Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Ngu van THCS le vu son THCS nguyet an ngoc lac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.51 KB, 17 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU
Đánh giá chất lượng giáo dục của một nhà trường không chỉ dựa vào chất
lượng mũi nhọn mà còn căn cứ vào chất lượng đại trà. Chất lượng đại trà là cơ
sở, là nên móng của chất lượng mũi nhọn. Muốn nâng cao chất lượng đại trà thì
việc không thể thiếu là dạy phủ đạo cho học sinh yếu kém. Ở nước ta, bất cứ
trường học nào cũng có học sinh giỏi, học sinh yếu kém. Vì vậy, nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém là
mục tiêu cơ bản hàng đầu, là mối quan tâm lớn đối với sự nghiệp giáo dục hiện
nay.
Trong thời gian qua Bộ giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện
pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc
vận động lớn như: Cuộc vận động " Hai không với bốn nội dung", "Mỗi thầy cô
giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực", " Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh",
“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”…Song song với các cuộc vận động
đó là các chuyên đề về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Qua việc thực hiện
các cuộc vận động và các chuyên đề này đã làm thay đổi khá nhiều về chất lượng
giáo dục. Tuy có nhiều tiến bộ nhưng chất lượng thật sự của giáo dục hiện nay ở
bậc Trung học cơ sở (THCS) còn khá nhiều yếu kém. Yêu cầu đặt ra cho chúng
ta là phải tìm ra những nguyên nhân yếu kém một cách chính xác, phải nhìn
thẳng vào sự thật một cách khách quan. Từ đó đưa ra những giải pháp tích cực
sát với thực tế để từng bước nâng cao chất lượng. Vấn đề này cần phải có thời
gian, công sức của mọi người trong toàn xã hội.
Trung học cơ sở là cấp học mang tính chất kế thừa kiến thức ở bậc tiểu học
và khởi đầu cho việc hình thành vốn kiến thức cơ bản cho học sinh, làm nền tảng
vững chắc cho cấp học Trung học phổ thông, Cao Đẳng, Đại Học. Mục tiêu của
giáo dục THCS là giúp cho học sinh củng cố và phát triển những kết quả giáo
dục ở Tiểu Học, có học vấn phổ thông trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu
về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học Trung học phổ thông, trung cấp, học
nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Nên ngay đầu cấp THCS thì người giáo


viên dạy các bộ môn cần phải nắm bắt được các đối tượng học sinh, phân loại
học sinh, tìm ra được các đối tượng học sinh yếu, kém để có kế hoạch dạy phụ
đạo cho phù hợp.
Vấn đề dạy học phụ đạo cho học sinh yếu là một hoạt động bình thường và
không thể thiếu được trong bất kỳ trường THCS nào. Đây chính là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của người thầy, của nhà trường để góp phần giúp cho
các học sinh không theo kịp bạn bè có thể nắm bắt được những kiến thức cơ bản

1


nhằm lấp lỗ hổng kiến thức của bản thân. Trong đơn vị trường học, việc tổ chức
các lớp học phụ đạo cho học sinh yếu kém là việc làm thường xuyên chứ không
phải chỉ là phong trào thi đua hoặc để đối phó với một đợt thi hoặc kiểm tra.
Trong năm học 2014-2015 này tôi được phân công giảng dạy hai lớp 6, môn
Ngữ Văn, tôi đã phải từng bước nắm bắt và phân loại đối tương học sinh, lọc ra
các học sinh yếu để có kế hoạch dạy phụ đạo cho các em. Chính vì thế nên trong
khuôn khổ bài viết này, tôi xin được trình bày một số nguyên nhân ảnh hưởng
đến chất lượng dạy học còn yếu kém ở môn Ngữ Văn lớp tôi phụ trách và đưa ra
một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ Văn lớp 6 ở
trường THCS Nguyệt Ấn hiện nay.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng chung:
Qua tìm hiểu trong quá trình dạy học tại trường trung học cơ sở Nguyệt Ấn
và tham khảo một số trường bạn trong huyện, tôi được biết rằng nội dung này
đã được Ban giám hiệu các nhà trường, các tổ chuyên môn và từng giáo viên
triển khai cụ thể, sâu rộng trong kế hoạch chuyên môn theo tháng, tuần. Hầu hết
ở các trường, dù ở những mức độ khác nhau, mỗi giáo viên đều đã thể hiện được
tinh thần tích cực. Song, trên thực tế, chúng ta có thể nhận thấy còn có những
giáo viên, tuy rất tâm huyết và tích cực nhưng còn lúng túng trong nội dung và

phương pháp trong quá trình dạy học nên hiệu quả thực hiện chưa cao. Phần lớn
học sinh vẫn có ý thức học tập môn Ngữ Văn, tích cực say mê nghiên cứu để
cảm nhận, phân tích các tác phẩm văn học bằng niềm say mê yêu thích môn học
của mình. Thế nhưng bên cạnh đó vẫn còn không ít những học sinh không say
mê môn học dẫn đến chán chường, bỏ bê, sao nhãng khiến chất lương học môn
Ngữ Văn ở trường còn có nhiều yếu kém.
2. Thực trạng dạy học Môn Ngữ Văn lớp 6 ở trường THCS Nguyệt ấn
a. Về phía GV
Năm học 2014-2015 này nhà trường đã bố trí, phân công hai giáo viên trực
tiếp dạy môn Ngữ Văn 6. Trong đó tôi phụ trách dạy hai lớp, và một đồng
nghiệp tôi dạy hai lớp còn lại. Quá trình giảng dạy chúng tôi đã kết hợp, trao đổi
và cùng với tổ bộ môn Ngữ Văn xây dựng kế hoạch hoạt động giảng dạy phù
hợp, hữu hiệu nhất để dạy học sinh. Mong muốn của chúng tôi là giúp các em
học sinh đầu cấp THCS biết cách học, hiểu và cảm thụ văn chương một cách tốt
nhất; làm cho các em không còn ngỡ ngàng với cách học của học sinh lớp đầu
cấp nữa, mà ngay từ ban đầu là phải bắt tay vào học tập thật sự có chất lượng.
Thế nhưng cũng do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan đem lại nên kế
hoạch dự định của tôi chưa được thực hiện triệt để. Thực tế qua khảo sát đầu
năm, môn Ngữ Văn 6 hai lớp ( 6A1, 6A3) do tôi phụ trách vẫn còn trường hợp
học sinh học yếu. Vì thế mà tôi mong muốn tìm cách khắc phục được trình trạng

2


trên để nâng cao được chất lương học sinh do mình phụ trách nói riêng và cho
toàn khối lớp 6 nói chung.
b. Về phía học sinh:
So với toàn trường, môn Ngữ Văn của khối 6 trường THCS Nguyệt Ấn các
em đã có phần khả quan. Các em đã có tinh thần say mê học tập. Từ việc nắm
bắt được kiến thức lí thuyết của các tiết trong từng phân môn học, các em đã biết

vận dung để làm các bài tập trong sách giáo khoa và sách nâng cao (đối với lớp
6A1). Bước đầu tạo được những thuận lợi đáng kể trong quá trình học văn ở đầu
cấp được thuận lợi.
Mặc dù đã có những bước chuyển mới như vậy, nhưng do những yếu tố
khác tác động đến học sinh nên quá trình học tập các em vẫn chậm chạp trong
cách tiếp thu bài, dẫn đến hiệu quả học tập qua các tiết dạy còn chưa cao, nhất là
ở lớp 6A3.
c. Kết quả cụ thể qua lần khảo sát đầu năm học 2014-2015:
Lớp


số

Xếp loại
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6A1 32

0
0%
10 31,3% 15 46,8%
7 21,9% 0
0%
6A3 37
0
0%
2
5%
20
54%
15 41%
0
0%
3. Nguyên nhân của thức trạng trên:
a. Về nhà trường và giáo viên.
Một trong những nguyên nhân phải kể đến đó là do nhà trường còn thiếu cơ
sở vật chất. Sinh hoạt chuyên môn nhóm, tổ chưa có kế hoạch, nội dung cụ thể
để trao đổi phương pháp dạy học nên phần nào cũng đã ảnh hưởng đến chất
lương dạy học các bộ môn nói chung và môn Ngữ Văn 6 nói riêng.
Một phần do giáo viên chưa quan tâm đúng mức, chưa giúp đỡ kịp thời để
các em hổng kiến thức cơ bản dẫn đến việc các em ngày một tụt hậu so với trình
độ chung của lớp. Hoặc do giáo viên còn lúng túng về phương pháp, khó khăn
trong việc xác định nội dung phụ đạo cho các em. Hoặc do giáo viên chưa có kế
hoạch cụ thể, nóng vội trong quá trình phụ đạo cho các em.
b. Về phía học sinh.
Cấp THCS là cấp đầu tiên mà học sinh phải làm quen với sự thay đổi về môi
trường học tập: bạn bè mới, thầy cô giáo mới, mỗi thầy cô lại có một phương
pháp riêng, nhiều môn học mới. Chính vì sự thay đổi này nên nhiều học sinh còn

lúng túng trong quá trình tiếp thu kiến thức.
Nhiều em học lệch theo định hướng gia đình và định hướng nghề nghiệp của
xã hội sau này.
Địa bàn thuộc vùng xã hội đặc biệt khó khăn (Vùng 135 – Có 5/23 làng
thuộc thôn đặc biệt khó khăn giai đoạn, 18 làng còn lại tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn
3


cao) học sinh đa số là con em dân tộc thiểu số (Dân tộc Mường) thuộc diện hộ
nghèo, một số học sinh nghèo bố mẹ lại đi làm ăn xa không có người quản lý
hoặc quản lý lỏng lẻo; học sinh chưa có đủ đồ dùng, dụng cụ học tập, đi học thất
thường, có em đi học trong một tuận chỉ được 2 đến 3 buổi; một số học sinh
chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập tốt.
Vốn từ vựng của các em còn ít nên khả năng diễn đạt chưa tốt; Khả năng
phân tích tổng hợp, so sánh còn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu
chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin; một số học sinh lười suy nghĩ,
còn trông chờ thầy cô, trình độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp dưới còn hạn
chế; Khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên không bền.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1. Giải pháp chung:
a. Đối với giáo viên giảng dạy Ngữ văn 6:
Giáo viên là người chủ đạo trong việc khắc phục học sinh yếu, thành hay bại
là phần lớn do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong việc
khắc phục học sinh yếu. Giáo viên được ví như một người huấn luyện viên
trưởng. Vì vậy giáo viên cần lưu ý một số biện pháp sau:
- Qua những bài làm kiểm tra cũng như tiết học trên lớp phát hiện
những đối tượng nào yếu - kém lập thành một danh sách rồi kiểm tra lại một
lần nữa để phân loại các em theo từng nhóm cụ thể. Tìm hiểu, phân tích
nguyên nhân để từ đó có biện pháp khác phục hợp lý và có hiệu quả. Sau đó báo

cáo cho Tổ trưởng và Ban giám hiệu nhà trường để có kế hoạch học phụ đạo
cho học sinh.
- Đề xuất với Tổ trưởng, Ban giám hiệu nhà trường về cách khắc phụ để tất
cả cùng tập trung giải quyết có hiệu quả tốt nhất.
- Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học tập của học sinh, cùng với
phụ huynh tìm biện pháp khắc phục.
- Tiếp theo giáo viên lập kế hoạch phụ đạo học sinh yếu ngoài giờ học chính
khóa có thể ở trường, ở nhà (đề xuất với Tổ trưởng, Ban giám hiệu nhà trường,
phụ huynh...)
- Trong tiết dạy học bình thường giáo viên soạn bài nhất thiết phải có kế
hoạch dạy học cho những học sinh yếu. Kế hoạch dạy học cho học sinh yếu phải
phù hợp với trình độ học sinh đó ở đó.
- Phân công học sinh khá, giỏi giúp đỡ bạn ở trường, ở nhà. Tạo ra các nhóm
học tập, thi đua trong các nhóm có học sinh yếu.
- Động viên, tuyên dương kịp thời học sinh có tiến bộ.
- Trong buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng (2 tuần /lần) giáo viên môn
Ngữ Văn báo cáo tiến độ tiếp thu bài của những học sinh yếu cho Tổ trưởng và
4


giáo viên trong khối, từ đó giáo viên nào còn vướng mắc thì được tập thể giáo
viên trong khối góp ý bổ sung.
b. Đối với cán bộ tổ:
- Đấu mối với giáo viên dạy Ngữ Văn 6, lập hợp danh sách học sinh yếu báo
cáo Ban giám hiệu nhà trường. Tiến hành họp tổ để cùng phân tích nguyên
nhân, bàn kế hoạch khắc phục học sinh yếu; lập kế hoạch phụ đạo và trình lên
Ban giám hiệu nhà trường; nắm bắt sự tiến bộ của học sinh.
c. Đối với Nhà trường:
- Họp Hội đồng sư phạm giáo dục nhà trường để bàn tìm biện pháp tối ưu
nhất để khắc phục học sinh yếu các môn nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng.

- Duyệt kế hoạch phụ đaọ học sinh yếu m ôn Ngữ Văn; kiểm tra việc giáo
viên dạy phụ đạo ở trường.
- Có biện pháp hỗ trợ về vật chất cho giáo viên và học sinh trong quá trình
dạy học phụ đạo.
- Theo dõi và báo cáo cho phòng giáo dục về tiến độ chất lượng học sinh yếu.
d. Đối với học sinh:
- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập như: sách giáo khoa, sách tài liệu tham
khảo, vở ghi…Học bài, làm bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Đi học phải chuyên cần, nghỉ học phải có lý do chính đáng.
- Trong giờ học tập trung nghe cô giáo giảng bài, tích cực tham gia trao đổi,
bàn luận, phát biểu bài.
e. Đối với phụ huynh:
- Tạo điều kiện học tập tốt nhất cho con em mình về thời gian, đồ dùng học
tập; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc con em mình học bài ở nhà.
- Thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên phụ trách các
môn học, giáo viên dạy môn Ngữ Văn để nắm được tình hình học tập của con em
mình, từ đó giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn cùng trao đổi với phụ huynh
để tìm biện pháp tốt nhất cho con em mình học tập.
2. Giải pháp cụ thể
a. Công việc chuẩn bị của giáo viên dạy môn Ngữ Văn 6.
* Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh
- Phân loại theo hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm-sinh lí: Giáo viên cần xem
xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các em
để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng
em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, thiếu tự tin,
nhút nhát, bố mẹ không quan tâm hoặc đi làm ăn xa...
- Phân loại theo trình độ, khả năng tiếp thu, nhận thức
+ Nhóm yếu về dùng từ, diễn đạt, diễn cảm.
+ Nhóm yếu về kĩ năng lập luận dựng đoạn.
+ Nhóm yếu về phương pháp làm bài.

5


+ Nhóm yếu về phương pháp phân tích cảm thụ văn chương.
- Tạo nhóm học tập: Giáo viên giao nhiệm vụ cho những học sinh khá,
giỏi kèm cặp nhóm học yếu. Đây là việc làm rất quan trọng. Tục ngữ có câu
“ Học thầy không tày học bạn ”. Mối quan hệ giữa các thành viên trong
nhóm là quan hệ bạn bè gần gủi, thân thiết nên các em không hổ thẹn khi
trao đổi bài với bạn hoặc nhờ bạn giúp đỡ.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành
cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho
các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí
đích thực của mình trong tập thể.
* Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện:
Xây dựng môi trường học tập có nghĩa rất quan trọng. Hiện nay, Bộ giáo dục
đang phát động cuộc vận động “ Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Việc
xây dựng môi trường học tập không chỉ nhằm thực hiện cuộc vận động mà để tạo
ra môi trường thân thiện, gần gủi để học sinh học tập. Muốn vậy, giáo viên cần
lưu những điểm sau:
- Trước tiên người thầy phải nhiệt tình, thật sự yêu thương trò như người
thân trong gia đình. Từ đó tạo tạo sự gần gủi, rút ngắn khoảng cách giữa
thầy và trò, tạo sự tin tưởng ở học sinh
- Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu
quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi,
cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập,
trong cuộc sống của bản thân mình.
- Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không
đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm
thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Nếu
giáo viên tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, thầy

trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng
các em là học sinh yếu kém sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả
năng tự học của mình.
- Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi
tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm
những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em.
Kịp thời tuyên dương những em có tiến bộ.
* Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:
- Trước hết, giáo viên cần cho học sinh thấy rõ tầm quan trọng của môn Ngữ
Văn, đặc biệt là theo xu hướng mới của thi cử.
- Giáo dục tình yêu đối với môn học; giáo dục ý thức học tập của học sinh
tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập, từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức
vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để
6


học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. Từ
đây, các em sẽ ham thích và say mê khám phá tìm tòi trong việc chiếm lĩnh tri
thức môn Ngữ Văn.
- Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh
gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các
trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn
lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời,
giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện
nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá
tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc
phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình,
thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
b. Công việc chuẩn bị của học sinh:
Học sinh phải có đủ sách giáo khoa môn Ngữ Văn để học những kiến thức cơ

bản theo hướng dẫn của giáo viên. Sưu tầm thêm các tài liệu có liên qua đến kiến
thức môn học để hỗ trợ việc học môn Ngữ Văn lớp 6 được tốt, tranh ảnh về
phong cảnh thiên nhiên và con người liên quan đến kiến thức bài học. Tạo được
sự đoàn kết đồng thuận trong tập thể lớp học phụ đạo và cần có thái độ hợp tác
cao với giáo viên, có ý thức học tập tốt.
II. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Chuẩn bị:
a. Đối với giáo viên:
Đối với giáo viên dạy Ngữ Văn nói chung, giáo viên dạy môn Ngữ văn 6 nói
riêng việc chuẩn bị là vô cùng cần thiết. Khi nhận chuyên môn, giáo viên cần có
cái nhìn tổng thể toàn bộ chương trình. Ngoài việc xác định mục đích yêu cầu,
đồ dùng dạy học liên quan đến bài dạy, giáo viên còn phải dự kiến dạy phụ đạo
cho học sinh yếu kém gồm những nội dung nào, mục nào?
- Giành thời gian nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, soạn giáo án dạy học phụ đạo
cơ bản phù hợp với trình độ của học sinh, sau đó trình tổ trưởng duyệt trước một
tuần.
- Chuẩn bị các tranh ảnh, vận dụng, băng hình... các đồ dùng trực quan khác
để giúp học sinh tiếp thu bài một cách tốt nhất.
- Cung cấp cho học sinh nắm bắt kiến thức lí thuyết cơ bản ở các bài đã học
và hướng dẫn học sinh làm các bài tập nhận diện và thông hiểu một cách nhuần
nhuyễn.
b. Đối với học sinh.
- Học sinh phải có ách giáo khoa để chuẩn bị bài và theo dõi bài học trong
quá trình giáo viên lên lớp. Trước khi đến lớp phụ đạo cần ôn lại những kiến
thức cơ bản đã được học ở lớp chung.

7


- Chuẩn bị phiếu học tập và tổ chức nhóm nhỏ để thảo luận học phụ đạo theo

sự hướng dẫn của giáo viên.
2. Cách thức tổ chức thực hiện:
a. Ôn tập kiến thức đã học trên lớp.
* Về tác phẩm văn học: Căn cứ theo đặc trưng thể loại tôi giúp cho các
em học tập và nắm vững các phần sau:
- Thuộc và nhớ nội dung, chi tiết đặc sắc của tác phẩm. Chẳng hạn như
thuộc cốt truyện, nắm vững các chi tiết, kết cấu nhân vật hệ thống các sự
kiện, biến cố, giá trị đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Gắn tác
phẩm với thời đại lúc tác phẩm ra đời để am hiểu, xuất xứ hoàn cảnh sáng
tác chủ đề, giá trị nội dung, đặc sắc hình thức, giá trị tư tưởng, giá trị thẩm
mỹ của tác phẩm.
Ví dụ:
Em hãy tìm hiểu và nắm vững văn bản “Bánh chưng,bánh giày”, các em
có thể tiến hành trả lời các câu hỏi gợi mở sau đây để tìm hiểu:
- Hãy trình bày những hiểu biết của em về thể loại truyền thuyết?
- Truyện liên quan đến triều đại nào trong lịch sử nước ta?
- Truyện có những nhân vật nào? Ai là nhân vật chính ?
- Nhân vật Lang Liêu có hoàn cảnh như thế nào?
- Tìm những chi tiết mang màu sắc cổ tích trong truyện?
- Truyện thể hiện ý nghĩa?
- Theo em, Lang Liêu được vua chọn là người nối ngôi có xứng đáng
không? Vì sao ?
* Phân môn Tiếng Việt
Căn cứ vào từng bài cụ thể, tôi giúp học sinh nắm vững những đơn vị kiến
thức về: Từ và cấu tạo của từ, nghĩa của từ, nguồn gốc; Các từ loại; các lỗi
thường gặp khi sử dụng từ; các biện pháp tu từ thường gặp
Ví dụ: Đọc câu văn sau và trả lời các câu hỏi.
“ Nước từ trên cao đổ xuống hò reo, rồi trườn qua các kẻ đá chảy về thượng
nguồn”
- Xác lượng số lượng từ được sử dụng trong câu trên?

- Liệt kê các danh từ, động từ, tính từ (nếu có) trong câu văn trên?
- Câu văn đã sử dụng phép tu từ nào?
* Phân môn tập làm văn
Ở phân môn này, tôi bắt đầu bằng việc cho học sinh ôn lại các kiểu văn bản
và phương thức biểu đạt ( Xác định phương thức biểu đạt trong văn bản cụ thể),
hướng dẫn các em tìm hiểu từng kiểu bài cụ thể bằng cách nhận diện kiểu văn
bản. Sau đó mới hướng dẫn học sinh cách làm bài. Khi làm bài văn, học sinh
thường bỏ qua các bước như: tìm hiểu đề, tìm, lập dàn bài, đọc và sửa chữa. Vì
vậy, khi phụ đạo, tôi yêu cầu các em làm theo từng bước.
8


b. Thử nghiệm bằng các buổi học phụ đạo vào buổi chiều:
Năm học 2014 – 2015 khối 6 gồm 4 lớp, tôi và cô Nguyễn Thị Lí cùng tổ
Khoa học xã hội tiến hành dạy phụ đạo mỗi tuần 2 buổi và tiến hành thử nghiệm
trong một tháng (Tháng 11 năm 2014). Vì trong nửa cuối tháng tám và tháng 9,
10 thì tôi giảng dạy, khảo sát, nắm bắt và phân loại đối tượng học sinh, lập được
danh sách học sinh học yếu và tổ chúng tôi tiến hành trong bốn tuần:
* Tuần thứ nhất: Ôn tập về văn bản.
- Buổi 1: + Ôn lại các khái niệm về truyền thuyết.
+ Cho học sinh kể lại nội dung các truyện truyền thuyết đã học:
Con Rồng, cháu Tiên; Bánh chưng, bánh giày; Sơn Tinh, Thủy Tinh…
+ Các nhân vật, nhân vật chính, nhân vật phụ.
+ Các chi tiết tưởng tượng kì ảo.
+ Các chi tiết liên quan đến sự thật lịch sử
- Buổi 2: + Ôn lại Thể loại truyện cổ tích
+ Cho học sinh kể lại nội dung các truyện cổ tích.
+ Xác định các nhân vật, phân loại nhân vật.
+ Các chi tiết tưởng tượng kì ảo.
+ Ý nghĩa của truyện

* Tuần thứ hai: Ôn tập về phân môn Tiếng Việt:
- Buổi 1: + Ôn tập phần lí thuyết về từ và cấu tạo từ tiếng
+ Tiến hành ôn luyện làm lại các bài tập dạng nhận diện, thông
hiểu trong Sách giáo khó và sau đó đưa thêm các bài tập trắc nghiệm khách quan
cho HS nhận biết lựa chọn trường hợp đúng theo yêu cầu.
- Buổi 2: + Ôn tập phần lí thuyết về nghĩa của từ, từ nhiều nghĩa và hiện
tượng chuyển nghĩa của từ .
+ Tiến hành ôn luyện làm lại các bài tập nhận diện, thông hiểu và
sau đó tập làm các bài tập vận dung thấp. Ví dụ như tập giải nghĩa của một số từ
giáo viên cho sẵn, sau đó đặt câu với các từ vừa giải nghĩa.
* Tuần thứ ba: Ôn tập về phân môn Tập làm văn:
- Buổi 1: + Ôn tập về giao tiếp văn bản và các phương thức biểu đạt được
học trong chương trình môn Ngữ Văn THCS (Hệ thống khái niệm toàn bộ phần
lí thuyết).
+ Tiến hành ôn luyện làm lại các bài tập dạng nhận diện, thông
hiểu như: Tập xác định phương thức biểu đạt của các văn bản đã học trong các
văn bản thuộc thể loại truyền thuyết. Sau đó cho học sinh kể thêm các văn bản
mà các em biết thuộc sáu kiểu văn bản đã học. Tiếp theo giáo viên cho học sinh
làm các bài tập vận dung thấp như: Tập đặt câu văn tương ứng với sáu kiểu văn
bản được học.
- Buổi 2: + Ôn tập khái niệm và các bước làm bài văn tự sự (Hệ thống khái
niệm toàn bộ phần lí thuyết).
9


+ Tiến hành ôn luyện làm lại các bài tập dạng nhận diện, thông
hiểu và sau đó tập làm các bài tập vận dụng thấp rồi đến bài phần vân dụng cao.
Ví dụ như cho học sinh tập kể lại câu chuyện mà mình được học hoặc được nghe
kể lại. Tiếp theo giáo viên mạnh dạn cho học sinh kể lại câu chuyện được học
trong chương trình bằng lời văn của em.

* Tuần thứ tư:
- Buổi 1: Tiến hành làm bài khảo sát (90 phút), tích hợp cả ba phân môn:
Đọc - hiểu văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn.
Đề bài khảo sát:
Phần 1: Trắc nghiệm:
Trả lời bằng cách khoanh tròn chữ cái đầu trước câu trả lời đúng.
Câu 1: Truyền thuyết là gì:
A. Những câu chuyện hoang đường.
B. Câu chuyện có những yếu tố hoang đường nhưng có liên quan đến các sự
kiện, nhân vật lịch sử của một dân tộc.
C. Lịch sư đát được được phản ánh khá chân thực.
D. Cuộc sống hiện thực được kể lại một cách nghệ thuật.
Câu 2: Văn bản “ Con Rồng cháu tiên ” thuộc kiểu văn bản nào sau đây?
A. Tự sự.
B. Miêu tả.
C. Thuyết minh.
D. Biểu cảm.
Câu 3: Trong văn bản "Con Rồng cháu Tiên" thì ý nghĩa nổi bật nhất của
hình tượng " cái bọc một trăm trứng "là gì?
A. Giải thích sự ra đời của các dân tộc Việt Nam.
B. Ca ngợi sự hình thành nhà nước Vă Lang.
C. Tình yêu đát nước và lòng tự hào dân tộc.
D. Cả ba ý trên đều dúng.
Câu 4: Trong truyền thuyết "Bánh Chưng, bánh Giầy" nhân vật Lang Liêu
gắn với lĩnh vực hoạt động nào của người Lạc Việt thời kì vua Hùng dựng nước?
A. Chống giặc ngoại xâm.
B. Đấu tranh, chinh phục thiên nhiên.
C. Lao động sản xuất và sáng tạo văn hóa.
D. Giữ gìn ngôi vua.
Câu 5: Nhận xét sau đây đúng với thể loại tự sự nào?

"Truyện dân gian kể về một số kiểu nhân vật nhất định, thường có yếu tố
tưởng tượng kì ảo và thể hiện ước mơ của nhân dan ta về sự công bằng trong xã
hội, sự chiến thắng của cái thiện đối với cái ác"
A. Thần thoại.
B. Truyền thuyết.
C. Cổ tích.
D. Truyện cười.

10


Câu 6: Trong truyện "Thạch Sanh" chứa đựng nhiều nội dung, phản ánh
nhiều mặt cuộc sống, nhưng chung quy lại đều cùng một nội dung phản ánh. Đó
là nội dung gì?
A. Đấu tranh chinh phục thiên nhiên.
B. Đấu tranh xã hội.
C. Đấu tranh chống xâm lược.
D. Đấu tranh giữa thiện và ác.
Câu 7: Đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất của Tiếng Việt là gì?
A. Tiếng.
B. Từ.
C. Ngữ.
D. Câu.
Câu 8: Chỉ ra cách hiểu đầy đủ nhất về nghĩa của từ?
A. Nghĩa của từ là sự vật mà từ biểu thị.
B. Nghĩa của từ là tính chất mà từ biểu thị.
C. Nghĩ của từ là hoạt động mà từ biểu thị.
D. Nghĩa của từ là nội dung mà từ biểu thị.
Phần 2: Tự luận:
Câu 1: Xác định số tiếng, số từ trong câu sau đây?

"Hùng Vương thư mười tám có một người con gái tên là Mị Nương."
Câu 2: Hãy kể lại một truyện truyền thuyết đã học bằng lời văn của em.
- Buổi 2: Cả nhóm giáo viên dạy Ngữ Văn chấm bài, phân loại và tổng kết,
đánh giá chất lượng học sinh và có kế hoạch phụ đạo tiếp theo.
C. KẾT LUẬN
Công tác bồi dưỡng học sinh yếu kém là hết sức quan trọng, nó tác động trực
tiếp đến quá trình nâng cao chất lượng dạy và học là động lực thúc đẩy sự phát
triển của nhà trường. Chính công tác này giúp chúng ta nắm được hoạt động
hàng ngày trên lớp của học sinh, đồng thời góp phần chống học sinh bỏ học của
nhà trường. Sau khi thực hiện sáng kiến này tôi nhận thấy
I. Kết quả nghiên cứu
Sau một thời gian nghiên cứu, lập kế hoạch, xây dựng giáo án dạy phụ đạo
cho học sinh yếu môn Ngữ văn, tôi và nhóm giáo viên Ngữ Văn của trường đã
chấm bài khảo sát và có kết quả cụ thể như sau:
Lớp Sĩ
Xếp loại
số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%

SL
%
6A1 7
0
0%
2 28,6% 5
71,4%
0
0%
0
0%
6A3 15
0
0%
1
7%
12
80%
2
13%
0
0%

11


II. Bài học kinh nghiệm
Phụ đạo cho học sinh yếu kém cần tiến hành trong một một quá trình lâu dài
chứ không phải là vệc ngày một, ngày hai. Vì vậy, giáo viên dạy phụ trách công
tác này không được nóng vội. Hơn nữa, giáo viên cần làm việc bằng cái tâm,

phải xem học sinh như con em của mình; phải biết chia sẻ vui buồn, cùng lắng
nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp; luôn trao đổi,
học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp.
Trong quá trình phụ đạo, giáo viên phụ trách phải kết hợp chặt chẽ với gia
đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương,
tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em. Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương
giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo cho các em động cơ
ham học.
Tóm lại, nếu giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn tạo được sự mật thiết giữa
thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và
nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn
và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng
nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì
chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em. Và có lẽ rằng,
chúng ta - những người thầy sẽ mãi là niềm tin yêu, là điểm tựa vững chắc trong
lòng các em học sinh.
III. Đề nghị
Giáo viên dạy môn Ngữ Văn cố gắng sưu tầm, nghiên cứu tài liệu để có
phương pháp dạy học tốt nhất giúp học sinh nâng cao được chất liệu đại trà môn
Ngữ văn trong toàn khối của trường THCS Nguyệt Ấn nói chung và môn Ngữ
Văn lớp 6 nói riêng.
Nhà trường tạo điều kiện về cơ sở vật chất trường, lớp học để giáo viên
dạy môn Ngữ Vă đầu cấp THCS có thể dạy học phụ đạo cho học sinh yếu ít nhất
được hai buổi trên tuần, nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập chung trong
toàn trường.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ, dạy học cho học
sinh yếu môn Ngữ Văn lớp 6. Trong bài viết của mình chắc không tránh khỏi
thiếu sót. Kính mong quí thầy cô, bạn bè đồng nghiệp đóng góp ý kiến bổ sung,
sửa chữa cho sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN BAN GIÁM HIỆU

Thanh Hóa, ngày 12 tháng 04 năm 2015
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh
nghiệm này là của chính bản thân viết,
không coppy của tác giả khác. Tôi xin
trách nhiệm về lời cam đoan trên.
Người viết sáng kiến
Lê Vũ Sơn
12


13


+Cơng tác bồi dưỡng học sinh yếu kém là hết sức quan trọng, nó tác động
trực tiếp đến q trình nâng cao chất lượng dạy và học là động lực thúc đẩy
sự phát triển của nhà trường. Chính cơng tác này giúp chúng ta nắm được
hoạt động hàng ngày trên lớp của học sinh, đồng thời góp phần chống học
sinh bỏ học của nhà trường. Sau khi thực hiện sáng kiến này tơi nhận thấy
học sinh có nhiều tiến bộ, cơ bản các em biết cách lĩnh hội tri thức và biết
vận dụng kiến thức vào thực tế, nắm tương đối chắc những kiến thức cơ
bản về tác giả tác phẩm trong chương trình, biết tích luỹ vốn từ và biết
cách dùng từ chính xác hơn đúng với từng ngữ cảnh đặc biệt hơn bài tập
làm văn của các em có cách lập luận chặt chẽ, các luận điểm luận cứ rõ
ràng rành mạch, bài viết có sự liên hệ chặt chẻ hơn, biết lồng cảm xúc
của bản thân và cảm thụ sâu sắc qua mỗi bài văn thực hành.
+Học sinh không cảm thấy môn ngữ văn là quá khó, dần có
được sự hứng thú trong học tập.
+Học sinh yếu thật sự có được những nền móng cơ bản để theo
được chương trình lớp 7.
+Ý thức của các em đối với việc học được nâng cao hơn.

-Bài học kinh nghiệm: Qua thực tế vận dụng sáng kiến: “Phụ đạo học sinh yếu,
kém mơn Ngữ văn 6 - THCS”, tơi rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau:
*Thuận lợi:
Về phía giáo viên

14


+Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ
đối tượng học sinh yếu, giáo viên cần:
+ Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để
cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
+ Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà
trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các
em.
+Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông
qua các phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các
em, giáo viên phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ
nặng nề với các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia
sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục
phù hợp.
Về phía học sinh
+Học sinh luôn thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên
dùng hình phạt, đánh mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm
tin để các em an tâm học tập.
Tóm lại, nếu giáo viên tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với
học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì
chắc chắn rằng các em là học sinh yếu kém sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều
để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy
và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết

quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em.
*Khó khăn:
Tuy nhiên, còn có một số học sinh do hòan cảnh gia đình khó khăn, nhà xa
trường …nên các em nghỉ học nhiều, vì thể các em có một phần nào đó không
nắm đuợc hệ thống kiến thức của bộ môn Văn.
15


Trong một lớp học tỉ lệ học sinh yếu chiếm khá đông, đẫn đến tiến trình
học tập chậm rãi.
-Đề xuất, kiến nghị
* Đối với nhà trường
+ Cần có sự chỉ đạo chung cho toàn thể giáo viên của trường trong công
tác phụ đạo học sinh yếu kém.
+Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc giáo viên thực hiện tốt công tác này;
đây là công tác trọng tâm của nhà trường trong việc chống học sinh bỏ học, lưu
ban.
* Đối với giáo viên chủ nhiệm
+ Cần có sự phối hợp tốt với giáo viên bộ môn để cùng nhau giúp đỡ học
sinh vượt qua được những hạn chế của mình.
+ Luôn trao đổi với cha mẹ học sinh, đặc biệt là những học sinh kém để
tác động kịp thời.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc phụ đạo học sinh yếu kém.
Trong bài viết chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy, cô đóng góp
ý kiến. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Lạc Hòa, ngày 12 tháng
01 năm 2013
Người viết sáng kiến

(Đã ký)

Danh Thị Lệ

16


17



×