỷ lệ 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội)
nhưng nắm giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại
nhất của xã hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh
tế. Giai cấp công nhân là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân
sách nhà nước. Hằng năm giai cấp công nhân "đóng góp hơn 60% tổng sản
phẩm xã hội và 70% ngân sách nhà nước"5.
Tuy nhiên, trong điều kiện mới hiện nay bên cạnh những thành tựu thì
giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay còn bộc lộ những hạn chế, đó là:
- Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số
lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, quốc tế. Có thống
kê của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam năm 2009, trình độ chuyên môn
của công nhân Việt Nam tại các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế
còn khá khiêm tốn, cụ thể: 57,08% lao động phổ thông, 26,97% là lao động
có trình độ chuyên môn từ sơ cấp học nghề trở lên, 6,26% công nhân có
trình độ trung cấp và 10,09% tỷ lệ công nhân có trình độ đại học, cao đẳng 6.
Còn theo số liệu thống kê từ cuộc điều tra khảo sát về "tiền lương thu nhập
của người lao động trong các khu công nghiệp" do Viện Công nhân Công
đoàn (thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) tiến hành năm 2010 cho
25