MỤC LỤC
MỤC
1
TÊN MỤC
Mở đầu
TRANG
2,3
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
3
3
3
4 - 11
4
2.2
2.3
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề1.
7-11
2.4
3
3.1
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
11
12,13
12
3.2
Kiến nghị
12,13
4-7
Tài liệu tham khảo
14
Phụ Lục
15
1. MỞ ĐẦU
1
1
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây Giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm và chú trọng. Giáo dục là quốc sách hàng đầu vì thế việc triển
khai các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, dạy học theo chuẩn kiến
thức – kĩ năng, đổi mới kiểm tra - đánh giá, ứng dụng Công nghệ thông tin
vào giảng dạy, nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh trong học tập, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập
cho học sinh.
Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, khoa học mở luôn luôn mới, phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là dựa trên các quan sát thực tế, các thí nghiệm, thực
hành để rút ra những kiến thức chung, khái quát về các hiện tượng tự nhiên và
các qui luật của Sinh học. Bên cạnh đó số bài có thực hành - thí nghiệm, thực
hành- quan sát theo hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học của Bộ Giáo dục
- Đào tạo và Sở GD- ĐT Thanh Hoá chiếm số tiết khá cao. Vì vậy mà yêu cầu
đặt ra cho giáo viên khá cao và học sinh cũng gặp nhiều khó khăn khi học các
tiết có thực hành- thí nghiệm, thực hành- quan sát.
Qua nghiên cứu , điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin, thăm dò
mức độ nhận thức học sinh lớp 6 đối với bộ môn sinh học 6 ở trường THCS
Nga Yên, tôi thấy hầu hết các em còn chưa có phương pháp học bộ môn, chưa
hứng thú với bộ môn sinh học đặc biệt ở tiết thực hành các em vẫn ngại học
và sợ khó, rất lúng túng trong qúa trình quan sát thí nghiệm, nhận xét hiện
tượng thí nghiệm, tham gia thiết kế những thí nghiệm đơn giản chứng minh
các chức năng sinh lý các cơ quan của thực vật vì đây là môn học mới mẻ với
các em. Dưới trường tiểu học các em mới chỉ được tiếp cận học ở bộ môn
Khoa học tự nhiên . Nắm kiến thức còn mơ hồ, học sinh chưa chủ động trong
giờ học sinh học, chủ yếu là nghe giảng , ghi lại và đọc trong sách giáo khoa.
Trong khi đó , mục tiêu cho ngành giáo dục đề ra là : “ Đào tạo ra những con
người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự
chủ, sáng tạo, có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
sống lành mạnh, đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước”. Chương trình
sinh học lớp 6 giúp học sinh bắt đầu làm quen với thế giới sinh vật, trước hết
là thực vật. Sinh học 6 giúp các em tìm hiểu cấu tạo cơ thể một cây xanh từ cơ
quan sinh dưỡng đến cơ quan sinh sản cùng chức năng của chúng phù hợp với
điều kiện sống. Sinh học còn giúp các em hiểu được thực vật phong phú, đa
dạng như thế nào qua các nhóm cây khác nhau, chúng đã phát triển biến đổi
ra sao từ dạng đơn giản nhất đến dạng phức tạp nhất là những cây có hoa mà
hằng ngày chúng ta vẫn tiếp xúc. Ngoài ra sinh học còn giúp các em biết được
mối quan hệ giữa thực vật với môi trường sống cũng như vai trò của chúng
đối với đời sống của con người. Những điều cơ bản nhất của các kiến thức đó
được trình bày dưới dạng các gợi ý quan sát ( dựa trên vật mẫu thật hoặc trên
hình vẽ, ảnh chụp ), những vấn đề đặt ra để trao đổi, thảo luận, cung cấp
những thí nghiệm mô tả để từ đó các em có thể hiểu và giải quyết các yêu cầu
của bài học. Quan trọng hơn là hướng dẫn các em tự tay làm được thí nghiệm,
2
tận mắt quan sát thấy hiện tượng thí nghiệm, so sánh thí nghiệm với đối
chứng để nêu lên kết quả của thí nghiệm. Qua đó khơi dậy, bồi dưỡng tình
yêu của con người với thực vật nói riêng và thế giới sinh vật nói chung, góp
phần xây dựng đất nước giàu mạnh.
Chính vì lẽ đó mà bản thân đã tìm tòi, học hỏi và xây dựng được một vài
kinh nghiệm hữu ích khi dạy bài 21- Tiết 24: “ Quang hợp ” môn sinh
học lớp 6. Đề tài này là kế thừa kết quả sự đúc rút kinh nghiệm ở Tiết 23Quang hợp mà tôi đã thực hiện nghiên cứu và áp dụng năm 2013 - 2014 ở
Trường THCS Nga Yên.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm:
- Kiến thức
+ Biết được những chất lá cần sử dụng để chế tạo tinh bột.
Phát biểu được khái niệm đơn giản về quang hợp.
+ Viết được sơ đồ tóm tắt hiện tượng quang hợp.
- Kỹ năng
+ Tham gia thiết kế thí nghiệm chứng minh chức năng sinh lý của cây
( lá cây chế tạo được tinh bột ).
+ Phân tích thí nghiệm để biết được những chất lá cần sử dụng để chế
tạo tinh bột.
- Thái độ hành vi
Có ý thức và thói quen bảo vệ thực vật và bảo vệ môi trường sống của
thực vật và của con người.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 6 trường THCS Nga Yên - Huyện Nga Sơn –
Tỉnh Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng kêt hợp các phương pháp như:
phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết, phương pháp điều tra khảo
sát thực tế, thu thập thông tin, phương pháp thống kê, xử lý số liệu. Đặc biệt
là phương pháp thực hành thí nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Quang hợp là quá trình lá cây nhờ có chất diệp lục, sử dụng nước, khí
cacbônic và năng lượng ánh sáng mặt trời chế tạo ra tinh bột và nhả khí ôxi
Từ tinh bột cùng với muối khoáng hoà tan, lá cây còn chế tạo được
những chất hữu cơ khác cần thiết cho cây.
Quá trình Quang hợp được thể hiện theo sơ đồ sau:
Ánh sáng
Nước
+ Khí cacbônic
(rễ hút từ đất) (Lá lấy từ không khí)
ngoài
Tinh bột
Chất diệp lục
(Trong lá)
+ Khí ôxi
(lá
nhả
ra
môi trường)
Như vậy, điều kiện để quá trình quang hợp thực hiện được là phải có
nước, khí cacbônic, chất diệp lục trong cây xanh và ánh sáng. Ánh sáng trong
tự nhiên thông thường là ánh sáng mặt trời, ngoài ra còn có ánh sáng do con
người tạo ra (như ánh sáng đèn điện đốt …)
Sinh học là môn học khoa học thực nghiệm, kiến thức sinh học được
hình thành chủ yếu bằng phương pháp quan sát, mô tả, tìm tòi thực nghiệm…
Do đó, dạy học sinh học không chỉ có tranh ảnh, mô hình, vật mẫu, mà còn
phải tiến hành các thí nghiệm và thực hành nhằm tích cực hóa hoạt động nhận
thức của học sinh.
Trong quá trình thực hiện bài dạy (bài 21 – tiết 24: Quang hợp), để thực
hiện thành công (tạo hứng thú, đồng thời tăng hiệu quả giờ học) người giáo
viên nên thực hiện tiết học kiểu: Lý thuyết – thực hành.
Mục đích của thí nghiệm trong hình 21.4 (SGK sinh học 6) là làm rõ
điểm khác nhau giữa lá của cây trong chuông A (Trong chuông A cho thêm
cốc chứa nước vôi trong, để dung dịch này hấp thụ hết khí cacbônic của
không khí trong chuông theo PTHH:
CO2 + Ca(OH)2
CaCO3 + H2O ) với lá của cây trong chuông B
(Trong chuông B không có cốc chứa nước vôi trong) sau một thời gian làm
thí nghiệm. Để minh chứng những điều kiện để lá cây chế tạo được tinh bột
trong quá trình quang hợp ở cây xanh “nếu không có khí cacbonic lá cây
không thể chế tạo được tinh bột”. Yêu cầu của thí nghiệm phải đạt được kết
quả: có được lá của hai cây để thử dung dịch iốt (kết quả sau khi thử dung
dịch iốt một lá cho màu nâu nhạt, một lá có màu xanh tím).
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM
2.2.1 Thực trạng chung
- Về phía học sinh:
Học sinh lớp 6 rất ham hiểu biết, nhất là những bài học có sử dụng
các phương tiện trực quan, hay bài học có các thí nghiệm chứng minh, đặc
biệt các em rất hứng thú khi chính mình được tham gia vào quá trình tìm tòi
nghiên cứu.
Năng lực thực hành , khả năng suy luận của học sinh còn hạn chế.
- Về phía giáo viên:
4
Giáo viên đã có trình độ chuẩn và trên chuẩn, hơn nữa trong những
năm qua Giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và chú
trọng, vì thế việc triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, dạy
học theo chuẩn kiến thức – kĩ năng, đổi mới kiểm tra - đánh giá, ứng dụng
Công nghệ thông tin vào giảng dạy…, nhằm phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập, đem lại niềm vui, hứng thú là
nhiệm vụ và trách nhiệm của mỗi giáo viên.
Thực trạng dạy các bài thực hành, lý thuyết thực hành của giáo viên đặc
biệt là bài 21: tiết 24: “Quang hợp” là chưa thành công
- Về sơ sở vật chất, thiết bị dạy học:
Nhiều trường đã có các phòng chức năng, có tương đối đầy đủ đồ dùng,
trang thiết bị dạy học, có khuôn viên rộng và thoáng đãng…
Được BGH quan tâm tới nhiệm vụ chuyên môn, nhất là việc thực hiện
PPDH đổi mới “Lấy học sinh làm trung tâm”, học sinh “chủ động trong quá
trình tìm tòi kiến thức” giáo viên là người “tổ chức, hướng dẫn học sinh
trong việc tìm tòi tri thức” đó là “kim chỉ nam” cho người giáo viên thực
hiện tốt nhiệm vụ dạy học của mình.
2.2.2 Thực trạng tại trường THCS Nga Yên
a/ Thuận lợi
- Về phía học sinh.
Học sinh lớp 6 trường THCS Nga Yên năm học 2014 – 2015 có 47
em với 2 lớp, bình quân mỗi lớp có khoảng 24 học sinh. Điều đó có thuận
lợi trong quá trình học tập, nhất là trong việc giáo viên hướng dẫn học sinh
làm thí nghiệm theo nhóm, hay thực hiện theo phương pháp tự nghiên cứu.
Trong các tiết thực hiện theo nhóm, thông thường nếu là nhóm lớn, thì mỗi
nhóm khoảng 5-6 em, điều này rất thuận lợi cho cả giáo viên và học sinh
trong quá trình thực hiện.
- Về phía giáo viên:
Giáo viên môn sinh có đủ về số lượng, trình độ 100 % được đào tạo
trên chuẩn, 100% giáo viên được tham gia các chuyên đề về đổi mới
phương pháp dạy học, các chuyên đề về tích hợp giáo dục …
- Về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, khuôn viên:
+ Nhà trường đã được công nhận chuẩn năm 2009, có 4 phòng chức
năng (phòng TH Lý- CN, phòng TH Hoá – Sinh, phòng tin, phòng nghe
nhìn)
+ Thiết bị, đồ dùng dạy học: Được cấp 100 % .
+ Khuôn viên: Có diện tích vườn trường rộng, với diện tích trên 2000
2
m , nhà trường có vườn sinh vật (trong đó có trồng nhiều loại thực vật thiết
thực trong quá trình học tập học sinh)
+ Học sinh có đầy đủ điều kiện để tổ chức các hoạt động tham quan
thiên nhiên.
5
+ BGH nhà trường rất quan tâm tới công tác chuyên môn, hàng năm
có trang bị thêm những thiết bị, vật tư, hoá chất, tranh ảnh, tài liệu… phục
vụ cho nhiệm vụ Dạy – Học.
b/ Khó khăn.
Nga Yên là xã sát trung tâm huyện Nga Sơn, vì thế có ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng đầu vào (do đa số học sinh có lực học khá, giỏi
ở lớp cuối cấp tiểu học đều tham gia học ở trường THCS Chu Văn An –
Trường trọng điểm của huyện Nga Sơn). Hàng năm số học sinh tham gia
học trường THCS Nga Yên đa phần có học lực là trung bình, yếu , kém.
Điều đó gây khó khăn trong quá trình học tập của học sinh và dạy học của
giáo viên.
Nhiều em chưa thật sự tích cực trong học tập, chưa có kỹ năng hoạt
động hợp tác theo nhóm, chưa quen với việc tự mình làm chủ, tiến hành
thực hành- thí nghiệm để tìm ra kiến thức mới, khắc sâu kiến thức đã học.
Trong chương trình môn sinh có nhiều thí nghiệm chứng minh, nhưng
không thể trực tiếp tiến hành thí nghiệm mà phải có sự chuẩn bị trước trong
khoảng một thời gian mới tiến hành thí nghiệm được. Chính vì lẽ đó mà
người giáo viên nếu không có tâm huyết, ngại khó thì dạy theo kiểu “đến
đâu hay đến đó” bài dạy có thí nghiệm thực hành lại tiến hành theo kiểu
“giới thiệu” qua sách vở hoặc trình chiếu qua bài giảng ứng dụng CNTT.
Làm như thế không tạo được hứng thú đối với học sinh, không làm cho học
sinh yêu mến môn học, và không dạy cho học sinh học theo đúng “phương
pháp học tập tích cực”, ảnh hưởng đến chất lượng học tập môn Sinh học nói
riêng hay các môn học nói chung.
Thực trạng trên thể hiện rõ qua kết quả khảo sát mức độ hứng thú với
môn sinh học và kết quả bộ môn sinh học lớp 6 đầu năm học 2014 - 2015 tại
trường THCS Nga Yên, Nga Sơn như sau:
- Khảo sát đầu năm học:
- Về mức độ hứng thú
Số
Mức độ hứng thú
HS
Rất hứng thú
Hứng thú
Ít hứng thú
Không hứng
thú
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
47
3
6,4
10
21,3
12
25,5
22
46,8
- Về học lực
Lớp Sĩ
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
số
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
6A
24 1
4,2
3
12,5 15 62,5
3
12,5
2
8,3
6B
23
1
4,3
3
13
12
52,3
5
21,7
2
8,7
Tổng 47
2
4,3
6
12,8
27
57,4
8
17
4
8,5
6
Đây là vấn đề làm bản thân suy nghĩ rất nhiều: Vận dụng đổi mới
phương pháp dạy học như thế nào? Hình thức tổ chức ra sao? Yếu tố quyết
định sự thành công của các tiết thực hành là gì?
Vì thế, qua tìm tòi nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp,
bản thân tôi đã đúc rút được một vài kinh nghiệm nhỏ góp phần nâng cao
chất lượng bộ môn sinh học.
Đề tài tôi áp dụng trên lớp 6A (có số học sinh là 24 em) lớp làm đối
chứng là lớp 6B ( có số học sinh là 23 em)
(Ghi chú: Hai lớp đối tượng học sinh ngang nhau)
- Lớp 6A (Thực nghiệm): Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện thí
nghiệm
- Lớp 6B (Đối chứng): Giáo viên tổ chức dạy ứng dụng công nghệ
thông tin (phần thí nghiệm giới thiệu theo hình ảnh trình chiếu).
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.3.1 Phần chuẩn bị
- Vườn sinh vật: Trồng cây khoai lang (Đã có sẵn)
- Vị trí tiến hành bài dạy: Phòng thực hành Hoá – Sinh
- Thời gian chuẩn bị cho thí nghiệm vào chiều thứ 6 tuần trước
- Thời gian thực hiện bài dạy vào tiết 2 chiều thứ hai tuần sau
2.3.2 Các bước tiến hành
a/ Bước 1:
Vào thời điểm sáng thứ sáu tuần trước có giờ sinh bài 20 - tiết 23,
phần cuối giờ giáo viên dành 5 phút dặn dò học sinh chuẩn bị bài học tới (Lớp
6A)
Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm 6 em (có trưởng nhóm, thư ký và
thành viên nhóm)
Yêu cầu: Mỗi nhóm tiến hành chuẩn bị thí nghiệm như sau: Lấy 2
khóm khoai lang đang sinh trưởng, phát triển bình thường như nhau, bứng
trồng vào 2 chậu nhỏ để trong bóng tối 2 – 3 ngày (để góc phòng thực hành
Hoá – Sinh) từ chiều thứ sáu tuần trước để tinh bột ở lá bị tiêu hết.
b/ Bước 2:
Vào đầu tiết 2 buổi chiều (cùng ngày) mỗi nhóm đưa chậu cây khoai lang của
mình vào lớp học (Phòng TH Hoá – sinh)
Sau đó đặt mỗi chậu cây lên một tấm kính ướt. Dùng hai chuông thủy tinh A
và B úp ra ngoài mỗi chậu cây (Trong chuông A cho thêm cốc chứa nước vôi
trong), để dung dịch này hấp thụ hết khí cacbônic của không khí trong chuông
.
c/ Bước 3:
Đặt cả hai chuông thí nghiệm ở chỗ có nắng ( H.21.3 )
Sau khoảng 5-6 giờ, ngắt lá của mỗi cây để thử tinh bột bằng dung dịch iốt
loãng. H.21.4 cho ta biết kết quả thử dung dịch iốt trên lá trong hai chuông
đó.
7
* Để thí nghiệm nhanh mang lại kết quả chính xác, trong quá trình thí
nghiệm cần phải lưu ý một số điểm sau:
- Hai chậu cây phải được đặt nơi thật tối để quá trình khử tinh bột xảy ra
nhanh.
- Chậu A nên dùng nước bồ tạt đặc (dd KOH đặc) thay cho nước vôi
trong Ca(OH)2 vì dd KOH có khả năng hấp thụ nhanh khí CO 2 hơn là dd
Ca(OH)2.
- Chậu B nên để thêm một cốc chứa dd NaHCO 3 vì dung dịch này sẽ làm
lăng hàm lượng khí CO2 trong chậu đối chứng.
- Hai tấm kính phải ướt để khí cacbônic trong chuông không lọt ra
ngoài, khí cacbônic ở ngoài không lọt vào trong chuông.
- Có thể thay hai tấm kính ướt, và hai chuông thủy tinh bằng cách dùng
hai thanh que cứng buộc theo hình chữ T sau đó cắm vào mỗi chậu một que
sát với gần gốc mỗi cây và cao hơn ngọn cây khoảng 10-15 cm để làm giá đỡ.
Sau đó bọc bên ngoài mỗi chậu một túi nilông trong trùm lên trên que chữ T
và phủ kín mặt chậu, sau đó để vào chậu A một cốc nước bồ tạt đặc (chứa
dung dịch KOH đặc) và một cốc nước lã. Chậu B được đặt một cốc nước lã
giống chậu A và một cốc đựng dung dịch NaHCO3. Khi trùm túi nilông lên
chậu phải kéo căng và buộc kín vào thành chậu để không khí trong chậu
không bị thoát ra ngoài.
- Nếu trong khi thí nghiệm gặp điều kiện thời tiết không thuận lợi (như
râm mát), phải đặt chậu thí nghiệm nơi có ánh đèn điện 500 W có chụp hắt
ánh sáng.
8
( Hình ảnh trên minh họa cho các bước tiến hành của thí nghiệm chứng
minh lá chế tạo tinh bột khi có khí cácbonic )
d/ Bước 4:
Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra kết luận
- Điều kiện thí nghiệm của cây trong chuông A khác với cây trong chuông B ở
điểm nào ?
- Lá cây trong chuông nào không thể chế tạo được tinh bột? Vì sao em biết ?
9
- Từ kết quả đó có thể rút ra kết luận gì?
2.3.3. Một số lưu ý trong bài
Đối với các thí nghiệm có sự tham gia của học sinh trong thực hiện thí
nghiệm :
- Lớp 6A (Thực nghiệm):
Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện thí nghiệm
- Kiểm tra việc thực hiện thí nghiệm của học sinh, ghi nhận nhanh kết
quả thực hiện của các nhóm: Nhóm làm tốt, nhóm làm chưa tốt.
- Cho 1 – 2 nhóm học sinh trình bày các bước tiến hành thí nghiệm trên
cơ sở nhóm đã thực hiện, nêu kết quả thu được, các nhóm nhận xét bổ sung.
- Giáo viên nêu nhận xét tóm tắt các bước chủ yếu trong quá trình tiến
hành làm thí nghiệm, nhận xét kết quả thí nghiệm của các nhóm, khen nghợi
nhóm làm tốt, hỏi về nguyên nhân thí nghiệm chưa thành công, giải thích cụ
thể trên thí nghiệm chưa thành công và rút kinh nghiệm chung cho cả lớp.
Qua bài dạy rèn kỹ năng phân tích thí nghiệm, quan sát hiện tượng, rút ra
nhận xét, kỹ năng tự tin khi trình bày kết quả làm việc của nhóm, kỹ năng giải
quyết vấn đề giải thích các hiện tượng thực tế cuộc sống liên quan tới quang
hợp.
Thông qua các thí nghiệm mà các em trực tiếp được chuẩn bị, được
làm thí nghiệm, trực tiếp quan sát thấy được những hiện tượng thực tế xảy ra
đối với thực vật, các em hiểu kiến thức một cách sâu sắc hơn, nhớ lâu hơn, từ
những hiểu biết về kiến thức cũ các em sẽ tiếp thu kiến thức mới một cách
nhẹ nhàng, nhanh chóng, có hứng thú, say mê môn học, phát huy tính tích
cực, tư duy sáng tạo và rèn luyện cho các em thói quen nghiên cứu và giải
quyết vấn đề khoa học. Mặt khác qua các bài học đó lại khơi dậy cho chúng
em tính tò mò ham hiểu biết tìm tòi đối với thực vật và giúp chúng em gần
gũi, yêu thiên nhiên hơn”.
- Lớp 6B (Đối chứng)
- Với cách dạy này nhiều học sinh còn chưa có phương pháp học bộ
môn, vẫn ngại học và ngaị khó. Tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, máy
móc, thụ động, học sinh rất lúng túng trong việc nắm bắt kiến thức.
- Trong quá trình thực nghiệm, kết quả giảng dạy các tiết thực hành thí
nghiệm, thực hành quan sát ngày càng khả quan, học sinh ngày càng yêu thích
các tiết thực hành, bước đầu có kỹ năng nghiên cứu- thu thập thông tin- phân
tích - báo cáo, tích cực tham gia trong quá trình học tập là điều quan trọng và
cần thiết trong việc tìm hiểu về bộ môn sinh học ở nhà trường phổ thông.
- Trường THCS Nga Yên có sở vật chất tương đối đầy đủ, có phòng
thực hành Hóa – Sinh, vườn sinh vật, có phòng nghe nhìn để giáo viên dạy
bằng trình chiếu nên việc ứng dụng công nghệ thông tin đã hỗ trợ cho việc đổi
mới phương pháp dạy học rất nhiều đặc biệt là các tiết thực hành thí nghiệm.
Khả năng áp dụng đề tài hiện nay không còn khó khăn như những năm đầu
nghiên cứu.
10
- Đề tài nghiên cứu đã có tác động tích cực, góp phần đổi mới cách tổ
chức- thiết kế giờ dạy của giáo viên một cách sáng tạo, cách học của học
sinh… trong điều kiện học tập cụ thể.
+ Giáo viên luôn chủ động, sáng tạo trong vai trò người hướng
dẫncác em học tập. Giáo viên luôn có nhu cầu đòi hỏi phải cập nhật kiến thức,
tự học, tự rèn luyện, ứng dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp từng loại
bài. Luôn học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp và tận tâm trong hướng dẫn,
giúp đỡ các em học sinh học tập, nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn
+ Học sinh tự tin vào bản thân, thông qua hợp tác nhóm tích cực ,
độc lập nghiên cứu, tranh luận và bảo vệ vấn đề mình đưa ra, rèn luyện kỹ
năng cần thiết, phát triển tư duy từ thực hành, thí nghiệm ( trực quan cụ thể )
biết vận dụng vào giải thích các hiện tượng và ứng dụng trong thực tế cuộc
sống.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Trong quá trình thực nghiệm, kết quả giảng dạy các tiết thực hành thí
nghiệm ngày càng khả quan và bản thân đã áp dụng khá thành công ở các đối
tượng học sinh lớp 6 ở Trường THCS Nga Yên. Khi đến tiết thực hành thầy
và trò chúng tôi đều có chung tâm trạng rất vui, muốn được làm việc và muốn
được “ khám phá”.
Qua thời gian giảng dạy trên 2 lớp 6A và 6B. Tôi rất chú trọng rèn
luyện kỹ năng cho thực hành thí nghiệm, thực hành quan sát với những biện
pháp cụ thể mà tôi đã trình bày ở trên đã làm cho chất lượng dạy và học ngày
càng tiến bộ hơn trước thể hiện qua các số liệu sau.
Kết quả khảo sát sau khi áp dụng đề tài:
- Mức độ hứng thú
Số
Mức độ hứng thú
HS
Rất hứng thú
Hứng thú
Ít hứng thú
Không hứng
Lớp
thú
6
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
47
20
42,6
17
36,1
10
21,3
0
0
- Học lực
Lớp
Tổng
số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
6A
24
Sl
8
%
33,3
Sl
10
%
41,7
Sl
6
%
25
Sl
0
%
0
Sl
0
%
0
6B
23
5
21,7
12
52,3
6
26
0
0
0
0
Khối 6
47
13 27,7
22
46,8
12
25,5
0
0
0
0
11
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Xuất phát từ cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn, phân tích thực trạng của vấn đề
- Việc vận dụng các giải pháp mới về đổi mới phương pháp dạy học
trong giảng dạy môn sinh học, đặc biệt là các tiết thực hành- thí nghiệm, thực
hành- quan sát là rất cần thiết đối với mỗi giáo viên giảng dạy bộ môn sinh
học. Vì nó không chỉ giúp học sinh khắc sâu được kiến thức mà nó còn giúp
các em có được kiến thức thực tế, kỹ năng thực hành thí nghiệm. Lý thuyết
được gắn liền với thực tiễn . Điều đó đã góp phần khắc phục những khó khăn,
yếu kém của học sinh trong quá trình học tập trước đây .
- Việc tổ chức các hoạt động thực hành thí nghiệm, thực hành quan sát
phù hợp với loại bài, đối tượng học sinh sẽ đem lại hiệu quả trong học tập,
hình thành ở học sinh các kĩ năng như: Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin
khi đọc SGK tìm hiểu cách tiến hành thí nghiệm, kĩ năng tiến hành thực hành,
thí nghiệm và quan sát TN , kĩ năng tự tin khi trình bày kết quả làm việc của
nhóm, kĩ năng giải quyết vấn đề giải thích các hiện tượng thực tế, tư duy sáng
tạo....Có như vậy học sinh sẽ lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sâu sắc
hơn, theo tôi nghĩ đây chính là hiệu quả của việc giảng dạy các tiết thực hành;
góp phần nâng cao chất lượng, đem lại niềm vui và hứng thú học tập bộ môn.
- Đề tài này tôi nghiên cứu và ứng dụng đối với học sinh khối 6ở
trường THCS Nga Yên. Tôi thiết nghĩ đề tài này có thể dễ dàng thực hiện ở
các trường THCS, miễn sao phải có đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy
học. Điều quan trọng hơn cả là sự ham mê, nhiệt huyết của giáo viên phải
truyền được lửa cho thế hệ học sinh. Đề tài này được áp dụng đã làm thay đổi
hứng thú, lòng yêu thích bộ môn của giáo viên và học sinh. Vì vậy tôi nghĩ
người giáo viên giảng dạy đạt hiệu quả thì phải biết nhen nhóm từ những kết
quả nhỏ bé như thế cho lớn dần lên, cho lòng yêu nghề của giáo viên, sự ham
mê trong học tập của học sinh, chất lượng bộ môn ngày càng tăng lên.
3.2 Kiến nghị và đề xuất
a. Kiến nghị
Trên đây là một vài kinh nghiệm mà bản thân đã góp nhặt tích lũy và
áp dụng trong quá trình giảng dạy Sinh học lớp 6. Những kinh nghiệm trên
có thể chưa hoàn thiện và chắc chắn còn nhiều thiếu sót, tôi mong muốn có
thể cùng chia sẻ với các bạn đồng nghiệp và nhận được những đóng góp chân
thành để có được những giải pháp hay cho việc dạy Bài 21: Tiết 24: Quang
hợp môn sinh học lớp 6 nói riêng và môn sinh học nói chung. Kính mong
nhận được sự đóng góp từ tổ chuyên môn, sự chỉ đạo của BGH nhà trường và
của Phòng Giáo dục- Đào tạo huyện Nga Sơn
b. Đề xuất
- Phải trang bị được phòng chức năng đảm bảo về mặt chất lượng, để
giờ thực hành đạt kết quả cao không ảnh hưởng đến sức khỏe của giáo viên và
học sinh.
12
- Có những hội thi phụ tá thiết bị giỏi để nâng cao sự linh hoạt, năng
lực phục vụ và bảo quản dụng cụ và thiết bị.
- Kính mong các cấp các nghành nên tổ chức cho giáo viên giảng dạy
bộ môn sinh được đi thăm quan học tập ở một số trường điểm của Tỉnh, của
Bộ để nâng cao học vấn kích thích sáng tạo vận dụng lý thuyết với thực tế bộ
môn.
Nga Yên, ngày 10 tháng 4 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA THỦ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
TRƯỞNG ĐƠN VỊ viết, viết, không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện
Nguyễn Văn Tuyển
Lưu Thị Huê
13
STT
1
2
3
4
5
6
7
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tên tài liệu
Dạy và học tích cực
Đại cương phương pháp dạy học sinh học
Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học
Sách giáo khoa sinh học 6
Sách giáo viên sinh học 6
Chuyên đề ứng dụng phần mền Imindmap
Một số phương pháp và kỹ thuật dạy học tích
cực
Ghi chú
14
PHỤ LỤC
PHIẾU THĂM DÒ MỨC ĐỘ NHẬN THỨC HỌC SINH ĐỐI VỚI BỘ
MÔN SINH HỌC 6.
HỌ VÀ TÊN HỌC SINH:
LỚP:
1/ Đã được học chương trình sinh học ở trường tiểu học
Đã học
Chưa học
2/Đã được tiếp cận với sinh học thông qua bộ môn sinh học 6
Lý thuyết
Vừa nghiên cứu lý thuyết vừa nghiên cứu thực nghiệm
Thực nghiệm
3/ Em có hứng thú với bộ môn sinh học 6
Rất hứng thú
Hứng thú
ít hứng thú
Không hứng thú
4/ Trong bộ môn sinh học 6 em có thích học các tiết thực hành không?
Rất thích
Thích
Không thích
15