Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 174 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

TRẦN THỊ VIỆT THU

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2001


- 11 -

MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài :
Trong quá trình cùng cả nước tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo, Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều biện pháp xóa bỏ cơ chế
quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, từng bước hình thành cơ chế quản lý
mới nhằm huy động mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh. Nền
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thò trường có sự quản lý của Nhà
nước từng bước phát triển, khơi dậy các tiềm năng và năng lực phục vụ sản xuất,
kinh doanh, tăng trưởng qua các năm.
Trong những năm gần đây, hoạt động của ngân hàng đã tác động trực tiếp
đến toàn bộ nền kinh tế thò trường. Cùng với việc xuất hiện của nhiều loại hình
ngân hàng khác nhau, hoạt động của ngân hàng trở nên sôi nổi, phong phú.
Chính vì vậy, ngoài việc điều chỉnh các nghiệp vụ ngân hàng cho phù hợp với
môi trường mới – một môi trường mà trong đó từng ngân hàng thương mại phải
tìm cách để đạt mục tiêu tạo vốn cho xã hội và lợi nhuận cho chính mình. Nhằm
thích ứng với một môi trường kinh tế năng động và phức tạp, một hoàn cảnh
pháp lý đang thay đổi cùng với một tốc độ phát triển nhanh chóng về kỹ thuật,
nghiệp vụ, một mức độ gay gắt hơn về cạnh tranh, cùng những xu hướng đáng


quan tâm về công nghệ ngân hàng. Tất cả những yếu tố đó kết hợp lại với nhau
tạo ra nhu cầu phải quan tâm đặc biệt đến các hoạt động của ngân hàng.
Riêng ở nước ta, so với sự hình thành và phát triển của các Ngân hàng
thương mại nói chung, thì Ngân hàng thương mại cổ phần vẫn là một loại hình
hình thành và phát triển chậm hơn cả.


- 12 -

Ngân hàng thương mại cổ phần là mô hình mới trong hệ thống Ngân
hàng thương mại Việt nam. Hiện nay hệ thống này vừa vận hành, vừa rút kinh
nghiệm tự điều chỉnh và khẳng đònh lại mình. Để đạt được kết quả như mong
đợi, hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần phải thực sự vững mạnh trong hoạt
động của mình – nhất là trong giai đoạn hiện nay. Các Ngân hàng thương mại cổ
phần trong thời gian qua đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của
nền kinh tế, song hoạt động của các Ngân hàng thương mại cũng chứa đựng
nhiều rủi ro, bộc lộ nhiều yếu kém trong nghiệp vụ và quản lý dẫn đến nhiều
thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế và cho chính các Ngân hàng thương mại
cổ phần.
Qua thực tiễn công tác, do nhận thức được tầm quan trọng và nhu cầu bức
xúc của hoạt động ngân hàng trong giai đoạn hiện nay và cần thiết phải hoàn
thiện hơn nữa để nâng cao hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại
cổ phần nên tôi đã chọn nội dung “Những biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần tại Thành phố Hồ
Chí Minh” làm đề tài cho luận văn bảo vệ học vò Tiến só kinh tế của mình.
2- Mục đích nghiên cứu của luận án :
Mục đích của đề tài là phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Ngân
hàng thương mại cổ phần tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó rút ra các
bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp thiết thực để từng bước xây
dựng các Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ngày càng lớn, mạnh, góp

phần xứng đáng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án :
Sự phát triển và khủng hoảng của các đònh chế tài chính thường chòu tác
động từ 03 phía : - Các biến đổi của tình hình kinh tế, tài chính quốc gia và quốc
tế ; các thay đổi của sự điều hành vó mô ; việc quản lý vi mô của đơn vò – Do


- 13 -

vấn đề quá rộng, quá lớn nên luận án chỉ trình bày giới hạn và tập trung vào một
số vấn đề nổi bật nhất liên quan đến các hoạt động mang tính lý luận cũng như
thực tiễn của hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Đối tượng của luận án bao gồm :
- Những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động của Ngân hàng thương mại
cổ phần.
- Hoạt động thực tiễn của Ngân hàng thương mại cổ phần trên đòa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Khảo cứu những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các
Ngân hàng thương mại cổ phần.
4- Phương pháp nghiên cứu :
Bằng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lòch sử, kết hợp
với các phương pháp nghiên cứu khác, cụ thể như phương pháp khảo cứu thực tế,
phương pháp so sánh, phân tích, thống kê, phương pháp kinh nghiệm, luận án đã
nêu lên một số vấn đề về hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại cổ
phần tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm có ý
nghóa về lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất một số biện pháp để góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
5- Kết cấu của Luận án :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần

nội dụng của luận án bao gồm 03 chương :
Chương 1 : Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thò trường .
Chương 2 : Thực trạng hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại cổ
phần tại Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3 : Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần tại Thành phố Hồ Chí Minh.


- 14 -

CHƯƠNG 1
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Kinh tế thò trường đã xuất hiện như một yêu cầu khách quan của nền kinh
tế hàng hóa. Kinh tế thò trường bao giờ cũng gắn liền với kinh tế hàng hóa mặc
dù kinh tế thò trường không đồng nhất với kinh tế hàng hóa. Kinh tế thò trường là
giai đoạn cao của kinh tế hàng hóa .
Trong nền kinh tế thò trường, sản phẩm được sản xuất ra hầu như đều đem
trao đổi, mua bán trên thò trường. Hàng hóa được làm ra chỉ khi nào thực hiện
được việc mua, trao đổi trên thò trường, mới được coi là đã được xã hội thừa
nhận.
Tiền tệ cũng là một loại hàng hóa và K.Mark đã chứng minh : Tiền tệ là
một hàng hóa đặc biệt độc quyền giữ vai trò làm vật ngang giá chung, để phục
vụ cho quá trình lưu thông hàng hóa : " Một khi người ta đã hiểu rằng nguồn gốc
của tiền tệ là ở ngay hàng hóa, thì người ta đã khắc phục các khó khăn chính
trong sự phân tích tiền tệ ".
Tiền tệ xuất hiện để phục vụ cho quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa
ngày càng phát triển. Nhưng tiền tệ cũng tạo ra những vấn đề riêng của nó,
những nghòch lý mới trong quá trình phát triển của nền kinh tế thò trường : Tiền
tệ thiết lập một không gian thống nhất - đó là thò trường - nhưng lại tạo ra những

bất bình đẳng, những đẳng cấp kinh tế ; tiền tệ là biểu hiện quyền lực Nhà nước,
nhưng đôi lúc cũng làm xói mòn quyền lực Nhà nước ... Sự xuất hiện của tiền tệ
đã làm cho việc sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày càng phát triển, đến lượt
nó sản xuất, lưu thông hàng hóa đòi hỏi một sự cung ứng tiền tệ ngày càng nhiều


- 15 -

hơn. Sự lưu thông hàng hóa quyết đònh sự lưu thông tiền tệ. Nhưng sự lưu thông
tiền tệ lại là một tiền đề quan trọng cho lưu thông hàng hóa.
Quá trình tác động qua lại giữa lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ đã
hình thành nên hai lónh vực kinh doanh quan trọng : Kinh doanh hàng hóa và
kinh doanh tiền tệ. Kinh doanh tiền tệ phục vụ cho kinh doanh hàng hóa và kinh
doanh hàng hóa là cơ sở của kinh doanh tiền tệ.
Kinh doanh tiền tệ ra đời với những “ doanh nghiệp ” đặc thù đó là các
Ngân hàng - các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ.
Sự xuất hiện của Ngân hàng được đánh giá như là một phát minh vó đại của
loài người, nó tạo ra những phương tiện để đo lường giá trò của hàng hóa, để lưu
thông hàng hóa, để thanh toán các món nợ và cất giữ những giá trò của hàng hóa
mà không cần phải cất giữ hàng hóa như trước đây.
Không những thế, Ngân hàng còn có một vò trí rất quan trọng là tạo ra
những phương thức để lưu thông tiền tệ được dễ dàng nhất, nhanh chóng nhất, an
toàn nhất, nó tập trung vào tay mình phần lớn tiền tệ trong nền kinh tế để có thể
cấp cho các chủ thể nền kinh tế những khoản tín dụng từ nhỏ đến lớn nhằm bảo
đảm rằng khi hàng hóa cần lưu thông thì lập tức nó sẽ có đầy đủ các phương tiện
để lưu thông mà không phải chờ đợi quá trình tích lũy tiền tệ.
Vậy Ngân hàng thương mại là gì ? Chức năng của Ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế thò trường là gì ?
1.1. Ngân hàng thương mại - Chức năng của Ngân hàng thương mại trong
nền kinh tế thò trường .

Ngân hàng thương mại là một đònh chế tài chính trung gian, hoạt động kinh
doanh trên lónh vực tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống như
một doanh nghiệp thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối đa hóa
lợi nhuận. Ngân hàng thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho


- 16 -

vay lại. So với các doanh nghiệp thương mại dòch vụ khác thì hàng hóa của Ngân
hàng thương mại là một loại hàng hóa đặc biệt, đó là tiền . Giá cả của hàng hóa
này biểu hiện ra bên ngoài là các mức lãi suất huy động hoặc lãi suất cho vay,
chòu tác động bởi quan hệ cung - cầu vốn trên thò trường và trên cơ sở khoản lợi
nhuận đạt được khi đưa vốn vay vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy, lợi nhuận chủ
yếu của hoạt động ngân hàng sẽ là khoản chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy
động với thu nhập từ lãi cho vay. Để có hàng hóa kinh doanh, ngân hàng phải
tạo ra được tiền, cũng như đa dạng các hình thức huy động vốn để có vốn cho
vay. Đồng thời, ngân hàng cũng đa dạng hóa các hình thức cho vay nhằm phân
tán giảm thiểu rủi ro. Với vò thế kinh doanh, Ngân hàng thương mại thực hiện
các dòch vụ trung gian hưởng hoa hồng. Ngày nay, hệ thống Ngân hàng thương
mại phát triển mạnh mẽ, nó tham gia sâu rộng vào tất cả các lónh vực kinh tế xã
hội. Sự đa dạng và phong phú các nghiệp vụ kinh doanh đã làm cho Ngân hàng
thương mại trở thành một tổ chức kinh doanh không thể thiếu trong tiến trình
phát triển kinh tế .
Ngân hàng thương mại là đònh chế tài chính trung gian có vò trí quan trọng
nhất, nó hoạt động mang tính tổng hợp, các đònh chế tài chính khác hoạt động
trong một lónh vực hẹp hơn. Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn là thành viên
chủ yếu tham gia vào hoạt động của thò trường tiền tệ, thò trường vốn ... Với chức
năng quan trọng của Ngân hàng thương mại, Chính phủ các nước rất quan tâm
đến hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nhà nước phải ban hành Luật Ngân hàng
để tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức kinh tế hành nghề ngân hàng hoạt

động, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng và hướng hoạt động ngân hàng cho phù
hợp với lợi ích chung của quốc gia .
1.1.1- Khái niệm về Ngân hàng thương mại :
Một số khái niệm về Ngân hàng thương mại của một số nước trên thế giới


- 17 -

và của Việt nam được trình bày dưới đây tuy có khác nhau về cách diễn đạt,
song hầu như tất cả đều có một điểm chung về các chức năng khi đề cập đến
khái niệm Ngân hàng thương mại.
Ở Pháp : Ngân hàng là doanh nghiệp mà nghiệp vụ thường xuyên là nhận
tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác hay dưới hình thức khác và sử
dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và
tài chính.
Ở Mỹ : Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp
dòch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dòch vụ tài chính .
Ở Ấn Độ : Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho
vay hay tài trợ và đầu tư .
Ở Việt Nam : Theo Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty
tài chính ( 24-5-1990 ) : " Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và
làm phương tiện thanh toán " [ 48 ].
- Theo Điều 20 khoản 2 và 7 Luật các Tổ chức tín dụng đã được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghóa Việt Nam Khóa X kỳ họp thứ hai thông qua
ngày 12 tháng 12 năm 1997 đònh nghóa Ngân hàng thương mại như sau : " Ngân
hàng thương mại là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dòch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường

xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dòch
vụ thanh toán " [ 50 ].
Tóm lại, từ những đònh nghóa trên và nhận thức của bản thân cho phép kết
luận : Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ,


- 18 -

trong đó có hai nghiệp vụ cơ bản :
- Nhận tiền gửi của khách hàng - nghóa là các Ngân hàng thương mại sẽ
nhận những khoản ký thác của các doanh nghiệp, cá nhân, các tổ chức dưới các
hình thức ngắn, trung, dài hạn và không kỳ hạn.
- Sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay, chiết khấu đối với các cá nhân,
doanh nghiệp ... trong nền kinh tế và làm phương tiện thanh toán cho các khách
hàng của Ngân hàng thương mại .
Tùy theo nguồn hình thành vốn chủ sở hữu mà có các loại hình Ngân hàng
thương mại như sau : Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại
cổ phần, Ngân hàng thương mại liên doanh, …. Tuy vậy, do bản chất đều là ngân
hàng thương mại, cho nên chúng cùng có những chức năng sau đây :
1.1.2. Các chức năng của Ngân hàng thương mại :
Trong nền kinh tế thò trường, Ngân hàng thương mại thực hiện các chức
năng sau đây :
1.1.2.1. Chức năng thủ quỹ xã hội :
Ngân hàng thương mại khi mới xuất hiện chủ yếu là nhận tiền ký thác của
cá nhân và tổ chức với mục đích là đảm bảo sự an toàn, tránh được sự mất mát,
hư hỏng, trộm cắp. Các khoản tài chính của cá nhân và tổ chức được đem gửi
vào các ngân hàng, Ngân hàng thu một khoản phí do việc giữ hộ tiền. Khi cần,
họ sẽ đến ngân hàng xin rút ra để chi tiêu.
Ngày nay nghiệp vụ giữ hộ tiền này đã biến thành nghiệp vụ nhận tiền gửi
thanh toán của khách hàng và nghiệp vụ giữ hộ các tài sản tài chính khác như :

trái phiếu, cổ phiếu, các giấy tờ có giá khác, các tài sản quý như vàng, đá quý,
bằng cấp, chứng từ quan trọng... như là những dòch vụ mà nó có thể giúp ngân
hàng tạo ra những khoản thu rất quan trọng và ít rủi ro.
Việc giữ hộ tiền cho xã hội ngày nay còn được chuyển qua việc nhận các


- 19 -

khoản ký thác có kỳ hạn dài hoặc ngắn. Người có các khoản thặng dư tài chính
có thể gửi vào các ngân hàng với cam kết là đến một kỳ hạn nhất đònh họ mới
rút ra. Ngân hàng có thể sử dụng số tiền đó để cho vay sinh lợi. Vì vậy để
khuyến khích việc gửi tiền có kỳ hạn vào ngân hàng, các ngân hàng đã trả cho
người gửi một khoản lãi tùy theo số tiền gửi có kỳ hạn dài hay ngắn.
Nếu các ngân hàng thực hiện đúng cam kết và luôn luôn đảm bảo sự chi
trả kòp thời, đầy đủ cho khách hàng thì sẽ được xã hội tin tưởng và ký thác phần
lớn thu nhập bằng tiền vào các ngân hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ
hạn hoặc tiền gửi có kỳ hạn và qua đó sử dụng các tiện ích của ngân hàng trong
dòch vụ thanh toán.
Chức năng thủ quỹ xã hội của Ngân hàng thương mại còn phát triển ra
bằng việc ngân hàng sẵn lòng thu hộ các khoản tài chính của khách hàng và đưa
vào các tài khoản cho khách hàng. Điều này giúp khách hàng tiết kiệm được
nhiều thời gian để đi thu các khoản nợ của mình.
Có thể nói chức năng thủ quỹ xã hội là một chức năng rất quan trọng giúp
các ngân hàng tạo ra nguồn vốn để có thể thực hiện các chức năng sau đó là
chức năng tín dụng và thanh toán.
1.1.2.2. Chức năng tín dụng :
Khi ngân hàng nắm trong tay nhiều khoản tài chính của xã hội thì vấn đề
nảy sinh ra ngân hàng là nơi giữ nhiều tiền nhất. Nhờ vào hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt ngày càng phát triển mà người rút tiền ra khỏi ngân hàng
thì ít, người ký thác tiền vào ngân hàng ngày càng nhiều.

Lợi dụng sự chênh lệch giữa thu tiền mặt vào thì nhiều, chi tiền ra thì ít nên
các ngân hàng có thể sử dụng một phần tiền mặt để cho vay khách hàng cần tiền
mà họ chưa có được các khoản thu. Nói khác đi, ngân hàng thực hiện việc cấp
tín dụng cho khách hàng với cam kết của khách hàng là khách hàng sẽ hoàn trả


- 20 -

cho ngân hàng toàn bộ số vốn vay và một khoản tiền lãi kèm theo vào một thời
hạn cụ thể.
Điều này đã tạo cho ngân hàng có một vò trí quan trọng trên thò trường tài
chính là có thể thỏa mãn yêu cầu của khách hàng về một khoản thanh toán nào
đó mà khách hàng cần bất cứ lúc nào, nếu khách hàng tin tưởng rằng người vay
có thể hoàn trả được nợ.
Chính vì việc cấp tín dụng này mà ngân hàng được coi là người có thể tạo
ra tiền. Vì khi ngân hàng cho một khách hàng vay tiền trên cơ sở số dư tiền gửi
thanh toán của khách hàng, ngân hàng đã tạo ra trong lưu thông thêm một khoản
tiền nữa.
Chính nhờ vào tín dụng ngân hàng mà nhiều cá nhân, tổ chức chưa tập
trung được các khoản tài chính của mình vẫn có thể chi tiêu, mở rộng sản xuất,
làm cho hàng hóa ngày càng lưu thông nhanh chóng hơn.
Tín dụng là một nghiệp vụ mà ngày nay đã trở thành nghiệp vụ được các
Ngân hàng thương mại quan tâm nhất do nó mang lại cho Ngân hàng thương mại
nhiều doanh thu hơn tất cả các nghiệp vụ khác.
1.1.2.3. Chức năng thanh toán.
Khi Ngân hàng thương mại trở thành người thủ quỹ của xã hội thì việc
thanh toán giữa các thành viên xã hội có thể thực hiện bằng cách là ngân hàng
sẽ đứng ra làm trung gian nhận sự ủy quyền của cả hai bên để thực hiện việc
thanh toán đó một cách nhanh chóng và dễ dàng.
Việc thanh toáùn đó có thể thực hiện bằng cách là ngân hàng thay mặt chủ

tài khoản trích tiền ký thác của con nợ, chuyển vào tài khoản của chủ nợ, hoặc
trích tiền ký thác của con nợ để giao cho chủ nợ bằng tiền mặt tùy theo ý muốn
của chủ nợ. Chức năng thanh toán của ngân hàng đã làm cho ngân hàng khác
hẳn các đònh chế tài chính khác, vì chỉ có làm chức năng thanh toán và sử dụng


- 21 -

số dư tiền gửi thanh toán của khách hàng để tạo ra tín dụng mà ngân hàng là
đònh chế tài chính duy nhất có khả năng tạo ra thêm phương tiện lưu thông trực
tiếp cho nền kinh tế.
Làm tốt chức năng thanh toán, ngân hàng sẽ được khách hàng tin tưởng và
ủy quyền cho ngân hàng thực hiện hộ phần lớn các khoản thanh toán mà khách
hàng phải thực hiện. Nghiệp vụ thanh toán có một ý nghóa kinh tế lớn trong nền
kinh tế hiện nay, vì nó làm cho tiền tệ lưu thông nhanh chóng hơn. lại tiết kiệm
được ngân quỹ, an toàn vì không phải kiểm đếm, vận chuyển...
1.1.3. Đặc điểm kinh doanh của Ngân hàng thương mại :
1.1.3.1. Kinh doanh ngân hàng luôn chứa đựng sự mất khả năng thanh
toán, do vậy cần có sự kết gắn hệ thống để tương trợ lẫn nhau và sự giúp sức
của Ngân hàng Trung ương.
Do các Ngân hàng thương mại có thể tạo thêm tiền thông qua tín dụng, lấy
tiền gửi thanh toán của khách hàng làm gốc, khi khách hàng gửi tiền thực hiện
quyền của mình bằng cách rút tiền ra để chi tiêu hay chuyển khoản để trả nợ
cho người khác... sẽ làm cho ngân hàng không có đủ lượng tiền mặt để chi trả và
dẫn đến mất khả năng thanh toán.
Điều này là một đặc điểm quan trọng trong hoạt động ngân hàng, buộc các
ngân hàng phải nhận sự giúp đỡ của ngân hàng bạn và Ngân hàng Trung ương
khi ngân hàng gặp phải rủi ro.
Chính điều đó mà các ngân hàng phải kết gắn lại với nhau trong một thò
trường tiền tệ liên ngân hàng để kòp thời hỗ trợ cho nhau. Nếu các ngân hàng

không thể hỗ trợ đầy đủ thì Ngân hàng Trung ương sẽ giúp đỡ các ngân hàng về
khoản tiền mặt còn thiếu.
Ví dụ như ngân hàng nhận được một khoản tiền gửi thanh toán là 1 tỷ đồng,
ngân hàng lập tức cho vay ra 500 triệu đồng. Sau đó khách hàng đến yêu cầu


- 22 -

ngân hàng chuyển trả số tiền 1 tỷ đồng đó cho một khách hàng khác. Lập tức
ngân hàng sẽ thiếu đi một khoản tiền mặt 500 triệu đồng vì đã cho vay ra mà
chưa thu hồi được.
Chính vì điều này mà các Ngân hàng thương mại phải luôn luôn có một
khoản dự trữ bắt buộc theo quy đònh của Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo khả
năng thanh toán của mình. Đồng thời phải vay ngân hàng khác hoặc Ngân hàng
Trung ương để đảm bảo dự trữ bắt buộc và khả năng thanh toán khi ngân hàng
gặp khó khăn.
1.1.3.2. Kinh doanh ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro do môi trường
kinh tế mang lại.
Khi cho vay ngân hàng chủ yếu dựa trên lòng tin rằng khách hàng có khả
năng hoàn trả nợ và lãi. Song sự cam kết đó không có gì đảm bảo rằng khách
hàng luôn luôn trả được nợ và lãi. Trong một nền kinh tế thò trường thì bất trắc
luôn luôn xảy ra đâu đó - ở nhà kinh doanh này hoặc ở nhà kinh doanh khác. Khi
các nhà kinh doanh gặp rủi ro thì họ sẽ không thể trả nợ và lãi cho ngân hàng, vì
vậy ngân hàng sẽ chòu sự rủi ro đó.
Sự thay đổi lãi suất trên thò trường cũng làm cho ngân hàng phải chòu rủi ro.
Khi lãi suất tăng lên, ngân hàng không thể thu được lãi suất cao ở các món tín
dụng đã cho vay ra. Do đó ngân hàng phải chòu sự thiệt hại, doanh thu thu về có
thể sẽ không đủ để trả các chi phí đầu vào.
Sự thay đổi quan hệ tỷ giá giữa các loại tiền tệ quốc gia khác nhau cũng sẽ
làm cho hoạt động ngân hàng có nhiều rủi ro.

Tiền tệ xuất hiện dưới hình thức là vàng hay được bảo đảm bằng vàng
không còn tồn tại trong nền kinh tế hiện đại nữa, mà giá trò hay sức mua của một
loại tiền tệ quốc gia nào đó hoàn toàn phụ thuộc vào giá trò hàng hóa, dòch vụ do
nền kinh tế của quốc gia đó sản xuất ra trong mối quan hệ với khối lượng tiền tệ


- 23 -

do quốc gia đó phát hành vào lưu thông, và hơn nữa trong mối quan hệ cung cầu
giữa tiền tệ của quốc gia đó với tiền tệ của một quốc gia khác.
Một ngân hàng hiện đại không chỉ kinh doanh một loại tiền tệ của một
quốc gia mà nó kinh doanh trên nhiều loại tiền tệ của nhiều quốc gia khác nhau.
Do vậy, khi giá trò của một đơn vò tiền tệ của các quốc gia thay đổi sức mua sẽ
mang đến những bất lợi hay có lợi cho một ngân hàng.
Khi một ngân hàng nắm giữ một lượng tiền tệ của một quốc gia nào đó mà
giá trò của nó bò suy giảm thì trong quan hệ bán lại lượng tiền tệ đó trên thò
trường ngân hàng sẽ chòu một khoản thiệt hại. Hay khi một ngân hàng cần mua
một lượng tiền tệ của một quốc gia nào đó trên thò trường mà giá của loại tiền tệ
đó đang tăng lên cũng mang đến cho ngân hàng một khoản thiệt hại. Đó là rủi ro
tỷ giá.
Các biến động của môi trường tự nhiên như thiên tai, đòch họa làm cho
khách hàng của ngân hàng bò thiệt hại, cũng làm cho ngân hàng bò rủi ro...
Các biến động về chính trò – kinh tế – xã hội nói chung đều có thể đưa đến
hậu quả khó lường cho hoạt động ngân hàng.
1.1.3.3. Kinh doanh ngân hàng luôn luôn chòu sự ràng buộc nghiêm ngặt
của luật pháp.
Lưu thông tiền tệ có thể dẫn đến những thuận lợi hay bất lợi cho sự lưu
thông hàng hóa và phát triển kinh tế. Vì vậy Nhà nước luôn đưa ra nhiều điều
khoản của luật pháp để chi phối các hoạt động của ngân hàng nhằm bảo đảm
hoạt động ngân hàng phải phục vụ cho hoạt động kinh tế, không được đặt lợi

nhuận của ngân hàng lên trên lợi ích chung của nền kinh tế.
Điều này sẽ dẫn đến nhiều sự khác biệt giữa kinh doanh ngân hàng với
kinh doanh sản xuất hàng hóa, dòch vụ khác.
Trước hết hoạt động của hệ thống ngân hàng phải bảo đảm sự ổn đònh về


- 24 -

giá trò của đơn vò tiền tệ quốc gia. Mọi hành vi làm bất ổn giá trò đơn vò tiền tệ
quốc gia sẽ bò ngăn cấm.
Thứ hai là “giá cả” hay lãi suất trong kinh doanh ngân hàng không thể chòu
sự chi phối của các quy luật kinh tế thò trường một cách tự do hoàn toàn, mà luôn
luôn có sự can thiệp của Nhà nước nhằm đưa ra một chính sách lãi suất tốt nhất
cho nền kinh tế.
Thứ ba là khối lượng tín dụng mà các ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế
càng được giám sát thường xuyên của Nhà nước sao cho đảm bảo loại “hàng
hóa” này không quá nhiều hay quá ít so với nhu cầu.
1.2. Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại :
Ngày nay, trong hệ thống ngân hàng trung gian thì Ngân hàng thương mại
thực hiện đầy đủ nhất các nghiệp vụ ngân hàng, còn các đònh chế tài chính phi
ngân hàng khác chỉ thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ ngân hàng. Về cơ bản,
Ngân hàng thương mại thực hiện ba loại nghiệp vụ chính : Nghiệp vụ tạo nguồn
vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và dòch vụ tài chính – ngân hàng khác.
1.2.1. Nghiệp vụ tài sản nợ - Nghiệp vụ tạo nguồn vốn :
Nghiệp vụ tạo nên nguồn vốn để ngân hàng hoạt động gọi là nghiệp vụ nợ
vì những khoản mục nguồn vốn do nghiệp vụ này tạo nên khi thể hiện trên bảng
tổng kết tài sản của Ngân hàng thương mại sẽ nằm bên tài sản nợ. Nguồn vốn
kinh doanh của Ngân hàng thương mại bao gồm:
1.2.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu ( Vốn tự có ) :
1.2.1.1.1. Vốn pháp đònh - Vốn điều lệ :

- Vốn pháp đònh là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do
pháp luật quy đònh .
- Vốn điều lệ là vốn do các cổ đông đóng góp hoặc chủ sở hữu cung cấp và
được ghi vào điều lệ. Nguồn vốn này phải bằng hoặc lớn hơn mức vốn pháp


- 25 -

đònh.
Tùy theo loại hình ngân hàng mà nguồn hình thành vốn điều lệ do các chủ
sở hữu đóng góp như sau :
+ Ngân hàng tư nhân : Vốn riêng của các nhà doanh nghiệp đầu tư .
+ Ngân hàng cổ phần : Các cổ đông đóng góp vốn dưới hình thức mua
cổ phiếu .
+ Ngân hàng liên doanh : Vốn do đóng góp của bên ngân hàng nước sở
tại và bên ngân hàng nước ngoài .
+ Chi nhánh ngân hàng nước ngoài : Ngân hàng nước ngoài cấp vốn
( gọi là vốn được cấp ) .
+ Ngân hàng quốc doanh : Vốn do ngân sách Nhà nước cấp .
Đối với ngân hàng, vốn điều lệ ( được ghi trong điều lệ và giấy phép hoạt
động ) là cơ sở pháp lý để thành lập và hoạt động ; đồng thời làm cơ sở đảm bảo
tối thiểu cho quá trình kinh doanh, thể hiện trách nhiệm vật chất của ngân hàng
đối với các hoạt động của nó .
Mức vốn điều lệ và sự tăng trưởng của nó thể hiện năng lực và thế phát
triển của mỗi Ngân hàng thương mại .
1.2.1.1.2- Các quỹ dự trữ của ngân hàng : Được coi là nguồn vốn tự có
và được bổ sung hằng năm từ lợi nhuận ròng của ngân hàng. Theo khoản 1 Điều
87 Luật các Tổ chức tín dụng được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghóa
Việt Nam, khóa X kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 quy đònh
về việc trích lập các quỹ từ lợi nhuận, các Ngân hàng thương mại phải tiến hành

trích lập các quỹ :
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro.
- Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng .


- 26 -

- Quỹ phúc lợi, khen thưởng .
Tỷ lệ các quỹ này được trích lập theo quy đònh của Chính phủ, của Ngân
hàng Nhà nước và quyết đònh của đại hội cổ đông.
Vốn tự có và các quỹ chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng vốn hoạt động
của ngân hàng (khoảng 1/20 – 1/10). Vốn tự có là điều kiện pháp lý căn bản,
đồng thời là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ
đối với khách hàng. Chính vì vậy, quy mô của vốn tự có là yếu tố quyết đònh quy
mô huy động vốn, quy mô các nghiệp vụ thuộc tài sản có và năng lực cạnh tranh
của ngân hàng.
1.2.1.2- Nguồn vốn tiền gửi của khách hàng (Vốn huy động) :
Đây là nguồn vốn hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong nguồn vốn. Dựa vào yếu tố thời gian và tính chất của những
khoản tiền gửi, tiền gửi của khách hàng có hai loại : Tiền gửi không kỳ hạn và
tiền gửi kỳ hạn .
1.2.1.2.1- Tiền gửi không kỳ hạn :
Là tiền gửi chờ thanh toán mà người gửi tiền có thể rút ra hoặc sử dụng bất
cứ lúc nào và ngân hàng phải thỏa mãn nhu cầu này vô điều kiện. Đây là khoản
tiền gửi thường xuyên biến động, ngân hàng không thể đònh ra kế hoạch sử dụng
trước được mà chỉ dựa vào kinh nghiệm quản lý trong quá khứù và khả năng dự
đoán trong tương lai có thể tận dụng để đưa ra một mức thanh khoản cho hợp lý.
Ngày nay ở các nước người gửi tiền để sử dụng phương tiện thanh toán của ngân
hàng không được hưởng lãi. Ở Việt nam để thu hút tối đa nguồn vốn loại này,

ngân hàng cần đa dạng hóa các nghiệp vụ trung gian thanh toán. Bên cạnh đó,
ngân hàng còn sử dụng công cụ lãi suất, mặc dù rất nhỏ, nhưng nó cũng có thể
kích thích khách hàng thanh toán qua ngân hàng. Mức lãi trả cho loại tiền gửi
không kỳ hạn được tính trên số dư bình quân và được tính hàng tháng. Các loại


- 27 -

tiền gửi không kỳ hạn bao gồm : tiền gửi dùng séc, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi
rút tiền tự động,…
1.2.1.2.2- Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm :
- Tiền gửi có kỳ hạn : là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ được rút ra khi
đến hạn, về nguyên tắc nếu người này gửi tiền rút ra trước hạn thì ngân hàng sẽ
không thanh toán. Tuy nhiên, do sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng nên
vẫn thanh toán bằng hai cách :
+ Chi trả phần gốc, không trả lãi.
+ Trả phần gốc cộng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Ngoài ra việc phát hành các giấy nợ ngắn hạn của ngân hàng cũng được coi
như là tiền gửi đònh kỳ – phát hành giấy nợ có hai loại :
+ Chứng chỉ tiền gửi ( Certificate of Deposits ) của Mỹ hoặc phiếu ngân
quỹ của Pháp ( Bons de caisse ) có mệnh giá nhỏ.
+ Chứng chỉ tiền gửi được chuyển nhượng ( Mỹ ), chứng chỉ tiền gửi có
mệnh giá cao ( Pháp ) lớn hơn hoặc bằng 1 triệu USD.
Ở Việt nam chỉ có loại thứ nhất : séc và kỳ phiếu ngân hàng, còn loại thứ
hai thì chưa có.
- Tiền gửi tiết kiệm : là một dạng của tiền gửi đònh kỳ, chỉ khác là người
gửi được cấp giấy chứng nhận tiền gửi. Đây là cơ sở pháp lý xác đònh quan hệ
tiền gửi giữa ngân hàng và khách hàng, tùy theo nhu cầu thực tế của từng thời
kỳ mà các Ngân hàng thương mại có chính sách ưu đãi cho từng loại tiền gửi
nhưng thông thường thì tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dài hơn và lãi suất cao hơn

tiền gửi đònh kỳ.
1.2.1.3- Nguồn vốn vay :
Ngoài việc huy động tiền gửi theo các hình thức truyền thống, Ngân hàng
thương mại có thể bổ sung vốn hoạt động của mình bằng cách :


- 28 -

- Vay từ các tổ chức và các tầng lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu
hoặc kỳ phiếu ngân hàng sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
- Vay các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác :
Nguồn vốn này được hình thành bởi mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng
với nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh.
- Vay Ngân hàng Trung ương :
Các Ngân hàng thương mại có thể vay Ngân hàng Trung ương khi gặp khó
khăn ( chủ yếu là trong thanh toán ), thông qua chính sách tái cấp vốn mà chủ
yếu là tái chiết khấu. Ngân hàng Trung ương với tư cách là ngân hàng của các
ngân hàng nên luôn đóng vai trò là người chủ nợ và là " Người cho vay cuối
cùng " đối với các Ngân hàng thương mại .
1.2.1.4- Nguồn vốn tiếp nhận :
Nguồn vốn này được hình thành từ các nghiệp vụ ủy trò. Ngân hàng nhận
ủy thác từ khách hàng để quản trò các tài sản ủy thác. Có thể phân loại tài sản
ủy thác : tiền và hiện vật. Phần đông khách hàng ủy thác cho ngân hàng quản trò
tài sản bằng tiền, ký gửi vào một tài khoản, ủy thác cho ngân hàng quản trò nó.
Ngân hàng tiếp nhận các khoản vốn ủy thác của các tổ chức trong và ngoài nước
để thực hiện những chương trình, dự án đònh trước. Ngoài ra, ngân hàng cũng
được ủy thác quản trò tài sản người quá cố, của vò thành niên, của người vô năng
... gồm tiền gửi ở ngân hàng, bất động sản. Ngân hàng cũng được ủy thác quản
trò quỹ dự phòng của các công ty.
1.2.1.5- Các nguồn vốn khác :

Nguồn vốn khác bao gồm các khoản nguồn vốn phát sinh trong hoạt động
ngân hàng làm nghiệp vụ trung gian .
- Vốn trong thanh toán :
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng thực hiện việc trích tiền từ tài


- 29 -

khoản tiền gửi của đơn vò này nhập vào tài khoản của đơn vò khác hoặc cung cấp
các loại dòch vụ đòi hỏi các khách hàng phải ký quỹ. Ngân hàng sẽ sử dụng
nguồn tiền tạm thời này để làm nguồn vốn tín dụng ngắn hạn.
- Nguồn vốn phát sinh từ nghiệp vụ đại lý :
Ngân hàng chuyên thu hay chuyên chi hộ khách hàng hoặc Ngân hàng
thương mại làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác ( thí dụ làm đại lý cho Ngân
hàng nước ngoài ) nhận vốn để chuyển vốn đó cho một khách hàng, một dự án
đầu tư nào đó, việc phát tiền có thể theo tiến độ công việc, bởi vậy có thể tạo
nên một tồn khoản và ngân hàng có thể sử dụng tạm thời tồn khoản ấy vào kinh
doanh .
1.2.2- Nghiệp vụ tài sản có - Nghiệp vụ sử dụng vốn :
Là nghiệp vụ sử dụng nguồn vốn, nghiệp vụ này hình thành nên tài sản
ngân hàng mà khi lên bảng tổng kết tài sản nó nằm bên phía tài sản có. Nghiệp
vụ sử dụng vốn bao gồm :
1.2.2.1- Nghiệp vụ ngân quỹ :
Nghiệp vụ ngân quỹ tại Ngân hàng thương mại bao gồm :
- Tiền mặt tại quỹ : là khoản tiền mặt nằm tại quỹ nghiệp vụ của ngân
hàng để đáp ứng nhu cầu chi dùng trong ngày như chi trả lãi, trả vốn tiền gửi,
giải ngân tiền vay. Tiền mặt tại quỹ đóng vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến
tình hình hoạt động và khả năng tạo lợi nhuận của một ngân hàng.
Cơ cấu tiền mặt tại quỹ bao gồm tiền mặt đồng Việt nam và ngoại tệ, ngân
phiếu thanh toán. Ngoài ra, tại quỹ nghiệp vụ ngân hàng còn dự trữ dưới dạng

các chứng từ có giá ngắn hạn có khả năng chuyển đổi thành tiền nhanh chóng
như tín phiếu kho bạc, thương phiếu … gọi là dự trữ thứ cấp.
- Tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương :
+ Dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước Trung ương hoặc chi nhánh


- 30 -

Ngân hàng Nhà nước.
+ Tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước Trung ương hoặc chi
nhánh Ngân hàng Nhà nước.
- Tiền gửi tại các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác .
1.2.2.2- Nghiệp vụ tín dụng :
Hoạt động tín dụng là việc các Ngân hàng thương mại sử dụng nguồn vốn
tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình
thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê
tài chính và các hình thức khác theo quy đònh của Ngân hàng Nhà nước. Đây là
hoạt động quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại trong giai đoạn hiện
nay, vì nguồn vốn dành cho nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu cho các Ngân hàng thương mại.
Việc cho vay ngắn hạn hay cho vay trung, dài hạn đều có thể áp dụng
hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc cho vay không có bảo đảm. Tùy
theo các quy đònh của pháp luật và tùy theo tình hình thực tế mà các Ngân hàng
thương mại có thể lựa chọn hình thức cho vay có bảo đảm hay không có bảo đảm
bằng tài sản.
Nếu xét theo từng ý nghóa như mục đích, thời gian, xuất xứ, … thì sẽ có
nhiều loại hình tín dụng khác nhau. Ở đây, nếu ta chỉ dựa vào tính chất và hình
thức cho vay vốn thì hoạt động tín dụng bao gồm :
1.2.2.2.1- Nghiệp vụ cho vay ngắn hạn :
Là việc các Ngân hàng thương mại sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn

huy động để cho khách hàng vay một khoản tiền trong thời gian không quá 12
tháng nhằm đáp ứng nhu cần vốn cho sản xuất, kinh doanh, dòch vụ, đời sống
trên nguyên tắc đảm bảo tiền vay, cũng như các quy đònh khác của luật các Tổ
chức tín dụng, Nghò đònh của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn của Ngân


- 31 -

hàng Nhà nước.
Cho vay ngắn hạn là hình thức cho vay phổ biến, chiếm phần lớn hoạt động
tín dụng của các Ngân hàng thương mại.
1.2.2.2.2- Nghiệp vụ cho vay trung, dài hạn :
Là nghiệp vụ mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay với thời gian được
thỏa thuận trên một năm trở lên, thời hạn cho vay được xác đònh phù hợp với
thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính
chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng.
- Thời hạn cho vay trung hạn : từ 12 tháng đến 60 tháng ( 5 năm ).
- Thời hạn cho vay dài hạn : từ trên 60 tháng trở lên nhưng không quá thời
hạn hoạt động còn lại theo quyết đònh thành lập hoặc giấy phép thành lập đối
với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời
sống.
1.2.2.2.3- Nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng :
Tín dụng tiêu dùng là khoản tín dụng nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu, tiêu
dùng của các khách hàng cá nhân. Các khoản vay này thường được dùng để
trang trải việc mua sắm nhà cửa, đồ dùng gia đình, xe cộ,... bên cạnh đó tổ chức
tín dụng cũng có thể tài trợ cho các chi tiêu liên quan đến học hành, y tế, du lòch,
cưới hỏi, sinh đẻ ... Tín dụng tiêu dùng góp phần nâng cao đời sống cho người
dân, là nhân tố tích cực góp phần kích cầu và phát triển sản xuất.
1.2.2.2.4- Nghiệp vụ chiết khấu :
Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn

hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán bằng cách sẽ cấp
cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá thương phiếu,... trừ đi tiền lãi chiết
khấu và phí hoa hồng.
Thực chất của nghiệp vụ chiết khấu là ngân hàng bỏ tiền ra để mua lại một


- 32 -

trái quyền ngắn hạn với giá rẻ hơn giá trò trái quyền đó khi đến hạn thanh toán.
Đây là hình thức cho vay được ngân hàng thương mại ưa chuộng nhất vì ít gặp
rủi ro ; có tính đảm bảo cao, không làm nguồn vốn ứ đọng, …
Trên thực tế chiết khấu còn tạo điều kiện cho Ngân hàng thương mại xin
tái chiết khấu ở Ngân hàng Trung ương để củng cố năng lực thanh toán của
mình.
1.2.2.2.5- Nghiệp vụ mua các phiếu bán hàng (Dealer paper ) tiêu dùng
và máy móc nông nghiệp :

Ngân hàng

(3)

(2)

Người mua

Doanh nghiệp

(1)

SƠ ĐỒ 1.1 : NGHIỆP VỤ MUA CÁC PHIẾU BÁN HÀNG

( DEALER PAPER )
(1) Doanh nghiệp thương mại bán chòu hàng hoá cho người mua - người tiêu
dùng hoặc nông dân.
(2) Doanh nghiệp thương mại nhượng bán hàng hóa trả góp cho ngân hàng
để được tài trợ vốn.
(3) Người mua thanh toán cho ngân hàng theo đònh kỳ.
Khi thực hiện các nghiệp vụ này ngân hàng cần lưu ý :
- Ngân hàng thỏa thuận với người bán hàng các điều khoản bắt buộc khi
thực hiện việc bán hàng trả góp và ngân hàng chỉ mua lại những hồ sơ bán hàng
theo đúng thỏa thuận.
- Ngân hàng thanh toán cho người bán một khoản tiền sau khi giữ lại từ 10 30% trò giá phải thanh toán và sẽ hoàn lại người bán khi người mua thanh toáùn


- 33 -

hết nợ.
- Hợp đồng mua lại các phiếu bán hàng trả góp là hợp đồng được phép truy
đòi, có nghóa là khi người mua không thanh toán được nợ thì người bán phải có
trách nhiệm thanh toáùn cho ngân hàng.
1.2.2.2.6- Tín dụng thấu chi :
( Cho vượt chi hay cho phép khách hàng để dư nợ tài khoản vãng lai ).
Thấu chi là hình thức cấp tín dụng đặc biệt được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng tín dụng, trong đó, khách hàng được phép có số dư nợ tài khoản vãng lai
theo một hạn mức thấu chi nhất đònh, trong một thời gian nhất đònh, giúp cho
khách hàng sử dụng vốn vay chủ động và tiện lợi. Tuy nhiên, loại tín dụng này
có khả năng gây cho ngân hàng nhiều rủi ro. Vì vậy, ngân hàng thường chỉ áp
dụng cho những khách hàng có khả năng tài chính mạnh và có uy tín.
1.2.2.2.7- Nghiệp vụ factoring :
Nghiệp vụ factoring hay còn gọi là mua các tích trái ( khoản phải thu theo
hóa đơn ) là một hình thức tài trợ vốn ngắn hạn; nghiệp vụ này thường do các

công ty mua nợ ( FACTOR ) thực hiện.

(1)

Người mua nợ
Factor

SƠ ĐỒ 1.2 :

(2)

(3)

Khách hàng

Con nợ

NGHIỆP VỤ FACTORING

(1) Khách hàng bán các tích trái cho người mua nợ ( FACTOR - thường là
công ty của ngân hàng ).
(2) Người mua nợ thanh toán một khoản tiền bằng số tiền trên tài khoản


- 34 -

nợ trừ đi lãi và hoa hồng mà người mua nợ được hưởng, đồng thời người mua nợ
còn giữ lại một phần để phòng ngừa hàng trả lại.
(3) Khi đến hạn con nợ phải thanh toán cho người mua nợ.
Nghiệp vụ factoring gần giống nghiệp vụ chiết khấu thương mại nhưng có

các điểm khác nhau sau :
- Các khoản nợ được mua là các khoản nợ có hoá đơn.
- Hợp đồng mua tích trái là hợp đồng không được truy đòi.
- Ngân hàng thường giữ lại 10-20% để dự phòng hàng hóa bò trả lại.
- Lãi suất mà người mua đượïc hưởng trong nghiệp vụ này cao hơn so với
nghiệp vụ tín dụng khác, vì nghiệp vụ factoring có rủi ro cao.
1.2.2.2.8- Nghiệp vụ cho thuê tài chính :
Là hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài
sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê, khách hàng mua
lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng
thuê. Trong thời hạn thuê các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng …
1.2.2.2.9- Tín dụng bằng chữ ký - Bảo lãnh của ngân hàng :
Là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc
thực hiện nghóa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực
hiện đúng nghóa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ
chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Với các hình thức tín dụng này, ngân hàng có thể không ứng tiền ra mà chỉ
cam kết thanh toán một khoản nợ cho khách hàng trong trường hợp khi đến hạn
thanh toán nhưng khách hàng không trả được nợ. Thực chất là nghiệp vụ ngân
hàng cho khách hàng sử dụng uy tín của mình .
Thông thường để thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng phải lập quỹ bảo
lãnh theo một tỷ lệ so với vốn pháp đònh. Quỹ bảo lãnh quyết đònh qui mô và


×