Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Chủ thể nhận thức trong triết học của immanuel kant và ý nghĩa hiện thời của nó (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.7 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VÂN HẠNH

CHỦ THỂ NHẬN THỨC
TRONG TRIẾT HỌC CỦA IMMANUEL KANT
VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số:

62 22 03 02

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Văn Phòng

Phản biện 1: ......................................................................................
............................................................................................................
Phản biện 2: ......................................................................................
............................................................................................................
Phản biện 3: ......................................................................................
............................................................................................................
Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.


Vào hồi …..giờ….. ngày …. tháng ….. năm 20….

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX nhiều nước Tây Âu đã chuyển sang
chế độ tư bản chủ nghĩa, trong khi đó nước Đức vẫn là một quốc gia phong
kiến lạc hậu. Trong bối cảnh đó Immanuel Kant đã nổi lên như một trong
những nhà khai sáng vĩ đại của dân tộc Đức. Qua những tác phẩm của mình,
ông đã bộc lộ một khát vọng tuyệt mỹ là thức tỉnh con người bằng trí tuệ.
I.Kant nhận ra rằng chỉ có ánh sáng của trí tuệ mới có đủ sức mạnh giúp con
người chống lại mọi sự cuồng tín, giáo điều đã ăn sâu bám rễ trong đời sống
nước Đức nói riêng và Tây Âu nói chung.
Bởi vậy, có một thời người ta lầm tưởng rằng triết học của I.Kant chỉ đơn
thuần là triết học đề cao trí tuệ nhưng xuyên suốt các tác phẩm của triết gia vĩ
đại này, đặc biệt là bộ ba tác phẩm “phê phán”, chúng ta nhận ra rằng triết học
của ông không chỉ có vậy. Ông đặt ra cho triết học phê phán của mình câu hỏi
lớn: Con người là gì? Để trả lời được câu hỏi này cần trả lời ba câu hỏi sau: Tôi
có thể biết được cái gì? Tôi phải làm gì? Tôi có thể hy vọng vào cái gì? Theo
I.Kant, nhiệm vụ trả lời câu hỏi thứ nhất thuộc về nhận thức luận. Câu hỏi thứ
hai dành cho đạo đức học. Câu hỏi thứ ba dành cho mỹ học. Xuất phát từ con
người lý tính, I.Kant đã chỉ ra cho con người con đường dẫn tới tự do và hạnh
phúc, con người phải làm gì để xứng đáng với chức phận làm người của mình,
nói như nhà nghiên cứu Trần Thái Đỉnh: “Triết học I.Kant không còn là thứ
triết đề cao tri thức như người ta vẫn lầm tưởng nữa, nhưng là triết tìm hiểu ý
nghĩa và bổn phận làm người của ta” . Có thể nói, với I.Kant lý tính là phương

tiện, chứ không phải là mục đích cuối cùng của tồn tại người. Cuối tác phẩm
lừng danh “Phê phán lý tính thuần túy”, I.Kant đã bày tỏ rõ ràng mục đích đó:
“Sự phê phán đối với lý tính liều lĩnh bay bổng bằng đôi cánh của chính mình,
phải đi trước như là môn dự bị cho mọi hoạt động của lý tính, cả hai sẽ cùng
tạo thành triết học với nghĩa đúng đắn và chân thực nhất của từ này”.
Vậy trong bối cảnh của thế kỷ XXI này, những quan điểm của I.Kant có
còn giá trị? Ngày nay khoa học đã đạt được những thành chưa từng có, vũ trụ
bí hiểm khôn lường cũng dần dần được hé lộ trước ánh sáng của khoa học.


2
Nhưng nếu chúng ta thỏa mãn với những điều mình biết thì có còn ham thích
khám phá cái mới? Cuộc sống là dòng chảy không ngừng nghỉ, bởi vậy để tồn
tại và phát triển con người cần không ngừng sáng tạo, tìm hiểu cái mới. Để làm
được điều đó, chúng ta cần làm rõ năng lực nhận thức của chính chúng ta có
những quy luật nào? Con người có thể nhận thức được gì? Quá trình nhận thức
diễn ra như thế nào?... Từ ba thế kỷ trước, triết học lý luận của I.Kant đã có
những câu trả lời đó. Mặc dù câu trả lời của I.Kant chưa phải là tối ưu nhưng
nó vẫn còn ý nghĩa to lớn đối với ngày nay. Mặt khác, cuộc sống hiện đại đã
giúp con người đoạn tuyệt với xiềng xích của lễ giáo hà khắc đưa con người tới
chân trời tự do nhưng lại đẩy họ vào bi kịch mới với những dục vọng tầm
thường, nỗi cô đơn vô tận, sự tha hóa, mất lương tri,... Con người một lần nữa
lại phải đặt ra câu hỏi cho chính sự tồn tại của mình, để định hướng lại giá trị.
Trong hành trình đó con người không thể thiếu “đôi cánh của lý tính”, bởi lẽ
giữa ba giá trị cốt lõi của đời sống là Chân - Thiện - Mỹ có một mối quan hệ
hữu cơ, không thể tách rời. Vì những lý do trên, tôi đã chọn: “Chủ thể nhận
thức trong triết học của Immanuel Kant và ý nghĩa hiện thời của nó” làm đề
tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích làm rõ những nội dung cơ bản trong quan niệm về
con người với tư cách là chủ thể nhận thức trong triết học của I.Kant, luận án
chỉ ra những giá trị, hạn chế và ý nghĩa hiện thời của quan niệm này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu trên, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất: Phân tích chỉ ra cơ sở cho sự hình thành quan niệm về chủ thể nhận
thức trong triết học của I.Kant. Thứ hai: Phân tích, làm rõ những nội dung về
chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant. Thứ ba: Đánh giá giá trị, hạn chế và ý
nghĩa hiện thời của quan niệm về chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: con người với tư cách là chủ thể
nhận thức trong triết học I.Kant.


3
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả tiến hành nghiên cứu bộ ba tác phẩm phê phán của I.Kant, đó là
“Phê phán lý tính thuần túy” (1781), “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788) và
“Phê phán năng lực phán đoán” (1790), nhưng tập trung chủ yếu vào tác
phẩm”Phê phán lý tính thuần túy” (1781).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phân tích và tổng
hợp; Quy nạp, diễn dịch, so sánh; Lịch sử - lôgic; Trừu tượng hóa; khái quát
hóa;…
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án góp phần luận giải và làm rõ cơ sở cho sự hình thành quan niệm

về chủ thể nhận thức trong triết học của I.Kant.
Luận án phân tích chỉ ra được một số nội dung chủ yếu của quan niệm
về chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant.
Trên lập trường của triết học Mác - Lênin, phân tích chỉ ra được giá trị
và hạn chế của quan niệm về chủ thể nhận thức trong triết học của I.Kant,
cũng như ý nghĩa hiện thời của quan niệm này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án được hoàn thành sẽ góp phần làm rõ lý luận nhận thức trong triết
học I.Kant, qua đó vận dụng để làm sáng tỏ, phát triển nhận thức luận macxit.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên,
học viên, người nghiên cứu về lý luận nhận thức, triết học về con người, triết
học I.Kant.
Luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng
dạy và nghiên triết học nói chung.
7. Kết cấu luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, luận án gồm 4 chương 12 tiết.


4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH ĐỀ CẬP ĐẾN CƠ SỞ CHO SỰ HÌNH THÀNH
QUAN NIỆM VỀ CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG TRIẾT HỌC I.KANT

Tác giả luận án đã kế thừa một số công trình tiêu biểu sau đây:
1.1.1. Nhóm các công trình của tác giả trong nước
- “Lịch sử triết học phương tây” của Nguyễn Tiến Dũng, Nxb Tổng

hợp thành phố Hồ Chí Minh - 2005.
- “Bối cảnh ra đời và cách tiếp cận của I.Kant về nhận thức trong
Phê phán lý tính thuần túy” của Hà Huy Tuấn, tủ sách khoa học tại trang
/>tiếp_cận_của_I.Kant_ về_ nhận_ thức_ trong_ Phê_ phán_ lý_ tính_ thuần_
túy - 2005.
- “Triết học cổ điển Đức” của Lê Công Sự, Nxb Thế giới, Hà Nội - 2006.
1.1.2. Nhóm các công trình của tác giả nước ngoài
- “Câu truyện triết học” (The story of Philosophy) của Will Durant
viết năm 1926, Nxb Văn hóa thông tin dịch ra tiếng Việt, xuất bản tại Hà
Nội - 2008
- “Triết học cổ điển Đức” của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, bản
tiếng Việt, Nxb Sự Thật, Hà Nội - 1962
- “Thế giới của Sophie” ( Sofies verden) của Jostein Gaarder viết năm
1991, được Nxb Thế giới dịch ra tiếng Việt, xuất bản tại Hà Nội năm 2015.
- “Lịch sử phát triển văn minh nhân loại - văn minh phương tây”, bản
tiếng Việt, C.Brinton, B.Christopher, RL.Wolff, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội - 1998.
- “Câu chuyện triết học” của Bryan Magee, bản tiếng Việt, Nxb
Thống kê, Hà Nôi - 2003 .
Các công trình trên đây đã trình bày một cách khá chi tiết về cơ sở
hình thành triết học I.Kant nói chung. Tác giả đã chọn lọc kế thừa những cơ
sở nào liên quan trực tiếp tới sự hình thành quan niệm về chủ thể nhận thức
trong triết học của ông.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH ĐỀ CẬP TỚI NỘI DUNG CỦA QUAN NIỆM
CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG TRIẾT HỌC I.KANT

Tác giả luận án đã kế thừa một số công trình tiêu biểu sau đây:


5

1.2.1. Nhóm các công trình của tác giả trong nước
- “Triết học I.Kant” của Trần Thái Đỉnh, Nxb Văn mới xuất bản lần đầu
tiên năm 1969, Công ty sách Thời đại và Nxb Văn học tái bản năm 2014.
- “Bốn cây đại thụ của triết học phương Tây cận đại Descarter, I.Kant,
Hegel, Marx” của Lê Tử Thành viết khoảng năm 1975, được Nxb trẻ tái
bản tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2014.
- “Vấn đề tính chủ quan trong triết học phương Tây hiện đại” của Đỗ
Minh Hợp, Tạp chí Triết học, số 1 tháng 2/1996.
- “I.Can-tơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức” của Viện triết
học - Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội - 1997.
- “Quan niệm của I.Can-tơ về tính tích cực của chủ thể nhận thức” của
Nguyễn Trọng Chuẩn trong “I.Can-tơ người sáng lập nền triết học cổ điển
Đức”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1997.
- “Quan niệm về “Vật tự nó” của Can-tơ và đánh giá của một số nhà
triết học tiêu biểu về quan niệm đó” của Lê Công Sự trong “I.Can-tơ người
sáng lập nền triết học cổ điển Đức”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1997.
- “Phép biện chứng tiên nghiệm trong triết học Can-tơ” của Đặng Hữu
Toàn trong “I.Can-tơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức”, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội - 1997.
- “Siêu hình học - tồn tại hay không tồn tại” của Đỗ Minh Hợp, Tạp
chí Triết học, số 7 (134) tháng 7/2002 .
- “Một hướng tiếp cận đặc điểm lý luận nhận thức trong triết học cổ
điển Đức” của Lê Văn Quang trong Hội thảo khoa học Triết học cổ điển
Đức: Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học, Đại học Quốc gia Hà
Nội - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội – 2004.
- “Quan niệm của Can-tơ về bản chất và giới hạn của nhận thức” của
Dương Văn Thịnh trong Hội thảo khoa học Triết học cổ điển Đức: Những vấn
đề nhận thức luận và đạo đức học, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường Đại học

Khoa học xã hội và nhân văn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2004.
- “Lôgíc học siêu nghiệm của I.Cantơ” của Nguyễn Anh Tuấn, đăng
trên webside của viện triết học - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
- 2005.
- “Triết học Cantơ dưới nhãn quan của G.W.F.Hêghen” của Nguyễn
Chí Hiếu, Tạp chí Triết học, số 4 tháng 4/ 2005.


6
1.2.2. Nhóm các công trình của tác giả nước ngoài
- “Lô gích học biện chứng” của E.V.Ilencôv, xuất bản lần đầu tiên tại
Liên xô năm 1974, được Nxb Văn hóa thông tin dịch ra tiếng Việt và xuất
bản tại Hà Nội năm 2003.
- “Phương thức tư duy chủ thể tính của I.Can-tơ về những gợi mở của
nó đối với đương đại” - Âu Dương Khang trong Hội thảo khoa học Triết
học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học, Đại học
Quốc gia Hà Nội - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2004.
- Từ điển triết học I.Kant (A I.Kant dictionary) của Howard Caygill,
Nxb Tri thức, Hà Nội - 2013 .
Các công trình trên đây đã phân tích lý luận nhận thức của I.Kant trên
nhiều góc độ, chỉ ra những nội dung và đặc điểm nổi bật của lý luận nhận thức
của ông. Tác giả đã kế thừa những yếu tố hợp lý trong các công trình này có
liên quan đến chủ thể nhận thức.
1.3. CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁNH GIÁ VỀ QUAN
NIỆM CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG TRIẾT HỌC CỦA I.KANT

Tác giả luận án đã kế thừa một số công trình tiêu biểu sau
1.3.1. Nhóm các công trình của tác giả trong nước
- “Bốn cây đại thụ của triết học phương Tây cận đại Descarter, I.Kant,

Hegel, Marx” của Lê Tử Thành viết khoảng năm 1975, được Nxb trẻ xuất
tái tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2014.
- “I.Can-tơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức” của Viện triết
học - Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội - 1997.
- “Bản chất nhân đạo trong triết học của I.Can-tơ”, của tác giả Nguyễn
Văn Huyên trong “I.Can-tơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức”, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội - 1997.
- “Vai trò của triết học Can-tơ đối với sự phát triển của triết học” của
Đỗ Minh Hợp trong “I.Can-tơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức”,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 1997.
- “Quan niệm của Can-tơ về bản chất của nhận thức”của Vũ Văn Viên
trong “I.Can-tơ người sáng lập nền triết học cổ điển Đức”, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội - 1997.
- “Triết học cổ điển đức những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học”
Đại học khoa học xã hội và nhân văn - Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2004 .


7
- “Immanuen Can-tơ và nhận thức luận hiện đại” của Đỗ Văn Khang
trong trong Hội thảo khoa học Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận
thức luận và đạo đức học, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2004.
- “Lý luận nhận thức của I.Can-tơ thời kỳ “Phê phán” Giá trị và hạn
chế” của Trần Văn Phòng trong Hội thảo khoa học Triết học cổ điển Đức:
Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học, Đại học Quốc gia Hà Nội Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội - 2004 .
- “Phạm trù “Thực tiễn” trong triết học cổ điển Đức” của Phạm Thái
Việt trong Hội thảo khoa học Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề nhận

thức luận và đạo đức học, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2004 .
- “Immanuem Can-tơ và nền triết học hiện đại ở phương tây” của Bùi
Đăng Duy trong Hội thảo khoa học Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề
nhận thức luận và đạo đức học, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2004.
- “Con người qua lăng kính triết gia” của Lê Công Sự, Nxb Chính trị
quốc gia, năm 2012 [78].
1.3.2. Nhóm các công trình của tác giả nước ngoài
- “Hệ tư tưởng Đức” của C.Mác và Ph.Ăngghen viết vào khoảng 1845
- 1846, được Nxb chính trị quốc gia dịch ra tiếng Việt và xuất bản tại Hà
Nội năm 2004, in trong “C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập” tập 3.
- “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh và nghiệm phê phán” của V.I
Lênin viết năm 1909, bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ xuất bản tại Mát-xcơ-va
năm 1980, in trong “V.I Lê nin, toàn tập” tập 18.
- “Bút ký triết học” của V.I Lênin viết 1915 - 1916, bản tiếng Việt,
Nxb Tiến bộ xuất bản tại Mát-xcơ-va năm 1981, in trong “V.I Lê nin toàn
tập” tập 29.
- “Lịch sử phép biện chứng” tập III “Phép biện chứng cổ điển Đức”,
của Viện Hàn Lâm khoa học Liên xô viết khoảng những năm 1960, Nxb
Chính trị quốc gia dịch ra tiếng Việt, xuất bản tại Hà Nội 1998.
Các công trình trên đây đã đưa ra những đánh giá khác nhau, chỉ ra
những giá trị và hạn chế về triết học I.Kant nói chung và chủ thể nhận thức
của ông nói riêng. Tác giả kế thừa những điểm hợp lý và kế thừa cả những
tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về vấn đề này.


8
1.4. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU


Tác giả luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ trong công trình này
những vấn đề sau: Thứ nhất, phân tích làm rõ cơ sở cho sự hình thành quan
niệm về chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant. Thứ hai, tác giả cần làm rõ
chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant có những nội dung chủ yếu nào.
Thứ ba, tác giả đánh giá những giá trị, hạn chế và ý nghĩa hiện thời của
quan niệm về chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant.
Chương 2
CƠ SỞ CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM
VỀ CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG TRIẾT HỌC I.KANT
2.1. CƠ SỞ KHÁCH QUAN CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM VỀ
CHỦ THỂ NHẬN THỨC CỦA I.KANT

2.1.1. Tình hình châu Âu thời kỳ Phục hưng và Cận đại
2.1.1.1. Sự xác lập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở châu
Âu và yêu cầu giải phóng con người
Thế kỷ XVIII, sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
trở thành một xu thế lịch sử không gì ngăn cản được. Điều này đòi hỏi phải giải
phóng con người để giải phóng sức sản xuất. Giai cấp ở vị trí trung tâm của
thời đại lúc này là giai cấp tư sản, họ mới chỉ nhìn thấy kinh tế hàng hóa đang
bùng nổ lúc này là kết quả của sản xuất máy móc có tổ chức, mà chưa thấy nó
là kết quả của lao động sống của người công nhân. Do vậy, họ đề cao lao động
tinh thần vì chính hoạt động trí tuệ, nghiên cứu khoa học đã tạo nên máy móc.
Chủ thể nhận thức của I.Kant đã đề cao được vai trò của lao động sáng tạo ra
thế giới, tuy nhiên lao động ấy chỉ là lao động tinh thần, lao động trí óc mà thôi.
Điều kiện khách quan này lý giải vì sao quan niệm về chủ thể nhận thức của
I.Kant vừa duy tâm vừa duy vật, vừa tiến bộ vừa bảo thủ.
2.1.1.2. Thành tựu của nền văn hóa phục hưng
Phong trào văn hóa phục hưng đã khôi phục lại vị trí của con người, đòi
hỏi phải có cái nhìn khác, tiến bộ hơn về con người, đề cao con người, đề cao
tính chủ thể của con người trong mối quan hệ với tự nhiên xã hội và với chính

bản thân mình. Đây là một trong những tiền đề quan trọng thúc đẩy triết học
thời kỳ tiếp theo - thời cận đại quan tâm, nghiên cứu về con người. Triết học
I.Kant là một hiện tượng nằm trong bối cảnh phát triển văn hóa và triết học cận
đại, biểu thị những đặc điểm của một chặng đường phát triển tinh thần và văn
hóa của tây Âu.


9
2.1.2. Tình hình nước Đức từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII
2.1.2.1. Về kinh tế - xã hội
Trong bối cảnh cả châu Âu đang có bước chuyển mình mạnh mẽ sang
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì cho đến cuối thế kỷ XVIII Đức
vẫn còn là một quốc gia quân chủ phong kiến lạc hậu. Giai cấp tư sản Đức
còn non trẻ, chưa đủ mạnh, chưa có điều kiện giành chính quyền. Tuy lạc
hậu về kinh tế và chính trị nhưng nước Đức thời kỳ này lại đạt được những
thành tựu chưa từng có về văn hóa, nghệ thuật, triết học. Giai cấp tư sản Đức
chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của giai cấp tư sản tây Âu. Do đó tư tưởng
Đức cuối thế kỷ XVIII, một mặt về nội dung thì rất tiến bộ, nhưng về lập
trường tư tưởng thì lạc hậu, chỉ tiến bộ trên lập trường duy tâm mà thôi. Điều
này cho thấy tại sao chủ thể nhận thức của I.Kant có nhiều điểm tiến bộ
nhưng chưa thoát khỏi được thế giới quan duy tâm.
2.1.2.2. Tình hình giai cấp
Do những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội mà sự phân hóa giai cấp
trong xã hội Đức khi ấy diễn ra rất phức tạp. Ngoài những giai cấp, tầng lớp
xã hội cũ còn xuất hiện tầng lớp xã hội mới là tư sản và vô sản. Giai cấp tư
sản Đức nhỏ, yếu, phân tán, cái họ cần lúc này là một tư tưởng mới mang
tính khai sáng để xác lập hệ tư tưởng cho giai cấp mình. Đây cũng là điều
kiện thúc đẩy các nhà triết học đương thời, trong đó có I.Kant quan tâm đến
vấn đề con người, giải phóng con người nói chung, con người chủ thể nhận
thức nói riêng.

2.1.2.3. Cải cách tôn giáo
Do những mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân với giáo hội ở Đức rất
gay gắt nên phong trào chống giáo hội ở Đức nổ ra rất quyết liệt. Linh mục
Mắctin Luthe đã tiến hành vận động cải cách tôn giáo. Phong trào cải cách
tôn giáo với việc giải phóng con người trong tôn giáo và tín ngưỡng đã đặt cơ
sở cho sự giải phóng con người trong nhận thức. Nhận thức của con người có
cần phụ thuộc vào chúa nữa hay không? I.Kant cũng là một trong số những
nhà triết học đi tìm lời giải cho câu hỏi đó.
2.1.2.4. Phong trào Ánh sáng
Phong trào Ánh sáng dù còn nhiều hạn chế song những nhà Ánh sáng
đã lên án thần học và triết học kinh viện. Đây cũng là một nhân tố tinh thần
cộng hưởng thêm vào yêu cầu đòi tự do cho con người trong đó có tự do


10
nhận thức. Điều này đã có ảnh hưởng tới quan niệm về chủ thể nhận thức
trong triết học cổ điển Đức nói chung, trong triết học I.Kant nói riêng.
2.1.3. Tiền đề lý luận cho sự hình thành quan niệm về chủ thể
nhận thức trong triết học I.Kant
Những tiền đề lý luận trực tiếp cho sự hình thành quan niệm về chủ
thể nhận thức của I.Kant đó là từ những nhà triết học tây Âu cận đại như:
Đềcáctơ, Lốccơ, Béccơly, Hium, Lépnít, Vônphơ, Rútxô...
2.1.3.1. “Cái tôi tư duy” của Rênê Đềcáctơ
Đềcáctơ đã tạo ra một bước ngoặt trong lịch sử triết học phương tây đó
là xây dựng một một nền triết học mới về con người. Ông đưa ra luận điểm
bất hủ:“Cogito ergo sum” (Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại) . Tôi tư duy chứ
không phải là chúa tư duy nữa, con người là chủ thể của quá trình tư duy
của chính mình, mở đường cho sự giải phóng con người trong tư duy, nhận
thức. I.Kant đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những tư tưởng này. Cái tôi tư
duy là điều kiện thiết yếu cho mọi nhận thức và còn là điểm tối cao cho

toàn bộ triết học siêu nghiệm. Tuy nhiên, I.Kant không đồng ý quan điểm
của Đềcáctơ dùng tư duy để chứng minh cho sự tồn tại của “tôi”. Mặt khác,
I.Kant lên án gay gắt tư tưởng về tri thức bẩm sinh của Đêcáctơ. Chủ trương về
tri thức của I.Kant cần có đủ cả hai yếu tố trực giác giác quan và quan niệm của
trí năng, không thể thiếu yếu tố nào trong hai yếu tố này.
2.1.3.2. Siêu hình học của Gốtphrít Vinhem Lépnít
I.Kant tổng kết trào lưu duy lý kể từ học thuyết ý niệm của Platôn
đến học thuyết đơn tử của Lépnít và rút ra điểm chung về nhận thức luận
của trào lưu này là biến tư duy thành bản thể của thế giới mà không cần
đến kinh nghiệm. Vì vậy, những ý niệm về thượng đế, vũ trụ, và sự bất
tử của linh hồn chỉ là những khái niệm suông, trống rỗng, không có nội
dung, mà các nhà duy lý tưởng tượng ra rồi không chứng minh được sự
tồn tại vững chắc của những ý niệm ấy. Phương thức sử dụng lý tính như
thế là mang tính giáo điều. I.Kant đã đưa siêu hình học Lépnít - Vônphơ
trở thành đối tượng phê phán chủ yếu của “Phê phán lý tính thuần tuý”.
2.1.3.3. Thuyết giáo điều của Christian Vônphơ
Vônphơ chính là chiếc cầu nối giữa triết học Lépnít với triết học
I.Kant. Vônphơ cho rằng lý tính và tri thức đạt được nhờ lý tính là phương
tiện cơ bản để khai sáng, giáo dục và đào tạo con người. Tuy nhiên, siêu
hình học Vônphơ ngày càng biến thành tổ hợp những “tư tưởng duy lý” tầm
thường, phổ thông và ngày càng trở nên lỗi thời so với khoa học và thực tiễn


11
đương thời. Những mâu thuẫn và hạn chế trong triết học của ông đã trở
thành đối tượng phản tư triết học. Chính vì vậy, Vônphơ đã tạo ra những
tiền đề lý luận cho việc xây dựng các cách tiếp cận mới, phi truyền thống
nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản của triết học. I.Kant là người chịu ảnh
hưởng trực tiếp từ xu hướng đó.
2.1.3.4. Lý luận về kinh nghiệm của Giôn Lốccơ

Lý luận nhận thức của Lốccơ có mục tiêu: khảo sát nguồn gốc, sự vững
chắc, các ranh giới và phạm vi của tri thức con người, đây cũng chính là
những mục tiêu mà I.Kant theo đuổi. Lốccơ cho rằng kinh nghiệm là nguồn
gốc của mọi tri thức, gồm kinh nghiệm bên ngoài và kinh nghiệm bên trong.
Kinh nghiệm bên ngoài là nhận thức cảm tính, kinh nghiệm bên trong là nhận
thức lý tính. Tuy nhiên, ông lại tách biệt hai giai đoạn nhận thức này, quan
điểm của Lốccơ đã trở thành hai xu hướng duy cảm và duy lý đối lập nhau
ở thế kỷ XVIII, sự tuyệt đối hóa giữa chúng đã khiến lý luận nhận thức đi
vào ngõ cụt. Các nhà duy vật Pháp phát triển các yếu tố duy vật trong tư
tưởng của ông, trong khi đó các nhà duy tâm trong đó có I.Kant lại tìm cách
kế thừa và đẩy những yếu tố chủ quan thuần túy đến mức phi lý.
2.1.3.5. Thuyết duy tâm chủ quan cực đoan của Gioóc Beccơly
Béccơly đã chứng minh nguồn gốc hoàn toàn chủ quan của mọi sự vật
trong thế giới, coi chúng chỉ là sự hiện thân của cảm giác con người. Ông
coi toàn bộ thế giới chỉ là tổ hợp các cảm giác của con người. Ông là một
đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan cực đoan, song quan
điểm của ông cũng đóng vai trò trong việc phê phán sự bất lực và hạn chế
của triết học và khoa học ở tây Âu đương thời. Lúc này siêu hình học duy lý
đang thống trị ở châu Âu vẫn hoàn toàn tin vào những nhận thức hiển nhiên
mang đậm tính giáo điều. Trong bối cảnh đó, I.Kant xem triết học của mình
như là con đường thứ ba giữa thuyết giáo điều và thuyết hoài nghi, giữa
thuyết duy lý và duy nghiệm, ông tự nhận học thuyết của mình là “duy tâm
siêu nghiệm”.
2.1.3.6. Thuyết hoài nghi của Đavít Hium
Đối với Hium sự tồn tại của thế giới là một câu hỏi lớn, nếu không có
con người liệu có thế giới không? Việc không tin tưởng vào thế giới bên
ngoài là có thực đã dẫn Hium tới chủ nghĩa hoài nghi. Thuyết hoài nghi của
Hium đã giúp I.Kant sực tỉnh khỏi giấc mộng giáo điều. Tiếp nhận Hium,
I.Kant thấy cần phải xem xét lại tính đúng đắn của tất cả những tri thức mà



12
nhân loại đã có từ trước đến nay. Do vậy, ông đã tiến hành phê phán nền siêu
hình học cũ theo con đường của riêng mình - phê phán lý tính thuần túy.
2.1.3.7. Tư tưởng phản duy lý của Rútxô
Rútxô là đại diện tiêu biểu cho tư tưởng phản duy lý ở thế kỷ XVIII, ông
phê phán mạnh mẽ các hình thức xã hội nhân tạo và giả tạo do lý tính con
người lập ra vì chính chúng đã làm tha hóa bản tính sâu xa nhất của con người.
Tư tưởng của Rútxô đã làm I.Kant trăn trở suy tư tìm tự do cho con người. Có
thể coi I.Kant nằm trong sự kế thừa tư tưởng phản duy lý nhưng theo một chiều
hướng khác, chiều hướng phê phán lý tính. I.Kant đã cố gắng đưa lý tính về
quỹ đạo khoa học chứ không chỉ đơn thuần là chống lại lý tính.
Trên đây là những nhà tư tưởng để lại dấu ấn sấu đậm nhất trong triết
học của I.Kant nói chung và lý luận nhận thức của ông nói riêng. Tuy nhiên
cần hiểu rằng triết gia Đức vĩ đại này không chỉ chịu ảnh hưởng của duy
nhất các nhà triết học này mà triết học I.Kant là kết tinh của triết học
phương tây từ cổ đại đến trung đại, phục hưng và cận đại.
2.1.4. Tiền đề khoa học
Thuyết nhật tâm
Trong thiên văn học, mô hình địa tâm là lý thuyết cho rằng trái đất là
trung tâm của vũ trụ và mặt trời cùng các thiên thể khác quay quanh nó, trái
đất là sản phẩm của chúa trời. Con người sống theo sự sắp đặt của chúa,
đánh mất vai trò chủ thể của mình. Vào thế kỷ XVI, Côpécníc đưa ra thuyết
nhật tâm, giả thuyết rằng trái đất quay quanh trục của nó và quay xung
quanh mặt trời như là các hành tinh khác, và trái đất không phải là lớn lắm
trong hàng trăm các thiên thể. Con người không phải là trung tâm của mọi
sự vật nữa, và sự vật không phải xoay tròn xung quanh chúng ta. Tiếp đó,
Brunô, Kêplê, Galilê và Niutơn đã chứng minh giả thuyết đó là đúng. Khi trái
đất không được coi là trung tâm của vũ trụ thì nhiều người cảm thấy hoài
nghi cái lý thuyết cho rằng sự tồn tại của toàn thể vũ trụ là vì mục đích liên

quan tới con người. Từ đó bắt đầu lan nhanh sự hoài nghi về sự hiện hữu của
thượng đế.
Vai trò của thuyết nhật tâm đối với sự hình thành quan niệm về chủ
thể nhận thức trong triết học I.Kant.
Về mặt triết học thì thuyết nhật tâm là một bước tiến thực sự từ duy
tâm sang duy vật, từ chủ quan sang khách quan. Qua đó, I.Kant đã nhận
thấy sức mạnh to lớn của con người, con người mới chính là chủ thể của
quá trình nhận thức. Khoa học có thể cung cấp một sự chứng minh hoàn


13
chỉnh và chính xác về tất cả các sự vật hiện tượng thì có còn cần đến thượng
đế nữa hay không? Làm sao niềm tin vào thượng đế có thể hòa giải được
với những khám phá khoa học? Làm sao đạo đức có thể lên tiếng trong một
thế giới bị chi phối bởi các quy luật khoa học? Làm sao có được ý chí tự do
trong vũ trụ tất định? Rất nhiều nhà triết học đã đi trả lời những câu hỏi đó,
trong đó có I.Kant.
2.2. NHÂN TỐ CHỦ QUAN CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM VỀ
CHỦ THỂ NHẬN THỨC CỦA I.KANT

2.2.1. Immanuel Kant và sự nghiệp của ông
2.2.1.1. Immanuel Kant
Immanuel Kant sinh năm 1724 trong một gia đình trung lưu gốc
Scốtlen tại Kôningbơc. Đây là một thành phố cảng, là kinh đô của Đông
phổ và trung tâm của giới trí thức nói tiếng Đức. Vì vậy, dù suốt đời không
ra khỏi thành phố quê hương nhưng Kant vẫn có điều kiện để tiếp xúc với
nhiều nền văn hóa và luồng tư tưởng của thời đại. Thuở nhỏ ông chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ tôn giáo bởi ông có một người mẹ rất mộ đạo. Nhưng khi
trưởng thành những tri thức khoa học đã khiến ông nhận ra những điều
cuồng tín, phi lý trong tôn giáo. Đây chính là nguyên nhân tạo nên nhiều

mâu thuẫn trong chủ thể nhận thức của ông. Ông đạt được những vinh dự
lớn lao trong sự nghiệp, song hầu hết các vinh quang này đều đến muộn.
Cuộc đời ấy tự lập và sống một mình đã ít nhiều đã tạo nên nét đặc thù độc
đáo trong triết học của I.Kant nói chung và quan niệm của ông về chủ thể
nhận thức nói riêng.
2.2.1.2 Khái lược sự nghiệp của I.Kant
Lịch sử phát triển tư tưởng triết học của I.Kant được chia làm hai thời
kỳ: thời kỳ tiền phê phán (1745 - 1769) và thời kỳ phê phán (1770 - 1804).
Thời kỳ tiền phê phán, I.Kant chịu ảnh hưởng của triết học Lépnít, Vônphơ
và quan niệm duy vật siêu hình của Đềcáctơ, Niutơn. Triết học của ông chủ
yếu là miêu tả và minh họa thế giới, chứa đựng nhiều yếu tố duy vật. Thời
kỳ phê phán, từ năm 1770 trở đi, do chịu ảnh hưởng của nhiều biến động xã
hội và chịu tác động của những tư tưởng triết học mới: Lốccơ, Hium,
Béccơly,… và các quan điểm chính trị xã hội của các nhà Khai sáng Pháp,
I.Kant đã chuyển từ triết học miêu tả, minh họa thế giới sang triết học phê
phán với mục đích lấy con người và những băn khoăn trong đời sống của
con người làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu.
2.2.2. Vấn đề con người trong triết học của I.Kant


14
I.Kant có cách tiếp cận vấn đề con người một cách mới mẻ chưa từng
có, bằng cách đặt ra cho triết học phê phán của mình ba câu hỏi lớn: Tôi có
thể biết được gì?, Tôi phải làm gì?. Tôi có thể hy vọng vào cái gì? Đây là
ba câu hỏi phản ánh ba mối quan hệ giữa con người với thế giới: nhận thức,
đạo đức, thẩm mỹ. Trả lời được 3 câu hỏi lớn này sẽ trả lời được “Con
người là gì?”. Câu trả lời của I.Kant đã đưa con người về quỹ đạo của ba
giá trị vĩnh cửu Chân - Thiện - Mỹ. Ở cả ba lĩnh vực này con người đều thể
hiện mình là chủ thể: chủ thể nhận thức, chủ thể đạo đức, chủ thể thẩm mỹ.
Con người là sự thống nhất giữa Cái Chân lý, Cái Thiện và Cái Đẹp - Cái

Cao cả. Ông bắt đầu công cuộc giải phóng và truy tìm hạnh phúc cho con
người bắt đầu bằng việc khẳng định con người là chủ thể nhận thức.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của tây Âu cận đại nói
chung và nước Đức nói riêng, các quan điểm của các nhà triết học cận đại,
thuyết nhật tâm là cơ sở khách quan tạo nên quan niệm về chủ thể nhận
thức trong triết học I.Kant. Cuộc đời nhiều khác biệt và trí tuệ uyên bác
chính là nhân tố chủ quan cho việc hình thành quan niệm này ở ông.
Chương 3
CHỦ THỂ NHẬN THỨC
TRONG TRIẾT HỌC I.KANT - NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU
3.1. KHÁCH THỂ, CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG TRIẾT HỌC I.KANT.
QUAN NIỆM CỦA ÔNG VỀ CHỦ THỂ NHẬN THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ

3.1.1. Khách thể, chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant
Sự phân chia ra thành khách thể và chủ thể nhận thức là một bước tiến
trong lý luận nhận thức, đặc điểm này bộc lộ rõ nhất ở thời cận đại. Song
chỉ đến I.Kant tính tích cực của chủ thể nhận thức mới được đề cập đến một
cách sâu sắc. I.Kant đã chuyển trọng tâm từ khách thể, từ đối tượng nhận
thức sang bản thân chủ thể nhận thức. Từ đó ông đã làm sáng tỏ được vai
trò của chủ thể nhận thức, ông nhấn mạnh tới tính tích cực của hoạt động ý
thức của con người - chủ thể nhận thức.
3.1.2. Quan niệm của I.Kant về chủ thể nhận thức
I.Kant chia thế giới làm hai là thế giới hiện tượng và thế giới “Vật tự
nó”. I.Kant cho rằng, con người chỉ nhận thức được những đối tượng trong
thế giới hiện tượng, không thể nhận thức được thế giới “Vật tự nó”. Lý tính


15
dễ đi vượt quá giới hạn cho phép của nó, đi nhận thức những thứ mà bản thân

nó không đủ khả năng. Do vậy, I.Kant thấy cần phê phán lý tính thuần túy,
đưa lý tính về đúng quỹ đạo của nó. Lý tính ở đây cần được hiểu theo cả hai
nghĩa: lý tính theo nghĩa hẹp là nấc thang cao nhất trong quá trình nhận thức
của con người; lý tính theo nghĩa rộng là toàn bộ quan năng nhận thức của
con người. Theo I.Kant, đối tượng của nhận thức là do những hình thức
tiên nghiệm và các phạm trù của giác tính con người tạo nên. Từ đó, con
người với tư cách là chủ thể nhận thức chỉ nhận thức được những gì mà
nó sáng tạo ra. Nhận thức đúng đắn được quyết định không phải bằng
khách thể mà phải bằng chủ thể.
Quan niệm về chủ thể nhận thức của I.Kant đã ảnh hưởng sâu sắc lên
triết học Hêghen và triết học Mác, Lênin. Dù phê phán I.Kant, nhưng quan
niệm về chủ thể nhận thức của ông là gợi mở không thể thiếu đối với lý
luận nhận thức của triết học Hêghen và Mác - Lênin.
3.1.3. Vai trò của chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant
Nếu hiểu chủ thể nhận thức là lý tính theo nghĩa rộng (toàn bộ quan
năng nhận thức của con người) thì nó có vai trò đưa con người thoát khỏi sự
mò mẫm trong việc khám phá thế giới. Ông đã đặt con người vào đúng vị
trí của nó trong sự tồn tại, vận động của thế giới khách quan, giúp con
người tìm lại chỗ đứng xứng đáng của mình trong thế giới.
Nếu hiểu lý tính theo nghĩa hẹp - là nấc thang cao nhất của quá trình
nhận thức thì vai trò của lý tính ở đây là vạch thảo cho nhận thức một
phương pháp khả dĩ, phương pháp ông nói tới là phương pháp siêu nghiệm,
tức là phương pháp tìm, chỉ ra các điều kiện, phương tiện đảm bảo cho nhận
thức có thể diễn ra suôn sẻ. Đối với I.Kant thì nhận thức đã từ “tự nó” cần
phải chuyển thành “cho nó”, “cho ta”, tức phải từ chỗ hướng ra các đối
tượng bên ngoài thành hướng vào trong chính ý thức.
3.2. CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG TRIẾT HỌC I.KANT ĐƯỢC XÂY
DỰNG THÔNG QUA PHƯƠNG PHÁP PHÊ PHÁN

Lý luận nhận thức trước I.Kant đã rơi vào khủng hoảng do sự đối lập

giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy cảm. Để giải quyết cuộc khủng
hoảng này, I.Kant đặt cho mình nhiệm vụ phân tích có phê phán năng lực
nhận thức của con người, xây dựng một nền triết học mới thông qua cách
tiếp cận phê phán. Theo I.Kant, phê phán ở đây là phê phán năng lực lý tính
nói chung đối với mọi tri thức mà nó có thể vươn tới một cách không phụ


16
thuộc vào kinh nghiệm. Bằng con đường tự vận hành của lý tính, người ta
đi đến những luận điểm siêu hình học không có cơ sở. Do vậy, ông coi lý
tính như một tòa án thẩm định tất cả những tri thức mà con người có được
từ trước đến nay. Với cách đặt vấn đề như vậy, I.Kant đã dùng phương pháp
phê phán để xây dựng quan niệm về chủ thể nhận thức.
3.3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG
TRIẾT HỌC I.KANT

3.3.1. Chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant mang tính tích cực,
năng động, sáng tạo trên nền tảng thế giới quan nhị nguyên luận
Tính tích cực, năng động, sáng tạo của chủ thể nhận thức được thể hiện
ngay từ cách đặt vấn đề của I.Kant đối với triết học thời kỳ “phê phán”.
Ông đã chuyển trọng tâm nghiên cứu từ khách thể nhận thức sang chủ
thể nhận thức. Như vậy, từ chỗ con ngươi thụ động tiếp nhận các tác động
của thế giới hiện thực khách quan thì I.Kant cho rằng con người cần chủ
động sử dụng các công cụ nhận thức để khám phá và kiến tạo nên thế giới
đó, do vậy đối tượng nhận thức phải phù hợp với tri thức của con người.
Các giai đoạn nhận thức.
- Giai đoạn trực quan cảm tính. Theo I.Kant có hai dạng trực quan:
trực quan kinh nghiệm và trực quan thuần túy. Trong đó, thời gian, không
gian được ông cho là một dạng trực quan thuần túy. Tức là không gian, thời
gian đã bị I.Kant tách ra khỏi vật chất trở thành hình thức chủ quan của năng

lực cảm tính vốn có sẵn của con người. Ông đã gắn liền không gian và thời
gian với hoạt động của chủ thể. Do vậy, chủ thể nhận thức có thể chủ động
nhận thức sự vật ở thế giới hiện tượng.
- Giai đoạn giác tính. Ở trình độ này, giác tính (trí năng) - đó chính là tư
duy với hệ thống các khái niệm và các phạm trù của mình - đã thực hiện các
phán đoán để xây dựng đối tượng nhận thức. Đây chính là ngọn nguồn của
tri thức khoa học, phổ quát. I.Kant đưa vào lý luận nhận thức một nguyên
tắc rất quan trọng là nguyên tắc chủ động tích cực của chủ thể nhận thức.
- Giai đoạn lý tính. Năng lực lý tính không thể trực tiếp vận dụng vào
đối tượng cụ thể và kinh nghiệm cảm tính mà chỉ vận dụng vào khái niệm,
phán đoán và quy lụât của giác tính, công cụ nhận thức của lý tính là các ý
niệm. Ở đây I.Kant đã đưa ra những ý niệm chủ yếu của lý tính: ý niệm về
tâm lý học, về vũ trụ học, về thần học. Đây là các đối tượng thuộc thế giới


17
“Vật tự nó”. I.Kant đi đến kết luận, nhận thức lý tính của con người không
thể đạt tới thế giới “Vật tự nó”, nhưng chúng ta vẫn có thể suy tưởng về nó.
3.3.2. Chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant đã đặt ra vấn đề về
lôgic biện chứng
Lôgic hình thức không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển khoa học
và triết học đương thời, dó đó I.Kant thấy cần xây dựng một lôgic học mới, đó
là lôgic học siêu nghiệm. Từ đây ông đã đặt ra vấn đề về lôgic biện chứng. Mặc
dù I.Kant chưa xây dựng hoàn chỉnh lôgic biện chứng, song thông qua lôgic
siêu nghiệm ông đã vạch ra sự thống nhất giữa cái tiên nghiệm và cái kinh
nghiệm. Ông có công lao lớn trong việc phê phán chủ nghĩa giáo điều, qua
đó phê phán phương pháp tư duy siêu hình. Có thể nói ông là thủy tổ của
phép biện chứng duy tâm tiên nghiệm, nhờ những đóng góp của ông mà
Hêghen đã xây dựng phép biện chứng trở thành khoa học và sau này được
C.Mác cải tạo thành phép biện chứng duy vật.

3.3.3. Chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant là con người cá
nhân tư biện, phi lịch sử
I.Kant đã tách biệt một cách tuyệt đối giữa tiên nghiệm - hậu
nghiệm. I.Kant thực sự không biết đến kinh nghiệm nào khác ngoài kinh
nghiệm cá nhân. Ông cũng không đề cập đến kinh nghiệm được lưu lại
trong ký ức loài người, trong nền văn hóa nhân loại. Do vậy, ông chỉ
nhìn thấy cái tiên nghiệm tuyệt đối được chuyển từ cá nhân sang cá nhân
mà tuyệt nhiên không thể thấy cái tiên nghiệm tương đối được truyền
đến ý thức mỗi cá nhân thông qua kinh nghiệm xã hội. Do đó, chủ thể
nhận thức trong triết học I.Kant là “chủ thể siêu nghiệm”. Chủ thể ấy có
thể tạo ra tri thức phổ quát và tất yếu nhờ những năng lực “ở trong tôi”
mà không cần liên hệ hữu cơ với thế giới hiện thực.
3.3.4. Chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant mang tính bất khả tri
I.Kant cho rằng chủ thể nhận thức chỉ có thể nhận thức được thế
giới hiện tượng, không thể nhận thức được thế giới “Vật tự nó”. Ông
rơi vào thuyết bất khả tri, tuy nhiên bất khả tri của ông không tầm
thường. Bởi lẽ, thuyết bất khả tri của I.Kant không phải là hạ thấp khả
năng nhận thức của con người mà là thể hiện khát vọng nhận thức
không có điểm dừng. Hơn thế, bất khả tri của I.Kant trong bối cảnh xã hội
đương thời lại mang giá trị tích cực. Vì ông đã chuyển các ý niệm về linh


18
hồn, vũ trụ, thượng đế sang thế giới “Vật tự nó”. Những thực thể mà con
người hoàn toàn không có một chút kinh nghiệm nào, vậy có thể khẳng định
nó tồn tại hay không? Như vậy tất cả những lý thuyết về linh hồn, vũ trụ,
thượng đế trước đây là giáo điều, thiếu cơ sở. Đây là một cách làm khác lạ
của I.Kant chống lại các quan điểm thiếu cơ sở của nền siêu hình học cũ.
3.3.5. Chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant thống nhất với chủ
thể nhận thức và chủ thể thẩm mỹ

Mối quan hệ của chủ thể nhận thức với chủ thể đạo đức
I.Kant đề cao vai trò hàng đầu của lý tính thực hành so với lý tính
lý luận. Theo ông, tri thức chỉ có giá trị trong trường hợp nó giúp đỡ cho
con người trở nên có tính người hơn và đem lại cho con người một cơ sở
đạo đức vững chắc để thực hiện lý tưởng về cái Thiện - tối cao.
Mối quan hệ của chủ thể nhận thức với chủ thể thẩm mỹ
“Phê phán lý tính thuần túy” có đối tượng là vũ trụ và vạn vật, cuốn
“Phê phán lý tính thực hành” có đối tượng là tự do và hành vi đạo đức của
con người, đây là hai lĩnh vực xa cách nhau như “trời và đất”. Chính trong
tình thế ấy, chủ thể thẩm mỹ đóng vai trò là cầu nối giữa chủ thể nhận thức và
chủ thể đạo đức. Trong quan niệm về con người thẩm mỹ, I.Kant làm sáng tỏ
bằng cách nào một con người có thể thực sự là chủ nhân của cuộc sống của
chính họ trong thế giới này, không phải theo cách tiêu cực và chuyên quyền,
mà giống như một nghệ sỹ sáng tạo.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant có một vai trò to lớn đối
với sự phát triển của lý luận nhận thức. Chủ thể nhận trong triết học
I.Kant có những đặc điểm riêng. Đó là chủ thể năng động sáng tạo, đặt
ra vấn đề về lôgic biện chứng; là con người cá nhân phi lịch sử; là chủ
thể bất khả tri; là chủ thể gắn với chủ thể đạo đức và thẩm mỹ.


19
Chương 4
GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI
CỦA QUAN NIỆM VỀ CHỦ THỂ NHẬN THỨC
TRONG TRIẾT HỌC I.KANT
4.1. GIÁ TRỊ CỦA QUAN NIỆM VỀ CHỦ THỂ NHẬN THỨC TRONG
TRIẾT HỌC I.KANT


4.1.1. Quan niệm về chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant gợi
mở không thể thiếu cho lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin
Mấu chốt cuộc cách mạng trong nhận thức luận mà I.Kant thực hiện là
thay vì trước nay chủ thể bị động hướng tới đối tượng thì nay “bắt” đối tượng
phải hướng về mình, phải phù hợp với quan niệm của mình về nó. Nghĩa là con
người phải được coi là chủ thể nhận thức tích cực, chủ động, sáng tạo thì mới
có tiền đề để giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học là “quan hệ giữa tư
duy và tồn tại”. Tiếc là ông đã trả lời sai rằng con người quan hệ với thế giới
bên ngoài thông qua nhận thức, đạo đức và thẩm mỹ. Nhưng chính sai lầm này
đã gợi mở cho C.Mác tìm ra câu trả lời đúng. Đó là thực tiễn bởi lẽ, nhận thức,
đạo đức, thẩm mỹ cũng có nguồn gốc từ hoạt động thực tiễn của con người. Do
vậy, ý nghĩa lớn nhất của quan niệm chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant là
ở sự gợi mở không thể thiếu cho triết học C.Mác về chủ thể nhận thức.
4.1.2 Quan niệm về chủ thể nhận thức của I.Kant chứa đựng
những yếu tố biện chứng
Công lao của I.Kant là ở chỗ, ông đã vạch ra mâu thuẫn biện chứng
giữa cái hữu hạn và cái vô hạn, tất yếu và tự do, phân chia và không phân
chia được...Học thuyết về antinômi của I.Kant đã tiếp cận được bản chất
biện chứng của hoạt động động nhận thức nhân loại và quy luật biện chứng
của lý tính nhân loại. Ngoài ra, chính những yếu tố biện chứng của ông còn
chứa đựng các mầm mống của phép biện chứng duy vật.
4.1.3. Quan niệm về chủ thể nhận thức của I.Kant thể hiện giá trị
nhân văn, nhân đạo sâu sắc
Giá trị nhân văn, nhân đạo trong quan niệm về chủ thể nhận thức của
I.Kant thể hiện ở những nội dung sau:
Một là, con người được tự do nhận thức và sáng tạo.
Trong suốt thời kỳ trung cổ, nhận thức của con người phụ thuộc vào chúa.
Các nhà khai sáng trong đó có I.Kant đã dành lại vai trò là chủ thể nhận thức
cho con người. Ông đã chuyển thượng đế sang thế giới “Vật tự nó”, do đó bằng
lý tính không thể khẳng định thượng đế có tồn tại hay không, như vậy các quan

điểm về thượng đế trước đây đều là giáo điều, thiếu cơ sở. Bằng cách này


20
I.Kant đã tách thượng đế ra khỏi những kết luận khoa học. Tuy nhiên ông lại
khẳng định chính đức tin mới là cái khẳng định được thượng đế tồn tại hay
không, thượng đế là một tiên đề đạo đức. Sự nhân đạo của ông không chỉ ở chỗ
ông trả lại sự tự do cho con người trong nhận thức và sáng tạo mà còn ở chỗ
ông cứu vớt được niềm tin tôn giáo khỏi những đả kích của khoa học. Sự thỏa
hiệp này là dễ hiểu và chấp nhận được. Hơn nữa sự thỏa hiệp này cũng là vì
con người. Đó cũng là tinh thần nhân văn của I.Kant.
Hai là, chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant không tách rời chủ thể
đạo đức và chủ thể thẩm mỹ.
Nếu tách con người với tư cách là chủ thể nhận thức ra khỏi con người
đạo đức và con người thẩm mỹ thì chúng ta sẽ làm nghèo đi giá trị nhân văn
trong triết học của I.Kant, và cũng không thể hiểu hết được giá trị nhân văn
trong chủ thể nhận thức của I.Kant nói riêng.
I.Kant quan tâm đến vấn đề vai trò hoạt động cải tạo của con người với tư
cách là chủ thể của thế giới, vì con người bản chất là thực thể hoạt động tích
cực. Bản chất này được biểu hiện đầy đủ nhất trong lĩnh vực đạo đức. Mặt
khác, thông qua việc coi con người là tiêu chuẩn của Cái Đẹp, là mục đích tối
hậu của tự nhiên, I.Kant đã có lời giải cho câu hỏi “Tôi có thể hy vọng vào cái
gì?” - Tôi có thể hy vọng vào chính bản thân con người với sức mạnh lý tính
và trí tưởng tượng phong phú của họ. Quan điểm của I.Kant đặt nền móng cho
một một nền dân chủ tư sản, pháp luật tư sản, đạo đức và mỹ học tư sản.
Ba là, chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant thể hiện một cách độc
đáo sự đề cao trí tuệ con người của ông
Quan điểm bất khả tri của I.Kant là một cách đề cao trí tuệ con người
hết sức độc đáo. V.I.Lênin cho rằng I.Kant không phải là không có lý khi đưa
ra vấn đề “Vật tự nó” và hiện tượng luận và vấn đề nghịch lý của nhận thức.

Bởi lẽ, nhận thức là một quá trình vừa vô hạn vừa hữu hạn. Nó vô hạn vì gắn
với lịch sử nối tiếp nhau vô tận của loài người. Nó hữu hạn, vì đặt trong khả
năng của mỗi cá nhân, mỗi thời đại , vì vậy khi nào con người còn nhận thức
thì còn tồn tại “Vật tự nó” ( tức là những điều chưa biết).
4.2. NHỮNG HẠN CHẾ CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ CHỦ THỂ
NHẬN THỨC TRONG TRIẾT HỌC I.KANT

4.2.1. Chủ thế nhận thức của I.Kant chưa phải là chủ thể hoạt
động thực tiễn
I.Kant là một trong những người sớm nhất bàn đến phạm trù thực tiễn
trong lịch sử triết học. Nhưng thực tiễn được ông dùng để chỉ mọi hoạt
động tinh thần, từ nhận thức, đạo đức đến thẩm mỹ chứ không phải thực
tiễn lao động sản xuất của con người. Ông mới chỉ đề cao vai trò lao động


21
trong quá trình hiểu biết và xây dựng thế giới và hạn chế lao động đó trong
phạm vi tinh thần. Tức là I.Kant mới phản ánh được phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa trong giai đoạn tiền cách mạng tư sản. Ở giai đoạn này giai cấp
tư sản còn đang là trung tâm của thời đại và thể hiện nhiều mặt tiến bộ, còn
giai cấp công nhân mới đang trong quá trình trưởng thành.
4.2.2. Quan niệm về chủ thể nhận thức của I.Kant vẫn chưa thoát
khỏi hạn chế của phương pháp siêu hình
Khi phân tích những antinômi của lý tính, I.Kant đã bộc lộ những
phỏng đoán thiên tài về mâu thuẫn biện chứng. Ông vạch ra mâu thuẫn giữa
những khái niệm hữu hạn với vô hạn, đơn giản với phức tạp, tất yếu với tự
do, tất nhiên với ngẫu nhiên nhưng lại không nhận thấy sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa chúng. Rõ ràng, I.Kant lại không hiểu bản chất của các mâu
thuẫn ấy, ông coi những antinômi đó là sai lầm của lý tính. Như vậy I.Kant
mới chỉ thừa nhận mâu thuẫn trong tư tưởng, lý tính con người mà chưa

thấy được mâu thuẫn có cả trong hiện thực khách quan. Cách giải quyết
mâu thuẫn không chỉ dừng lại ở việc kết hợp từng mặt đối lập rồi kết luận
từng mặt đúng sai như ông lầm tưởng. Trên thực tế quá trình nảy sinh và
giải quyết mâu thuẫn là động lực thúc đẩy sự phát triển.
4.2.3. Chủ thế nhận thức trong triết học I.Kant được xây dựng
trên nền thế giới quan duy tâm
I.Kant từng thừa nhận có một thế giới tồn tại khách quan ở bên ngoài ta
khi đó ông là nhà duy vật. Nhưng khi ông cho rằng thế giới ấy là một thế giới
hỗn mang, lộn xộn, vô định, phải nhờ giác tính đem sắp xếp vào những cái
khuôn có sẵn, bẩm sinh của cảm năng (như không gian, thời gian) và giác tính
(như các phạm trù: lượng, chất, tương quan, hình thái) thì thế giới hỗn mang ấy
mới được định hình, lúc này I.Kant là nhà duy tâm. Chính vì vậy, các phạm trù
của I.Kant chỉ là cách nói khác đi của những ý niệm trong triết học Platôn, “ý
niệm bẩm sinh” của Đềcáctơ, hay “chân lý vĩnh cửu” của Lépnít mà thôi.
4.2.4. Quan niệm về chủ thể nhận thức của I.Kant phản ánh sự thỏa
hiệp của giai cấp tư sản Đức với chế độ phong kiến Đức đương thời
Khác với giai cấp tư sản Anh và Pháp vốn triệt để cách mạng, giai cấp
tư sản Đức ngay từ đầu đã muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc
Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết
những vấn đề phát triển đất nước. Triết học của I.Kant phản ánh chính sự nhu
nhược đó. Do vậy tư tưởng của ông về chủ thể nhận thức không tránh khỏi sự
mâu thuẫn giữa tính cách mạng và khoa học về tư tưởng với sự bảo thủ, cải
lương về lập trường chính trị - xã hội.


22
4.3. Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA QUAN NIỆM VỀ CHỦ THỂ NHẬN
THỨC TRONG TRIẾT HỌC I.KANT

4.3.1. Quan niệm về chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant đối với

việc phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của chủ thể nhận thức
Học thuyết của I.Kant thực chất là học thuyết giải phóng con người
khỏi chủ nghĩa phong kiến, nhờ sự giải phóng này giai cấp tư sản mới chiến
thắng được giai cấp phong kiến. Để phát huy được tính tích cực, năng động
và sáng tạo của chủ thể nhận thức thì trước tiên cần giải phóng con người
trong nhận thức.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa có mục đích tối cao là giải phóng triệt để
con người, trong hành trình đó chúng ta cần học hỏi được rất nhiều từ I.Kant.
Người lao động là hạt nhân quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất, để mở
đường và giải phóng cho lực lượng sản xuất thì người lao động - con người
cá nhân cần được giải phóng triệt để. Thực chất đây là sự giải phóng tư duy,
giải phóng trí tuệ, giải phóng nhân cách ra khỏi sự cầm tù của chủ nghĩa giáo
điều và chủ nghĩa quan liêu, của sự áp đặt tư tưởng và độc quyền chân lý, của
tình trạng dân chủ hình thức và chính trị hóa các hoạt động của đời sống văn
hóa tinh thần của xã hội. Chúng ta cần tôn trọng và khẳng định cá nhân như
một chủ thể mang nhân cách độc lập và sáng tạo. Nó đòi hỏi mỗi con người
phải có tư duy, phê phán, xóa bỏ tư duy trì trệ, bạc nhược, không dám thử
thách trong hiểu biết, khám phá và sáng tạo.
4.3.2. Phát triển con người nhận thức phải gắn liền với phát triển
con người đạo đức và con người thẩm mỹ
Giá trị nhân văn trong triết học I.Kant giúp chúng ta thấy tính ưu tiên, tính
quyết định của thực tiễn đối với lý luận, của ý nghĩa nhân sinh đối với lý luận
thuần túy. Chủ thể nhận thức ở triết học I.Kant không tách rời chủ thể đạo đức
và chủ thể thẩm mỹ, I.Kant hướng con người tới sự phát triển toàn diện, nếu
thiếu đi sự toàn diện này nhân cách con người sẽ trở nên lệch lạc. Quan điểm
của I.Kant có giá trị thời đại sâu sắc, bởi lẽ ngày nay chiến lược phát triển con
người ở nhiều quốc gia trên thế giới vẫn không nằm ngoài những định hướng
của ông - phát triển con người toàn diện với đủ các giá trị Chân - Thiện - Mỹ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant vừa có cả những giá trị và hạn

chế. Những giá trị to lớn mà ông mang lại đó là: chủ thể nhận thức trong triết
học I.Kant là những gợi mở không thể thiếu cho lý luận nhận thức của triết học
Mác – Lênin, là chủ thể mang tính nhân văn nhân đạo sâu sắc, là sự đề cao trí
tuệ một cách khác biệt. Những hạn chế của quan niệm này đó là: chủ thể duy
tâm, thiếu tính thực tiễn, siêu hình và còn thể hiện tính thỏa hiệp của giai cấp tư
sản với giai cấp phong kiến Đức
KẾT LUẬN


23
Thật khó mường tượng diện mạo triết học Đức thế kỷ XIX sẽ ra sao
nếu không có triết học I.Kant. Chính I.Kant, đáp ứng nhu cầu của thời đại
mình, đặt ra và giải quyết theo cách riêng của mình hàng loạt vấn đề quan
trọng có ảnh hưởng sâu sắc đến triết học tây Âu đương thời và thậm chí là
cả triết học phương tây hiện đại. Tư tưởng của ông như chính ông tự nhận
là một cuộc cách mạng Côpécníc: hướng triết học từ nghiên cứu tự nhiên
tới nghiên cứu con người như một chủ thể, từ tồn tại tới hoạt động.
Vấn đề chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant có những đặc điểm
riêng. Ông không đi theo lối mòn của triết học tây Âu khi tiếp cận vấn đề
này mà tự khai phá một hướng đi mới. Ông đã tìm xem nhận thức của con
người có những quy luật nào. Từ I.Kant con người không phải là chủ thể
nhận thức thụ động nữa mà là chủ thể nhận thức năng động, sáng tạo. Có
thể tóm lược lại đặc điểm về con người chủ thể nhận thức trong triết học
I.Kant ở những điểm sau: Việc đặt con người ở vị trí chủ thể nhận thức là
sự khẳng định sức mạnh trí tuệ to lớn của con người trong nhận thức thế
giới. Chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant mang tính tích cực, năng
động, sáng tạo trên nền tảng thế giới quan nhị nguyên luận. Chủ thể nhận
thức trong triết học I.Kant đặt ra vấn đề về lôgic biện chứng, chủ thể ấy là
con người cá nhân mang tính chung chung, trừu tượng, phi lịch sử và mang
tính bất khả tri một cách khác thường. Chủ thể nhận thức trong triết học

I.Kant không tách rời chủ thể đạo đức và chủ thể thẩm mỹ. Bởi lẽ nhận
thức, đạo đức, thẩm mỹ đều xuất phát từ thực tiễn, có gốc rễ từ thực tiễn, nó
là ba “cây cầu” nối con người với thế giới.
Chủ thể nhận thức trong triết học I.Kant có giá trị to lớn đối với lý
luận nhận thức và vấn đề con người, có thể nói nó đã góp phần giải quyết
cuộc khủng hoảng trong lý luận nhận thức đương thời, là những gợi mở
không thể thiếu cho quan niệm chủ thể nhận thức trong triết học Mác Lênin. Thông qua chủ thể nhận thức, I.Kant cũng thể hiện tinh thần nhân
văn nhân đạo sâu sắc, đối với ông con người cần được tự do nhận thức và
sáng tạo, chủ thể nhận thức gắn bó chặt chẽ với chủ thể đạo đức và chủ thể
thẩm mỹ, thông qua chủ thể nhận thức I.Kant cũng thể hiện cách đề cao trí
tuệ con người rất độc đáo của mình. Tuy nhiên I.Kant đã xây dựng quan
niệm về chủ thể nhận thức trên lập trường duy tâm chủ quan. Ông vừa đề


×