Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tích hợp một số phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn vẽ trang trí lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.94 KB, 16 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, ngành Giáo dục và Đào tạo đang nổ lực đổi mới kiểm tra đánh giá,
đổi mới phương pháp dạy học, tạo sự chuyển biến cơ bản về tổ chức hoạt động
dạy học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. Vì vậy,
phương pháp dạy học được xem như là cách thức hoạt động của giáo viên trong
việc tổ chức các hoạt động học tập nhằm kích thích học sinh phát huy tính tích
cực và chủ động lĩnh hội tri thức, đạt được mục tiêu dạy học.
Dạy học mĩ thuật ở trung học cơ sở là góp phần nhằm hình thành và phát
triển năng lực cảm thụ thị giác cho học sinh, tạo cho các em có trình độ thẩm mĩ
nhất định; Góp phần giáo dục toàn diện và hình thành nhân cách, làm cho các
em có đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, hướng tới giá trị thẩm mĩ trong
cuộc sống. Qua đó, giáo dục thẩm mĩ, rèn luyện kĩ năng sống cho các em. Vì
thế, giáo viên cần tổ chức các hoạt động dạy học nhằm giúp học sinh tìm kiếm
và sáng tạo ra cái đẹp ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày.
Phân môn vẽ trang trí có vị trí quan trọng và có mối quan hệ chặt chẽ với các
phân môn khác. Học sinh vận dụng tổng hợp các kiến thức và kĩ năng của mĩ
thuật như quan sát, tổng hợp, khái quát, tư duy trừu tượng... vào học phân môn
vẽ trang trí. Mục đích của vẽ trang trí là giúp học sinh có cách nhìn về bố cục,
đường nét, hình mảng, đậm nhạt và màu sắc. Trên cơ sở đó, học sinh có thể tạo
ra các họa tiết, các hình trang trí đẹp. Đồng thời các em có sự cảm thụ được vẻ
đẹp của các sản phẩm mĩ thuật. Như vậy, đòi hỏi giáo viên khi dạy các bài trang
trí cần kết hợp và nâng cao các phương pháp dạy học cũ, vận dụng kết hợp thêm
một số phương pháp dạy học tích cực vào trong tiết dạy nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục. Kết quả của người dạy là kiến thức phải đến, phải vào người
học, học sinh phải là người chủ động tiếp nhận kiến thức từ giáo viên. Khi giảng
dạy, giáo viên không chỉ quan tâm đến phương pháp dạy mà còn phải chú ý tới
phương pháp học của học sinh. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, khiến tôi
chọn đề tài nghiên cứu: “Tích hợp một số phương pháp dạy học tích cực vào
dạy phân môn vẽ trang trí lớp 6”.
2. Mục đích nghiên cứu: Tìm ra các biện pháp tốt nhất để tích hợp các phương


pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn vẽ trang trí ở lớp 6, THCS
3. Đối tượng nghiên cứu: Tích hợp một số phương pháp dạy học tích cực vào
dạy phân môn vẽ trang trí cho học sinh lớp 6, trường THCS Nga Thủy
4. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận về dạy học tích cực trong
môn mỹ thuật THCS; Đúc rút thực tiễn trong hoạt động dạy học môn Mĩ thuật
tại trường THCS Nga Thủy
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1


1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
*Mục tiêu của phân môn vẽ trang trí:
- Về kiến thức: Giúp các em nắm rõ được mục tiêu của bài trang trí qua phần lý
thuyết, phần quan sát nhận xét đó là bài trang trí nào? Về bố cục, cách sắp xếp
và màu sắc. Nếu hiểu rõ nội dung kiến thức thì ở phần tiếp theo học sinh sẽ
không mấy khó khăn khi thực hành.
- Về kĩ năng: Giúp các em hoạt động trí não một cách nhanh nhẹn, có sự tưởng
tượng phong phú, và thực hiện được một bài trang trí hoàn chỉnh.
- Về thái độ: Giúp các em cảm thấy yêu thích môn mĩ thuật nói chung và vẽ
trang trí nói riêng.
*Phân môn vẽ trang trí khối 6: 9 tiết/năm
- Các bài trang trí cơ bản: trang trí hình vuông, trang trí đường diềm…
- Các bài trang trí ứng dụng: Chép họa tiết trang trí dân tộc, Kẻ chữ in hoa nét
đều, Kẻ chữ in hoa nét thanh nét đậm, Trang trí chiếc khăn để lọ hoa, …
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Thuận lợi:
- Thực trạng về mặt tích cực của các vấn đề có liên quan đến đề tài:
+ Theo chương trình sách giáo khoa đổi mới, môn mĩ thuật ở trường trung học cơ
sở được biên soạn lại, được xây dựng cụ thể cho từng khối, lớp. Việc thực nghiệm
chương trình được tiến hành từng bài trong toàn bộ chương trình môn học.

+ Hiện nay, phân phối chương trình được soạn lại theo hướng dẫn điều chỉnh nội
dung dạy học tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong công tác giảng dạy.
+ Giáo viên được đào tạo chính quy để đáp ứng nhu cầu của nhà trường.
- Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực đến các vấn đề liên quan với đề tài:
Nhà trường đã chú ý quan tâm, kiểm tra, đánh giá chất lượng dạy và học, tạo
điều kiện để giáo viên và học sinh giảng dạy - học tập có hiệu quả. Đặc biệt là
việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
- Các yếu tố khách quan có ảnh hưởng tích cực đến các vấn đề liên quan với
đề tài:
Phương tiện dạy và học được trang bị cho từng bài, từng lớp trong sách giáo
khoa và sách giáo viên.
2.2. Khó khăn:
- Thực trạng về mặt tiêu cực của các vấn đề có liên quan đến đề tài:
+ Đa số các em bị chi phối bởi môn học chính - phụ. Sự đầu tư cho môn học
chính là chủ yếu, môn học phụ thường bị học sinh coi nhẹ.
+ Học sinh chưa chuẩn bị đồ dùng học tập trước khi đến lớp.
+ Trình độ tiếp thu của học sinh chưa đều. (Một vài em đọc - viết chưa tốt, tiếp
thu bài chậm).
+ Học sinh lớp 6 học mĩ thuật kiến thức chưa có hệ thống.
- Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề liên quan với đề tài:

2


Thiếu phương tiện dạy và học: Chưa có phòng cho bộ môn Mĩ thuật; nhà
trường chưa trang bị đủ đồ dùng dạy học cho bộ môn; Học sinh thiếu sự chuẩn
bị đồ dùng học tập (Đa số các em chỉ đem giấy A4, bút chì).
- Các yếu tố khách quan có ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề liên quan với
đề tài:
Một số em hoàn cảnh gia đình khó khăn, gia đình chưa chú ý quan tâm đến

việc học tập của các em.
*Các số liệu thống kê trước và sau khi thực hiện đề tài: (ở 3 lớp: 6A, 6B, 6C
với 102 học sinh):
Số liệu trước
Số liệu sau
STT
Một số nội dung khảo sát
(102 HS)
(101 HS)
SL
SL
TL
TL
(học
(học
(%)
(%)
sinh)
sinh)
Học sinh có nhận thức đúng về phân
1
77
75.5
88
87.1
môn vẽ trang trí.
Yếu tố nào khiến các em thích học vẽ
trang trí:
2
- Tranh ảnh đẹp

31
30.4
44
43.6
- Cách giới thiệu bài hay
30
29.4
32
31.7
- Được điểm cao
41
40.2
25
24.7
Học vẽ trang trí có khó không:
3 a, Có
65
63.7
42
41.6
b, Không
37
36.3
59
58.4
Số học sinh nhận thức được vẽ trang trí
4
61
59.8
92

91.1
có liên quan đến cuộc sống hàng ngày.
Học sinh chú ý làm bài vẽ trang trí ở
lớp.
77
76.2
5
57
55.9
a, Có
24
23.8
45
44.1
b, Không
Học sinh chú ý dành thời gian làm bài
trang trí ở nhà?
6
- Thời gian 30 phút.
34
33.3
38
37.6
- Thời gian 45 phút
38
37.3
29
28.7
- Thời gian 60 phút
30

29.4
34
33.7
Một số yếu tố khiến học sinh không
chú ý làm bài trang trí ở lớp:
- Thiều đồ dùng.
33
32.4
26
25.7
7
- Không vẽ cách điệu được họa tiết
35
34.3
22
21.8
trang trí.
- Thời gian ở lớp không đủ.
34
33.3
53
52.5
3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
3


3.1. Sự cần thiết phải vận dụng nhiều phương pháp dạy học.
Đặc trưng của phương pháp dạy học là tính hướng đích của nó. Phương pháp
dạy học tự nó có chức năng phương tiện. Phương pháp dạy học cũng gắn liền
với tính kế hoạch và tính liên tục của hoạt động, hành động, thao tác vì vậy có

thể cấu trúc hóa được.
Phương pháp dạy học có mối quan hệ chặt chẽ với các thành tố của quá trình
dạy học: Phương pháp và mục tiêu; Phương pháp và nội dung; Phương pháp và
phương tiện dạy học; Phương pháp và đánh giá kết quả. Đổi mới phương pháp
dạy học không thể không tính tới những quan hệ này.
3.2. Tích hợp một số phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân môn vẽ
trang trí lớp 6:
*Phương pháp trực quan kết hợp với phương pháp quan sát:
Dạy mĩ thuật thường dạy trên đồ dùng dạy học. Dạy học bằng đồ dùng trực
quan giúp học sinh lĩnh hội tri thức nhanh, nhớ lâu và hứng thú hơn. Đồ dùng
dạy học còn phản ánh mức độ kiến thức của bài học và trình độ của học sinh.
Chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học xem như giáo viên đã chuẩn bị tốt nội dung bài
học. Giáo viên cần nghiên cứu bài dạy, tự tìm và thiết kế đồ dùng dạy học phù
hợp với nội dung. Phân loại đồ dùng hợp lí; Hình thức đồ dùng to vừa phải, dễ
thấy, có trọng tâm và đẹp; Trình bày đồ dùng dạy học cần rõ ràng, khoa học; Kết
hợp giữa trình bày lí thuyết với giới thiệu trực quan đúng lúc.
Phương pháp quan sát thường được áp dụng trong Hoạt động 1: Quan sát,
nhận xét: giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát các bài vẽ trang trí của học
sinh, giáo viên và họa sĩ. Cuối tiết học, giáo viên cùng học sinh quan sát bài làm
của bản thân các em để củng cố kiến thức và rút kinh nghiệm cho các bài học
sau. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát cần đối chiếu, so sánh để rút ra nhận
xét đúng, chuẩn xác. Quan sát từ bao quát đến chi tiết: từ cái chung, cái tổng
quát rồi mới đến cái riêng, cái chi tiết. Cách quan sát này giúp người vẽ không
sa vào chi tiết vụn vặt mà tập trung vào hình mảng, đậm nhạt chính của đối
tượng. Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể cách quan sát, phân tích các bài vẽ về: bố
cục, đường nét, màu sắc,… để học sinh có được phương pháp quan sát tốt, kĩ
năng quan sát mọi vật xung quanh để nắm bắt được đặc điểm, có trí nhớ tưởng
tượng được phong phú, làm tăng xúc cảm thẩm mĩ. Thông qua quan sát, nhận
xét góp phần hình thành thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
Phương pháp trực quan và phương pháp quan sát có một vai trò quan trọng

đối với phân môn vẽ trang trí, giáo viên sử dụng phương pháp này trong dạy học
học sinh được quan sát tìm hiểu đối tượng, tìm ra vẻ đẹp của đối tượng từ đó có
tính chọn lọc tạo điều kiện cho bài vẽ trang trí đẹp hơn. Học sinh củng có thể
quan sát những sản phẩm mĩ thuật ứng dụng, những bài trang trí cơ bản đến
phức tạp, để có cách nhận xét, đánh giá, cảm nhận được tính thẩm mĩ. Từ đó,
học sinh biết vận dụng vào làm bài vẽ trang trí.
*Kết hợp các phương pháp vấn đáp, gợi mở, phân tích:

4


Phương pháp gợi mở thường được thực hiện khi dạy lí thuyết và hướng dẫn
thực hành. Phương pháp này có hiệu quả cao khi sử dụng dạy học phân môn vẽ
trang trí.
Phương pháp vấn đáp thường được sử dụng trong hoạt động 1: Quan sát
nhận xét; Hoạt động 4: Đánh giá kết quả học tập. Sử dụng phương pháp này,
giáo viên dùng các câu hỏi để học sinh suy nghĩ và trả lời về nội dung bài học.
Câu hỏi cần rõ, sát nội dung, gợi cho học sinh suy nghĩ trước và dự đoán nội
dung mà giáo viên sẽ giảng, các em không bị động trong quá trình tiếp thu kiến
thức. Thông qua phương pháp vấn đáp, học sinh có thể trao đổi ý kiến với nhau
và đi đến ý kiến thống nhất.
Kết hợp tốt các phương pháp này giúp cho giáo viên có thể tìm hiểu được
mức độ tiếp thu bài học của học sinh, biết được kiến thức lĩnh hội của học sinh
để có sự điều chỉnh hoặc bổ sung kịp thời. Khi nhận xét câu trả lời của học sinh
cần rõ ràng, mạch lạc, sát nội dung. Tùy theo nội dung bài dạy, câu hỏi, câu trả
lời mà giáo viên nhận xét, củng cố cho phù hợp. Tùy theo loại bài, nội dung bài
dạy mà giáo viên đặt câu hỏi thích hợp, đan xen sao cho nhịp điệu tạo không khí
học tập sôi nổi, tránh đơn điệu, tẻ nhạt. Khi dạy, giáo viên cần kết hợp nhuần
nhuyễn giữa phương pháp nêu vấn đề và phương pháp vấn đáp, gợi mở. Lời
giảng đan xen với câu hỏi, tạo cho học sinh chủ động suy nghĩ - dự đoán - chờ

đợi thông tin mới. Học sinh Nghe - Nghĩ - So sánh - Phân tích - Nhận xét Tổng hợp.
*Phương pháp trực quan kết hợp với phương pháp phân tích:
Các bài vẽ trang trí thường không nặng nề về lí thuyết mà yêu cầu của phân
môn này là phải giúp cho các em ghi nhớ và khắc sâu kiến thức. Vì vậy, phương
pháp trực quan kết hợp với phương pháp phân tích là một giải pháp thiết yếu
trong việc giảng dạy. Tuy giáo viên và học sinh không có điều kiện tiếp xúc trực
tiếp sản phẩm mà thông qua tranh ảnh, bài vẽ trang trí và kết hợp với lời phân
tích của giáo viên sẽ giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng.
*Phương pháp làm việc theo nhóm kết hợp với phương pháp luyện tập thực
hành tạo ra sản phẩm:
Phân môn vẽ trang trí phần thực hành là hoạt động chính của tiết học, lí
thuyết dựa trên trên cơ sở của bài thực hành và giáo viên nhận ra được kết quả
của tiết dạy. Học vẽ trang trí, học sinh được làm nhiều bài tập. Các bài tập có thể
trùng lặp nội dung, yêu cầu, cách tiến hành, song mỗi bài học sinh phải tự tìm ra
cách vẽ khác nhau: về bố cục, họa tiết, cách xử lí màu đậm nhạt… Bài vẽ trang
trí thường thể hiện rõ sự tưởng tượng, sáng tạo ở sự khái quát hóa đối tượng
theo cách vẽ trang trí mảng bẹt, bố cục theo cách sắp xếp: Đăng đối, đối xứng,
nhắc lại, xen kẽ. Hình mảng, đường nét, màu sắc được cách điệu. Trong khi
hướng dẫn học sinh làm bài, giáo viên cần chú ý tìm ra những thiếu sót về: Bố
cục, họa tiết, màu vẽ. Từ đó gợi ý cho học sinh suy nghĩ, tìm ra cách sửa chữa,
điều chỉnh tùy theo khả năng của mình. Giáo viên cân có kế hoạch làm việc với
từng nhóm đối tượng học sinh. Mỗi loại học sinh giáo viên có yêu cầu, gợi ý,

5


khích lệ riêng và bổ sung khác nhau để các em hoàn thành bài vẽ bằng khả năng
của minh.
Sử dụng phương pháp làm việc theo nhóm, giáo viên phát huy được tính tích
cực chủ động, mọi học sinh đều được tham gia học tập. Giáo viên giao bài tập

cho từng nhóm học sinh thực hành. Làm việc theo nhóm tạo điều kiện cho học
sinh tích cực tham gia vào quá trình nhận thức, giúp các em tự giác học tập hơn.
Học sinh có tinh thần tập thể, ý kiến thống nhất trong công việc chung, đồng
thời hình thành ở các em phương pháp làm việc khoa học. Qua đó, hình thành và
phát triển khả năng tư duy, phân tích ở học sinh.
Để thực hiện tốt hai phương pháp này trong phân môn vẽ trang trí, giáo viên
cần hình thành ở học sinh các kĩ năng: Tư duy tạo hình; Vẽ hình, chỉnh hình; Vẽ
đậm nhạt và vẽ màu; Vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống. Kết hợp hai
phương pháp này, giáo viên có thể thực hiện ở phần thực hành. Giáo viên nêu
yêu cầu và cho học sinh thực hành theo nhóm tạo ra sản phẩm. Tùy theo yêu cầu
và nội dung của từng loại bài và từng thởi điểm cụ thể mà giáo viên vận dụng
hai phương pháp này cho phù hợp và có hiệu quả.
*Phương pháp vận dụng bản đồ tư duy kết hợp với phương pháp trực quan:
Bản đồ tư duy còn gọi sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy … là hình thức ghi chép
nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội
dung, hệ thống hóa một chủ đề ... Bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh,
đường nét, màu sắc và chữ viết. Cơ chế Bản đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh
màu sắc với các mạng lưới liên tưởng, giúp bộ não con người nhớ lâu hơn, hiểu
sâu hơn và in đậm những điều mà do chính mình suy nghĩ ra, huy động tối đa
tiềm năng của não bộ giúp học sinh học tập một cách tích cực hơn.
Kết hợp tốt giữa hai phương pháp này sẽ giúp tích cực cho hoạt động học tập
của bản thân học sinh, tạo điều kiện phát huy tính tự học của học sinh. Học sinh
được thể hiện ý tưởng của mình, phát biểu quan điểm của bản thân …, được
tham gia vào quá trình học tập tự chiếm lĩnh các tri thức.
*Phương pháp trực quan kết hợp với phương pháp thảo luận nhóm:
Kết hợp hai phương pháp này sẽ phát huy được tính tích cực chủ động, mọi
học sinh đều được tham gia học tập. Giáo viên treo tranh hoặc trình chiếu hình
ảnh, giao câu hỏi trong phiếu học tập cho từng nhóm học sinh thảo luận. Học
sinh có tinh thần tập thể, ý kiến thống nhất trong công việc chung, đồng thời
hình thành ở các em phương pháp làm việc khoa học. Làm việc theo nhóm tạo

điều kiện cho học sinh tích cực tham gia vào quá trình nhận thức, giúp các em tự
giác học tập hơn. Qua đó, học sinh được góp ý, trao đổi, tranh luận, là cơ sở tốt
cho sự hình thành và phát triển khả năng tư duy, phân tích ở học sinh. Đồ dùng
trực quan giúp học sinh lĩnh hội tri thức nhanh, nhớ lâu và hứng thú hơn.
*Phương pháp liên hệ với thực tiễn cuộc sống và phương pháp nêu vấn đề:
Liên hệ thực tiễn cuộc sống sẽ làm cho sự hiểu biết của học sinh sâu sắc
thêm, giờ học trở nên hấp dẫn hơn. Học đi đôi với hành. Lí luận gắn liền với
thực tiễn.

6


Phương pháp nêu vấn đề là một trong những phương pháp dạy học theo
phương pháp tích cực. Giáo viên hoặc học sinh đưa ra một vấn đề chung cho các
nhóm hoặc các thành viên thảo luận để đi đến thống nhất, kết luận chung. Từ
một vấn đề được đặt ra, học sinh được tham gia thảo luận và trình bày ý kiến của
mình.
Giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài dạy để tìm ra mối liên hệ của các môn học
và thực tiễn cuộc sống với môn mĩ thuật. Đồng thời chắt lọc được lượng thông
tin nêu vấn đề làm cho kiến thức bài học trở nên sinh động và hấp dẫn hơn. Làm
cho học sinh cảm thấy kiến thức của môn mĩ thuật phần nào đã có ở những môn
học và có phần ở trong cuộc sống hàng ngày, không xa lạ mà gần gũi cần thiết
cho học tập, sinh hoạt và trong cuộc sống hàng ngày.
*Phương pháp kiểm tra, phân tích, đánh giá kết quả học tập của học sinh:
Mục tiêu của môn mĩ thuật là giáo dục thị hiếu thẩm mĩ, giúp học sinh nhận
ra cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, thưởng thức và tạo ra cái đẹp trong bài vẽ, trong
cuộc sống hàng ngày. Khi đánh giá kết quả học tập, giáo viên không nên quá
phụ thuộc vào kết quả của bài vẽ; Vì một số học sinh hiểu và cảm thụ được cái
đẹp nhưng khó mà thể hiện ra bài vẽ theo ý muốn. Đích đến của việc dạy mĩ
thuật ở trường trung học cơ sở là đào tạo ra nhiều người biết thưởng thức cái

đẹp.
Việc đánh giá kết quả bài học của học sinh cần được tính từ khi xác định
mục tiêu của bài học và thiết kế bài học nhằm giúp giáo viên phân tích, đánh giá
kết quả học tập của học sinh; Kịp thời nắm được thông tin ngược chiều để điều
chỉnh hoạt động dạy và học cho phù hợp.
3.3. Biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
*Sử dụng một số biện pháp gây hứng thú học tập:
- Tạo không khí học tập tốt để học sinh háo hức chờ đón bài học.
- Tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ, tìm hiểu những vấn đề mà giáo viên
giảng giải.
- Tổ chức cho học sinh tham gia vào quá trình nhận thức một cách tự giác. Kết
hợp trò chơi trong một số tiết dạy.
- Động viên, khuyến khích nhằm giúp học sinh làm bài bằng khả năng và cảm
xúc riêng.
- Nâng cao tính tích cực, ứng dụng của trang trí trong học tập.
- Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống.
- Ra đề hợp lý, kiến thức có trọng tâm. Kiểm tra đánh giá khách quan, công
bằng, đúng đắn và có hiệu quả.
3.4. Một số giải pháp cho từng bài dạy:
*Dạy bài Chép họa tiết trang trí dân tộc:
- Kết hợp phương pháp Vấn đáp - Gợi mở - Phân tích.
Ví dụ: Giáo viên có thể đặt câu hỏi: “Họa tiết trang trí thường là những hình
gì?” Giáo viên gợi mở là những hình vẽ em vừa quan sát…, giáo viên phân tích
để học sinh hiểu nội dung bài học hay “Thế nào là đơn giản, cách điệu?”
*Dạy bài Cách sắp xếp (bố cục) trong trang trí:
7


- Kết hợp phương pháp Trực quan – Phân tích:
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh sắp xếp hình mảng, đường nét tạo nên bố cục

chặt chẽ.
+ Cần tránh những bố cục lỏng lẽo, nặng nề do cách sắp xếp hình mảng không
hợp lí.

Lỏng lẻo

Hợp lí

Chặt chẽ

Lỏng lẻo

Nặng nề

+ Không nên dùng nét viền đều nhau, tạo nên sự khô cứng trong trang trí.

Nét viền khô cứng

Hiệu quả của việc tô nền

+ Họa tiết cần phù hợp với nội dung và mang tính trang trí, họa tiết vẽ đơn giản,
cách điệu; tránh vẽ nét viền khô cứng.
+ Những bố cục lỏng lẻo cần tránh:

+ Những bố cục nên làm:

8


- Kết hợp phương pháp Vấn đáp - Gợi mở - Phân tích:

Ví dụ: “Theo cô, cách sắp xếp hình mảng của bài này chưa cân đối (các hình
mảng chưa có trọng tâm, xô lệch …). Em điều chỉnh lại được không?” Hay “Bài
vẽ này chưa hợp lí về bố cục, hình vẽ, màu sắc”…
Hoặc “Em thử tìm xem bài vẽ của mình còn chỗ nào chưa hợp lí?, còn sửa được
nữa không? Em có thể vẽ khác được không, thử xem nào?”
*Dạy bài Màu sắc:
- Kết hợp phương pháp trực quan - Bản đồ tư duy:
+ Giáo viên giới thiệu và hướng dẫn học sinh cách thể hiện sơ đồ tư duy.

9


- Kết hợp phương pháp liên hệ với thực tiễn cuộc sống - Nêu vấn đề:
+ Giáo viên có thể đặt câu hỏi: “Màu sắc do đâu mà có?”; “Em hãy gọi tên các
màu có ở xung quanh ta”? … Hay “Em hãy nêu các màu ở cỏ cây, hoa trái”
*Dạy bài Màu sắc trong trang trí:
- Kết hợp phương pháp làm việc theo nhóm và phương pháp thực hành tạo ra
sản phẩm:
+ Giáo viên nêu yêu cầu nội dung phần thực hành, chia nhóm thảo luận tìm và
chọn màu hoàn thành bài vẽ trang trí hình vuông.
- Kết hợp phương pháp Vấn dáp - Gợi mở - Phân tích:
+ Giáo viên đặt câu hỏi: “Làm thế nào để bài vẽ có màu sắc đẹp?”... Học sinh suy
nghĩ trả lời – Giáo viên gợi mở ý hướng dẫn học sinh hiểu và ghi nhớ kiến thức.
*Dạy bài Trang trí đường diềm:
- Kết hợp phương pháp Vấn đáp - Gợi mở - Phân tích:
+ Giáo viên phân tích: “Hình vẽ này chưa cân đối, vì chỗ này rộng, hẹp”…, “Em nên
sửa như thế này”… Hay “Màu này như thế nào? Em làm sao cho bài vẽ đẹp hơn?

B
ư


c
4

Các bước trang trí
đường diềm

B
ư

c
1

B
ư

c

B
ư

c

3

2

*Dạy bài Trang trí hình vuông:
10



- Kết hợp phương pháp Vấn đáp - Gợi mở - Phân tích:
Ví dụ: Giáo viên có thể đặt câu hỏi: “Làm thế nào để trang trí được một hình
vuông đẹp?”
Hoặc: “Thế này không đẹp, Không làm thế này, em nên làm thế này mới
đúng”… Hay: “Em vẽ thế này được nhưng chưa đẹp lắm, Em có thể vẽ khác
được không?”.... Lời nhận xét phải mềm và luôn ở dạng nghi vấn.

*Dạy bài: Kẻ chữ in hoa nét đều
- Kết hợp phương pháp Vấn đáp - Gợi mở - Phân tích:
+ Giáo viên đặt câu hỏi: “Chữ in hoa nét đều có đặc điểm gì? Tác dụng của chữ
in hoa nét đều?”

A B C D Ñ E G H I K LM
NOPQ RSTUVXY

0123456789

*Dạy bài Kẻ chữ in hoa nét thanh nét đậm:

11


- Kết hợp phương pháp Trực quan - Vấn đáp - Thảo luận nhóm:
+ Giáo viên đặt câu hỏi: “Tìm mẫu chữ in hoa nét thanh nét đậm? Nêu đặc điểm
của chữ in hoa nét thanh nét đậm?”

ABC D Đ E G H I K L M
NOPQRSRUVXY
0123456789

*Dạy bài Trang trí chiếc khăn để lọ hoa:
- Kết hợp phương pháp Vấn đáp - Gợi mở - Phân tích:
+ Giáo viên đặt câu hỏi: “Hai bài vẽ này giống và khác nhau ở chỗ nào? (bố cục,
họa tiết, màu sắc…). Em thích bài vẽ nào? Vì sao?”

3.5. Sử dụng các phương tiện dạy học nhằm hỗ trợ cho quá trình dạy học,
mang lại giờ học có hiệu quả hơn.
Phương tiện truyền thống: cần chuẩn bị chu đáo về hình vẽ, đồ vật. Khi có
đồ vât thật, tranh vẽ sẽ gây sự chú ý và phát huy được trí tưởng tượng phong phú
của học sinh. Các em sẽ hứng thú hoc tập hơn.
Phương tiện hiện đại: Sử dụng một số phần mềm thiết kế giáo gián điện tử như
Corel Draw; Photo manager, … Học sinh quan sát sẽ hiểu rất nhanh các bước tiến
hành và cảm nhận được ngay vẻ đẹp của tranh khi ta thay đổi đổi màu sắc, đường
nét… điều này nếu dùng phương pháp cũ sẽ mất nhiều thời gian. Việc cho các em
nhìn thấy nhiều tranh ảnh là điều rất cần thiết, các em sẽ thích thú hơn. Qua việc ứng
dụng công nghệ thông tin, giáo viên dễ dàng trình chiếu hình ảnh trong thời gian ngắn,
mà không phải mất nhiều thời gian dán từng bức tranh trên bảng. Học sinh vừa được
xem hình, vừa nghe thông tin sẽ gây hứng thú học tập cho các em.
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG:
12


Qua quá trình giảng dạy tôi đã tích hợp một số phương pháp dạy học nêu trên
vào giảng dạy phân môn vẽ trang trí, và đã phát huy được tính tích cực, gây
hứng thú học tập của học sinh và đem lại hiệu quả.
THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG MÔN MĨ THUẬT HỌC KÌ II 2014 – 2015
TT
Lớp Số HS
ĐIỂM TB HỌC KÌ II

Đạt
Chưa đạt
SL
TL%
SL
TL%
1
6A
28
28
100
2
6B
34
2.9
33
97.1
01
3
6C
30
29
96.7
02
3.3
Tổng
92
01
90
97.8

2.2
THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG MÔN MĨ THUẬT HỌC KÌ I 2015 – 2016
TT
Lớp Số HS
ĐIỂM TB HỌC KÌ I
Đạt
Chưa đạt
SL
TL%
SL
TL%
1
6A
28
100
28
2
6B
36
97.2
01
2.8
35
3
6C
37
100
37
Tổng
101

99.0
100
01
1.0
Qua quá trình thực hiện một số tiết dạy, tôi đã rút ra cho mình một vài kinh
nghiệm sau:
Để nâng cao hiệu quả dạy học phân môn vẽ trang trí, ngoài những kiến thức
cơ bản, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả năng sư phạm, người giáo viên
giảng dạy mĩ thuật cần phải biết vận dụng khoa học, linh hoạt những phương
pháp dạy học trong một tiết học vẽ trang trí. Vì không có phương pháp dạy học
nào là tối ưu mà cần phải có sự kết hợp và sử dụng hợp lí, nhuần nhuyễn các
phương pháp trong một tiết dạy. Tích hợp tốt các phương pháp dạy học tích cực
trên kết hợp với kĩ năng vẽ bảng của giáo viên trong một tiết dạy, thầy (cô) sẽ
hoàn thành tốt tiết dạy, phát huy được tính tích cực học tập của học sinh, bài vẽ
của các em ngày càng tốt hơn.
Giáo viên giảng dạy môn mĩ thuật cần phải đầu tư nhiều hơn về các phương
tiện hiện đại (máy tính, máy ảnh), tự trau đồi trình độ tin học. Các tiết dạy ứng
dụng công nghệ thông tin sẽ đạt hiệu quả cao vì Giáo viên không mất nhiều thời
gian để treo tranh; sưu tầm và giới thiệu đồ dùng; Học sinh quan sát tranh ảnh
nhanh gọn hơn. Chỉ cần vài thao tác trên máy, giáo viên hướng dẫn học sinh
cách vẽ trang trí đa dạng và phong phú hơn về hình, họa tiết, màu sắc.
Giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng dạy học tốt. Phối hợp một số phương pháp
dạy học mới và phương pháp dạy học cũ nhằm phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh. Các tiết soạn giảng có ứng dụng công nghệ thông tin; Sử
dụng một số phần mềm hỗ trợ như: PowerPoint, Photoshop Manager, Codraw,
13


Imindmap5… để thiết lập một số bản đồ tư duy phục vụ công tác giảng dạy, sẽ
phát huy được khả năng sáng tạo của các em học sinh, học tập tích cực hơn và

có hiệu quả hơn.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Mĩ thuật là một bộ môn thuộc lĩnh vực nghệ thuật. Môn học cung cấp kiến
thức theo những quy định chung, nhưng khi vận dụng giáo viên không nên đòi
hỏi hoặc bắt buộc tất cả học sinh phải làm bài như nhau, tuân thủ một cách máy
móc, rập khuôn theo cái chung. Cùng một yêu cầu nhưng sản phẩm sẽ khác
nhau về hình, đường nét, màu sắc, bố cục. Cách nhìn, cách hiểu, cách cảm nhận
của mỗi học sinh khác nhau sẽ tạo ra những sản phẩm khác nhau. Kết quả học
tập của học sinh phụ thuộc vào kiến thức, vào “nghệ thuật truyền đạt” của giáo
viên; Quan trọng hơn cả là khả năng cảm nhận của học sinh. Bởi lẽ, học sinh có
hứng thú thì mới chịu khó suy nghĩ, tìm tòi và thể hiện bài vẽ bằng cảm xúc của
mình. Dạy học mĩ thuật cần phải kết hợp dạy học và cảm thụ từ thực tế cuộc
sống. Nếu bắt buộc, gò ép học sinh trong học mĩ thuật sẽ dẫn đến rập khuôn
mẫu, máy móc và đồng điệu.
Nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách dạy của giáo viên và cách học
của học sinh. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học: Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh,
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem lại sự hưng phấn và hứng thú học tập của học sinh. Giáo viên không chỉ
chú ý đến phương pháp truyền đạt mà còn phải tạo dựng cho học sinh phương
pháp tiếp thu có hiệu quả, để cuối cùng kiến thức đến với người học một cách dễ
dàng, nhanh và sâu sắc. Muốn vậy, phải giáo dục học sinh có cách nhìn nhận và
cách làm mới qua môn học và những kinh nghiệm từ thực tế, để tìm hiểu, nghiên
cứu về chuyên môn.
Đa số các em chưa hiểu rõ tầm quan trọng của môn mĩ thụât và cho rằng
môn mĩ thuật không liên quan đến các môn học khác. Vì thế các em có sự phân
biệt giữa các môn chính phụ. Và như vậy, hiệu quả học tập chưa cao. Một số em
cho rằng học mĩ thuật chỉ là giải trí, ở trên lớp chỉ cần nghe giảng, ghi chép và

làm theo hướng dẫn của giáo viên . Vì vậy, các em không chuẩn bị đồ dùng học
tập, không tự giác làm bài ở lớp.
Để tạo môi trường thuận lợi, đào tạo ra những con người phát triển toàn diện
về nhận thức “chân – thiện – mĩ”. Giáo viên cần vận dụng tốt các phương pháp
nêu trên trong hoạt động dạy học. Giúp các em nhận thức được vị trí của môn
học và ứng dụng mĩ thuật trong cuộc sống, môn mĩ thuật có liên quan đến các
môn học khác. Vì vậy, giáo viên phải có sự đầu tư tài liệu, chuẩn bị chu đáo về
đồ dùng dạy học, gây hưng phấn và kích thích sự tìm tòi sáng tạo của học sinh.
Như thế, các em mới tự giác học tập và chất lượng giảng dạy mới đạt kết quả.

2. Kiến nghị:

14


- Do đồ dùng học tập cung cấp còn thiếu, tranh, ảnh minh họa trong sách giáo
khoa sơ sài, nhiều màu còn sai sót. Vì vậy, cần cung cấp tranh, ảnh minh họa với
số lượng đầy đủ để đáp ứng nhu cầu, tạo điều kiện cho giáo viên giảng dạy ngày
càng tốt hơn. Nhất là những bài vẽ theo mẫu, vẽ trang trí và thường thức mĩ
thuật.
- Đối với các cấp lãnh đạo, các ban ngành cần quan tâm nhiều hơn nữa về cơ
sở vật chất để tiến tới các trường đều có phòng học bộ môn và điều quan trọng
là cần tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm hàng tháng giữa các nhóm trong
huyện. Khuyến khích động viên các giáo viên tích cực tham gia vào diễn đàn
trao đổi về giáo án điện tử và sáng kiến kinh nghiệm thông qua hệ thống tác
nghiệp của phòng giáo dục.
- Giáo viên cần chịu khó tìm tòi nghiên cứu các phương pháp, các ý tưởng
mới cho việc giảng dạy vì trong một bài dạy dù người giáo viên có sử dụng
phương pháp truyền thống hay đổi mới, có ứng dụng công nghệ thông tin hay
các phương tiện hiện đại khác thì ý tưởng của người giáo viên vẫn là chủ đạo để

làm cho tiết dạy đạt được hiệu quả và cuối cùng là học sinh tiếp thu được nội
dung bài học? Khi ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy thì không phải
bài nào, tiết nào cũng có thể dùng được vì vậy người giáo viên phải biết “chọn
bài”. Và ngay trong một bài cũng không phải lúc nào cũng có thể dùng được, có
những chỗ nếu lạm dụng hình ảnh sẽ làm giảm sự tập trung của các em, từ đó
dẫn đến không đảm bảo nội dung của bài dạy.
Trên đây là kinh nghiệm về “Tích hợp một số phương pháp dạy học tích
cực vào dạy phân môn Vẽ trang trí cho học sinh lớp 6 trường THCS Nga
Thủy“. Hy vọng sẽ góp phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học môn
mĩ thuật nói chung và phân môn Vẽ trang trí nói riêng mong rằng sẽ là động lực
thúc đẩy để học sinh yêu thích môn học. Nắm vững hơn những kiến thức cơ bản
của phân môn Vẽ trang trí
Chắc chắn rằng Sáng kiến này còn có những thiếu sót và hạn chế, vì vậy
rất mong được sự góp ý, nhận xét và bổ sung để Sáng kiến kinh nghiệm của tôi
được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN
Nga Thủy, ngày 20 tháng 04 năm 2016
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam doan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
NGƯỜI VIẾT
Mai Thị Liêm
TÀI LIỆU THAM KHẢO

15


1. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Mĩ thuật trung học

cơ sở - Đàm Luyện, Bạch Ngọc Diệp, Nguyễn Quốc Toản - NXB Giáo
dục - 2008.
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (20042007) - Nguyễn Thị Nhung - Nguyễn Quốc Toản - NXB Giáo dục - 2007.
3. Giáo trình trang trí - Tạ Phương Thảo - NXB Đại học Sư phạm - 2008.
4. Phương pháp giảng dạy mĩ thuật - Nguyễn Quốc Toản - NXB Giáo dục,
1999

16



×