Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN: Một số biện pháp thúc đẩy học sinh học tập tích cực môn Toán tại lớp 6B Trường PTDTBT THCS Tà Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.04 KB, 20 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toán học là môn khoa học tự nhiên gây nhiều hứng thú cho HS, nó là
môn học rất quan trọng không thể thiếu trong quá trình học tập, nghiên cứu và
cả cuộc sống hàng ngày. Một nhà toán học và sư phạm nổi tiếng đã nói: “Toán
học được xem là một khoa học chứng minh”.
Nhưng đó chỉ là một khía cạnh, toán học phải được trình bày dưới hình
thức hoàn chỉnh. Muốn vậy người học phải nắm vững các kiến thức toán học
từ thấp đến cao, phải học toán thường xuyên, liên tục, biết quan sát, dự đoán
phối hợp và sáng tạo, phải tự lực tiếp thu kiến thức qua hoạt động đích thực
của bản thân.
Ngày nay, HS luôn được tiếp cận với nhiều kiến thức khoa học tiên tiến,
với nhiều môn học mới lại đầy hấp dẫn nhằm hoàn thiện và bắt kịp công cuộc
đổi mới, phát triển toàn diện của đất nước. Trong các môn học ở trường phổ
thông, toán học được xem là môn học cơ bản, là nền tảng để các em phát huy
năng lực của bản thân trong việc tiếp thu và học tập các môn khoa học khác.
Tuy nhiên, để HS học tập tốt môn toán thì GV phải cung cấp đầy đủ lượng
kiến thức cần thiết, cần đổi mới các phương pháp dạy học, làm cho các em trở
nên yêu thích toán học hơn, vì có yêu thích mới dành nhiều thời gian để học
toán. Từ đó các em tự ý thức trong học tập và phân bổ thời gian hợp lý đảm
bảo yêu cầu học tập của thời đại mới.
Khi chuyển sang bậc THCS, HS được học nhiều môn có tính chất phân
nhánh, hẹp hơn và có bề sâu về chuyên môn. Chính sự phân chia các nhánh
của lĩnh vực khoa học nên hứng thú nhận thức của HS cũng được phân định
rõ nét. Đặc biệt, Toán học là môn học khó và trừu tượng, muốn học tốt môn
Toán các em phải tư duy, suy luận nhiều hơn và điều này sẽ khiến các em có
hứng thú với Toán học, mong muốn khám phá Toán học về thế giới xung
quanh thông qua Toán học. Sự hứng thú của HS còn phụ thuộc vào phương
pháp dạy học của thầy cô. Tuy nhiên sự hình thành hoạt động học tập ở mỗi
em khác nhau là khác nhau, có em học tập thụ động, có em học tập tích cực.
Là một GV gắn bó nhiều năm với vùng cao Tà Long , tôi luôn cố gắng


bằng kiến thức, kĩ năng, phương pháp và “nghệ thuật” của mình truyền đạt
hết cho HS thân yêu tất cả nội dung của từng bài dạy. Bởi tôi biết rằng bài dạy
càng sinh động, càng hấp dẫn thì càng kích thích hứng thú học tập và khám
phá tri thức của HS.
1


Tại Trường PTDTBT THCS Tà Long mà tôi đang công tác, có nhiều HS
trong tình trạng yếu kém môn Toán. Chắc hẳn có nhiều nguyên nhân nhưng
bản thân tôi tự thấy rằng một trong các nguyên nhân đó xuất phát từ GV là
chưa cho học sinh thấy được vẻ đẹp toán học trong thực tế và những bài toán
đưa ra mang hình thức tính toán nhiều mà học sinh chưa thấy lợi ích của toán
khi cùng với một số môn học khác để giải thích, tính toán các vấn đề nảy sinh
trong cuộc sống. Làm thế nào để Toán học trở nên thú vị và khơi gợi được
niềm say mê? Đó là trăn trở bấy lâu của tôi để HS say mê và có sự tiến bộ
trong học tập, nhất là với môn Toán.
Chính vì những lẽ đó mà tôi đã trăn trở, nghiên cứu, tìm tòi sau đó quyết
định thực hiện sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp thúc đẩy học sinh
học tập tích cực môn Toán tại lớp 6B Trường PTDTBT THCS Tà Long”
với mong muốn bản thân có phương pháp tối ưu truyền đạt kiến thức cho HS
từ đó HS sẽ có hứng thú với học tập nhất là môn Toán. Và trước mắt là các
em có thành tích học tập tốt hơn, chất lượng đại trà của trường được nâng cao
hơn.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc học tập môn Toán ở lớp 6B Trường
PTDTBT THCS Tà Long.
+ Những biện pháp thúc đẩy HS học tập tích cực môn Toán ở lớp 6B
Trường PTDTBT THCS Tà Long.
- Phạm vi nghiên cứu:

+ Không gian: Nghiên cứu tại Trường PTDTBT THCS Tà Long Đakrông;
+ Thời gian: Từ tháng 9/2015 đến tháng 5/2016.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu:
a. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra biện pháp thúc đẩy HS học tập tích cực, chủ động, các em sẽ
hứng thú hơn đối với môn Toán nói riêng và tất cả các môn học nói chung. Từ
đó các em sẽ đạt thành tích cao ở các bài kiểm tra và trong các kì thi. Khi đó
2


chất lượng học tập của các em sẽ dần dần được cải thiện theo hướng tích cực,
chất lượng đại trà được nâng cao.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận của việc thúc đẩy học tập tích cực
môn Toán.
- Mô tả thực trạng, phân tích, đánh giá thực trạng của việc học tập môn
Toán ở lớp 6B Trường PTDTBT THCS Tà Long.
- Đề xuất những biện pháp thúc đẩy HS học tập tích cực môn toán tại lớp
6B Trường PTDTBT THCS Tà Long.
- Quan sát những chuyển biến sau khi áp dụng sáng kiến.
- Bài học kinh nghiệm.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận:
+ Là phương pháp thu thập những tài liệu thực tế.
+ Mục đích : Nhằm tìm hiểu một cách chính xác, khoa học các vấn đề có
liên quan đến nội dung nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát:
+ Là việc sử dụng thị giác để thu thập số liệu, dữ liệu có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu.
+ Mục đích: - Vì trực tiếp với đối tượng và khách thể nghiên cứu nên

nhận thức được toàn diện, kết quả thu được đáng tin cậy.
- Dễ tiến hành và ít tốn kém.
- Phương pháp thực ngiệm sư phạm:
+ Là phương pháp thu nhận thông tin về sự thay đổi số lượng, chất lượng
trong nhận thức và hành vi của các đối tượng giáo dục do nhà khoa học tác
động đến chúng bằng một số tác nhân điều khiển và đã được kiểm tra.
+ Mục đích: Áp dụng sáng kiến vào lớp thực nghiệm để thấy được hiệu
quả của sáng kiến.
- Phương pháp thống kê toán học:
3


+ Là các phương pháp lí thuyết xác suất và thống kê được dùng trong
việc đánh giá các tài liệu nghiên cứu; các phương tiện của lí thuyết tập hợp,
của logic và của đại số được dùng trong việc mô tả các cứ liệu.
+ Mục đích: Phương pháp này đưa đến số liệu chính xác về các vấn đề
cần nghiên cứu trong đề tài
Trong các phương pháp trên, phương pháp nghiên cứu tài liệu, thực
nghiệm sư phạm, thống kê toán học là những phương pháp chủ yếu mà tôi sử
dụng nghiên cứu đề tài.
5. Đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm
- Đề tài đã chỉ ra được cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu, thực trạng
học tập của học sinh lớp 6B Trường PTDTBT THCS Tà Long.
- Đề xuất một số biện pháp thúc đẩy HS học tập tích cực.

4


PHẦN 2. NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu

1.1. Cơ sở lý luận
Thúc đẩy là một quá trình khơi gợi tiềm năng, năng lực, sức sáng tạo của
cá nhân tập thể nhằm đạt được mục đích đề ra.
Biện pháp là cách thức tổ chức khắc phục những hiện tượng tiêu cực
hoặc có chiều hướng “tiêu cực”.
Tích cực là trạng thái tinh thần có tác dụng khẳng định và thúc đẩy sự
phát triển.
Tính tích cực trong học tập là một phẩm chất trong nhân cách của người
học, được thể hiện ở tình cảm, ý chí quyết tâm giải quyết tâm giải quyết các
tình huống học tập đặt ra để có tri thức mới, kĩ năng mới.
Tính tích cực biểu hiện:
- Hưởng ứng và thấy rõ trách nhiệm cần thực hiện trong các tình huống
học tập.
- Chịu khó trả lời các câu hỏi, chăm chỉ, tự giác thực hiện các hoạt động
học tập.
- Quyết tâm hoàn thành công việc tự mình đặt ra hoặc nhiệm vụ được
giao và sẵn sàng giúp đỡ người khác hoàn thành công việc.
- Thường xuyên có suy nghĩ phản biện, mở rộng, đào sâu vấn đề. Hay
đặt các câu hỏi tại sao một cách rất có chủ ý.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Từ năm 2013, Trường THCS Tà Long được đầu tư xây dựng thêm khu
bán trú và trở thành Trường PTDTBT THCS Tà Long. Có khu bán trú, các
em ở những bản xa xôi của xã được ăn ở tại đó, điều này tác động tích cực
đến việc học của các em, các em ngày càng có sự phấn đấu trong học tập. Đa
số các em đều chăm ngoan, vâng lời bố mẹ, thầy cô. Tỉ lệ học sinh bỏ học
ngày càng giảm, cùng với tỉ lệ chuyên cần đến lớp ngày càng cao. Các em dần
có sự đầu tư cho việc học như mua máy tính bỏ túi, dụng cụ học tập...

5



Năm học 2015 - 2016 trường có 10 lớp học với 334 học sinh. Hiện tại
trường có 26 CBGV và nhân viên, được chia thành 6 tổ, 1 tổ Văn phòng và 5
tổ chuyên môn (tổ Toán -Tin; tổ Văn - Sử - Giáo dục công dân; tổ Anh - Địa;
tổ Khoa học tự nhiên; tổ Năng khiếu). GV Trường PTDTBT THCS Tà Long
đa số là lực lượng trẻ, khoẻ, nhiệt tình, năng nổ trong các hoạt động, tâm
huyết với nghề, sáng tạo trong khoa học và giáo dục. Luôn có tinh thần đoàn
kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Chi bộ, Ban
giám hiệu nhà trường. Các thầy cô luôn trau dồi kiến thức, học hỏi kinh
nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trong dạy học, đã thực
hiện nhiều đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm HS.
Tuy nhiên Tà Long vẫn đang là một xã nghèo của huyện vùng cao
Đakrông trải rộng trên 9 thôn bản, có thôn thuộc vùng biên giới giáp với nước
bạn Lào, điều kiện giao thông đi lại vô cùng khó khăn gây ảnh hưởng không
nhỏ đến đời sống và kinh tế của bà con, ảnh hưởng đến việc học tập của con
em. Đa số các em ở ngoại trú ngoài việc học tập còn phải dành nhiều thời
gian phụ giúp gia đình, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc học của các
em. Hơn thế những em từ lớp 5 lên lớp 6, hơn nửa số đó thuộc HS khu vực lẻ
của Tiểu học năm học trước nên việc tiếp xúc với các em còn gặp nhiều khó
khăn do các em còn rụt rè và khả năng nói tiếng phổ thông còn hạn chế.
Để kiểm tra tình hình học tập của HS lớp 6B, ngay từ đầu năm tôi đã cho
các em kiểm tra 15 phút (phụ lục 1) nhằm đánh giá trước mắt khả năng học
tập nhưng kết quả kiểm tra không mấy khả quan:
Tổng
số
38

Giỏi
SL
0


TL
0

Khá
SL
5

TL
%13,2

Trung bình
SL
12

TL
%33,6

Yếu
SL
10

TL
%26,3

Kém
SL
11

TL

%26,9

Qua số liệu cho thấy học sinh yếu kém chiếm tỉ lệ khá cao (53,2%).
Đứng trước kết quả đó bản thân không thể an lòng, luôn mong muốn tìm ra
phương án giúp học sinh học tập ngày càng tiến bộ.

6


Chương 2. Nội dung và giải pháp
Để khắc phục những tình trạng yếu kém của HS và nhằm nâng cao chất
lượng cho học sinh, làm cho học sinh yêu thích môn toán hơn. Tôi đã tiến
hành các biện pháp giáo dục dưới đây:
2.1. Thay đổi cách thức dạy học
Thay đổi cách thức dạy học không hẳn là thay đổi hoàn toàn mà phải
đổi mới phương pháp và kỹ thuật dạy học sao cho phù hợp với từng tiết dạy
trên lớp. Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm
thoại, luyện tập luôn là những phương pháp quan trọng trong dạy học. Đổi
mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học
truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu
quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu quả của các phương
pháp dạy học này người GV trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử
dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến
hành bài lên lớp, chẳng hạn như kỹ thuật mở bài, kỹ thuật trình bày, giải
thích trong khi thuyết trình, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời
trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các
phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh
các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp
dạy học mới, đặc biệt là những phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy
tính tích cực và sáng tạo của học sinh. Các phương pháp dạy học mới cần tập

trung chú trọng phát triển năng lực học sinh. Muốn thực hiện được những
điều đó bản thân tôi đã chú trọng hơn rất nhiều cho khâu soạn giáo án ở nhà.
Khi soạn giáo án cần dự kiến các tình huống xảy ra cho từng hoạt động khi
dạy học. Theo tôi, GV đưa ra các tình huống có vấn đề, dẫn dắt HS phát hiện
sau đó hướng dẫn HS giải quyết các vấn đề sẽ gây hứng thú và kích thích HS
học tập, từ đó HS sẽ lĩnh hội kiến thức dễ dàng và sâu sắc hơn. Ngoài ra, để
phát triển năng lực và dạy học sát đối tượng HS, GV cần đặt câu hỏi phù hợp
với khả năng học tập, nhận biết và tiếp thu của từng HS.
Ví dụ khi dạy tiết 92 Số học 6 bài luyện tập: Giáo viên muốn các em giải
bài tập 114 trang 50 SGK: Tính:

( −3, 2 ) .

−15 
4 2
+  0,8 − 2 ÷: 3
64 
15  3

7


Với trình độ và khả của học sinh miền núi thì rất ít các em có thể giải tốt
bài tập này mặc dù có sự hướng dẫn của GV. Vì thế khi tôi dạy bài này tôi
cho HS chơi “trò chơi ô chữ” hoàn thiện các tiểu bài tập sau:
Tính:
3 −2
+
=
4 5

−32 −15
.
=
10 64
−22 11
: =
15 3
8 −34

=
10 15

Các tiểu bài tập này hoàn thiện chính là tổng hợp các phép tính ở bài tập
114 SGK. Hơn thế nữa, từ khoá của trò chơi này là: “Giỗ tổ Hùng Vương”
giáo viên vừa tích hợp lịch sử, vừa giáo dục lòng yêu nước trong các em.
Các phương pháp và kỹ thuật dạy học đều có những ưu điểm và hạn chế
riêng của nó nên giáo viên cần phải biết sử dụng linh hoạt sao cho mỗi bài
dạy đạt được kết quả tối ưu nhất. Theo tôi một số điểm lưu ý khi dạy các nội
dung môn toán cần chú ý:
* Khi dạy tiết lý thuyết:
- Hãy đặt mình vào vị trí của HS. Điều quen thuộc đối với thầy giáo có
thể là điều rất mới đối với HS.
- Cố gắng tạo ra tình huống có vấn đề làm xuất hiện ở HS nhu
cầu nghiên cứu kiến thức mới.
- Cố gắng tạo ra tình huống có vấn đề làm xuất hiện ở HS nhu
cầu nghiên cứu kiến thức mới.
- Đừng bỏ qua, mà hãy khai thác ngay câu trả lời của HS. Khuyến
khích các câu trả lời tốt.
- Tăng cường những câu hỏi mà HS phải phán đoán và lựa chọn. Nếu
có thể, hướng dẫn HS cùng tranh luận mà thầy giáo là trọng tài.

- Nên vừa giảng vừa luyện. Vận dụng kiến thức là cách tốt nhất để
nắm vững kiến thức.
8


- Nên sơ kết ý trước để chuyển sang ý sau. Chú ý cân đối giữa củng
cố từng phần và củng cố toàn bài. Hãy để dành những điều cần thiết cho bước
củng cố cuối bài.
Ví dụ khi dạy tiết 20 số học 6: Dấu hiệu chia hết cho 2, cho 5: Tôi cho
HS xep clip hai bạn học sinh thi đấu bài toán: Các số sau có chia hết cho 2?
Cho 5?
Học sinh A trả lời rất nhanh và chính xác, nhưng học sinh B làm phép
tính để tính, vừa trả lời chậm mà có câu lại sai. Vì sao học sinh A có thể trả
lời nhanh như vậy? Đây là điều kích thích tính tò mò và ham hiểu biết, học
hỏi của các em. Mở đầu như vậy học sinh sẽ rất hứng thú với việc học bài
mới.
* Khi dạy tiết luyện tập:
- Đừng biến tiết luyện tập thành tiết chữa bài tập. Tiết luyện tập phải là
tiết dạy cách suy nghĩ giải toán.
- Đừng đưa ra quá nhiều bài tập trong tiết luyện tập. Nên chọn một
số lượng bài vừa đủ để có điều kiện khắc sâu các kiến thức được vận dụng và
phát triển các năng lực tư duy cần thiết trong giải toán.
- Nên sắp xếp các bài tập thành một chùm bài có liên quan với nhau.
- Trong tiết luyện tập, có những bài được giải chi tiết và có những bài chỉ
giải vắn tắt.
- Hãy để cho HS có thời gian làm quen với bài toán, cùng với HS nghiên
cứu tìm tòi lời giải bài toán và để cho HS được hưởng niềm vui khi tự mình
tìm được chìa khóa của lời giải.
Đặc biệt khi dạy hướng dẫn học sinh chứng minh một bài toán, giáo viên
cần đặt các câu hỏi từ tổng quát đến cụ thể như:

1.Em nào có thể giải (chứng minh) bài toán này?
2. Nếu không thực hiện được 1 thì chia ra:
+ Em nào có thể vẽ hình, viết giả thiết, kết luận cho bài toán?
+ Em nào có thể chứng minh bài toán?

9


3. Nếu hs không chứng minh được, giáo viên có thể hướng dẫn đi lên để
hs dễ dàng tiếp cận và chứng minh bài toán.
Lưu ý, đứng trước một bài toán ta có rất nhiều cách để giải. Vì thế giáo
viên khi đặt câu hỏi hướng dẫn thì chúng ta phải đi theo hướng suy nghĩ của
học sinh (nếu cách giải đúng), sau đó giới thiệu cho hs các cách giải khác.
Ví dụ đứng trước bài toán: Cho tam giác ABC cân tại A, các đường
trung tuyến BE và CF (E thuộc AC, F thuộc AB). Chứng minh: BE = CF.

Mặc dù khi soạn giáo án, GV có ý định hướng hs chứng minh hai tam
giác AEB và AFC bằng nhau để suy ra BE = CF, nhưng khi lên lớp GV hỏi
hs: “Ta cần chứng minh hai tam giác nào bằng nhau để suy ra BE = CF” thì
HS có thể trả lời “∆BFC = ∆CEB”. Khi đó ta phải hướng dẫn HS chứng minh
∆BFC = ∆CEB. Nhưng sau đó gợi ý thêm cách chứng minh hai tam giác AEB
và AFC bằng nhau.
* Khi dạy tiết ôn tập:
- Tiết ôn tập không phải tiết nhắc lại các kiến thức đã học. Cố gắng tìm
ra được "sợi chỉ " liên kết các kiến thức ấy với nhau.
- Nên có các bảng hệ thống mà các kiến thức trong bảng liên quan
với nhau cả theo hàng lẫn theo cột. Tận dụng các sơ đồ để hệ thống kiến thức.
- Nên chọn những bài tập có nội dung tổng hợp liên quan đến nhiều kiến
thức cần ôn tập, qua đó khắc sâu, hệ thống và nâng cao các kiến thức cơ bản
đã học.


10


- Luôn luôn thay đổi hình thức ôn tập cho phong phú, đa dạng và
hiệu quả. Trong bất cứ hình thức nào, HS cũng phải được chủ động tham
gia vào quá trình ôn tập kiến thức.
Khi dạy tiết ôn tập tôi thường sử dụng bản đồ tư duy nhằn hệ thống
kiến thức cho học sinh, ví dụ : Ôn tập chương 1 toán6: Bổ túc về số tự
nhiên, tôi đã soạn sơ đồ tư duy sau để củng cố kiến thức toàn chương cho
các em

Ngoài ra khi dạy học cần tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và
công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học. Toán học nhiều khi rất cần sử
dụng máy chiếu và các phần mềm hỗ trợ dạy học như GSP, Math … để tiết
dạy trở nên sinh động và hấp dẫn học sinh.
2.2. Kích thích ý thức cầu tiến, sự ganh đua học tập trong học sinh
Việc kích thích ý thức cầu tiến, sự ganh đua trong học tập của học sinh là
việc làm mà mỗi giáo viên có phương pháp riêng của bản thân và đặc thù bộ
môn. Đối với bản thân tôi, tôi đã thực hiện những việc sau:
- Gây hứng thú học tập môn Toán bằng “Phiếu điểm tốt”
11


“Phiếu điểm tốt” ghi danh sách học sinh vừa có mục chấm điểm tốt, vừa
có mục chấm điểm kém cho học sinh. Việc chấm điểm tốt, điểm kém được
một em bất kỳ trong lớp ghi lại. Mỗi lần các em được điểm tốt hay bị điểm
kém, học sinh phụ trách sẽ đánh một dấu tích (x) vào phiếu.
Học sinh được “điểm tốt” khi trả lời đúng các câu hỏi của giáo viên,
hoàn thành tốt bài tập về nhà, làm tốt bài tập trên lớp, thuộc bài cũ … Đặc

biệt đối với học sinh yếu kém, chỉ cần các em xung phong đọc đề bài tập, đọc
lại nội dung khái niệm, định lý, tính chất… thì cũng đã có điểm tốt. Việc làm
này giúp các em mạnh dạn khi đứng trước lớp, trước đám đông, từ đó tạo đà
cho các em tích cực hơn trong việc phát biểu ý kiến của mình. Lớp học như
vậy cảm thấy rất sôi nổi, học sinh hứng thú hơn trong học tập và giáo viên
cũng hứng thú hơn khi truyền đạt kiến thức cho học sinh.
Học sinh bị “điểm kém” khi bị giáo viên nhắc nhở trên lớp, không làm
bài tập về nhà, không thuộc bài… Tuy nhiên mỗi “điểm kém” là một dấu tích
(x) do học sinh theo dõi đánh vào “phiếu điểm kém” chứ không phải là điểm
giáo viên ghi vào sổ điểm. Học sinh có thể lấy công chuộc tội bằng việc giành
cho mình những “điểm tốt”. Từ đó học sinh không nản lòng nếu có lần bị
“điểm kém” và luôn cố gắng vươn lên đồng thời tạo được hứng thú học tập.
Giáo viên sử dụng phiếu này để hàng tuần, hàng tháng, hàng kỳ … tuyên
dương, phê bình các em, hoặc có thể dựa vào đây cho điểm miệng các em để
các em có sự phấn đấu vươn lên, tích cực phát biểu xây dựng bài, cố gắng làm
tốt các bài tập về nhà …
Khi sử dụng “Phiếu điểm tốt” tôi thấy các em đã có sự ganh đua, cạnh
tranh lành mạnh, công bằng cùng nhau cố gắng trong quá trình học tập, đặc
biệt các em rất hứng thú khi học môn Toán. Ở lớp 6B các em luôn mong chờ
đến tiết Toán, tiết học lúc nào cũng diễn ra trong không khí sôi nổi và hiệu
quả.
- Thường xuyên động viên, khích lệ học sinh nhằm giúp các em vượt qua
khó khăn vươn lên trong học tập. Thực tế ở trường PTDTBT THCS Tà Long
nói chung và lớp 6B nói riêng còn rất nhiều em có hoàn cảnh khó khăn, nhiều
em bố mẹ không quan tâm đến việc học hành của con cái, chỉ muốn các em ở
nhà phụ giúp gia đình. Biết những trường hợp như vậy tôi thường động viên
em vượt qua. Nhiều khi chỉ là những quyển vở, cái khăn quàng … nhưng
củng đủ làm các em ấm lòng, không tự ti với bạn bè, vuột qua khó khăn sẽ là
động lực giúp các em vươn lên trong cuộc sống và trong học tập.
12



- Phối kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên bộ môn khác, các
tổ chức trong và ngoài nhà trường và gia đình học sinh trong việc nhắc nhở
các em trong việc học tập:
Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để thực hiện một số hoạt động giáo
dục:
Tìm hiểu hoàn cảnh học sinh để biết được tâm tư nguyện vọng, đặc điểm
tâm lý … từ đó có các biện pháp cụ thể và thiết thực nhằm mang lại hiệu quả
trong quá trình giảng dạy bộ môn.
Phối hợp với gia đình học sinh để vận động, tạo điều kiện hết sức cho
học sinh đến trường:
Không bắt ép học sinh phải nghỉ học ở nhà lao động để kiếm tiền, không
ép các em lập gia đình khi còn quá nhỏ tuổi. Phụ huynh phải khuyên các em
đến trường học tập. Chống nạn tảo hôn.
Mua sắm đầy đủ sách vở, dụng cụ học tập cho các em.
Thường xuyên tâm sự, động viên khích lệ các em vượt qua những khó
khăn vươn lên trong học tập.
Phối hợp với các giáo viên bộ môn khác, các tổ chức đoàn thể trong và
ngoài nhà trường:
Cùng nhau chung tay xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.
Vận động học sinh đến lớp.
Động viên, giúp đỡ học sinh khi các em đau ốm hay gặp khó khăn trong
cuộc sống.
Nêu gương, khen thưởng các học sinh đạt thành tích cao trong học tập.
Nhờ có sự phối kết hợp hiệu quả với giáo viên chủ nhiệm, gia đình học
sinh, các giáo viên bộ môn khác, các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà
trường mà tôi đã thực hiện tốt nhiệm vụ của một giáo viên giảng dạy môn
Toán, mang lại sự hứng thú trong học tập cho học sinh.
2.3. Hướng dẫn và kiểm tra việc học sinh học bài và làm bài tập ở nhà

Một việc tôi rất chú trọng nữa là việc dặn dò học sinh chuẩn bị bài ở nhà.
Học sinh trên lớp không thể tiếp thu hết bài học trên lớp mà thông qua xào bài
13


và làm tập ở nhà sẽ giúp các em lĩnh hội kiến thức đầy đủ hơn và việc chuẩn
bị bài ở nhà giúp các em tiếp thu kiến thức mới dễ dàng hơn.
Từ đầu năm tôi luôn dặn dò học sinh cách học bài và làm bài tập khi ở
nhà sao cho có hệ quả nhất. Cụ thể về nhà các em học theo các bước sau:
- Nắm lại nội dung lí thuyết.
- Xem lại các bài tập đã giải ở lớp.
- Làm các bài tập mà giáo viên yêu cầu từ dễ đến khó.
- Nắm chắc lại lần nữa lí thuyết, xem bài mới.
- Làm các bài tập khó ở SBT, sách nâng cao dù GV không yêu cầu.
Trong từng soạn giáo án, có mục 4: Hướng dẫn học sinh học bài ở nhà.
Phần này tôi dành khoảng 5 đến 7 phút, tập trung vào việc hướng dẫn hs học
nội dung lí thuyết, ra bài tập và hướng dẫn làm bài tập về nhà hoặc làm trên
phiếu học tập mà giáo viên đã soạn sẵn, các dụng cụ học tập hay nội dung cần
chuẩn bị cho tiết học sau. Đặc biệt trong lớp có những em còn đọc yếu, viết
yếu mà tôi đã nắm từ đầu năm, tôi dành thời gian để chỉ nội dung về nhà các
em luyện đọc và luyện viết mà chưa yêu cầu các em làm bài tập.
Ví dụ sau khi học xong tiết 01 số học 6: Tập hợp – Phần tử của tập hợp,
tôi dành 6 phút hướng dẫn về nhà:
- Nắm vững: tập hợp, kí hiệu tập hợp, nhận biết phần tử thuộc hay
không thuộc tập hợp; số lượng phần tử của tập hợp.
- Làm các bài tập theo phiếu học tập:
Câu 1: Hãy cho một ví dụ về tập hợp. Hãy cho một ví dụ về tập hợp số.
Câu 2: Cho biết số phần tử của mỗi tập hởp câu trên. Khi đó, chỉ ra một phần
tử không thuộc tập hợp đó.
Câu 3: Cho biết cách viết tập hợp, có thể viết tập hợp đã chỉ ra ở câu trên theo

những cách nào? Hãy minh hoạ.
Câu 4: Làm bài tập 1, trang 6 SGK.
Câu 5: Bạn Bình nói : Tập hợp các chữ cái có mặt trong từ “Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” là: { A, C , E , G , H , I , M , N ,U , T ,V , X , O} . Theo em bạn Bình
nói đúng hay sai? Tại sao?
14


Câu 6: Làm bài tập 3, trang 6 SGK
Câu 7: Làm bài tập 4, trang 6 SGK
Câu 8: Làm bài tập 5, trang 6 SGK.
Câu 9: Nối mỗi dòng ở cột bên trái với mỗi dòng ở cột bên phải trong bảng
sau, để được khẳng định đúng
1.Tập hợp { x ∈ N ,1 < x < 7} còn có các a) { 1; 2; 3; 4; 5; 6 }
cách viết khác là
2. Tập hợp { x ∈ N ,0 < x < 7} còn có cách b) {0; 1; 2; 3; 4; 5}
viết khác là
3. Tập hợp { x ∈ N / x 2, x < 10} còn có c){ 2; 3; 4; 5; 6}
cách viết khác là
4. Tập hợp { x ∈ N , x < 6} còn có cách d) {0; 2; 4; 6; 8 }
viết khác là

- Ôn số tự nhiên đã biết ở tiểu học để tiết sau học bài: “Tập hợp các số
tự nhiên”.
- Các bạn: Du, Dương, Ban về nhà viết phần 2: “Cách viết, các kí hiệu
tập hợp” 2 lần, đọc trước bài “Tập hợp các số tự nhiên” mỗi bạn 10 lần.
Ở tiết học hôm sau, ngoài việc kiểm tra bài tập và việc học bài củ của cả
lớp, tôi đặc biệt quan tâm đến các em học yếu này xem các em có viết bài và
đọc bài theo yêu cầu hay không.


15


Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
Mục đích của thực nghiệm sư phạm: Trên cơ sở những biện pháp đã đề
xuất ở trên, tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm mục đích kiểm nghiệm
các biện pháp đưa ra có hiệu quả hay không, đồng thời đánh giá hiệu quả của
việc áp dụng sáng kiến vào thực tế.
Nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm: Tính mức độ thành công của tiết
dạy khi dạy học có áp dụng các biện pháp thúc đẩy học sinh học tập tích cực.
Đối tượng thực nghiệm sư phạm: 38 em học sinh lớp 6B Trường Phổ
thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở Tà Long.
Nội dung của thực nghiệm sư phạm: Tôi áp dụng các biện pháp của sáng
kiến vào lớp 6B và quan sát, theo dõi, phân tích, tính toán mức độ tiến bộ của
các em so với 2 lớp đối chứng là 6A và 6C. Từ đó rút ra hiệu quả của sáng
kiến, kinh nghiệm khi áp dụng và tiến hành thực hiện ở các lớp còn lại.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
- Quan sát các em học trên lớp;
- Kiểm tra định kỳ và thường xuyên: Lấy kết quả kiểm tra để phân tích;
- Phỏng vấn;
- Sử dụng lớp 6A và 6C làm lớp đối chứng để thấy kết quả áp dụng sáng
kiến cho lớp 6B.
Kết quả thực nghiệm sư phạm:
- Bước đầu áp dụng sáng kiến này vào dạy học tôi đã thấy tính ưu việt
của nó, học sinh đã học tập khá tích cực,chủ động. Tuy nhiên bài kiểm tra một
tiết đầu tiên (Phụ lục 2) của các em kết quả chưa mấy khả quan, kết quả như
sau:
Tổng
số
38


Giỏi
SL
1

TL
2,6%

Khá
SL
6

TL
15,8%

Trung bình
SL
12

TL
31,6%

Yếu
SL
9

TL
23,7%

Kém

SL
8

TL
26,3%

- Nhưng sau một thời gian khá dài áp dụng sáng kiến, học sinh lớp 6B
học tập ngày càng tiến bộ. Đầu năm học, lớp 6B được đánh giá là lớp yếu
nhất khối nhưng đến bây giờ thì trội hơn hẳn. Cụ thể kết quả lần kiểm tra một
16


tiết gần đây nhất (Phụ lục 3) càng cho thấy được lớp 6B có kết quả tốt hơn
hẳn:
Lớp

Tổng
số

6A

38

6B
6C

38
35

Giỏi


Khá

Trung bình

Yếu

Kém

SL TL SL TL SL TL SL TL SL
TL
2 5,3% 8 21,1% 12 31,6% 9 23,7% 7 18,3%
4 10,5% 12 31,6% 14 36,8% 5 13,2% 3 7,9%
1
2,9
6 17,1% 11 31,4% 8
22,9
9 25,7%

Đến thời điểm này tỉ lệ khá giỏi ở bài kiểm tra lớp 6B đạt trên 40%, tỉ lệ
yếu kém còn khoảng 21%, so với hai lớp 6 còn lại tỉ đây là một con số đáng
mừng.

PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
17


1. Kết luận
Sáng kiến kinh nghiệm đã thu được một số kết quả sau đây:
- Chỉ ra cho giáo viên cách soạn giảng theo hướng đổi mới phương pháp

dạy học;
- Giáo viên say mê học tập, nghiên cứu và soạn giảng theo hướng phát
triển năng lực học sinh;
- Học sinh được đưa vào guồng quay của sự phấn đấu vươn lên trong
học tập;
- Học sinh được hướng dẫn cách học trên lớp và học bài ở nhà.
- Đã tổ chức thực nghiệm sư phạm để minh học tính khả thi và hiệu quả
của những biện pháp sư phạm được đề xuất.
Để đạt được tất cả những mục tiêu của bản thân, của ngành đưa ra, theo
tôi:
* Đối với người thầy:
- Phải nỗ lực vượt khó, phải nắm vững kiến thức trọng tâm để có đủ năng
lực xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập dẫn dắt một cách khoa học.
- Phải nắm vững một số kỹ thuật để soạn bài và dạy theo con đường trực
quan phân tích.
- Người thầy phải nắm bắt kịp thời theo yêu cầu đổi mới phương pháp
giảng dạy nhất là ở giai đoạn đổi mới phương pháp dạy học.
- Tham khảo các tài liệu có liên quan đến bài giảng, thường xuyên củng
cố và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
- Giảng dạy phải tường minh, chính xác các kiến thức cơ bản của toán
học. Nghiên cứu kỹ chính xác được rõ mục tiêu của từng bài để xây dựng
phương pháp giảng dạy cho phù hợp.
- Khuyến khích động viên học sinh, khen chê kịp thời, đúng lúc. Chú ý
giúp và phân công học sinh khá giúp đỡ các em có học lực trung bình, yếu nắm
được kiến thức cơ bản, mở rộng kiến thức cho học sinh khá giỏi.
* Đối với trò:

18



- Học sinh phải thật sự nỗ lực, kiên trì, vượt khó và phải thực sự hoạt
động trí óc, phải có óc phân tích một bài toán, biết nắm vững đặc thù của các
bài toán để có thể đa bài toán về dạng quen thuộc đã biết cách giải.
- Phải cần cù chịu khó, ham học hỏi, sử dụng sách tham khảo vừa sức,
hiệu quả.
- Học đi đôi với hành để củng cố khắc sâu kiến thức cơ bản của toán học.
2. Kiến nghị
a. Với Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT
- Quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo
viên. Nên tổ chức các hội thảo chuyên đề chuyên sâu cho giáo viên trong tỉnh.
- Cần có những đợt tập huấn trải nghiệm sáng tạo trong toán học và các
đợt tập huấn nghiệp vụ về dạy học phát triển năng lực.
b. Với Ban giám hiệu nhà trường
- Quan tâm hơn nữa đến các tiết học ngoại khoá của học sinh, vì các trải
nghiệm đó góp phần rất to lớn việc nâng cao hứng thú, kết quả học tập môn
toán nói riêng, nâng cao kết quả học tập của học sinh nói chung.
- Mua sắm đồ dùng và thiết bị dạy học để các tiết lên lớp được sinh
động, các tiết thực hành có hiệu quả.
c. Với phụ huynh học sinh
- Quan tâm việc tự học, tự làm bài tập ở nhà của con cái. Thường xuyên
kiểm tra sách, vở và việc soạn bài trước khi đến trường của con cái.
Trên đây chỉ là kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi góp phần vào việc thúc
đẩy học sinh học tốt môn Toán. Sáng kiến kinh nghiệm này còn rất nhiều
thiếu sót, mong rằng sẽ được sự ủng hộ, đón nhận và góp ý của đồng nghiệp
để đưa chất lượng dạy môn Toán ngày càng nâng cao.
Tà Long, tháng 4 năm 2016
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Duy Trí
19



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Đức Chính (Tổng chủ biên) (2014). SGK Toán 6 tập 1, NXB
Giáo dục.
2. Phan Đức Chính (Tổng chủ biên) (2014). SGK Toán 6 tập 2, NXB
Giáo dục.
3. Nguyễn Bá Kim (chủ biên) (2005). Phương pháp dạy học đại cương
môn Toán, NXB Đại học sư phạm
4. Hoàng Kỳ (chủ biên) (2005). Đại số sơ cấp và Thực hành giải toán,
NXB Đại học sư phạm.
5. Phạm Đức Tài (Chủ biên). Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ
năng môn Toán trung học cơ sở, NXB Giáo dục.
6. Tôn Thân (Chủ biên) (2014). Bài tập Toán 6 tập 1, NXB Giáo dục.
7. Tôn Thân (Chủ biên) (2014). Bài tập Toán 6 tập 2, NXB Giáo dục.
8. Luật giáo dục, NXB chính trị quốc gia.
9. Internet.

20



×