Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Đánh Giá Hiện Trạng Sử Dụng Nước Phục Vụ Cho Sản Xuất Nông Nghiệp Tại Tỉnh Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.76 KB, 68 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA MÔI TRƯỜNG
= = = =¶ ¶ ¶ = = = =

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG NƯỚC PHỤC VỤ
CHO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN TÂN YÊN
TỈNH BẮC GIANG

Người thực hiện
Lớp
Khóa
Chuyên ngành
Giáo viên hướng dẫn

:
:
:
:
:

LÊ THỊ THU TRANG
MTB
57
MÔI TRƯỜNG
PGS.TS. NGUYỄN VĂN DUNG

HÀ NỘI - 2016



HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA MÔI TRƯỜNG
= = = =¶ ¶ ¶ = = = =

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG NƯỚC PHỤC VỤ
CHO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN TÂN YÊN
TỈNH BẮC GIANG

Người thực hiện
Lớp
Khóa
Chuyên ngành
Giáo viên hướng dẫn
Địa điểm thực tập

:
:
:
:
:
:

LÊ THỊ THU TRANG
MTB
57
MÔI TRƯỜNG
PGS.TS. NGUYỄN VĂN DUNG
PHÒNG NN&PTNT HUYỆN TÂN YÊN,

TỈNH BẮC GIANG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Bản luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
thực sự của cá nhân tôi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết,
nghiên cứu khảo sát và phân tích từ thực tiễn.
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong
luận văn này là hoàn toàn trung thực, phần trích dẫn tài liệu được ghi rõ nguồn
gốc.
Hà Nội, ngày...tháng...năm 2016
Người viết cam đoan

Lê Thị Thu Trang

i


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian thực tập, rèn luyện và tu dưỡng tại Học Viện Nông
Nghiệp Việt Nam. Được sự đồng ý của Khoa Môi trường, Học Viện Nông
Nghiệp Việt Nam và sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Dung, tôi đã
thực hiện đề tài thực tập tốt nghiệp: “Đánh giá hiện trạng sử dụng nước
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp tại huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang”
Báo cáo tốt nghiệp hoàn thành ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ của các tập thể, cá nhân trong và ngoài trường. Trước
hết, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Môi Trường và toàn thể
các thầy, cô giáo trong Học viện Nông Nghiệp Việt Nam trong những năm

qua đã trang bị cho tôi những kiến thức cơ bản, hữu ích phục vụ cho việc học
tập, nghiên cứu đề tài cũng như cho công tác của tôi sau này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Văn Dung
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập để tôi hoàn
thành đề tài khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Tân
Yên, tỉnh Bắc Giang đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong quá trình điều tra
thu thập số liệu phục vụ nội dung của đề tài.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè và
người thân đã luôn bên cạnh tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong thời gian học
tập, rèn luyện tại Học viện Nông Nghiệp Việt Nam.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày...tháng...năm 2016
Người viết lời cảm ơn

Lê Thị Thu Trang

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................................................i
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất đai của huyện Tân Yên năm 2012 – 2014....................................28
(Nguồn: Niên giám thống kê 2012-2014).........................................................................................28
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ...............................................................................................29
Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động huyện Tân Yên giai đoạn 2012 – 2014...............................30
3.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội..................................................33

iii



DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 Phân cấp công trình của hệ thống kênh tưới..........Error: Reference
source not found
Bảng 1.2 Phân loại nước tưới theo hệ số dẫn điện.....Error: Reference source
not found
Bảng 3.1 Tình hình sử dụng đất đai của huyện Tân Yên năm 2012 – 2014
....................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.2 Tình hình dân số và lao động huyện Tân Yên giai đoạn 2012 – 2014
....................................................Error: Reference source not found
Bảng 3.3 Tổng hợp hiện trạng khái thác,sử dụng nguồn nước mặt theo tiểu
vùng quy hoạch..........................Error: Reference source not found
Bảng 3.4 Diện tích một số loại cây trồng chủ yếu tính đến năm 2020 của
huyện Tân Yên...........................Error: Reference source not found
Bảng 3.5 Hệ thống kênh tưới N5...............Error: Reference source not found
Bảng 3.6 Hệ thống kênh chính...................Error: Reference source not found
Bảng 3.7

Các công trình thủy lợi do địa phương trực tiếp quản lý, khai thác
....................................................Error: Reference source not found

Bảng 3.8 Hệ thống các kênh tưới nước trên địa bàn huyện...Error: Reference
source not found
Bảng 3.9 Diện tích cây trồng chính được tưới tiêu trong vụ đông xuân.Error:
Reference source not found
Bảng 3.10 Diện tích cây trồng chính được tưới tiêu trong vụ mùa...........Error:
Reference source not found
Bảng 3.11 Các kênh tiêu nước trên địa bàn huyện Tân Yên.. .Error: Reference
source not found
Bảng 3.12 Thống kê năng suất cây trồng trên địa bàn huyện từ năm 2012-2014

....................................................Error: Reference source not found

iv


v


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVMT

Bảo vệ môi trường

HTMT

Hiện trạng môi trường

UBND

Uỷ ban nhân dân

LVS

Lưu vực sông

PTBV

Phát triển bền vững

TNN


Tài nguyến nước

NN&PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

KCN

Khu công nghiệp

TN&MT

Tài nguyên và môi trường

TNHH MTV

Trách nhiệm hữu hạn một thành viên

KTCTTL

Khai thác công trình thủy lợi

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt nam hiện nay là nước có nền kinh tế đang tăng trưởng mạnh so với
khu vực. Trong đó kinh tế nông nghiệp có vai trò khá quan trọng đối với nền

kinh tế quốc dân, bởi vì vấn đề sản xuất nông nghiệp đã tạo công ăn việc làm,
ổn định đời sống cho người dân việt nam sống ở khu vực nông thôn (khoảng
73% dân số). Do vậy vấn đề đầu tư phát triển sản xuất và việc sử dụng nước
tưới tiêu hợp lý phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp là một trong những
mục tiêu đặt ra cần được giải quyết.
Cho tới nay, tưới trong nông nghiệp là ngành sử dụng nước nhiều nhất
ở việt nam, khai thác nước cho tưới vượt quá 65,5 tỉ m 3 một năm(chiếm
khoảng 80% tổng khối lượng nước sử dụng). Lúa là cây trồng chính, chiếm
trên 80% tổng diện tích tưới. Tuy nhiên, diện tích đất trồng lúa đã giảm xuống
trong những năm gần đây do sự đa dạng hóa nuôi trồng thủy sản và các loại
cây trồng khác cùng tăng trưởng kinh tế trong các ngành phi nông nghiệp,
điều này đã làm tăng nhu cầu về sử dụng tài nguyên nước có sẵn và do vậy
cần phải phân phối lại tài nguyên nước. Để đáp ứng nhu cầu về gạo ngày càng
tăng và duy trì an toàn lương thực, cần phải tăng sản lượng trồng lúa và hiệu
quả của các sản phẩm đầu vào trong sản xuất nông nghiệp - đặc biệt là nước.
Việt nam là quốc gia có hệ thống sông ngòi dày đặc với tổng lượng
dòng chảy nước mặt hàng năm lên đến 830-840 tỷ mét khối. Tuy nhiên tài
nguyên nước của ta lại phụ thuộc nhiều vào các nước có chung nguồn nước
phía thượng lưu, với gần 2/3 tổng lượng nước mặt hàng năm là từ ngoài biên
giới chảy vào. Thế nhưng, thực tế hiện nay việc lãng phí nguồn nước vẫn sảy
ra ở khắp nơi. Bên cạnh đó chất lượng nước mặt của việt nam đang có chiều
hướng ngày càng bị suy thoái ô nhiễm, cạn kiệt bởi nhiều nguyên nhân.Trong
đó, sự gia tăng dân số, gia tăng nhu cầu về nước do gia tăng chất lượng cuộc
sống đô thị hóa cũng như quản lý, bảo vệ khai thác sử dụng tài nguyên nước
kém hiệu quả, thiếu bền vững đang là mối đe dọa an ninh nguồn nước và có
nguy cơ sẽ kéo theo nhiều hệ lụy khó lường.
1


Bắc giang là một tỉnh miền núi, với tổng diện tích tự nhiên 3.823,3 km 2,

Bắc Giang cách thủ đô hà nội 50km về phía bắc cách của khẩu quốc tế Hữu
nghị -Lạng Sơn 110km về phía nam, cách cảng Hải Phòng hơn 100km về phía
đông.Phía bắc và đông bắc giáp tỉnh lạng sơn, phía tây và tây bắc giáp Hà
Nội,Thái Nguyên, phía nam và đông nam giáp tỉnh Bắc ninh, Hải Dương và
Quảng Ninh. Bắc giang có 10 đơn vị hành chính: 09 huyện và 01 thành phố
(Yên Dũng, Hiệp Hòa,Việt Yên, Lạng Giang, Yên Thế, Tân Yên, Lục Nam,
Lục Ngạn và Thành phố Bắc Giang).
Tân yên là một huyện trung du miền núi thuộc tỉnh bắc giang với diện
tích đất nông nghiệp là 21.800 ha, trong đó diện tích đất trồng lúa hàng năm
khoảng 14.000ha, chiếm 62,4% diện tích đất nông nghiệp chính vì vậy nhu
cầu nước phục vụ cho nông nghiệp là khá lớn. Để đáp ứng nhu cầu về nước
tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp thì huyện tân yên đã xây dựng một hệ
thống thủy lợi bao gồm: 78 hồ lớn nhỏ nằm rải rác trong địa bàn huyện, trữ
lượng nước thiết kế khoảng 39 triệu m 3, sông thương đoạn chảy qua huyện,
ngòi phú khê dài 36km, ngòi đa mai dài 14,5km và ngòi cầu liềng chảy qua
tân yên là 8km đều nhằm mục đích phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Xất phát từ thực tế trên và cùng với sự hướng dẫn của thầy cô trong
trường, khoa môi trường, tôi đã thực hiện đề tài: “Đánh giá hiện trạng sử dụng
nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp tại huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang”
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá được hiện trạng nước sử dụng phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp để đề xuất biện pháp quản lý và sử dụng nước hiệu quả.
3. Yêu cầu của đề tài
- Nắm được các thông tin, số liệu về đặc điểm tự nhiên – kinh tế xã hội,
đặc điểm hệ thống nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn
huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
- Thu thập các thông tin về hiện trạng nước tưới, số liệu năng suất cây
trồng trên địa bàn huyện.

2



Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở pháp luận và pháp lý
1.1.1. Cơ sở lý luận
Môi trường là thế giới bên ngoài mà chủ thể là nhân loại, tức là tổng
hợp các điều kiện vật chất mà con người dựa vào đó để sinh tồn và phát triển,
nó bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Bảo vệ môi trường hiện nay đang là vấn đề nóng của toàn cầu, không
chỉ là sự quan tâm của các nhà khoa học mà còn là của tất cả người dân.
Nguồn nước bị ô nhiễm là vecto lan truyền ô nhiễm và là một trong các
nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tật cho con người.cuộc sống của con người trở
nên khó khăn khi môi trường nước bị suy giảm về số lượng và chất lượng.
Đánh giá hiện trạng môi trường cung cấp bức tranh tổng thể về hai
phương diện: phương diện vật lý, hóa học thể hiện chất lượng môi trường và
phương diện kinh tế xã hội, đó chính là những thông báo về tác động của con
người đến chất lượng môi trường cũng như đến sức khỏe con người, kinh tế
và phúc lợi xã hội. Bản đánh giá HTMT có vai trò như là một bản“ thông
điệp“ về tình trạng môi trường, tài nguyên thiên nhiên và con người, thông
qua việc cung cấp thông tin tin cậy về môi trường để hỗ trợ quá trình ra quyết
định bảo vệ phát triển bền vững. Một trong những mục tiêu quan trọng của
việc xây dựng báo các hiện trạng môi trường là cung cấp thông tin nhằm nâng
cao nhận thức và hiểu biết của cộng đồng xã hội về tình hình môi trường,
khuyến khích và thúc đẩy việc xậy dựng, triển khai và nhân rộng các mô hình
cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường, nhằm thực hiện mục tiêu xã hội hóa
công tác bảo vệ môi trường.
Công tác đánh giá HTMT bắt đầu vào những năm cuối thập kỷ 70 của
thế kỷ trước. Nó thể hiện bằng việc lập báo cáo hiện trạng môi trường hàng
năm nhằm đáp ứng mối quan tâm của xã hội về chất lượng môi trường hàng
năm nhằm đáp ứng môi quan tâm của xã hội về chất lượng môi trường và việc

sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Ở Việt Nam, công tác đánh giá HTMT được

3


bắt đầu thực hiện từ 1994, cho đến nay hầu hết các địa phương đều phải thực
hiện công tác này.
Trong đó đánh giá hiện trang tài nguyên nước là hoạt động nhằm xác
định trữ lượng và chất lượng, tình hình khai thác sử dụng và bảo vệ tài
nguyên nước ,tìm ra các nguyên nhân gây ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng
và trữ lượng nước quốc gia. Trên cơ sở các số liệu đánh giá hiện trạng tài
nguyên nước, cơ quan nhà nước sẽ đưa ra các biện pháp cụ thể nhằm định
hướng cho các hoạt động khai thác và sử dụng tài nguyên nước, dự báo cho
các hoạt động xấu gây ảnh hưởng nghiệm trọng đến nguồn nước( Báo cáo
diễn biến môi trường Việt Nam, 2003)
Vấn đề ô nhiễm môi trường nước là một trong những thực trạng đáng
ngại nhất của sự hủy hoại môi trường tự nhiên do nền văn minh đương thời.
Môi trường nước rất dễ bị ô nhiễm, các ô nhiễm từ đất, không khí đều có thể
làm ô nhiễm nước, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người và các sinh vật
khác.
Trong quá trình sống và sản xuất, nếu như con người thải vào môi
trường một chất thải vượt quá năng lực tự làm sạch của nó thì sẽ gây ra hiện
tượng ô nhiễm môi trường. Nhân loại nếu như sử dụng không hợp lý tài
nguyên sẽ gây nên tình trạng kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên làm cho môi
trường bị hủy hoại.
1.1.2. Cơ sở pháp lý
-Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh bắc giang đến năm
2020, được thủ tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định 05/2009/QĐ-TTg
ngày 13/1/2009
- Danh mục lưu vực sông liên tỉnh, được thủ tướng chính phủ ban hành

tại quyết định số 1989/QĐ-TTg ngày 01/11/2010
- Danh mục lưu vự sông nội tỉnh, được bộ trưởng bộ tài nguyên và môi
trường ban hành quyết định số 341/QĐ-BTNMT ngày 23/3/2012

4


- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020,kế hoạch sử dụng đât 5 năm
đầu kỳ (2011-2015) tỉnh bắc giang, được hội đồng nhân dân tỉnh băc giang
thông qua tại nghị quyết số 02/NQ-HĐND ngày 12/7/2012
- Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị tỉnh bắc giang, giai
đoạn 2010-2020
- Điều chỉnh quy hoạch tỉnh thủy lợi tỉnh bắc giang giai đoạn 20052020 ,được ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang phê duyệt tại quyết định số
60/2005/QĐ-UB ngày 04/8/2005.
- Quy hoạch khai thác và sử dụng và bảo vệ bền vững tài nguyên nước
tỉnh bắc giang giai đoạn 2005-2010, được UBNDT bắc giang phê duyệt tại
quyết định số 113/2005/QĐ-UB ngày 28/12/2005.
- Quy hoạch phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn tỉnh bắc giang
tại giai đoạn 2006-2020, được UBND tỉnh bắc giang phê duyệt tại quyết định
số 52/2006/QĐ-UBND ngày 11/08/2006.
- Quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn và rau chế biến tỉnh bắc giang
năm 2020, được UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt tại quyết định số 245/QĐUBND ngày 28/12/2009
- Chiến lược bảo vệ môi trường Bắc Giang đến năm 2020, được UBND
tỉnh Bắc Giang phê duyệt tại quyết định số 495/QĐ-UBND ngày 29/12/2011
- Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của tỉnh Bắc
Giang giai đoạn 2010-2015, tầm nhìn đến năm 2020 ,được UBND tỉnh bắc
giang phê duyệt tại quyết định số 253/QĐ-UBND ngày 13/7/2011.
- Quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đến
2020, được UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt tại quyết định số 1303/QĐUBND ngày 20/9/2011.
- Quy hoạch phát triển văn hóa du lịch tỉnh Bắc Giang đến năm 2020,

tầm nhìn 2030, được UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt tại quyết định số
11/QĐ-UBND ngày 30/02/2010.

5


- Điều chỉnh rà soát quy hoạch 3 loại rừng của tỉnh Bắc Giang, được
chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt tại quyết định số 1577/QĐ-UBND
ngày 30/09/2010.
- Quy hoạch phát triển y tế tỉnh Bắc Giang đến năm 2020, được chủ
tịch UBND tỉnh phê duyệt tại quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 21/4/2009.
- Kết quả thống kê hiện trạng khai thác, sử dụng tài nguyên nước và xả
nước thải vào nguồn nước trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, được Chủ tịch UBND
tỉnh phê duyệt tại quyết định số 765/QĐ-UBND ngày 18/06/2012.
- Niên giám thống kê tỉnh Bắc Giang năm 2010 và các tài liệu liên quan
khác.
1.2. Vai trò của chất lượng nước tưới trong năng suất cây trồng
1.2.1. Nhu cầu nước tưới cho nông nghiệp
Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc, trong đó có 2.360 sông có
chiều dài lớn hơn 10km, trong đó có 109 sông chính. Toàn quốc có 16 LVS
với diện tích lưu vực lớn hơn 2.500 km 2, 10/16 lưu vực có diện tích trên
10.000 km2. Các sông chảy trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm nhiều con sông
quốc tế. Tổng diện tích lưu vực của các cong sông quốc tế này, tính cả phần
nằm trong và nằm ngoài biên giới phấn đất liền Việt Nam, khoảng 1,2 triệu
km2, lớn gấp 3 lần diện tích lãnh thổ Việt Nam. Khoảng 1,2 triệu km 2, lớn gấp
3 lần diện tích lãnh thổ Việt Nam, tổng dòng chảy năm là 835 tỷ m 3, nhưng
trong 6-7 tháng mùa khô, khi mà dòng chảy chỉ đạt cỡ 15-30% tổng dòng
chảy năm thì tình trạng thiếu nước trở nên nghiêm trọng(báo cáo diễn biến
môi trường quốc gia năm 2012).
Ở việt nam, nhu cầu nước tưới là lớn nhất. Khoảng 60% dân số việt

nam được cung cấp nước sạch dùng cho sinh hoạt của các hộ gia đình. Ngoài
ra, các ngành khác như thủy sản (bao gồm cả nuôi trồng thủy sản), công
nghiệp, thủy điện, dịch vụ và giao thông vận tải cũng có nhu cầu sử dụng
nước. Cho đến nay thì nông nghiệp vẫn tiếp tục là ngành tiêu dùng nước
nhiều nhất, trong khi đố sử dụng nước sinh hoạt và công nghiệp cũng đang
ngày càng tăng cùng với sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế.
6


Nhu cầu nước của các cây rất khác nhau, tùy theo loại cây giống, giống
cây, giai đoạn sinh trưởng, thời gian sinh trưởng, điều kiện đất đai, khí hậu,
thời tiết và kỹ thuật canh tác. Hiện nay phương pháp tưới chủ yếu ở nước ta là
tưới chảy tràn, tưới ngập. Tiêu chuẩn tưới thay đổi trong phạm vi khá rộng:lúa
vụ đông xuân 5.500-6.200 m3/ha cho đồng bằng và 5.600-6900 m3/ha cho
trung du và miền núi. Vụ mùa 5.500-6.000 m 3/ha cho đồng bằng và 5.6006900 m3/ha cho trung du và miền núi. Hoa màu cây công nghiệp 1.700-2.500
m3/ha , bông 5.000-6.000 m3/ha, khoai 4.500-6.900 m3/ha , 50 lít/ngày cho
trâu ,bò ,lợn (Báo cáo diễn biến môi trường quốc gia, 2010).
Đối với ngành nông nghiệp mặc dù hệ thống cơ sở vật chất đã được
chú trọng đầu tư, tuy nhiên còn chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ sản xuất,
hệ thống thủy lợi đã được xây dựng từ lâu, các hạng mục công trình thủy lợi
đều đã bị hư hỏng nhiều và xuống cấp, gây không ít khó khăn cho việc khai
thác sử dụng nguồn nước mặt.
Tân Yên là một tiểu vùng chuyển tiếp của vùng núi Việt Bắc và Đông
Bắc với vùng châu thổ sông hồng. Đặc điểm trên làm cho huyện Tân Yên có
địa hình đồi núi thấp, thoai thoải hướng Tây Bắc –Đông Nam, với độ cao
trung bình 10-15m so với mặt nước biển. Ở Tân Yên, đất hình thành do phong
hoá đá mẹ và do phù sa sông bồi tụ. Theo số liệu điều tra của Chi cục Thống
kê huyện, tính đến ngày 31/12/2014, tổng diện tích tự nhiên của Tân Yên
hiện nay là 20.763,36 ha, trong đó: Đất nông nghiệp chiếm 62,3%, đất phi
nông nghiệp chiếm 36,1%, đất chưa sử dụng chiếm 1,6%. Diện tích đã được

điều tra lập bản đồ thổ nhưỡng là 16.018 ha chiếm 77,14% tổng diện tích tự
nhiên. Chất lượng đất hầu hết là do phong hóa đá mẹ và phù sa sông bồi tụ, có
tính lý hóa hợp cho cây lúa và các cây trồng màu lương thực phát triển tốt,
cùng với quy mô diện tích, các điều kiện về cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy
lợi,..) trình độ dân trí, ở đây đã hình thành vùng chuyên canh sản xuất lương
thực cao sản, kể cả việc sản xuất giống lúa lai. Những năm qua, do được giao
ổn định lâu dài cho hộ nông dân, người dân đã thực sự làm chủ trên mảnh đất
của mình nên đã yên tâm đầu tư, thâm canh, tăng vụ, ứng dụng các tiến bộ
7


khoa học- kỹ thuật về giống, phân bón, bảo vệ thực vật, đặc biệt là việc thay
đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ nên năng suất, sản lượng những năm qua đã
tăng lên đáng kể. Tân Yên là một trong những tỉnh làm tốt công tác thủy lợi
từ nhiều năm qua. Đất trồng lúa và các cây rau màu hầu hết đã được tưới, tiêu
chủ động bằng công trình.
1.2.2. Hệ thống cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp
Hệ thống cấp nước cho sản xuất nông nghiệp còn gọi là hệ thống thủy
lợi là một hệ thống liên hoàn từ công trình đầu mối hồ chứa, đập dâng, trạm
bơm... đến công trình kênh mương các cấp để dẫn nước tưới tiêu phục vụ sản
xuất nông nghiệp, đảm bảo cấp nước cho cây trồng khi thiếu nước và tiêu
thoát nước kịp thời cho cây trồng khi thừa nước nhằm thỏa mãn yêu cầu nước
cho cây trồng phát triển tốt và cho năng suất cao.Thực tế, hệ thống nông
nghiệp thường là hệ thống đáp ứng yêu cầu tổng hợp lợi dụng cho nhiều
ngành khác nhau, không chỉ giải quyết cấp thoát nước cho nông nghiệp mà
còn phải giải quyết cấp thoát nước cho nhiều ngành kinh tế quốc dân khác
như cấp thoát nước sinh hoạt, công nghiệp, phát điện, chăn nuôi, giao thông
thủy, cải tạo môi trường...
Hệ thống thủy lợi bao gồm: hồ chứa, đập dâng, trạm bơm tưới, tràn xả
lũ, cống lấy nước có nhiệm vụ phối hợp một cách hợp lý nhất yêu cầu cấp

thoát nước của hệ thống với nguồn nước.Tùy theo từng trường hợp cụ thể để
quyết định các hình thức, quy mô công trình. Mạng lưới kênh mương có
nhiệm vụ dẫn nước từ công trình đầu mối về ruộng, đây là hệ thống xương
sống của hệ thống tưới. Kênh thường làm bằng đất hay xây đá, gạch. Hệ
thống kênh tưới có nhiều cấp, tùy thuộc quy mô hệ thống mà số cấp nhiều hay
ít, nhiều nhất có thể đến 5 cấp, ít nhất là 2 cấp (Hệ thống kênh tưới tiêu chuẩn,
2003). Theo tiêu chuẩn về hệ thống kênh tưới là TCVN 4118- 85 thì kênh
tưới được phân 5 cấp (cấp công trình) để xác định tiêu chuẩn thiết kế và các
hạng mục liên quan:

8


Bảng 1.1: phân cấp công trình của hệ thống kênh tưới
Diện tích tưới ( 103 ha)

Cấp công trình kênh

>= 50
10-50
2-10
<=2

II
III
IV
V
(nguồn:viện khảo sát thiết kế thủy lợi)

Các công trình trên kênh bao gồm cống đầu kênh, bậc nước, dốc tràn

bên, cống qua đường, cầu giao thông...
Hệ thống bờ bao là loại hệ thống công trình nhỏ có tác dụng quan trọng
trong việc ngăn nước, giữ nước, giữ màu. Bờ vùng là bờ ven theo mương cấp
2 hoặc cấp 3 có tác dụng ngăn nước ngoại lai, nước từ khu đồng cao dồn
xuống khu đồi thấp. Bờ khoảng là bờ ven theo mương cấp 3 hoặc cấp 4 có tác
dụng điều chỉnh nước mưa tại chỗ trong vùng. Bờ thửa là hệ thống bờ ven
theo rãnh tưới có tác dụng giữ màu và làn đường đi lại khi chăm bón (Vũ Thị
Thanh Hương, 2005).
Ở Việt Nam, thời kỳ 100 năm thực dân Pháp đô hộ, nước ta chỉ xây
dựng được 12 hệ thống công trình thủy lợi lớn với mục đích chính là phục vụ
tưới cho các đồn điền của tư bản Pháp, đồng thời cũng tạo ra những tuyến
giao thông thủy để phục vụ cho mục đích quân sự và kinh tế của chúng, đó là
hệ thống công trình thủy lợi Thác Huống (Thái Nguyên)được xây dựng sau
khởi nghĩa Yên Thế. Một số hệ thống tưới, tiêu khác như:đập Liễn Sơn (sông
Phó Đáy- Vĩnh Phúc), đập Cầu Sơn (Bắc Giang), cống Liên Mạc (Hà Nội)
thuộc hệ thống sông Nhuệ (Hà Đông- Hà Nội), trạm bơm Phù Sa (Sơn Tây),
hệ thống tưới tiêu Bắc Thái Bình, hệ thống tưới tiêu Nam Thái Bình, hệ thống
An Kim (Hải Phòng), đập Bái Thượng (sông Chu-Thanh Hóa), đập Đô Lương
(sông Cả- Nghệ An), hệ thống Đồng Canh (sông Ba- Phú Yên), hệ thống tưới
Nha Trinh (Ninh Thuận), công trình tiêu nước phòng lũ đập Đáy (Hà Tây)...
Từ ngày hòa bình lặp lại ở miền Bắc(1945) và sau ngày đất nước hoàn
toàn giải phóng (1975) cho đến nay cả nước có 75 hệ thống thủy lợi lớn, gần 800
hồ chứa các loại vừa, lớn và hơn 3.500 hồ chứa có dung tích trên triệu m 3 nước
với chiều cao đập trên 10m để phục vụ tưới phòng lũ, phát điện, điều tiết dòng
9


chảy, thay đổi cảnh quan môi trường. Ví dụ như hồ chứa Đại Lải (Vĩnh Phúc),
hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô- Ngải Sơn (Hà Tây), hồ Núi Cốc (Thái Nguyên), hồ
Kẻ Gỗ ( Hà Tĩnh), hồ Phú Ninh (Quảng Ninh), hồ Dầu Tiếng (Tây Ninh), hồ

Sông Quan (Bình Thuận)... Các hồ chứa Trị An, Thác Bà (Hòa Bình) là những
hồ chứa phát điện vào loại lớn ở Đông Nam Á. Hơn 2.000 trạm bơm tưới, tiêu
lớn như Trịnh Xá, Bạch Hác, Hồng Vân, Đan Hoài, La Khê, Vân Đình- Ngoại
Độ, Cổ Đam... và hàng chục nghìn trạm bơm vừa và nhỏ với tổng công suất lên
tới 24,6 triệu m3/h. Hơn 5.000 cống lấy nước, cống tự tiêu tự chảy, đập dâng
hình thành các hệ thống thủy lợi lớn như hệ thống Bắc Hưng Hải, Thạch Nham,
Nam Thạch Hãn, Nha Trinh- Lân Cấn, Quản Lộ- Phụng Hiệp, Năm Măng Thít,
Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên... Đến nay, các công trình thủy lợi đã
tưới trực tiếp được 3,5 triệu ha, tạo nguồn cấp nước cho 1,13 triệu ha, tiêu 1,4
triệu ha một cách hoàn toàn chủ động, ngăn mặn 0,87 triệu ha và cải tạo chua
phèn cho 1,6 triệu ha, cung cấp 5 tỷ m 3 nước mỗi năm cho sinh hoạt và công
nghiệp, tổng công suất của các nhà máy thủy điện lớn và vừa được xây dựng lên
tới gần 5.000 MW (Phạm Thị Thơm, 2013).
1.2.3. Chất lượng nước tưới đối với sản xuất nông nghiệp
Nước là môi trường diễn ra các quá trình sống, trong cây trồng, đặc biệt
là rau xanh nước chiếm hơn 90%. Như vậy, nước ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng sản phẩm. Khi tưới thừa hoặc thiếu nước đều làm thay đổi hàm
lượng nước trong cây (Lê Anh Tuấn, 2009). Nước tưới cho cây trồng ngoài
khối lượng nước cần thiết còn phải đảm bảo chất lượng nước.Chất lượng
nước tưới có ảnh hưởng đáng kể tới cây trồng và cải tạo đất.Nước có chứa
nhiều hàm lượng phù sa và các thành phần hữu cơ khác sẽ có tác dụng tốt cho
cây trồng, đồng thời làm tăng độ phì Của đất. Mặt khác, nước có chất lượng
xấu và nhiều độc tố sẽ làm cho đất xấu đi, làm giảm khả năng phát triển của
cây trồng. Chất lượng nước thường được đánh giá bằng các chỉ tiêu: Nhiệt độ,
chất lơ lửng và các thành phần phân hủy trong nước tưới (Phạm Ngọc Hải,
2006). Nhiệt độ nước tưới: Nhiệt độ nước tưới thấp hay cao đều có ảnh hưởng
đến tốc độ phát triển của cây trồng. Nhiệt độ nước quá thấp sẽ làm chậm sự
phát triển của cây. Theo kinh nghiệm nếu nhiệt độ nước ở 30 0c thì sản lượng
10



bông sẽ tăng 9-10%, nhưng không được vượt quá 350c. Do vậy việc thay đổi để
điều tiết nước trong ruộng là cần thiết. Đối với những vùng có nước ngầm để
tưới thì cần kiểm tra lại nhiệt độ nước trước khi tưới, vì có những giếng bơm lên
khi nhiệt độ cao, vượt quá nhiệt độ cho phép hoặc khi nước quá lạnh đạt từ
10:120c là phải xử lý trước khi tưới (Phạm Ngọc Hải, 2006).
Chất lơ lửng:Hạt phù sa có đường kính <0.001 mm chứa nhiều chất
mùn, đưa vào ruộng với mức độ thích hợp sẽ có tác dụng tốt đối với cây
trồng.nhưng nếu đưa vào quá nhiều sẽ làm giảm tính thấm nước của đất và độ
thoáng cũng bị ảnh hưởng. Loại phù sa có đường kính từ 0.001-0.05mm thì
chứa ít chất dinh dưỡng nhưng có tác dụng cải tọa đát nặng, làm tăng độ
thoáng khí của đất cũng như tính thấm của đất. Loại phù sa có đường kính
>0.05mm là loại phù sa không nên sử dụng đưa vào ruộng.
Phản ứng muối và độ khoáng hóa: phản ứng kiềm và axit được biểu thị
bằng độ PH, pH thay đổi được khoảng từ 6-8.5. Khi pH 6.5-7.5 là thích hợp với
phần lớn cây trồng. Độ khoáng hóa là nồng độ muối hòa tan trong nước. Độ
khoáng biểu thị bằng nồng độ muối (g/l) hay là độ ẩm điện (EC) đo bằng đơn vị
micromho/cm ở nhiệt độ chuẩn 250c. Chất lượng nước tưới theo độ khoáng hóa
có thể phân loại theo nhiều chỉ tiêu khác nhau, tùy theo khả năng phân tích.
Bảng 1.2: Phân loại nước tưới theo hệ số dẫn điện
EC(micromh/cm)

Độ khoáng
hóa

Chất tưới
Tốt đối với tưới
Nói chung là thích hợp với cây trồng

C3


Yếu
Bình
thường
Trung bình

C4

Mạnh

2250-4000
4000-6000

C5

Rất mạnh

>6000

C6

Qúa mạnh

<250

Loại
muối
C1
C2


250-270
720-2250

11

Thích hợp với cây trồng có thể chịu
mặn được bình thường, với cây trồng
khác đảm bảo thoát tốt
Chỉ thích hợp với cây trồng chịu mặn
trên đât thâm và thoát tốt
Không thích hợp cho tưới , tuy nhiên
có thể sử dụng cho cây trồng chịu
mặn, đất thấm và thoát tốt
Không thích hợp cho tưới
(Theo Thorne và Peterson-1954)


Như vậy đối với các cách tưới thông thường (tưới bề mặt hoặc tưới
phun) thì tính mặn của nước ít hơn EC= 750micromho/cm (400ppm) thường
không gây ra khó khăn cho sản xuất NN. Khi EC= 750 và tăng lên 3.000
micromho/cm thì các vấn đề có chiều hướng nghiêm trọng thêm ở nhiều mùa
vụ. Khi EC=3.000 và cao hơn thì các vấn đề gay cấn thường tăng thêm ở hầu
hết các vụ sau (Vũ Thị Thanh Hương, 2005). Đa số các cây trồng không phát
triển tốt trên các vùng đất bị nhiễm mặn.
Một trong các lý do là làm giảm tốc độ và lượng nước cần cho rễ cây
có thể lấy được từ đất. Hàm lượng muối ảnh hưởng đến sinh lý và sản lượng
của cây trồng. Sự sinh sản và phát triển của tế bào, sự sản sinh các chất
protein và axit hữu cơ cũng như sự phát triển của cây trồng có liên quan mật
thiết đến nồng độ muối cao. Nếu nước tưới có chứa một số chất liệu nhất định
nào đó thì khả năng thấm của đất sẽ bị giảm đi. Nếu khả năng thấm yếu thì

việc cung cấp một lượng nước thích hợp cho mùa vụ sẽ khó khăn hơn. Đóng
váng cứng, úng nước và nhiều vấn đề liên quan cũng có thể phát sinh. Các
vấn đề liên quan đến khả năng thấm vẫn thường gắn liền với công việc tưới
gồm các trường hợp: Lượng muối trong nước rất ít, lượng kiềm cao liên quan
đến caxi và magie, carbon và bicarbonat axit cũng sẽ ảnh hưởng tới tính thấm
Ion bicarbonate (HCO3-) trong dung dịch đất làm tổn hại đến dinh dưỡng
khoáng của cây trồng thông qua quá trình trao đổi chất. Các thành phần phân
hủy tồn tại trong nước dưới dạng các cation (Mg 2+, Ca2+, Na+…)và anion
(HCO3-, Cl-, SO42-)sản lượng cây trồng giảm đáng kể khi tổng lượng các ion
tập trung trong nước tưới cao. Lượng Na có thể là nguyên nhân gây sự rời rạc
đất, làm giảm kết cấu đất và hạn chế không khí và nước lưu thông trong đất.
sau Na, Cl, Bo và các ion khác khi có nồng độ cao sẽ rất có hại cho cây trồng.
Bo là nguyên tố thường gặp trong nước ở ngưỡng từ 0,5- 0,75 g/m3. Bo được
tìm thấy khi có sự rút nước và được cung cấp ở những vùng đất có khoáng
(Raymond W.Miller). Cây trồng phát triển trên những loại đất không cân
bằng Ca, Mg có biểu hiện các triệu chứng nhiễm độc. Muối sunfua tác động
đến sự nhạy cảm của cây trồng bằng việc giới hạn sự hút Ca và tăng hấp thụ
12


Na và P, kết quả làm xáo trộn cân bằng cation của cây trồng. Hàm lượng K
cao có thể dẫn đến sự thiếu hụt Mg và gây bệnh úa vàng. Sự mất cân bằng Mg
và K có thể gây độc, nhưng ảnh hưởng của cả hai có thể giảm khi Ca cao.
Nhìn chung khi chất lượng nước tưới suy giảm đều ảnh hưởng tới chất lượng
nông sản phẩm. Sự tích lũy các chất độc có nguồn gốc từ phân bón hay nước
tưới vào cây trồng là một hệ quả tất yếu. Hiển nhiên sự tích tụ các độc tố
trong sản phẩm phụ thuộc vào các loại độc tố, loại đất và loại nước tưới, loại
cây trồng, bộ phận của cây trồng làm thực phẩm và ngay cả thời điểm thu
hoạch (Nguyễn Viết Phổ và cs., 2003). Hàm lượng nitrat trong cà phê được
phát hiện cách đây hơn 20 năm trong sản phẩm xuất khẩu là tín hiệu báo động

đầu tiên(Công ty nông sản, 1981). Tiếp theo đó là hiện tượng tích lũy NO 3-,
tích lũy KLN như Mo, Cu trong lạc. Năm 1994 phát hiện Cd trong lạc xuất
khẩu vượt ngưỡng cho phép.
1.3. Công tác quản lý nước tưới trên thế giới và Việt Nam
1.3.1.công tác quản lý môi trường nước tưới trên thế giới
Quản lý lưu vực sông đã có lịch sử phát triển hơn một thế kỷ qua và
hiện nay nó càng được quan tâm của tất cả các nước trên thế giới để thực hiện
các mục tiêu của PTBV. Khái niệm quản lý LVS hiện đại ngày nay đã vượt
ngoài khái niệm quản lý đất và nước truyền thống, bao gồm việc quản lý cả
những hoạt động của con người sử dụng nước hoặc gây ảnh hưởng đến hệ
thống nước ngọt.
Hiện nay, việc đổi mới thể chế trong quản lý LVS ở các nước phát
triểnvà đang phát triển thường tập trung vào 2 việc là: (1) thành lập các tổ
chức quản lý ở cấp lưu vực, và (2) đổi mới các hoạt động liên quan đến quản
lý nước ở LVS như là xây dựng cơ chế phối hợp, đổi mới pháp chế, thiết kế
các công cụ kinh tế trong chính sách nước (như giá chuyển nước, thuế, trợ
cấp), thiết kế lại các tổ chức kinh tế (các tổ chức dịch vụ công, các tổ chức
dịch vụ, thị trường nước, chuyển giao quản lý nước cho các tổ chức dùng
nước).

13


Trên thế giới có hàng trăm các tổ chức quản lý LVS đang hoạt động,
các tổ chức này có thể có cơ cấu tổ chức và chức năng không hoàn toàn giống
nhau tùy thuộc vào mỗi nước và điều kiện lưu vực. Các sự khác nhau thường
tập trung chính vào các điểm sau:
Hình thức tổ chức gọn nhẹ hay phức tạp. Chức năng nhiều hay ít, đặc
biệt là đối với quản lý nước tổ chức LVS có tham gia quản lý nước hay không
và mức độ tham gia trong quản lý nước là nhiều hay ít nếu có. Mức độ tập

trung quyền lực cao hay thấp, nói cách khác tập trung quyền lực cao trong
quản lý nước hay chỉ ở mức độ thấp như cơ quan tư vấn...điều này có liên
quan đến hình thức tổ chức của tổ chức LVS. Phương thức hoạt động hay
phối hợp với các cơ quản quản lý nàh nước hiện hành theo địa giới hành
chính. Cơ chế về nguồn tài chính để duy trì hoạt động. Vì thế, để đề xuất cho
một LVS nhất định cần phải nghiên cứu phân tích để lựa chọn một mô hình
phù hợp. Sau đây là một số mô h́nh quản lư LVS của một số nước trên thế
giới để tham khảo.
1.3.1.1. Mô hình quản lý LVS ở Pháp
Nước Pháp từ năm 1966 đã quản lý tất cả 6 LVS trên cả nước dựa theo
luật về nước ban hành năm 1964. Mỗi một LVS có một cơ quan lưu vực với
chức năng chính là:
Định hướng và khuyến khích các hộ dùng nước sử dụng hợp lý Tài
nguyên nước thông qua công cụ kinh tế. Khởi xướng và cung cấp thông tin
cho các dự án (nhưng không trực tiếp thực hiện dự án), điều hòa các lợi ích
địa phương, lợi ích cá biệt và lợi ích chung trong khai thác tài nguyên
nước.Cơ quan quản lý LVS có một hội đồng quản trị trong đó một nửa là đại
diện các cơ quan nhà nước, ¼ là đại diện các chính quyền địa phương, ¼ còn
lại là đại diện các hộ dùng nước (Công nghiệp, nông nghiệp, cấp nước sinh
hoạt và thủy sản…) các quyết định của Hội đồng quản trị phải được cơ quan
LVS phê chuẩn. Cơ quan LVS thường bao gồm từ 60 đến 110 ủy viên, trong
đó số đại diện của nhà nước, chính quyền địa phương và các hộ dùng nước

14


tương đương. Cơ quan LVS có quyền tự chủ về tài chính với nguồn thu là hai
loại phí là phí tài nguyên và phí ô nhiễm (Phạm Thị Ngọc Lan, 2012).
1.3.1.2. Mô hình quản lý LVS Hoàng Hà (Trung Quốc)
Sông Hoàng Hà lớn thứ 2 Trung Quốc với diện tích lưu vực 795.000

km2, số dân 98 triệu người sống trên lưu vực. Để quản lý LVS Hoàng Hà, nhà
nước Trung Quốc thành lập ủy ban bảo vệ sông Hoàng Hà (YRCC). Ủy ban
này là một cơ quan của Bộ thủy lợi Trung Quốc nhằm quản lý khu vực thung
lũng sông Hoàng Hà và các sông nội địa thuộc một số tỉnh và khu vực phía
Tây Bắc Trung Quốc với chức năng chủ yếu là:
Quản lý thống nhất TNN và dòng sông, quản lý tổng hợp LVS, phát
triển và quản lý các công trình thủy lợi quan trọng trên lưu vực, thực hiện quy
hoạch, quản lý, điều phối hướng dẫn và hỗ trợ, cải thiện quản lý sông phát
triển tổng hợp, khai thác và bảo vệ TNN (Phạm Thị Ngọc Lan, 2012).
Các nhiệm vụ:
Thực thi, hướng dẫn và giám sát việc thực thi các luật và quy định
trong phạm vi lưu vực. Xây dựng các chính sách, kế hoạch, chiến lược, các
chương trình chung và dài hạn phát triển TNN trên toàn lưu vực.Cùng với cơ
quan và chính quyền địa phương xây dựng quy hoạch tổng thể và quy hoạch
chuyên ngành có liên quan nhằm quản lý thống nhất tài nguyên nước, quan
trắc số liệu, đánh giá TNN trên lưu vực. Hướng dẫn và điều phối trong các
lĩnh vực bảo vệ TNN, quản lý các sông hồ và vùng cửa sông, phòng chống lũ
lụt; điều phối giải quyết các tranh chấp về nước giữa các ngành và các địa
phương; hướng dẫn và quản lý tổng thể các khu vực bị xói mòn nặng; chỉ đạo
công tác bảo vệ đất chống xói mòn của các địa phương; kiểm tra các dự án kỹ
thuật do Trung ương và các địa phương đầu tư.
Tại Trung Quốc các sông lớn khác như sông Trường Giang…cũng có
mô hình quản lý LVS tương tự như sông Hoàng Hà.
1.3.1.3. Mô hình quản lý LVS Muray-Daning tại Australia
Sông Muray-Daning là sông dài thứ tư trên thế giới (3780 km) với diện
tích lưu vực khoảng 1 triệu km2, bao gồm 75% bang New South Wales, 56%
15


bang Victoria, 15% bang Queenland, 8% bang nam Australia và toàn bộ thủ

đô Australia. Mô hình quản lý LVS Muray-Daning là một bài học về giải
quyết mâu thuẫn giữa các quyền lợi dùng nước khác nhau. Cơ cấu tổ chức
quản lý LVS bao gồm một Hội đồng cấp bộ trưởng lưu vực Muray-Daning,
một ủy hội LVS Muray-Daning và một ủy ban tư vẫn cộng đồng đại diện cho
cộng đồng.
Hội đồng cấp Bộ trưởng Muray-Daning: Thành lập năm 1985 thành
phần bao gồm các Bộ trưởng phụ trách tài nguyên đất nước và môi trường của
Liên Bang và các bang nằm trên lưu vực với giới hạn mỗi bang không quá 3
thành viên.
Chức năng của Hội đồng là xem xét các vấn đề chính sách liên quan
đến lợi ích chung của chính quyền các bang trong quy hoạch và quản lý,
nhằm sử dụng hiệu quả và bền vững các TNN, đất, môi trường của LVS; xem
xét và đề xuất các biện pháp nhằm sử dụng hiệu quả và bền vững các tài
nguyên đó. Ủy hội LVS Muray-Daning (Muray Daning river ba sin
Commission), ủy hội là cơ quan thực thi các quyết định của Hội đồng. Ủy hội
cũng hợp tác với các bang liên quan. Ủy hội có trách nhiệm quản lý hệ thống
các sông hồ thuộc lưu vực tư vấn cho Hội đồng về các vấn đề liên quan đến
sử dụng TNN, đất và các tài nguyên khác trong phạm vi lưu vực (Phạm Thị
Ngọc Lan, 2012).
Trách nhiệm ban đầu của Hội đồng là quản lý chất lượng nước, sau đó
mở rộng sang quản lý số lượng nước. Từ những năm cuối thập niên 80 ủy hội
được giao nhiệm vụ khởi xướng, hỗ trợ và đánh giá công tác quản lý tổng hợp
tài nguyên thiên nhiên thuộc LVS. Ủy hội hợp tác với chính quyền các bang,
các ban, nhóm cộng đồng để xây dựng và thực thi các chính sách và chương
trình.
1.3.1.4. Mô hình quản lý LVS Lerma-chapala tại Mexico
Sông Lerma-Chapala dài 750 km ở miền Trung Mexico, có diện tích
lưu vực 54.000 km2, bao gồm 5 tiểu bang với tổng dân số 15 triệu người
Trong lưu vực có một hồ tự nhiên là hồ Chapala rộng 111.000 ha dung tích 8
16



tỷ m3 nước. Một trong những thách thức lớn nhất của lưu vực là hồ này bị
khai thác quá mức đang bị cạn kiệt nguồn nước. Việc thành lập tổ chức quản
lý LVS nhằm giải quyết khó khăn này.
Tại Mexico năm 1992 ban hành luật về nước trong đó quy định việc
quy hoạch, phát triển và quản lý TNN phải tiến hành theo lưu vực. Chính vì
vậy Hội đồng LVS đã được thành lập ở tất cả 26 LVS của nước này, trong đó
có LVS Lerma-Chapala.
Tính đến năm 2003, Mexico đã khai thác sử dụng 77 tỷ m3 nước mặt
trong đó 78% sử dụng cho NN, 17% sử dụng cho công nghiệp, 5% sử dụng
cho sinh hoạt. Luật nước năm 1992 của Mexico đã xác định vai trò lớn của
các bang và sự tham gia của các hộ dùng nước trong quản lý TNN ở các
LVS,từ đó Hội đồng các LVS đã được thành lập tại 13 LVS chính ở
Mexico.Mexico là nước tổ chức quản lý LVS theo 2 cấp:
Cấp hội đồng: quyết định các chủ trương và chỉ đạo chung
Cấp giúp việc là Ban thư ký kỹ thuật giúp thực hiện việc quản lý cụ thể.
Hoạt động của Hội đồng chủ yếu thông qua chính sách phân phối và sử
dụng nước mặt cũng như nước ngầm cho các hộ dùng nước trong phạm vi lưu
vực và giám sát việc thực thi các chính sách đó với mục tiêu cơ bản là chống
cạn kiệt nguồn nước của hồ Chapala. Việc thành lập Hội đồng bước đầu đã
phát huy tác dụng, các hộ dùng nước đã tuân thủ quy định về lượng nước
được phép khai thác nhất là nước mặt, còn công tác quản lý khai thác nước
ngầm, quản lý việc chuyển đổi mục đích sử dụng nước và bảo vệ quyền lợi về
nước của người nghèo thì chưa thực sự mang lại hiệu quả rõ rệt.
Tổng hợp các mô hình của tổ chức quản lý LVS của thế giới có thể rút
ra một số ý kiến đánh giá như sau:
Về hình thức: Có một số hình thức của cơ quan quản lý LVS hiện hành
trên thế giới, nhưng có thể quy thành ba hình thức phổ biến nhất đó là: (i) cơ
quan thủy vụ LVS; (ii) ủy hội LVS, và (iii) hội đồng LVS. Mỗi loại có một

mức độ tập trung quyền lực cũng như mức độ tham gia vào quản lý nước khác
nhau.
17


×