Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Phương hướng phát triển hệ thống ngân hàng việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 195 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

LÂM THỊ HỒNG HOA

PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

TP.Hồ Chí Minh, năm 2006


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1 : HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ VẤN ĐỀ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC

NGÂN

HÀNG

5

1.1. Tổng quan về ngân hàng


5

1.1.1. Khái niệm về ngân hàng

5

1.1.2. Các chức năng cơ bản của ngân hàng

7

1.1.3. Các nghiệp vụ chính của ngân hàng.

10

1.2. Hệ thống ngân hàng và vai trò của hệ thống ngân hàng

12

1.2.1. Hệ thống ngân hàng

12

1.2.2. Vai trò của hệ thống ngân hàng trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế

16

1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng

19


1.3.1. Toàn cầu hóa kinh tế

19

1.3.2. Hội nhập kinh tế quốc tế.

23

1.3.3. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến các nước đang phát
triển.

25

1.3.4. Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng

28

1.4. Những điều kiện tiền đề cần có để phát triển hệ thống ngân hàng trong
điều kiện hội nhập đối với các nước đang phát triển.
36
1.5. Kinh nghiệm phát triển, hội nhập ngân hàng của một số quốc gia
trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.

41

1.5.1. Kinh nghiệm phát triển và hội nhập ngân hàng của một số
nước

41


1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho phát triển và hội nhập đối với ngân
hàng Việt Nam.
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

49

VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ

53


2.1. Khái lược quá trình đổi mới kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam.

53

2.1.1. Đường lối đổi mới kinh tế của Việt Nam

53

2.1.2. Tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam

54

2.2. Tiến trình hội nhập của hệ thống ngân hàng

56


2.2.1. Giai đoạn trước tháng 10/1993

56

2.2.2. Giai đoạn từ tháng 10/1993 đến nay

58

2.3. Thực trạng của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập

59

2.3.1. Những thành quả hệ thống ngân hàng đã đạt được trong thời
kỳ đổi mới

59

2.3.2. Những bất cập trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay
trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

86

2.4. Những nguyên nhân chính dẫn đến những bất cập của hệ thống
ngân hàng hiện nay

105

2.4.1. Nguyên nhân khách quan từ nền kinh tế.


105

2.4.2. Nguyên nhân từ bản thân hệ thống NHTM

112

2.4.3. Nguyên nhân từ phía NHNN

118

2.5. Đánh giá khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của hệ
thống ngân hàng Việt Nam

119

2.5.1. Thách thức đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam khi tham
dự vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

119

2.5.2. Đánh giá khả năng cạnh tranh và hội nhập của hệ thống ngân
hàng

122

CHƯƠNG 3 : PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ GIẢI PHÁP
THỰC HIỆN


127

3.1. Mục tiêu và phương hướng phát triển hệ thống ngân hàng Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

127

3.1.1. Mục tiêu phát triển hệ thống ngân hàng

127

3.1.2. Lộ trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng

129


3.1.3. Phương hướng phát triển hệ thống ngân hàng

131

3.2. Nhóm giải pháp điều hành vĩ mô về quản lý tiền tệ ngân hàng

135

3.2.1. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động ngân hàng đồng bộ
và có khả năng thực thi cao

135

3.2.2. Hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối


136

3.2.3. Cải thiện việc công bố thông tin.

138

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN

139

3.3.1. Cải thiện vị trí và cơ cấu tổ chức của NHNN

139

3.3.2. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tiền
tệ

141

3.3.3. Tiếp tục cải thiện hệ thống thanh toán và hệ thống thông tin

142

3.3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của NHNN

143

3.4. Giải pháp để phát triển các NHTM


145

3.4.1. Xây dựng các ngân hàng có quy mô lớn

145

3.4.2.Cơ cấu lại ngân hàng, thực hiện tái lập ngân hàng

157

3.4.3. Phát triển sản phẩm dịch vụ và nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh
3.4.4. Tích cực cải tiến hoạt động quản trị

163
172

3.4.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và năng lực quản trị của
NHTM

179

3.4.6. Tiếp tục chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin ngân
hàng theo hướng đồng bộ hoá

181

3.4.7. Tăng cường quan hệ hợp tác hoạt động ngân hàng trong nước và
quốc tế
3.5. Những giải pháp hỗ trợ khác

KẾT LUẬN
- Danh mục các công trình liên quan đến luận án tác giả đã công bố
- Tài liệu tham khảo
- Phục lục

182
183
185


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình tự do hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang phát triển ngày
càng mạnh mẽ cả về quy mô và tốc độ. Không nằm ngoài xu hướng đó, Việt Nam
cũng đang rất tích cực tham gia vào quá trình này.
Ngân hàng, một trong những ngành dịch vụ quan trọng, nhạy cảm, có ảnh
hưởng to lớn đến sự phát triển của nền kinh tế và sự thành công của tiến trình hội
nhập, đã là một trong những ngành đi đầu thực hiện hội nhập.
Xác định được vai trò quan trọng của ngành đối với sự phát triển của nền
kinh tế trong bối cảnh hội nhập, trong thập kỷ qua các ngân hàng Việt Nam đã có
rất nhiều cố gắng để phát triển hoạt động kinh doanh nhằm đáp ứng tốt nhất những
đòi hỏi của nền kinh tế và đã đạt được những thành công đáng kể, và trong 5 năm
đầu của thế kỷ 21, hoạt động ngân hàng Việt Nam biến đổi nhanh hơn rất nhiều so
với thập kỷ trước đó. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, hệ thống ngân
hàngViệt Nam vẫn chưa thật phát triển. Điều đó sẽ gây ra những tác động bất lợi,
không những đến khả năng hội nhập của chính hệ thống ngân hàng vào thị trường
tài chính - tiền tệ thế giới, mà còn ảnh hưởng đến khả năng hội nhập kinh tế quốc
tế của đất nước.
Đòi hỏi của nền kinh tế buộc các NHTM Việt Nam phải có những định
hướng và giải pháp thích hợp để phát triển, với đích hướng đến là trở thành những

ngân hàng có quy mô lớn, hiện đại, có trình độ quản lý kinh doanh tiên tiến. Đây
cũng chính là vấn đề mà Nghiên cứu sinh đã suy nghĩ, lựa chọn để nghiên cứu và
trình bày những ý tưởng của mình với đề tài mang tên “Phương hướng phát triển
hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”.


2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu của luận án hướng tới các mục đích sau:
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận sự cần thiết của việc phát triển hệ thống ngân
hàng Việt Nam với bối cảnh nền kinh tế đang trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Phản ánh và đánh giá thực trạng hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng
Việt Nam, nhận biết rõ những yếu kém trong hoạt động của hệ thống và phân tích
những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thống - nhất là trong điều
kiện phải đáp ứng những yêu cầu khắt khe của hội nhập kinh tế quốc tế; những
thuận lợi và khó khăn trong việc cải tổ thể chế và hoạt động của hệ thống ngân hàng
Việt Nam, đặc biệt khi thực hiện hiệp định thương mại Việt – Mỹ và tham gia
WTO.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng và phân tích những nguyên nhân, căn cứ
vào yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong tình hình mới, tác động của
hội nhập kinh tế đến hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, luận án xác
định rõ phương hướng phát triển của hệ thống ngân hàng trong giai đoạn tới và
giải pháp có tính khả thi để thực hiện phương hướng đã định, góp phần vào sự
phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hoạt động của hệ thống ngân hàng bao gồm hoạt động quản lý về tiền tệ ngân hàng của ngân hàng trung ương và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thương mại, do vậy nghiên cứu để xác định phương hướng phát triển hệ thống
ngân hàng và các giải pháp thực hiện phương hướng không chỉ tập trung vào hoạt
động của các ngân hàng thương mại, mà còn cả hoạt động của ngân hàng trung

ương.


Phạm vi nghiên cứu của luận án là khá rộng, gồm cả hoạt động thuộc lĩnh
vực vi mô lẫn vĩ mô, song do thời gian nghiên cứu giới hạn, hoạt động ngân hàng
ngày phức tạp và biến đổi nhanh, trong khuôn khổ cho phép luận án xin giới hạn
đối tượng nghiên cứu ở phạm vi:
- Đánh giá hoạt động của ngân hàng nhà nước Việt Nam và của các ngân
hàng thương mại trên phương diện tổng quát, trong mối quan hệ tất yếu, cần thiết
giữa hoạt động của ngân hàng nhà nước với các ngân hàng thương mại, giữa các
ngân hàng thương mại với nhau.
- Luận án không đặt vấn đề nghiên cứu, đánh giá hoạt động của ngân hàng
Chính sách xã hội do tính chất hoạt động của ngân hàng này có tính đặc thù: Hoạt
động kinh doanh để thực hiện các chính sách xã hội của nhà nước.
- Luận án tập trung đánh giá hoạt động của hệ thống ngân hàng kể từ khi
Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường
và đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
Liên quan đến những vấn đề mà luận án tập trung phân tích đã có một số
công trình nghiên cứu, tuy nhiên những công trình này đã đi sâu vào một hoạt
động cụ thể, hoặc chỉ đề cập đến ngân hàng thương mại, hoặc chỉ đề cập đến ngân
hàng nhà nước, chứ không có tính chất tổng hợp toàn hệ thống. Chẳng hạn:
- Tác giả Trầm thị Xuân Hương trong luận án Tiến sĩ với đề tài: “Các giải
pháp nâng cao hiệu quả tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” đã chỉ tập trung đánh giá và đề ra các giải pháp
để nâng cao hiệu quả về hoạt động tín dụng.
- Tác giả Lê thị Mận trong luận án Tiến sĩ với đề tài "Các giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý của ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng thương mại
Việt Nam” lại tập trung nghiên cứu về hoạt động quản lý của ngân hàng nhà nước.
- Tác giả Trịnh quốc Trung trong luận án Tiến sĩ với đề tài “Các giải pháp
nâng cao năng lực canh tranh và hội nhập của các ngân hàng thương mại Việt



Nam đến năm 2010” đã nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan đến việc nâng cao năng
lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Xét về mặt nào đó thì việc nâng cao
năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với việc phát triển các ngân hàng, tuy nhiên trong
công trình này tác giả chỉ tập trung vào các ngân hàng thương mại, không đặt vấn
đề về sự tác động lẫn nhau giữa các ngân hàng trong hệ thống cũng như tác động
của ngân hàng nhà nước đến sự phát triển tổng thể của toàn ngành.
Tương tự như vậy các báo cáo trình bày tại các cuộc hội thảo như “Bàn về
cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước”, “Những thách thức của NHTM
Việt Nam trong cạnh tranh và hội nhập quốc tế”…cũng chỉ đặt vấn đề ở hoạt động
cụ thể, hoặc tập trung vào các ngân hàng thương mại.

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu dựa vào phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, phương pháp thống kê, phân tích so sánh để nghiên cứu. Trong quá trình
nghiên cứu có kết hợp giữa lý luận và thực tiễn thông qua điều tra, khảo sát, phỏng
vấn...từ đó đánh giá bản chất của các hiện tượng, quá trình quản lý, kinh doanh
ngân hàng trong phạm vi đề tài nghiên cứu.

5. Đóng góp của luận án
- Hệ thống hóa được những vấn đề cơ bản về hoạt động ngân hàng và hệ
thống ngân hàng, những vấn đề cơ bản mang tính lý luận về hội nhập kinh tế quốc
tế nói chung và hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng, cũng như những tác
động, những yêu cầu của quá trình này đến sự phát triển hệ thống ngân hàng.
- Đánh giá được những thuận lợi, khó khăn đối với việc phát triển hệ thống
ngân hàng Việt Nam trong điều kiện hội nhập.
- Xác định phương hướng chính để phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam
và các giải pháp thực hiện phương hướng đã đặt ra.



CHƯƠNG 1
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ VẤN ĐỀ HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
1.1. Tổng quan về ngân hàng
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng
Cho đến hiện nay vẫn có nhiều cách diễn giải khác nhau để định nghĩa thế
nào là Ngân hàng mà không có một định nghĩa nào được coi là duy nhất. Đơn giản
chỉ vì Ngân hàng không còn là một tổ chức độc quyền cung cấp các dịch vụ có
liên quan đến loại hàng hoá đặc biệt là tiền tệ nữa, mà có rất nhiều các tổ chức tài
chính khác cũng cung cấp các dịch vụ tương tự như ngân hàng. Do đó để có một
định nghĩa duy nhất về ngân hàng nhằm phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài
chính khác thực sự không dễ. Để có khái niệm cơ bản về ngân hàng, có lẽ cần
phải hiểu Ngân hàng từ các diễn giải khác nhau tùy thuộc vào quan điểm, cách
nhìn về vị trí, chức năng của ngân hàng.
Nói chung, ngân hàng theo truyền thống là một định chế tài chính cung cấp
2 loại dịch vụ chính cho công chúng là nhận tiền gửi và cho vay trực tiếp đến các
doanh nghiệp, cá nhân và các định chế tài chính khác.
Ở Anh, Ngân hàng được coi là một tổ chức, bằng hoạt động của mình tiến
hành thu nhận vốn dưới hình thức tiền gửi và cấp tín dụng cho các cá nhân và
doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng giải thích “Ngân hàng là
loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác có liên quan”[25] trong đó “Tổ chức tín dụng là doanh
nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp
luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận


tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”[
25].

Ở Mỹ Ngân hàng được định nghĩa trên phương diện những loại hình dịch
vụ mà chúng cung cấp. Theo đó, ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp
một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và
dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một
tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ở Pháp, ngân hàng là các pháp nhân thực hiện một cách thường xuyên,
chuyên nghiệp các hoạt động bao gồm nhận tiền gửi của công chúng, các hoạt động
tín dụng cũng như cung ứng hoặc quản lý các phương tiện thanh toán cho khách
hàng.
Một số nhà kinh tế châu Âu định nghĩa ngân hàng là một trung gian tài
chính huy động quỹ thông qua những khoản tiền gửi có hoàn trả theo yêu cầu và
dùng chúng để ứng trước bằng thấu chi hoặc các khoản vay, chiết khấu hối phiếu.
Còn có những định nghĩa khác nữa về ngân hàng, chẳng hạn như vào thập
niên 80 của thế kỷ 20 Quốc hội Mỹ đã định nghĩa ngân hàng như một công ty
thành viên của Công ty bảo hiểm liên bang, do nhìn nhận ngân hàng trên cơ sở
xem xét cơ quan Chính phủ nào bảo hiểm cho nó. Sự nhìn nhận này có được là do
quá trình thay đổi về mặt pháp lý trong quản lý ngân hàng, song những định nghĩa
không mang tính phổ quát như vậy hầu như không được nhắc đến trong các tài
liệu viết về ngân hàng.
Tuy có nhiều cách diễn giải khác nhau để làm rõ khái niệm về ngân hàng
nhằm phân biệt ngân hàng với các định chế tài chính khác, nhưng điểm chung nhất
mà các định nghĩa khác nhau đều đề cập đến, đặc biệt định nghĩa về ngân hàng
hiện đại, là chỉ có ngân hàng mới thực hiện các khoản cho vay và bán ra những tài
khoản thanh toán, ngoài những dịch vụ tài chính giống như các định chế tài chính
khác cũng thực hiện. Như vậy, có thể hiểu ngân hàng là một định chế tài chính


cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, trong đó nghiệp vụ cơ bản và truyền thống
là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và thực hiện dịch vụ thanh toán.
1.1.2. Các chức năng cơ bản của ngân hàng

1.1.2.1. Chức năng của ngân hàng Trung ương
Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) là một tổ chức vừa thực hiện vai trò quản
lý nhà nước về kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng, vừa thực hiện các
nghiệp vụ ngân hàng cho các NHTM và cho chính mình, với mục đích chính là
thông qua các hoạt động kinh doanh đó điều khiển, kiểm soát các hoạt động của cả
hệ thống ngân hàng, đảm bảo gía trị đồng tiền trong nước, ổn định lưu thông tiền
tệ.
NHTƯ có chức năng:
- Là ngân hàng phát hành - thể hiện ở việc NHTƯ độc quyền phát hành
tiền. Việc phát hành tiền của NHTƯ có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông
tiền tệ, do đó hoạch định và thực thi một chính sách tiền tệ đúng đắn để đảm bảo
lưu thông tiền tệ phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền
quốc gia là một công việc quan trọng của NHTƯ.
- Là ngân hàng của các ngân hàng. Trên cơ sở độc quyền phát hành tiền
NHTƯ thực hiện việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế thông qua hoạt động cấp tín
dụng cho các NHTM và kiểm soát khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế từ tín
dụng “tạo tiền” của của các NHTM. Ngoài ra, NHTƯ cũng giữ vai trò điều chỉnh
hoạt động kinh doanh ngân hàng, sao cho những hoạt động này phù hợp với yêu
cầu của nền kinh tế trong từng giai đoạn.
Chức năng này của NHTƯ được thực hiện thông qua cơ chế nghiệp vụ cấp
tín dụng, với vị trí là người cho vay cuối cùng, quản lý tiền gửi dự trữ bắt buộc,
tiền gửi thanh toán, tổ chức thanh toán cho các NHTM.
- Nếu Ngân hàng trung ương là ngân hàng trực thuộc Chính phủ thì nó có
thêm chức năng là ngân hàng của nhà nước, thể hiện: NHTƯ thuộc sở hữu nhà


nước, phục vụ cho kho bạc nhà nước, thay mặt Chính phủ quản lý nhà nước về các
hoạt động tiền tệ, ngân hàng, quản lý dự trữ quốc gia, đại diện cho Chính phủ tại
các tổ chức Tài chính-Tiền tệ quốc tế, tư vấn cho Chính phủ và tham gia vào quá
trình hoạch định chính sách liên quan đến tài chính- tiền tệ…

Với các chức năng trên, NHTƯ có tác động đến toàn bộ hoạt động cơ bản
nhất của các NHTM như huy động vốn, hoạt động tín dụng, thanh toán, ngoại
hối…. Sự tác động này có được là do uy quyền được đặt định cho NHTƯ khi mới
hình thành và do chính khả năng điều hành của NHTƯ. Trong quá trình đó NHTƯ
không chỉ là người kiểm soát hoạt động của các NHTM mà còn là người hỗ trợ
tích cực để các NHTM hoạt động an toàn và hiệu quả.
1.1.2.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
Khi so sánh hoạt động của ngân hàng với các định chế tài chính trung gian
khác, thì ngân hàng được thừa nhận là định chế tài chính trung gian điển hình, góp
phần tạo nên sự lưu thông của các nguồn vốn trong nền kinh tế một cách có hiệu
quả nhất. Theo đà phát triển kinh tế xã hội, những chức năng của định chế tài
chính này ngày càng được mở rộng, do đó có nhiều cách trình bày khác nhau về
các chức năng chính của NHTM. Tuy nhiên, các chức năng chủ yếu của ngân hàng
hiện đại, được trình bày trên nhiều tài liệu viết về ngân hàng hiện nay, theo luận án
là hợp lý. Các chức năng đó bao gồm:


Chức năng trung gian tín dụng - là chức năng quan trọng và cơ bản nhất

của NHTM, có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển kinh doanh ngân hàng. Khi
thực hiện chức năng này, ngân hàng là người đứng giữa các cá nhân, tổ chức trong
nền kinh tế để chuyển nguồn vốn tạm thời dư thừa và thiếu hụt giữa họ với nhau,
biến tiền nhàn rỗi từ chỗ là phương tiện tích lũy trở thành nguồn vốn lớn của nền
kinh tế.
Kết quả là, ngoài lợi ích mà ngân hàng thu được thì hoạt động này đã mang
lại lợi ích lớn hơn cho nền kinh tế cũng như các cá nhân vì họ có thể có được cơ


hội đầu tư ngay cả khi có món tiền nhỏ, hoặc nhận được một khoản vốn đầu tư đủ
lớn để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh trong khi các chi phí thông tin, chi phí

giao dịch để có thể đầu tư hoặc nhận vốn vay được giảm bớt đáng kể so với việc
tự mình tìm kiếm nguồn vốn nhỏ, lẻ…và nền kinh tế sẽ phát triển nhờ có được sự
đầu tư thỏa đáng.
Chức năng trung gian tín dụng của NHTM được thể hiện cụ thể qua hai
nhiệm vụ cơ bản là:
- Thu nhận các khoản tiền gửi từ các tổ chức và cá nhân dưới nhiều hình
thức khác nhau theo nguyên tắc có hoàn trả. Thông qua hoạt động này, hệ thống
ngân hàng tập trung được các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, và
nhờ đó các ngân hàng có điều kiện để thực hiện chức năng, nhiệm vụ khác của
mình, như chức năng trung gian thanh toán, cấp tín dụng…
- Cho các tổ chức và cá nhân vay vốn theo nguyên tắc có hoàn trả. Thông
qua hoạt động này tiền vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế đã được đưa vào sử
dụng, góp phần to lớn vào việc phát triển kinh tế của các quốc gia.


Chức năng trung gian thanh toán – Khi thực hiện quản lý tiền, tài sản của

khách hàng Ngân hàng có điều kiện thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán để
hoàn tất các quan hệ kinh tế, thương mại trong và ngoài nước…giữa các khách
hàng với nhau dựa trên lệnh trả tiền qua tài khoản của khách hàng có nhu cầu.
Khi thực hiện chức năng thanh toán, ngoài việc Ngân hàng có cơ hội tăng
thêm nguồn vốn để cho vay thì đây còn là yếu tố duy nhất để phân biệt một tổ
chức tài chính là ngân hàng với một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Do không
thực hiện chức năng trung gian thanh toán nên các tổ chức tài chính phi ngân hàng
không thể tạo ra tiền, trong khi các ngân hàng nhờ vào chức năng này đã tạo ra
tiền gửi làm tăng tổng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, đồng thời làm giảm
bớt khối lượng tiền mặt trong lưu thông, gián tiếp tác động đến việc điều hòa lưu
thông tiền tệ do thay đổi cấu trúc của tổng phương tiện thanh toán. Hoạt động này



còn góp phần thúc đẩy sự phát triển các quan hệ kinh tế thương mại trên bình diện
quốc gia cũng như quốc tế.


Cung cấp các dịch vụ tài chính khác - là một chức năng cơ bản của ngân

hàng đa năng trong điều kiện hiện nay. Ngoài các chức năng truyền thống, do có
những điều kiện đặc thù về cơ sở vật chất, quan hệ với khách hàng, Chính phủ,
giữa các ngân hàng với nhau… nên ngân hàng có thể cung cấp các dịch vụ tài
chính khác như: ủy thác, môi giới tiền tệ, bảo quản tài sản, phát hành chứng
khoán…
1.1.3. Các nghiệp vụ chính của ngân hàng.
1.1.3.1. Nghiệp vụ nguồn vốn
Nghiệp vụ nguồn vốn là nghiệp vụ cơ bản giúp hình thành vốn để ngân
hàng kinh doanh. Nghiệp vụ nguồn vốn bao gồm:


Các nghiệp vụ để hình thành nên vốn chủ sở hữu của ngân hàng như phát

hành các loại chứng khoán, tối đa hóa tài sản của ngân hàng thông qua việc mua
bán các chứng khoán của chính ngân hàng mình trên thị trường chứng khoán.


Nghiệp vụ nhận tiền gửi: ngân hàng nhận khoản tiền do khách hàng gửi

dưới các hình thức như gửi tiết kiệm, gửi có kỳ hạn để hưởng lãi, gửi không kỳ
hạn để phát hành séc và thực hiện thanh toán… Đây là nguồn vốn hoạt động chủ
yếu, thường xuyên của ngân hàng, tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng phát triển
và ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh doanh chung.



Phát hành chứng khoán Nợ: ngân hàng thực hiện phát hành kỳ phiếu, trái

phiếu, chứng chỉ tiền gửi để tạo nguồn vốn hoạt động nhưng không mang tính chất
thường xuyên.


Vay ngân hàng khác: khi ngân hàng không đủ nguồn vốn cho hoạt động

kinh doanh thì có thể vay ngân hàng nhà nước hoặc các ngân hàng khác trên thị
trường tiền tệ.




Các nghiệp vụ tài sản Nợ khác như nhận vốn ủy thác, đại lý chuyển tiền

kiều hối…
1.1.3.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn
Đây là nhóm nghiệp vụ sử dụng các nguồn vốn nhằm tạo ra lợi nhuận cho
ngân hàng. Nghiệp vụ sử dụng vốn bao gồm:


Nghiệp vụ ngân quỹ: Là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh toán

thường xuyên của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng bằng
việc đảm bảo một mức dự trữ nhất định dưới dạng tiền mặt tại quỹ hoặc tiền gửi
tại ngân hàng nhà nước, tại các tổ chức tín dụng khác…hoặc dự trữ các giấy tờ có
giá có thể chuyển đổi thành tiền một cách nhanh nhất.



Nghiệp vụ tín dụng: là nghiệp vụ cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp đối với

các khách hàng. Đây là hoạt động chính để ngân hàng cung ứng vốn cho nền kinh
tế đồng thời cũng là hoạt động kinh doanh mang lại thu nhập chính cho ngân hàng
qua việc sử dụng nguồn vốn huy động được. Nghiệp vụ tín dụng khá đa dạng với
các loại hình như cho vay thương mại, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh
toán, thấu chi…


Nghiệp vụ đầu tư: là nghiệp vụ ngân hàng bỏ vốn của mình để tìm kiếm

lợi nhuận thông qua việc mua bán chứng khoán hoặc trực tiếp góp vốn vào các
doanh nghiệp khác như góp vốn liên doanh, mua cổ phần…
1.1.3.3. Nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ khác.
Đây là nhóm nghiệp vụ không có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn cũng
như tài sản của ngân hàng nhưng lại tạo ra một phần thu nhập khá lớn với chi phí
thấp nhưng lại đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các chủ thể trong nền kinh tế.
Một số nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ có thể kể đến là:


Mua bán ngoại tệ, kim loại quý cho chính ngân hàng và cho khách hàng

nhằm tìm kiếm thu nhập qua chênh lệch tỷ giá hoặc hoa hồng ủy thác.




Dịch vụ thanh toán - chuyển tiền: ngân hàng thực hiện thanh toán tiền


hàng hóa dịch vụ cho khách hàng, giúp cho luân chuyển hàng hóa, vật tư tiền vốn
nhanh chóng, thuận lợi, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp và cho xã hội. Dịch vụ
thanh toán được thực hiện cả trong và ngoài nước.


Dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng để khách hàng có thể mua hàng, tham

dự đấu thầu, vay vốn…


Dịch vụ ủy thác: ngân hàng sẽ thực hiện việc quản lý tài sản, cho vay,

thực hiện di chúc…tùy theo yêu cầu của khách hàng.


Cung cấp dịch vụ bảo hiểm trực tiếp hoặc làm đại lý cho các công ty bảo



Dịch vụ tư vấn tài chính, môi giới tiền tệ…



Các dịch vụ ngân hàng liên quan đến việc sử dụng tiện ích do công nghệ

hiểm.

thông tin mang lại như dịch vụ thẻ rút tiền mặt, thanh toán, homebanking…

1.2. Hệ thống ngân hàng và vai trò của hệ thống ngân hàng

1.2.1. Hệ thống ngân hàng
Hệ thống - đó là một tập hợp các thành phần bộ phận được phối hợp với
nhau một cách chặt chẽ và mang tính khoa học để có thể đạt được một số mục tiêu
đề ra. Một tập hợp được coi là một hệ thống nếu có ba đặc điểm chính:
- Hệ thống bao gồm các thành phần bộ phận (còn gọi là các phần tử) thường
là có một số tính chất hay đặc điểm tương tự nhau.
- Các thành phần này được phối hợp với nhau theo một phương pháp hay
một tiến trình xử lý nào đó. Sẽ không có hệ thống nếu các phần tử chỉ đứng cạnh
nhau một cách rời rạc, bởi vì quan hệ giữa các phần tử là vấn đề sống còn, tạo ra
cho hệ thống các đặc trưng và các điều kiện vận hành.
- Sự phối hợp này nhằm đạt được một hay một số mục tiêu nhất định.


Đối chiếu với đặc điểm đó thì các ngân hàng nằm trong một hệ thống là tất
yếu, do các ngân hàng có những đặc điểm, tính chất hoạt động tương tự nhau và
luôn có sự phối hợp với nhau, cùng thực hiện một số tiến trình hoạt động để đạt
được mục tiêu nhất định. Trong hệ thống này mỗi ngân hàng, không kể nhiều hay
ít chi nhánh, là một phần tử của hệ thống. Các chi nhánh của một ngân hàng không
được coi là một phần tử của hệ thống bởi chúng chỉ hoạt động theo sự uỷ quyền
của trung tâm, không thể tách ra để tự liên kết, phối hợp hoạt động với các ngân
hàng khác một cách độc lập.
Hệ thống ngân hàng có những đặc trưng và điều kiện vận hành rất riêng,
khác hẳn với các định chế tài chính khác, thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất: các ngân hàng luôn có giao dịch vay hoặc gửi tiền lẫn nhau trên
thị trường liên ngân hàng…với mục đích đầu tư vốn tạm thời nhàn rỗi để kiếm lời,
hoặc tìm kiếm nguồn vốn với giá rẻ hơn so với đi vay NHTƯ và cũng dễ vay hơn.
Những giao dịch này sẽ làm cho các ngân hàng phụ thuộc vào nhau bởi yếu tố
thanh khoản, nên một ngân hàng trong hệ thống gặp rủi ro thanh khoản thì khả
năng kéo theo rủi ro cho các ngân hàng khác là rất lớn nếu sự can thiệp của
NHTƯ, người cho vay cuối cùng, không kịp thời và hữu hiệu.

Thứ hai: do xuất hiện những nhu cầu tài chính đa dạng đã tạo cơ hội phát
triển các ngân hàng đại lý. Các ngân hàng đại lý sẽ giúp cho các ngân hàng nhỏ
thực hiện một số các dịch vụ mà nếu phải tự mình thực hiện thì chi phí mà các
ngân hàng nhỏ phải bỏ ra là rất cao, chẳng hạn trang bị một hệ thống máy móc
thiết bị để phục vụ cho việc phát hành thẻ nhưng do quy mô kinh doanh hiện tại
không sử dụng hết công suất máy, trong khi nếu sử dụng dịch vụ do các ngân hàng
khác cung cấp thì chỉ phải bỏ ra khoản phí dịch vụ…; hoặc các ngân hàng nhận
làm đại lý cho vay lẫn nhau, hoặc các ngân hàng cùng nhau tài trợ cho một khách
hàng…Tất cả những hoạt động này đã làm cho sự gắn kết giữa các phần tử-ngân
hàng trong hệ thống trở nên phức tạp hơn, ràng buộc nhau chặt chẽ hơn.


Thứ ba: cũng với mục đích đáp ứng nhu cầu tài chính đa dạng không chỉ
của các khách hàng của ngân hàng, mà còn là nhu cầu của chính bản thân ngân
hàng nên đã hình thành “ngân hàng của các ngân hàng” với sự tham gia góp vốn
của các ngân hàng thành viên. “Ngân hàng của các ngân hàng” sẽ là người trợ giúp
cho các thành viên trong hệ thống của mình các dịch vụ cần thiết với chi phí thấp.
Như vậy khi một ngân hàng của các ngân hàng hình thành thì các ngân hàng đơn
lẻ đã có một mối liên hệ ràng buộc nhau trong một hệ thống con trong tổng các
ngân hàng của một nền kinh tế.
Thứ tư: để đáp ứng yêu cầu thanh toán chi trả đa dạng của khách hàng nên
giữa các ngân hàng đã hình thành một mạng lưới các kênh thanh toán. Đó chính là
những đường dẫn nối kết các ngân hàng lại với nhau và có thể hình dung hệ thống
đường dẫn này tương tự như những con đường dành cho giao thông, hay những
“mạch máu” để chuyển “máu - tiền vốn” đi nuôi cơ thể - nền kinh tế. Đó cũng
chính là một hình ảnh tiêu biểu để có thể hiểu rõ hơn tại sao ngân hàng thường
được ví von là “hệ thống tuần hoàn” của nền kinh tế. Các ngân hàng tham gia vào
hệ thống thanh toán như là một nhu cầu tự thân và không thể có sự lựa chọn khác,
bởi nếu đứng ngoài hệ thống này thì các ngân hàng khó mà tồn tại do không đáp
ứng được rất nhiều nhu cầu của khách hàng có liên quan đến hệ thống thanh toán.

Hệ thống thanh toán là mạng lưới liên kết mọi hoạt động kinh tế tài chính
của nền kinh tế thị trường hiện đại, nó giúp cho các luồng vốn trong nền kinh tế
được luân chuyển nhanh chóng.
Nhờ có hệ thống thanh toán - kết hợp với việc cung ứng vốn tín dụng cho
các chủ thể trong nền kinh tế - các ngân hàng đã thực hiện được việc tạo ra một
lượng tiền gấp bội từ một lượng tiền ban đầu, mà nếu như các ngân hàng không có
mối quan hệ chuyển tiền lẫn nhau thì khó có thể có được. Mặc dù trong mỗi một
ngân hàng - chỉ xét đến quá trình hoạt động nội bộ - cũng có thể “tạo tiền” nếu
ngân hàng cho vay được và số tiền đó không đi ra khỏi ngân hàng nhưng lượng
tiền được tạo ra là hạn chế. Chính vì khả năng này mà trên phương diện lý thuyết


đã có nhiều nhà kinh tế cho rằng ngân hàng có chức năng “tạo tiền”. Tuy nhiên
“tạo tiền” chỉ là khả năng của NHTM nhờ kết quả của hoạt động cấp tín dụng và
thanh toán chứ không phải là chức năng vốn có của NHTM.
Hệ thống thanh toán cũng là nơi có thể tạo ra các cú sốc về tiền tệ, là kênh
truyền dẫn chính các cú sốc đó giữa các bên tham gia vào thị trường liên ngân
hàng.
Từ những mối liên hệ ràng buộc kể trên của hệ thống ngân hàng, thật dễ
hiểu tại sao lại xuất hiện hiện tượng đổ vỡ hàng loạt các ngân hàng, vì sao thuật
ngữ “rủi ro hệ thống” lại được sử dụng rất phổ biến trong lĩnh vực ngân hàng mà
thường không sử dụng trong các ngành khác.
Xét theo đặc điểm hệ thống như trên thì NHTƯ có vẻ như là một thực thể
riêng biệt, đứng bên ngoài hệ thống do NHTƯ chỉ là người quản lý hoạt động của
hệ thống này, mặc dù về mặt lịch sử hình thành NHTƯ được tách ra từ ngân hàng
thương mại.
Nhưng để quản lý hoạt động của hệ thống ngân hàng, NHTƯ phải ban hành
những chính sách, quy chế để hướng dẫn, kiểm soát các ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó, với chức năng là “ngân hàng của các ngân hàng”, NHTƯ thực hiện
các nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu về vốn, về thanh toán của các ngân hàng

thương mại như thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn, tái chiết khấu, thực hiện các giao
dịch thanh toán, nhận tiền gửi của các ngân hàng thương mại…Việc NHTƯ thực
hiện những nghiệp vụ này không hướng đến mục tiêu lợi nhuận mà thông qua các
nghiệp vụ để kiểm soát gián tiếp tình trạng của các ngân hàng như tình trạng thanh
khoản, tác động đến lãi suất thị trường ...
NHTƯ cũng thực hiện nghiệp vụ mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng nhằm mục tiêu quản lý tỷ giá hối đoái và hoạt động này có tác
động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại…


Mặt khác, khi có biến cố bất thường đe dọa sự an toàn của hệ thống thì
chính NHTƯ sẽ là người có khả năng ngăn chặn và có nhiệm vụ điều tiết để ngăn
chặn sự truyền dẫn các cú sốc của hệ thống. Phần lớn các NHTƯ có nhiệm vụ duy
trì lòng tin của công chúng vào các hệ thống thanh toán bán lẻ, có vai trò xúc tác
tạo thuận lợi cho việc làm nổi bật các giải pháp thích ứng và tự nguyện trước khi
sử dụng quyền của mình, thúc đẩy tính công khai, minh bạch.
Có thể nói rằng bằng các chính sách chi phối, kiểm soát hoạt động ngân
hàng, bằng các hoạt động nghiệp vụ cụ thể của mình NHTƯ chính là người tạo
điều kiện hoặc cản trở sự phát triển của hệ thống ngân hàng, do đó khi xem xét
đến sự phát triển của ngành ngân hàng, cũng như khi nói đến những điều kiện để
phát triển hệ thống các ngân hàng thương mại thì không thể không đề cập đến hoạt
động của NHTƯ.
Như vậy NHTƯ cũng là một thành phần của hệ thống ngân hàng, mặc dù
đặc điểm, chức năng của nó khác hẳn với những thành phần còn lại trong hệ thống
là các NHTM.
Những đặc điểm trên cũng là dấu hiệu phân biệt ngành ngân hàng với các
ngành kinh tế khác. Trong thực tế không có một ngành kinh tế nào mà mối quan
hệ giữa các đơn vị độc lập, giữa bộ máy quản lý và các đơn vị kinh doanh phụ
thuộc lại trở thành một yêu cầu khách quan và chặt chẽ, phức tạp như ngành ngân
hàng. Ngay cả các đơn vị có hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính như

các công ty bảo hiểm, công ty tài chính…cũng không có ràng buộc này vì các định
chế này không thực hiện chức năng trung gian thanh toán, trung gian tín dụng như
các ngân hàng, những chức năng cho phép các ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ
tạo ra sự nối kết chặt chẽ giữa các ngân hàng với nhau.
Với mối quan hệ chặt chẽ như vậy cho nên sự phát triển hay khó khăn của
một ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến toàn hệ thống và ngược lại, mức độ phát triển
chung của toàn hệ thống cũng sẽ tác động đến sự phát triển của từng ngân hàng.


Tất nhiên, mức độ phát triển của NHTƯ trong quản lý, điều hành tiền tệ và hoạt
động ngân hàng cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến toàn hệ thống.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt hội nhập trong lĩnh vực
ngân hàng, các tác động của quá trình này không dành riêng cho bất kỳ một ngân
hàng nào, do vậy việc đặt ra những định hướng phát triển chung cho toàn hệ
thống, trong đó có tính đến những mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các ngân
hàng, là hết sức cần thiết. Nếu các ngân hàng không có một mối liên kết chặt chẽ,
hợp lý để hệ thống ngân hàng trong nước ngày càng mạnh hơn thì cuộc đấu tranh
giành thị trường trong điều kiện hội nhập, khả năng tăng trưởng lợi nhuận sẽ khó
có thể đạt được kết quả cao.
1.2.2. Vai trò của hệ thống ngân hàng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Hệ thống ngân hàng, đã từ lâu, được coi là hệ thống tuần hoàn của nền kinh
tế. Nó có chức năng sản xuất và điều tiết cho nền kinh tế, cụ thể hơn cho các chủ
thể của nền kinh tế, một “lượng máu” cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển bền
vững và hài hoà của cơ thể, nền kinh tế. Nếu bộ máy ngân hàng hoạt động và thực
hiện tốt các chức năng của nó thì sẽ giúp cho các chủ thể của nền kinh tế có đủ
điều kiện hoạt động một cách có hiệu quả, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản
phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường và ngược lại, các doanh
nghiệp sẽ gặp khó khăn trong mở rộng sản xuất, cải tiến công nghệ.
Vai trò của ngân hàng là vai trò của hệ thống điều tiết, làm thăng bằng các
nhu cầu giữa tiết kiệm và cho vay, nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài

nước vào quá trình phát triển bền vững nền kinh tế. Có thể nhìn nhận rõ hơn vai
trò của ngân hàng khi xem xét các tác động của hoạt động ngân hàng đến sự phát
triển nền kinh tế và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế.
Đầu tiên, ngân hàng là nơi cung cấp các dịch vụ tài chính quan trọng nhất
cho hoạt động kinh tế, xã hội.Thực tế khó có thể tìm thấy một hoạt động kinh tế
nào - trừ các hoạt động chủ yếu nằm ngoài nền kinh tế sử dụng tiền tệ - lại không


có mối liên hệ hoặc phụ thuộc vào các dịch vụ ngân hàng. Trong bối cảnh toàn cầu
hóa, chu chuyển vốn quốc tế gia tăng nhanh chóng, thương mại thế giới phát triển
mạnh mẽ, các giao dịch mua bán trên thị trường hàng hóa, thị trường tài chínhtiền tệ quốc tế cũng tăng nhanh…thì ngân hàng chính là nơi cung cấp các dịch vụ
cần thiết để các hoạt động trên có thể diễn ra trôi chảy, nhanh chóng và thuận tiện,
nhất là khi ngân hàng cung cấp các dịch vụ qua internet.
Thứ hai, với nguồn vốn cung cấp cho các chủ thể trong nền kinh tế thông
qua hoạt động tín dụng, ngân hàng giúp các doanh nghiệp, cá nhân tăng thêm năng
lực sản xuất kinh doanh, góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển lực lượng
sản xuất trong xã hội, thực hiện chính sách phát triển kinh tế của nhà nước trong
từng thời kỳ. Quan trọng hơn, nguồn vốn này sẽ tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp tăng khả năng cạnh tranh không chỉ ở thị trường trong nước mà còn trên thị
trường thế giới do các doanh nghiệp có điều kiện về vốn để có thể trang bị những
phương tiện sản xuất hiện đại, tiếp cận kiến thức khoa học kỹ thuật tiên tiến…
Thứ ba, hoạt động kinh doanh ngân hàng còn góp phần đảm bảo thế cân
bằng giữa hoạt động kinh tế đối nội với kinh tế đối ngoại thông qua việc hỗ trợ
vốn cho hoạt động xuất nhập khẩu, thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế. Ở một
mức độ nhất định, ngân hàng còn là nơi kết nối các hoạt động kinh doanh quốc tế
giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài khi các ngân hàng mở
chi nhánh ở nước ngoài, liên doanh với ngân hàng nước ngoài.
Thứ tư, vai trò của ngành dịch vụ tài chính-ngân hàng đối với nền kinh tế
được thể hiện không chỉ ở chỗ nó cung cấp các dịch vụ liên quan đến tài chính,
tiền tệ cho nền kinh tế mà còn ở chỗ bản thân ngành này đã góp phần gia tăng thu

nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu triệu người lao động. Số liệu
thống kê cho thấy tỷ lệ lao động trong ngành tài chính chiếm trong tổng lực lượng
lao động trong những năm từ 1970 đến1995 gia tăng trung bình khoảng 25%, giá
trị gia tăng trong ngành tính theo tỷ lệ đóng góp vào GDP trung bình chiếm
khoảng 4%, có quốc gia tỷ lệ này khá cao, ví dụ ở Singapore năm 1995 tỷ lệ này


lên tới 12%, còn ở Hông kông là 9%, Mỹ 13%.... Ở Việt Nam ngành tài chính
hiện mới chỉ đóng góp vào GDP với tỷ lệ 1,8% năm 2004 [61,62].
Thứ năm, dịch vụ tài chính ngân hàng là một ngành lớn trong toàn bộ hoạt
động dịch vụ của một nền kinh tế. Các nhà kinh tế đã nhận xét rằng quy mô tài sản
ngân hàng của các nền kinh tế phát triển thường vượt xa GDP của các nước này,
ngược lại những nước mà ngành ngân hàng có tài sản nhỏ hơn GDP nằm trong số
các nước nghèo trên thế giới. Như vậy nếu hoạt động của dịch vụ tài chính ngân
hàng không hiệu quả, không ổn định thì nó sẽ có tác động như một loại “thuế” cao
tới mức có thể cản trở sự phát triển chung nền kinh tế của một quốc gia cũng như
kinh tế thế giới.
Thứ sáu, do dịch vụ tài chính ngân hàng liên quan mật thiết tới việc thực
hiện các luồng chu chuyển vốn quốc tế, thực hiện các dịch vụ giúp cho hoạt động
ngoại thương phát triển …nên đây cũng là lĩnh vực quan trọng để gắn kết nền kinh
tế của một quốc gia với nền kinh tế khu vực và thế giới, do vậy khi một quốc gia
đã nói đến hội nhập kinh tế quốc tế thì không thể không đề cập đến hội nhập đối
với lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vào năm 1997, các nhà kinh
tế cũng đã rút ra bài học là: quá trình hội nhập kinh tế chỉ có thể thành công nếu
như nền kinh tế có một nhà nước trong sạch, có hệ thống ngân hàng phát triển và
lành mạnh, hoạt động tín dụng được kiểm soát chặt chẽ theo các tiêu chuẩn khách
quan mà các ngân hàng tiên tiến trên thế giới đã thực hiện.
Hoạt động ngân hàng là một phát kiến vĩ đại của nhân loại, nó đã làm cho
mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều trở nên dễ dàng hơn. Nhờ vào tiền tệ và hệ

thống ngân hàng mà sản phẩm dịch vụ của một nhà sản xuất có thể vươn ra đi
khắp mọi miền của thế giới, phục vụ cho mọi dân tộc không phân biệt màu da,
ngôn ngữ, những nền văn minh khác nhau. Trong tương lai, quan hệ tài chính ngân hàng sẽ gắn bó mọi dân tộc với nhau, gắn bó các nền kinh tế với nhau thành


một chỉnh thể kinh tế, mà ở đó mọi người sẽ sống với nhau một cách hòa bình
trong một nền kinh tế thịnh vượng, với một chất lượng văn minh cao.

1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng
1.3.1. Toàn cầu hóa kinh tế
♦ Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế
Cụm từ “toàn cầu hóa” ngày nay không phải là một từ xa lạ trong thực tiễn
đời sống, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa đưa ra được một khái niệm chung
nhất để giải thích “toàn cầu hóa” có nghĩa là gì vì có nhiều góc nhìn vấn đề khác
nhau và điều quan trọng hơn, chủ yếu hơn do nó vẫn là quá trình đang tiếp diễn,
chưa có được một trạng thái cuối cùng.
Các học giả Trung Quốc cho rằng “toàn cầu hóa” là một khái niệm rộng lớn
cần có thêm bổ nghĩa thì mới chuẩn xác, vì nếu không sẽ có thể hiểu khái niệm
này bao trùm mọi lĩnh vực như chính trị, văn hóa…Trong khi nền chính trị và văn
hóa mang tính đa dạng và khó có thể mang tính “toàn cầu”, thì các hoạt động kinh
tế thể hiện rõ hơn xu thế này vì vậy chỉ có “toàn cầu hóa kinh tế”. Theo góc nhìn
này thì “toàn cầu hóa” được định nghĩa là tiến trình mà trong đó với sự liên kết
chiến lược trên phạm vi toàn cầu và với mạng lưới quốc tế, các doanh nghiệp (dẫu
có hay không có quan hệ kinh tế đặc biệt) càng phụ thuộc vào nhau, càng liên
quan với nhau hơn [10].
Các nhà kinh tế tại hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển
(UNCTAD) lại đưa ra khái niệm toàn cầu hóa trong mối liên hệ tới các luồng giao
lưu không ngừng tăng lên của hàng hóa và nguồn lực vượt qua biên giới của các
quốc gia, cùng với sự hình thành các cấu trúc tổ chức trên phạm vi toàn cầu nhằm
quản lý các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế không ngừng gia tăng đó.

Ban thư ký Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) cho rằng toàn cầu hóa là
một xu hướng làm cho các mối quan hệ xã hội ít bị ràng buộc bởi lãnh thổ địa lý.


Toàn cầu hóa cũng có thể được coi là quốc tế hóa, là một cách giải quyết
các mối quan hệ xuyên biên giới giữa các quốc gia và định ra sự trao đổi quốc tế,
phụ thuộc lẫn nhau.
Trong nhiều khái niệm khác nhau đó thì khái niệm toàn cầu hóa theo cách
viết của các tác giả trong cuốn “Toàn cầu hóa kinh tế” là tương đối bao quát- theo
thiển ý của cá nhân. Theo đó “Toàn cầu hóa là sự gia tăng mạnh mẽ các mối quan
hệ gắn kết, tác động phụ thuộc lẫn nhau, là quá trình mở rộng quy mô và cường độ
các hoạt động giữa các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên phạm vi toàn cầu
trong sự vận động phát triển”[16].
Toàn cầu hóa là một xu hướng bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội… trong đó toàn cầu hóa kinh tế được coi là trung tâm, là động
lực thúc đẩy các lĩnh vực khác.
Theo khái niệm chung về toàn cầu hóa thì toàn cầu hóa kinh tế có thể hiểu
là sự gia tăng mạnh mẽ các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu
vực tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, trong sự vận động và phát
triển hướng tới một chỉnh thể kinh tế thống nhất. Sự mở rộng về phạm vi và quy
mô mậu dịch thế giới, những luồng vốn dịch chuyển giữa các quốc gia và di
chuyển lực lượng lao động …đã chứng minh cho khái niệm trên.
♦ Cơ sở của toàn cầu hoá kinh tế
Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế phát triển khách quan, trước hết là do sự
phát triển cao của lực lượng sản xuất, trong đó đáng chú ý nhất là những thành tựu
trong công nghệ thông tin và sinh học, vật liệu mới, hàng không vũ trụ. Những
thành tựu khoa học kỹ thuật được ứng dụng đã làm cho nền kinh tế thế giới thay
đổi diện mạo của mình và do đó phân công lao động cũng thay đổi.
Sự phát triển của lĩnh vực kinh tế tri thức, dựa trên các công nghệ có hàm
lượng khoa học kỹ thuật cao, đã mở ra điều kiện thuận lợi để tăng tốc độ giao dịch

kinh doanh, rút ngắn khoảng cách không gian, thời gian và cho phép con người có


×