Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Ứng dụng thương mại điện tử trong xuất khẩu hồ tiêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 57 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời gian gần đây, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và hệ
thống Internet phủ khắp toàn quốc, Thương mại điện tử đã dần trở nên quen
thuộc và từng bước khẳng định vị trí của mình đối với hầu hết các bộ phận
của nền kinh tế cũng như các tầng lớp xã hội. Theo Báo cáo Thương mại
điện tử năm 2009, hầu như thương mại điện tử được áp dụng trong hầu hết
các ngành nghề của nền kinh tế và trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên thương
mại điện tử được đánh giá là một con dao hai lưỡi đối với các nước đang
phát triển như Việt Nam. Nó đem lại một nguồn lợi khổng lồ nhưng cũng có
thể có tác dụng không tốt đối với nền kinh tế nếu vấn đề thực thi.
Hiện nay thương mại điện tử cũng đã được áp dụng trong lĩnh vực
nông lâm nghiệp nhưng vẫn còn ở mức độ sơ khai. Và trong ngành xuất khẩu
sản phẩm hồ tiêu lại càng ít. Do đó việc đưa thương mại điện tử đi vào cuộc
sống một cách có tổ chức và phổ biến là một chính sách quan trọng của chính
phủ cũng như của doanh nghiệp mà đặc biệt là xuất khẩu nông sản trong đó
có hồ tiêu. Bởi vì nông sản là một thế mạnh của Việt Nam nếu kết hợp với
thương mại điện tử sẽ trở thành một sự công hưởng đem lại nguồn lợi khổng
lồ cho sự phát triển của nền kinh tế.
Nhận thấy tầm quan trọng của thương mại điện tử đối với Việt Nam
nói chung và đối vói việc xuất khẩu hồ tiêu nói riêng, nhóm chúng em đã
quyết định chọn đề tài “Ứng dụng thương mại điện tử trong xuất khẩu hồ tiêu
tại công ty ….” để làm tiểu luận. trong bài tiểu luận không tránh khỏi những
sai sót mong thầy và các bạn góp ý để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1. 1. Khái niệm về TMĐT:
Sự phát triển như vũ bão của CNTT đã tác động mạnh mẽ và to lớn
đến mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Ngày nay, CNTT đã trở thành một
trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Với khả năng số hoá
mọi loại thông tin (số, đồ thị, văn bản, hình ảnh, tiếng nói, âm thanh...), máy


tính trở thành phương tiện xử lý thông tin thống nhất và đa năng, thực hiện
được nhiều chức năng khác nhau trên mọi dạng thông tin thuộc mọi lĩnh vực:
nghiên cứu, quản lý, kinh doanh... Cùng với sự phát triển của máy tính điện
tử, truyền thông phát triển kéo theo sự ra đời của mạng máy tính, từ các
mạng cục bộ, mạng diện rộng cho tới mạng toàn cầu Internet và xa lộ thông
tin. Số hoá và mạng hoá đã làm xuất hiện sự hội tụ giữa máy tính, truyền
thông và các ngành cung cấp nội dung thông tin trên mạng tạo ra cơ sở mới
cho sự phát triển của các ngành kinh tế. Đó là tiền đề cho sự ra đời của nền
kinh tế mới - nền kinh tế số (còn gọi là nền kinh tế tri thức, nền kinh tế dựa
trên tri thức). Trong nền kinh tế số, thông tin được xử lý, lưu giữ trong các
máy tính và được trao đổi, truyền đi với tốc độ ánh sáng trên mạng, nhờ đó
thông tin có thể được phổ biến và truy cập tức thời tại bất kỳ địa điểm nào
trên thế giới. Việc thông tin chuyển sang dạng số và nối mạng đã làm thay
đổi sự chuyển hoá của nền kinh tế, các dạng thể chế, các mối quan hệ và bản
chất của hoạt động kinh tế xã hội và có ảnh hưởng sâu sắc đến hầu hết các
lĩnh vực hoạt động và đời sống con người, trong đó có các hoạt động thương
mại. Người ta đã có thể tiến hành các hoạt động thương mại nhờ các phương
tiện điện tử, đó chính là "thương mại điện tử" (TMĐT).
Năm 1990, thuật ngữ TMĐT chính thức được Hội đồng Liên hợp
quốc sử dụng trong "Đạo luật mẫu về TMĐT" do Ủy ban Liên hợp quốc về
Luật Thương mại quốc tế soạn thảo (UNCITRAL).
1.1.1. Khái niệm TMĐT theo nghĩa hẹp:


TMĐT là việc mua bán hàng hoá và dịch vụ thông qua các phương tiện điện
tử, nhất là Internet và các mạng viễn thông khác.
Cách hiểu này tương tự với một số các quan điểm vào cuối thập kỷ 90:


TMĐT là các giao dịch thương mại về hàng hoá và dịch vụ được thực hiện

thông qua các phương tiện điện tử (Diễn đàn đối thoại xuyên Đại Tây
Dương, 1997).



TMĐT là việc thực hiện các giao dịch kinh doanh có dẫn tới việc chuyển
giao giá trị thông qua các mạng viễn thông (EITO, 1997).



TMĐT là việc hoàn thành bất kỳ một giao dịch nào thông qua một mạng máy
tính làm trung gian, bao gồm việc chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử
dụng hàng hoá và dịch vụ (Cục thống kê Hoa Kỳ, 2000).

1.1.2. Khái niệm TMĐT theo nghĩa rộng:
Theo nghĩa rộng, thương mại điện tử là việc sử dụng các phương pháp
điện tử để làm thương mại. Nói cách khác, thương mại điện tử là thực hiện
các quy trình cơ bản và các quy trình khung cảnh của các giao dịch thương
mại bằng các phương tiện điện tử, cụ thể là trên mạng máy tính và viễn thông
một cách rộng rãi, ở mức độ cao nhất có thể. Các quy trình cơ bản của một
giao dịch thương mại gồm: tìm kiếm (mua gì, ở đâu,..), đánh giá (có hợp với
mình không, giá cả và điều kiện ra sao,..), giao hàng, thanh toán và xác nhận.
Các quy trình khung cảnh của một giao dịch thương mại gồm: diễn tả (mô tả
hàng hoá, dịch vụ, các điều khoản của hợp đồng), hợp thức hoá (làm cho
thoả thuận là hợp pháp), uy tín và giải quyết tranh chấp. Tất nhiên có những
quy trình không thể tiến hành trên mạng như việc giao hàng hoá ở dạng vật
thể (máy móc, thực phẩm,...), song tất cả các quá trình của giao dịch nếu có
thể thực hiện trên mạng thì đều có thể tiến hành bằng các phương tiện điện
tử.



1.2. Các hình thức hoạt động của TMĐT:
1.2.1. Thư điện tử (Email)
Email là phương thức dễ dàng nhất để doanh nghiệp làm quen và tiếp cận với
thương mại điện tử. Việc sử dụng email giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm chi phí
trong khi vẫn đạt được mục tiêu truyền gửi thông tin một cách nhanh nhất. Về mặt
chức năng, email có thể thay thế hoàn toàn cho fax. Một địa chỉ email tốt phải đáp
ứng các yêu cầu càng ngắn càng tốt, gắn với địa chỉ website và thương hiệu của
doanh nghiệp.
Địa chỉ email cần ngắn gọn để đối tác có thể dễ nhớ và tránh khả năng gõ
nhầm trên bàn phím vì khi gõ địa chỉ email chỉ cần sai một ký tự là coi như sai cả
địa chỉ và thư gửi sẽ không đến nơi.
Địa chỉ email cần gắn với địa chỉ website và thương hiệu vì như vậy chỉ cần
đọc địa chỉ email là đối tác có thể nhận biết tên doanh nghiệp của bạn cũng như địa
chỉ website của bạn. Ví dụ, khi nhận được email từ là người ta dễ dàng đoán ra được
đây là email từ công ty IBM và Website của công ty này là . Dựa trên nguyên tắc
địa chỉ website gắn liền với tên thương hiệu, trong nhiều trường hợp có thể đoán ra
địa chỉ website của doanh nghiệp một cách dễ dàng. Tuyệt đại đa số website của
doanh nghiệp đều có phần đầu là www. và phần sau là .com hoặc .com.vn. Chúng ta
chỉ cần đặt tên thương hiệu của doanh nghiệp vào giữa hai phần trên là xong.
Để tăng tính đồng nhất giữa địa chỉ website và địa chỉ email, doanh nghiệp
cần lấy ngay địa chỉ website làm phần gốc (phần sau dấu @). Rất nhiều doanh
nghiệp hiện đã có website, nhưng lại không biết là họ có quyền dùng địa chỉ website
đó cho địa chỉ email của mình nên vẫn phải dùng địa chỉ email đăng ký tại các nhà
cung cấp dịch vụ Internet như VDC, FPT ...
1.2.2. Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI)
Trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange - EDI) là việc trao đổi
trực tiếp các dữ liệu dưới dạng "có cấu trúc" (structured form) từ máy tính điện tử



này sang máy tính điện tử khác, giữa các công ty hay tổ chức đã thoả thuận
buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp
của con người. Trao đổi dữ liệu điện tử có vai trò quan trọng đối với giao dịch
thương mại điện tử quy mô lớn giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. Với việc hình
thành những hệ thống ứng dụng thương mại điện tử kỹ thuật cao như mạng giá trị
gia tăng (VAN), hệ thống quản lý dây chuyền cung ứng (SCM), mạng của các nhà
cung cấp dịch vụ trung gian …, có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp sử dụng
dịch vụ áp dụng những tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu thống nhất tạo thuận lợi cho các
giao dịch thương mại điện tử. Sử dụng EDI, doanh nghiệp sẽ giảm được lỗi sai sót
do con người gây nên, giảm thời gian xử lý thông tin trong các giao dịch kinh
doanh, tiết kiệm thời gian và chi phí trao đổi dữ liệu. Hiện nay, sự xuất hiện của các
ngôn ngữ lập trình hiện đại như XML làm cho EDI trở nên dễ thiết kế và dễ sử dụng
hơn, do đó EDI được ứng dụng rất phổ biến trong nhiều ngành trên thế giới.
1.2.3. Quảng cáo trực tuyến
Có nhiều hình thức để tiến hành quảng cáo trực tuyến. Doanh nghiệp có thể
hình thành một website riêng, đặt đường dẫn website của mình tại những trang web
có nhiều người xem, đăng hình quảng cáo tại những trang web thông tin lớn hay
trực tiếp gửi thư điện tử tới từng khách hàng, đối tác tiềm năng... Chi phí quảng cáo
trên các trang web rất thấp so với việc quảng cáo trên các phương tiện truyền hình,
đài phát thanh. Vì vậy, việc tiến hành quảng cáo trên những website có số lượng
truy cập lớn cũng đang trở thành một chiến lược quan trọng của nhiều doanh
nghiệp. Những công ty có trang web riêng hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau,
từ sản xuất hàng hoá, dịch vụ công nghiệp tới những sản phẩm tiêu dùng hàng ngày.
Nhiều doanh nghiệp đã tận dụng chi phí thấp của các hình thức quảng cáo bằng thư
điện tử bằng cách mua hoặc liệt kê danh sách khách hàng tiềm năng có địa chỉ email
từ những nhà cung cấp dịch vụ Interner như FPT, VDC ... rồi gửi thư điện tử quảng
cáo. Ví dụ về các loại quảng cáo trực tuyến trên website là samer, popup,
contest/quizz ...
1.2.4. Bán hàng qua mạng



Website bán lẻ là hình thức doanh nghiệp sử dụng website để trưng bày hình
ảnh hàng hoá giao dịch và bán hàng hoá cho người tiêu dùng. Đây chính là sự thể
hiện của phương thức giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng. Mặc dù
không phải phương thức có trị giá giao dịch lớn nhất trong thương mại điện tử,
nhưng khi nói đến thương mại điện tử người ta hay nghĩ đến website bán lẻ với các
mô hình nổi tiếng.
Website bán lẻ có ưu thế trong việc kinh doanh những món hàng có giá trị
nhỏ và vừa, những mặt hàng tiêu dùng thường gặp trong đời sống hàng ngày. Bên
cạnh những hàng hoá hữu hình, hàng hoá có thể số hoá và dịch vụ cũng là đối tượng
của website bán lẻ. Phần mềm, trò chơi, phim là những mặt hàng số hoá có doanh
số phân phối qua mạng cao. Các dịch vụ giải trí, du lịch, giao thông, tư vấn ... cũng
là những lĩnh vực tiềm năng cho các website bán lẻ.
Quy trình mua bán trên một website bán lẻ thường diễn ra như sau:


Người mua vào website xem hàng, mỗi mặt hàng thường có hình ảnh minh
hoạ, các chi tiết về mặt hàng đó.



Khi muốn mua một mặt hàng, người mua sẽ nhấn vào nút “Đặt mua” sau đó
lại có thể tiếp tục xem các mặt hàng khác.



Sau khi xem và chọn hàng xong, người mua nhấn vào ô “Giỏ mua hàng”
(Shopping cart hoặc Basket) để xem lại những mặt hàng đã chọn. Tại đây
người mua có thể bỏ bớt những mặt hàng đã chọn hoặc tăng số lượng của
một mặt hàng nào đó.




Tiếp đó đến phần thanh toán, người mua sẽ điền mã số khách hàng (nếu đã
đăng ký) hoặc điền các thông tin về địa chỉ nhận hàng và chọn phương thức
thanh toán : bằng thẻ tín dụng, chuyển tiền thẳng vào tài khoản người bán,
chuyển tiền qua Paypal, chuyển tiền qua bưu điện.



Sau khi nhận được thanh toán, người bán sẽ gửi hàng qua bưu điện hoặc
chuyển trực tiếp đến cho người mua (người mua cũng có thể thanh toán trực
tiếp bằng tiền mặt tại thời điểm này).


Với website bán lẻ, doanh nghiệp có thể trở thành một nhà phân phối hàng hoá
mà không cần phải trực tiếp sản xuất hay không cần diện tích quá lớn để làm cửa
hàng. Điều này tạo nên lợi thế cạnh tranh là cắt giảm được chi phí thuê mặt bằng và
nhân công. Tuy nhiên, để thiết lập website bán lẻ, doanh nghiệp cần lưu ý những
điều kiện sau:


Thiết kế hoặc thuê thiết kế được một website bán lẻ có đầy đủ các chức năng,
tiện lợi cho người dùng và bảo mật tốt (nhất là với các website có nhận thanh
toán trực tiếp qua mạng).



Đặt website trên máy chủ có tốc độ cao, đường truyền băng thông rộng để
khách hàng truy cập dễ dàng.




Bố trí tốt nhân lực để nhận, phản hồi các đơn đặt hàng, cập nhật thông tin
trên website, nhận hàng từ nhà sản xuất và giao hàng cho người mua.



Cung cấp nhiều loại hình thanh toán.



Làm tốt công tác quảng cáo website, chăm sóc khách hàng.

1.3. Quy trình kinh doanh trong TMĐT:
1.3.1. Tìm kiếm đối tác, sản phẩm, dịch vụ
Ngày nay, chúng ta có thể tìm địa chỉ đối tác một cách dễ dàng hơn thông
qua

các

công

cụ

tìm

kiếm

trên


Internet

như địa

chỉ www.google.com, www.yahoo.com , đặc biệt là đối tác tại các nước phát triển,
nơi có tỷ lệ phổ cập Internet rất cao. Tại những công cụ tìm kiếm, sau vài giờ phân
loại, sàng lọc thông tin, chúng ta có thể có trong tay một danh sách các đối tác tiềm
năng. Để xem thông tin chi tiết về một đối tác cũng như sản phẩm, dịch vụ mà họ
cung cấp, bạn có thể vào trực tiếp các website của họ. So với cách làm truyền thống
là qua các danh bạ điện thoại, các catalogue, phương pháp mới này có rất nhiều ưu
điểm: nhanh hơn, chính xác hơn, tiết kiệm hơn.
1.3.2. Thỏa thuận hợp đồng


Một trong những điểm quan trọng nhất trong công đoạn thoả thuận hợp đồng là
xác định giá. Với Internet, việc xác định giá cho một sản phẩm và dịch vụ cụ thể
nào đó là khá dễ dàng và nhanh chóng thông qua các cách như gửi thư hỏi giá, thư
báo giá đến các đối tác, đưa giá sản phẩm, dịch vụ của mình trên website để tất cả
những ai quan tâm có thể xem được, có thể trao đổi, đàm phán trực tiếp với đối tác
về các điều khoản của hợp đồng…. Internet có các công cụ hữu hiệu để làm những
việc này, đó là website, e-mail, các công cụ để hội đàm như ICQ, MS Messenger,
AIM v.v...
1.3.3. Thanh toán
Thanh toán là một trong những vấn đề gây nhiều bàn cãi và phức tạp nhất trong
thương mại điện tử. Nếu không kể đến những hợp đồng lớn giữa các công ty, vẫn
được thực hiện theo các phương thức truyền thống như trong giao dịch ngoại
thương thông qua tín dụng thư hoặc điện chuyển tiền, trong các giao dịch nhỏ, việc
thanh toán có thể được thực hiện qua thẻ tín dụng như Master Card, Visa Card,
American Express … Khách hàng chỉ cần nhập một số thông tin về thẻ tín dụng của

mình, toàn bộ các công việc còn lại sẽ được các ngân hàng thực hiện.
1.3.4. Vận chuyển hàng hoá, dịch vụ
Các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến thông tin như dịch thuật, tư vấn, đào
tạo, các dịch vụ báo chí, truyền thông đều có thể được vận chuyển một cách dễ dàng
nhanh chóng qua Internet .Đối với các hàng hoá phải chuyển theo các kênh truyền
thống như đường biển, đường hàng không … Internet vẫn giúp các đối tác theo dõi
được tình trạng cũng như vị trí của hàng hoá trên đường vận chuyển. Các công ty
vận tải biển, các công ty chuyển phát nhanh thường cung cấp các dịch vụ này cho
khách hàng của mình như một công cụ marketing hiệu quả.
1.4. Một số mô hình giao dịch trong TMĐT:
Các giao dịch của thương mại điện tử diễn ra bên trong và giữa ba nhóm chủ
thể tham gia chủ yếu là: doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước (Chính phủ) và người


tiêu dùng. Dựa vào các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử người ta phân
thành các loại mô hình giao dịch thương mại điện tử, bao gồm doanh nghiệp với
doanh nghiệp (business to business - B2B); doanh nghiệp với cơ quan nhà nước
(business to government -B2G); doanh nghiệp với người tiêu dùng (business to
consumer - B2C); cơ quan nhà nước với cơ quan nhà nước (Government to
Government G2G); cơ quan nhà nước với người tiêu dùng (Government to
consumer G2C); người tiêu dùng với người tiêu dùng (consumer to comsumer C2C). Trong chương này chỉ nêu những mô hình có tính chất phổ biến đối với các
doanh nghiệp và có thể áp dụng tại Việt Nam để doanh nghiệp tham khảo.
1.4.1. Mô hình giao dịch doanh nghiệp – người tiêu dùng (B2C)
Do đối tượng tham gia mô hình giao dịch này gồm doanh nghiệp và người
tiêu dùng nên thương mại điện tử dạng B2C có sức lan tỏa mạnh và thường được xã
hội chú ý. Đây cũng là phương thức thường được doanh nghiệp lựa chọn khi bước
đầu triển khai ứng dụng thương mại điện tử, đặc biệt với những doanh nghiệp vừa
và nhỏ hướng tới phục vụ đối tượng người tiêu dùng. Từ kinh nghiệm xây dựng và
vận hành các website thương mại điện tử B2C của một số doanh nghiệp đã tương
đối thành công, có thể rút ra một số nhận định sau:

Điểm mấu chốt quyết định thành công của một website thương mại điện tử
B2C là khả năng thu hút và duy trì sự quan tâm của người tiêu dùng. Để thu hút
khách hàng mới, bên cạnh giao diện đẹp và thuận tiện cho việc sử dụng, thông tin
trên website cũng cần phải hết sức phong phú. Kinh nghiệm cho thấy khách hàng
đặc biệt quan tâm tìm kiếm những thông tin mô tả và giá cả hàng hóa, dịch vụ trên
mạng, qua đó so sánh, đối chiếu để dẫn đến quyết định mua hàng. Việc đáp ứng một
cách thuận tiện nhu cầu của người tiêu dùng về khảo sát giá cả cũng như sản phẩm
là lợi thế nổi bật của phương thức tiếp thị trực tuyến mà các nhà kinh doanh cần
khai thác triệt để. Một khi khách hàng đã quan tâm đến website, dùng thử các dịch
vụ trên đó và thấy thực sự hiệu quả thì xác suất quay lại sẽ là rất lớn. Trong bối
cảnh các website thương mại điện tử của Việt Nam chưa nhiều, những doanh
nghiệp quan tâm đầu tư làm thương mại điện tử một cách bài bản sẽ có nhiều ưu thế


trong việc xây dựng lượng khách hàng trung thành để làm cơ sở cho giai đoạn cất
cánh về sau.
Phương thức mua hàng trên mạng có sức hút mạnh với đối tượng là cán bộ
công sở, sinh viên, những người ít có thời gian mua sắm và thường xuyên sử dụng
mạng Internet. Do đó, khi triển khai các "cửa hàng trực tuyến", doanh nghiệp cần
lưu ý phân tích thói quen và tâm lý tiêu dùng của các nhóm đối tượng này để có
chiến lược tiếp thị hoặc lựa chọn loại hàng hóa cho phù hợp.
Mô hình kinh doanh thương mại điện tử theo phương thức B2C phù hợp hơn
với các doanh nghiệp thương mại dịch vụ. Khi có nhu cầu mua sắm, người tiêu
dùng muốn tìm được thông tin đa dạng về các loại hàng hóa và sản phẩm khác nhau
ngay tại một chỗ. Các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra hàng hóa sẽ khó lòng đáp
ứng nhu cầu này do mỗi doanh nghiệp chỉ tập trung sản xuất một vài sản phẩm nhất
định. Trong khi đó, doanh nghiệp thương mại dịch vụ - vốn chỉ đóng vai trò trung
gian phân phối sản phẩm - sẽ có lợi thế hơn trong việc tập hợp các nguồn hàng khác
nhau để có hàng hóa, sản phẩm trưng bày phong phú, tạo thuận lợi, đáp ứng tối đa
nhu cầu của người mua hàng.

Trong vài năm qua, số lượng website thương mại điện tử B2C ở Việt Nam
không ngừng tăng. Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2004 ước tính có
17.500 website doanh nghiệp vào thời điểm cuối tháng 12/2004, trong số này rất
nhiều website theo định hướng B2C. Ngoài số lượng đơn hàng, mức độ thích ứng
của người tiêu dùng đối với phương thức giao dịch thương mại điện tử B2C còn thể
hiện ở giá trị trung bình của các đơn hàng trên mạng. Theo số liệu thống kê chi tiết,
giá trị trung bình của giao dịch thương mại điện tử B2C trên các website VDC tăng
khá nhanh trong vòng 3 năm qua, từ mức 760.000 đồng/giao dịch trong năm 2003
lên đến 2.300.000 đồng/giao dịch trong năm 2005. Điều này cho thấy người tiêu
dùng ngày càng tự tin hơn khi tiến hành giao dịch trên mạng và sẵn sàng mua những
mặt hàng có giá trị tương đối lớn dựa vào các thông tin cung cấp trên website
thương mại điện tử của doanh nghiệp.


Thành công của các công ty theo mô hình B2C là nhờ vào những thuận lợi
trong việc mua hàng mà họ có thể cung cấp cho khách hàng. Quá trình này có phần
tương tự với dịch vụ khách hàng kiểu cũ. Các công ty như Amazon.com … đã thu
hút được đông đảo khách hàng trực tuyến chủ yếu là nhờ vào việc đáp ứng một cách
hoàn hảo nhu cầu của họ.
Một kinh nghiệm đối với khách hàng trực tuyến chính là giao diện: được
hiểu là từ ngữ và hình ảnh mà người mua hàng sẽ tiếp xúc, thay vì người bán hàng
thực sự (mặc dù những công nghệ mới như VoIP có thể cho phép khách hàng đàm
thoại trực tiếp với các nhân viên bán hàng khi họ thực hiện mua hàng). Nếu người
mua hàng đưa các mục hàng vào một chiếc giỏ mua hàng ảo và trình ra thẻ tín dụng,
các công ty có thể đáp ứng các đơn đặt hàng mà hầu như không cần có sự tham gia
xử lý của con người. Cuối cùng, các hệ thống như màn hình trợ giúp theo tình
huống (context-sensitive) và quảng cáo phù hợp với sở thích từng cá nhân đã ra đời.
Mặc dù, ban đầu công chúng có một số lo ngại về độ bảo mật của các giao dịch
bằng thẻ tín dụng nhưng TMĐT B2C giờ đang bắt đầu bùng phát.
Ngoài ra, các công ty theo mô hình B2C còn có những cách khác để thu lợi.

Họ có thể bán chỗ quảng cáo trên trang web của mình hoặc bản quyền truy cập tới
một nội dung đặc biệt tính trên cơ sở trả tiền theo sử dụng (pay-per-use) hay trả tiền
theo lần xem (pay-per-view). Với cách bán bản quyền truy cập, các công ty sẽ chia
nhỏ thông tin trên trang web của mình và bán cho khách hàng của mình theo từng
lần sử dụng hoặc là theo một khoảng thời gian sử dụng nhất định. Chẳng hạn, Nhật
báo Wall Street ( cho phép khách hàng quyền truy cập có thời
hạn 1 ngày tới một phiên bản báo trực tuyến của công ty với giá không đầy 50
cent. )
Trong chương 5 sẽ hướng dẫn chi tiết hơn việc xây dựng một website bán lẻ.
1.4.2. Mô hình giao dịch doanh nghiệp - doanh nghiệp (B2B)
Giữa các doanh nghiệp, TMĐT được sử dụng để trao đổi dữ liệu, mua bán và
thanh toán hàng hoá và dịch vụ. Về mặt công nghệ trong khi B2C chủ yếu sử dụng


cửa hàng ảo trên mạng, mô hình B2B chủ yếu sử dụng trao đổi dữ liệu điện tử
(EDI).Về thanh toán, trong mô hình dạng B2B việc thanh toán được tiến hành trên
cơ sở quyết toán bù trừ vào cuối kỳ và có thể thực hiện theo phương thức truyền
thống mà vẫn không làm giảm ý nghĩa của nó. Trong khi đó ở mô hình B2C, việc
thanh toán được quan tâm đặc biệt vì mua hàng lần nào thanh toán lần đó. Đấy là
chỗ khác nhau căn bản giữa hai loại mô hình B2B và B2C.
Có nhiều kiểu mô hình B2B cho các kiểu kinh doanh khác nhau, trong đó đặc
trưng nhất là các mô hình sau:
a)

Mô hình bán hàng trực tiếp cho nhà phân phối (B2B Direct)

Đây là mô hình áp dụng trong trường hợp bán hàng trực tiếp cho nhà phân
phối hay nhà bán lẻ (còn được gọi là hình thức bán buôn cho nhà bán lẻ. Ví dụ như
nhà nhập khẩu hàng hoá khi nhập khẩu hàng về trong nước có thể giao trực tiếp cho
các siêu thị, công ty kinh doanh bán lẻ; nhà máy sản xuất văn phòng phẩm bán trực

tiếp các sản phẩm do nhà máy sản xuất ra như bút, mực, vở, đồ dùng văn phòng
phẩm khác cho các cửa hàng bán lẻ...
Mô hình B2B direct được xây dựng trên hoạt động kinh doanh thực tế đang
diễn ra giữa nhà bán buôn và nhà bán lẻ. So với mô hình TMĐT dạng B2C nó có
đầy đủ các chức năng như tìm kiếm hàng hoá, đặt hàng, giao hàng, vận tải. Do trong
thực tế công việc thanh toán giữa người bán và người mua được tiến hành vào cuối
kỳ trên cơ sở bù trừ nên mô hình hỗ trợ công cụ theo dõi công nợ với từng khách
hàng và tổng hợp công nợ của các khách hàng. Mô hình cung cấp các modules để
tích hợp các số liệu công nợ, thanh toán vào hệ thống sổ sách kế toán của doanh
nghiệp. Mô hình này hữu hiệu khi số lượng mặt hàng lớn, trong kỳ giao hàng nhiều
lần, có việc đối lưu hàng hoá hay thanh toán, tạm ứng nhiều lần.
b)

Mô hình bán hàng thông qua hệ thống các đại lý

Mô hình kinh doanh này thường được sử dụng để quản lý hệ thống đại lý. Nó
hỗ trợ cho doanh nghiệp quản lý được hệ thống đại lý của mình, nắm được lượng


hàng bán của từng đại lý tại thời điểm mà mình quan tâm, ví dụ như vào 16h30'
hàng ngày doanh nghiệp cần nắm được trong ngày hệ thống đại lý của mình đã bán
được bao nhiêu hàng, những hàng nào đang bán chạy, đại lý nào ngày mai sẽ hết
hàng và nếu phải điều hàng tới thì phải điều từ kho nào... Mô hình này cho phép các
đại lý hỗ trợ lẫn nhau trong bán hàng. Ví dụ khách hàng đến đại lý của LG tại Hà
Nội, mua một cái tủ lạnh, nhưng lại muốn giao hàng tại Nam Định, đại lý LG tại Hà
Nội sẽ bán hàng cho khách và chuyển việc giao hàng cho đại lý LG tại Nam Định.
Đại lý LG tại Nam Định sẽ thực hiện và cuối kỳ hai đại lý sẽ thanh toán bù trừ cho
nhau. Các dữ liệu về hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống đại lý này sẽ được cập
nhật vào CSDL chung để LG có thể căn cứ vào đó điều chỉnh kế hoạch giao hàng,
bổ sung cho kế hoạch tiếp thị cũng như hoạch định các phương án kinh doanh.

Về mặt công nghệ, thực chất của mô hình này là doanh nghiệp xây dựng một
catalogue chung, các thành viên của doanh nghiệp theo chức năng của mình sẽ được
chia sẻ một phần catalogue chung đó, phần catalogue mà một thành viên được chia
sẻ sẽ được doanh nghiệp áp dụng chính sách riêng, không phụ thuộc vào các chính
sách áp dụng cho các thành viên khác. Như vậy tuy cùng một loại hàng nhưng các
thành viên khác nhau sẽ được doanh nghiệp dành cho các giá bán buôn khác nhau,
thời hạn thanh toán, số lượng, chủng loại hàng hoá, dịch vụ khác nhau, lãi suất quá
hạn khác nhau, hỗ trợ khác nhau... và các thông tin này là thông tin bí mật giữa
doanh nghiệp và đại lý, các đại lý khác không được biết.
Mô hình này, trong thực tế rất phong phú và không chỉ cho hệ thống đại lý,
có thể vận dụng cho cả kiểu mua đứt, bán đoạn nhưng nhiều lần. Hai điều kiện để
áp dụng cho mô hình này là các thành viên chia sẻ thông tin chung theo những quy
định riêng của doanh nghiệp và các hoạt động kinh doanh có tính chất lâu dài.
c)

Mô hình mua hàng thông qua tập hợp các nhà cung cấp

Về công nghệ, mô hình mua hàng qua các nhà cung cấp là mô hình ngược
với mô hình bán hàng qua hệ thống đại lý. Mô hình bán hàng qua hệ thống đại lý
doanh nghiệp xây dựng catalogue và thông tin chung rồi sau đó cho phép các thành
viên tham gia được chia sẻ. Mô hình mua hàng qua các nhà cung cấp thì doanh


nghiệp không xây dựng catalogue mà các thành viên xây dựng các catalogue riêng
của mình sau đó đặt vào "chợ chung" để tạo nên catalogue chung.
Mô hình này được sử dụng để kiên kết các nhà cung cấp riêng lẻ thành một
nhà cung cấp lớn và tạo nên sức mạnh xâm nhập thị trường. Ví dụ một làng nghề có
nhiều cơ sở sản xuất với nhiều mặt hàng khác nhau. Mỗi cơ sở sản xuất xây dựng
một catalogue sản phẩm riêng của mình và đặt tại site chung (chợ chung) của cả
làng. Chợ chung sẽ có hàng nghìn sản phẩm và sẽ đáp ứng đầy đủ nhất nhu cầu của

khách hàng khi họ ghé thăm. Tuy nhiên mô hình vẫn đảm bảo là khách lựa chọn sản
phẩm của cơ sở nào thì khách sẽ làm việc với cơ sở đó một cách riêng tư. Ở đây các
cơ sở đóng vai trò các nhà cung cấp.
d)

Mô hình hỗn hợp mở rộng extended site (XS)

Do trong thực tế một doanh nghiệp thường có nhiều khách hàng với các tính
chất công việc khác nhau, do vậy cần phải quản lý các khách hàng này khác nhau.
Mô hình hỗn hợp thường được sử dụng trong trường hợp này. Mô hình XS để người
bán hàng có thể tạo ra nhiều site nhằm vào các nhóm người sử dụng khác nhau. Ví
dụ, người bán hàng có thể tạo ra các site theo vùng địa lý, các site riêng cho khách
hàng lớn. Tất cả các site khác nhau được tạo ra này đều có thể chia sẻ các tài
sản chung như catalogue chẳng hạn, tại đó mỗi site tạo ra có thể chọn lựa một nhóm
con của catalogue và chỉ phần được chọn đó mới được hiển thị, nếu cần thiết có thể
thêm các thông tin riêng như giá cả, điều kiện giao hàng, thanh toán, khuyến
mãi...cho site con được tạo ra. Điều đó có tác dụng:
• Cho phép doanh nghiệp tạo ra nhiều chiến lược để sản phẩm/dịch vụ luôn
sẵn sàng đối với khách hàng.
• Doanh nghiệp có nhiều site trình diễn khác nhau mà khách hàng thấy như
là một site riêng biệt.
Doanh nghiệp có thể tạo các site theo :
o

Vùng địa lý

o

Mặt hàng



o

Phân đoạn thị trường

o

Khách hàng

Mỗi site thể hiện như là một site riêng duy nhất cho khách hàng truy nhập, mỗi
site có thể áp dụng quy định kinh doanh riêng. Ví dụ, các vùng địa lý khác nhau có
thể có qui định giá cả, điều kiện thương mại và mức thuế khác nhau.
Mô hình XS khởi tạo và quản lý một cấu hình dữ liệu chung, các site sẽ chia sẻ
và sử dụng chung. DN có thể tạo XS chứa tất cả các khai báo cần thiết đối với
khách hàng của mình để xác lập site duy nhất cho một thị trường đặc biệt.
Ví dụ: Doanh nghiệp sản xuất ô tô có thị trường tiêu thụ là Việt Nam (miền Bắc,
Trung, Nam) và xuất khẩu ra thế giới (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc ...); tham
gia vào sản xuất có các nhà cung cấp linh kiện, bán thành phẩm, nội thất; tham gia
vào quá trình phân phối có các nhà xuất khẩu, các đại lý, salon ôtô.
Khi tham gia TMĐT, doanh nghiệp sản xuất ôtô có thể mở thêm các site ngoài
site chính của mình như:
• Site cho nhà cung cấp săm, lốp
• Site cho nhà cung cấp trang bị nội thất, ghế, đệm
• Site cho nhà cung cấp dây, cáp, bảng mạch điện cho ô tô
• Site cho tổng đại lý tiêu thụ
• Site chuyên cho xuất khẩu
• Site chuyên giới thiệu sản phẩm mới …
Tuy mở nhiều site, nhưng DN sản xuất ô tô chỉ cần dùng 1 catalogue chung,
các site tuỳ theo yêu cầu mà sử dụng một phần tài nguyên của catalogue chung này.
Khi sử dụng chung catalogue, doanh nghiệp có thể khai báo để các site mở thêm

này (site phụ) phù hợp với yêu cầu kinh doanh. Ví dụ có thể đưa thêm vào site cho
tổng đại lý các chính sách, giá cả, khuyến mãi, lịch trình cấp hàng cũng như các yêu
cầu riêng về kinh doanh, các hỗ trợ về kỹ thuật ... để hỗ trợ cho quản lý, kinh doanh


một cách tích cực. Thực chất doanh nghiệp khi thực thi XS có thể kiến tạo site theo
yêu cầu riêng của mình và cấp quyền cho các site con do mình tạo ra.
Mô hình kinh doanh theo kiểu XS là một mô hình cho phép DN sử dụng tối
đa cơ sở vật chất của nhà cung cấp dịch vụ nhưng vẫn đảm bảo được bí mật kinh
doanh của mình như trường hợp đầu tư xây dựng mạng kết nối Internet riêng. Điều
này cho phép tiết kiệm chi phí và tăng hiệu quả. Ngoài ra nó có tác dụng thúc đẩy
nhanh phát triển của thương mại điện tử do những đòi hỏi về xây dựng cơ sở vật
chất, kỹ thuật (phần cứng, phần mềm, thiết bị đầu nối…) đã có những đơn vị
chuyên đảm nhận, doanh nghiệp có điều kiện tập trung cho công việc kinh doanh.
e)

Mô hình bán đấu giá

Bán đấu giá nhằm xác định tiềm năng của thị trường đối với một mặt hàng
hoặc xác định mức giá đối với một sản phẩm. Đôi khi nó còn dùng như một công cụ
xúc tiến thương mại cho sản phẩm mới.
Có nhiều kiểu bán đấu giá:


Open cry – tất cả các bidder (người tham gia đấu giá) biết các thông tin của
nhau.



Sealed bid – thông tin của các bidder chỉ người quản trị được biết, tất cả các

bidder không biết các thông tin về giá của nhau.



Dutch – Không yêu cầu bidder đặt giá khởi điểm mà người quản trị đặt giá
và thông báo tới các thành viên tham gia đấu giá để xem ai chấp thuận giá
này không. Thông thường sẽ đặt ra một giá cao sau đó giảm dần tới khi có
bidder đồng ý mua.

f)

Mô hình gọi thầu
Việc tổ chức đấu thầu là một quá trình công phu đòi hỏi phải chuẩn bị kỹ càng

và có sự tham gia của Nhà nước. Các văn bản pháp quy về đấu thầu còn phải được
cụ thể hoá trong trường hợp đấu thầu qua mạng. Đó là điều kiện và cũng là cơ sở để
đảm bảo hiệu quả của đấu thầu qua mạng. Hàn Quốc là nước có kinh nghiệm trong


tổ chức đấu thầu mua sắm công. Hàng năm họ thẩm định và phân loại các công ty
tham gia muốn tham gia đấu thầu thành các hạng khác nhau.
Khi gọi thầu, người gọi thầu công bố gói thầu đó dành cho doanh nghiệp hạng
nào và chủ các doanh nghiệp hạng đó muốn được tham gia. Các nhà thầu Download
hồ sơ mời thầu để nghiên cứu. Tại thời điểm mở thầu, các nhà thầu chỉ gửi qua
mạng đến bản chào gửi và các điều kiện thương mại khác theo quy định của hồ sơ
thầu. Việc xét thầu sẽ diễn ra một cách nhanh chóng, chính xác và minh bạch. Năm
2004, kinh phí của Hàn Quốc dành cho mua sắm công là 38 tỷ USD, 95% mua sắm
được đấu thầu qua mạng và tiết kiệm được 2,8 tỷ USD.
Biểu 3. Sự khác nhau giữa B2B và B2C
Đặc tính

Tỷ lệ tham gia
Độ phức tạp

B2C
Thấp đến trung bình
Đơn giản hơn - Tự

B2B
Cao đến rất cao
Phụ thuộc vào nhiều

quyếtđịnh mua
Kênh

quyết định
Thẳng đến

đối tượng
Qua nhiều

Thanh toán
Đặc điểm hàng hóa

tiêu dùng
Giá trị nhỏ
Chuẩn

của

người


trung

gian
Giá trị lớn
Chuẩn hoặc không

1.4.3. Mô hình giao dịch giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng ( C2C)
Phương thức giao dịch thương mại điện tử C2C diễn ra giữa các cá nhân
người tiêu dùng với nhau. Tuy nhiên, khác với thương mại điện tử B2C hoặc B2B là
những mô hình kinh doanh dựa trên doanh nghiệp và do doanh nghiệp làm động
lực, thương mại điện tử C2C phụ thuộc rất nhiều vào trình độ thương mại điện tử
của từng cá nhân tham gia giao dịch cũng như nhận thức và nhu cầu của người tiêu
dùng nói chung trong xã hội.
Tại Việt Nam, với sự phát triển của Internet, nhu cầu tìm kiếm, cung cấp
thông tin về hàng hoá và dịch vụ qua mạng ngày càng lớn. Trong vài năm gần đây,
một số website xây dựng theo mô hình thương mại điện tử C2C cũng đã xuất hiện ở


Việt Nam, chủ yếu dưới hai hình thức website rao vặt và website đấu giá. Do yêu
cầu kỹ thuật không phức tạp và đòi hỏi về trình độ thương mại điện tử đối với người
tham gia cũng không lớn, các website rao vặt phát triển với tốc độ khá nhanh, cả về
số lượng trang web cũng như lượng thông tin đăng trên từng trang. Đây là những
website thông tin về các loại hàng hóa và dịch vụ cần bán, cần mua, đi cùng với một
số tiện ích như tìm kiếm, tư vấn tiêu dùng, v.v...
1.5. Ảnh hưởng của thương mại điện tử :
1.5.1. Tác động đến hoạt động marketing
Nghiên cứu thị trường: Một mặt TMĐT hoàn thiện, nâng cao hiệu quả các
hoạt động nghiên cứu thị trường truyền thống, một mặt tạo ra các hoạt động mới
giúp nghiên cứu thị trường hiệu quả hơn. Các hoạt động như phỏng vấn theo nhóm,

phỏng vấn sâu được thực hiện trực tuyến thông qua Internet; hoạt động điều tra
bằng bảng câu hỏi được thực hiện qua công cụ webbased tiện lợi, nhanh và chính
xác hơn.
Hành vi khách hàng:Hành vi khách hàng trong thương mại điện tử thay đổi
nhiều so với trong thương mại truyền thống do đặc thù của môi trường kinh doanh
mới. Các giai đoạn xác định nhu cầu, tìm kiếm thông tin, đánh giá lựa chọn, hành
động mua và phản ứng sau khi mua hàng đều bị tác động bởi Internet và Web.
Phân đoạn thị trường và thị trường mục tiêu: Các tiêu chí để lựa chọn thị
trường mục tiêu dựa vào tuổi tác, giới tính, giáo dục, thu nhập, vùng địa lý... được
bổ sung thêm bởi các tiêu chí đặc biệt khác của TMĐT như mức độ sử dụng
Internet, thư điện tử, các dịch vụ trên web...
Định vị sản phẩm: Bên cạnh các tiêu chí để định vị sản phẩm như giá rẻ nhất,
chất lượng cao nhất, dịch vụ tốt nhất, phân phối nhanh nhất, việc định vị sản phẩm
ngày nay còn được bổ sung thêm những tiêu chí riêng của thương mại điện tử như
nhiều sản phẩm nhất, đáp ứng nhu cầu của cá nhân và doanh nghiệp nhanh nhất ...


Các chiến lược marketing hỗn hợp: Bốn chính sách của marketing là sản
phẩm, giá, phân phối, xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh cũng bị tác động của TMĐT.
Việc thiết kế sản phẩm mới hiệu quả hơn, nhanh hơn, nhiều ý tưởng mới hơn nhờ sự
phối hợp và chia sẻ thông tin giữa nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà cung cấp và
khách hàng.Việc định giá cũng chịu tác động của Thương mại điện tử khi doanh
nghiệp tiếp cận được thị trường toàn cầu, đồng thời đối thủ cạnh tranh và khách
hàng cũng tiếp cận được nguồn thông tin toàn cầu đòi hỏi chính sách giá toàn cầu và
nội địa cần thay đổi để có sự thống nhất và phù hợp giữa các thị trường. Việc phân
phối đối với hàng hóa hữu hình và vô hình đều chịu sự tác động của TMĐT, đối với
hàng hóa hữu hình quá trình này được hoàn thiện hơn, nâng cao hiệu quả hơn; đối
với hàng hóa vô hình, quá trình này được thực hiện nhanh hơn hẳn so với thương
mại truyền thống. Đặc biệt hoạt động xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh có sự tiến bộ
vượt bậc nhờ tác động của TMĐT với các hoạt động mới như quảng cáo trên

website, quảng cáo bằng e-mail, diễn đàn cho khách hàng trên mạng, dịch vụ hỗ trợ
khách hàng 24/7...
1.5.2. Thay đổi mô hình kinh doanh
Việc xuất hiện thương mại điện tử đã dẫn đến trào lưu hàng loạt doanh
nghiệp phát triển các mô hình kinh doanh từ truyền thống sang mô hình kinh doanh
thương mại điện tử như các Công ty Ford Motor, Dell Computer Corp… Bên cạnh
đó cũng đã hình thành các sàn giao dịch điện tử dạng B2B.
Với Ford, việc áp dụng TMĐT vào các hoạt động sản xuất kinh doanh đã
giúp công ty giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong phân phối hàng hoá. Hệ thống
cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ bởi các showroom trên
mạng, tiết kiệm được chi phí hàng tỷ USD từ giảm chi phí lưu kho.
Với Dell Computer Corp, áp dụng TMĐT trong các chiến lược thúc đẩy hoạt
động kinh doanh của công ty như lôi kéo các khách hàng đến với doanh nghiệp
bằng khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, sản xuất hàng theo yêu cầu
(được biết đến dưới tên gọi “chiến lược kéo”), v.v..


Với mô hình của Amazon.com, mua hàng theo nhóm hay đấu giá nông sản
qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của những thành công từ việc tạo
ra các lợi thế và giá trị mới cho khách hàng bằng TMĐT.
1.5.3. Tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh
Các hãng sản xuất lớn nhờ ứng dụng TMĐT có thể giảm chi phí sản xuất
đáng kể. Có thể phân tích một số mô hình để thấy rõ hiệu quả của TMĐT trong sản
xuất. Hàng loạt các dịch vụ ngân hàng điện tử được hình thành và phát triển mở ra
cơ hội mới cho cả các ngân hàng và khách hàng như Internet banking, thanh toán
thẻ tín dụng trực tuyến, thanh toán bằng thẻ thông minh, mobile banking, ATM...
hoạt động vận tải, bảo hiểm. Đặc biệt, đối với hoạt động ngoại thương, TMĐT có
những tác động hết sức mạnh mẽ do đặc thù của Internet là rộng lớn trên toàn cầu,
rất phù hợp với các giao dịch thương mại quốc tế. Mọi hoạt động trong quy trình
kinh doanh quốc tế đều chịu tác động của TMĐT.

1.6. Ứng dụng TMĐT ở Việt Nam:
Theo “Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2009” của Cục TMĐT và
CNTT (Bộ Công thương) nhiều doanh nghiệp đang gặp khó trong việc ứng dụng
thương mại điện tử bởi thiếu người chuyên trách.
Bản báo cáo cũng cho thấy, gần 100% doanh nghiệp được điều tra đã trang
bị máy tính và ứng dụng TMĐT ở nhiều mức độ khác nhau. Đáng chú ý, ngoài việc
tập trung triển khai phần mềm kế toán như các năm trước đây, đến năm 2009 các
doanh nghiệp đã sử dụng thêm nhiều phần mềm khác như quản lý nhân sự, quản lý
chuỗi cung ứng, quản lý khách hàng…
Cùng đó, mỗi doanh nghiệp có trung bình 21,5 máy tính, 86% kết nối băng
thông rộng, 10% sử dụng đường truyền riêng và 2% vẫn sử dụng Dial-up, 86%
doanh nghiệp sử dụng e-mail cho mục đích kinh doanh… Năm 2009, chi phí cho
TMĐT và CNTT chiếm khoảng 5% chi phí của các doanh nghiệp, có khoảng 33%


doanh thu của doanh nghiệp đến từ các đơn hàng đặt qua phương tiện điện tử, đồng
thời việc mua hàng qua các kênh điện tử cũng chiếm khoảng 28% chi phí.
Nếu tính theo địa bàn hoạt động, tỷ lệ các doanh nghiệp tại TP. HCM có cán
bộ chuyên trách về TMĐT là 43%, Hà Nội 31% và các địa phương khác là 27%.
Còn tính theo từng lĩnh vực thì doanh nghiệp thuộc CNTT đạt 62%, tài chính 52%
và thấp nhất là các lĩnh vực như khai khoáng (23%), xây dựng (21%) và nghệ thuật
là 13%. Đáng chú ý, việc các doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về CNTT và
TMĐT cũng ảnh hưởng lớn tới hiệu quả tham gia sàn giao dịch TMĐT của doanh
nghiệp. Thực tế kết quả điều tra cho thấy, có tới 71% doanh nghiệp đã thừa nhận
rằng hiệu quả tham gia sàn TMĐT rất thấp do họ không có cán bộ chuyên trách.
Các năm trước đây, khi mức độ đầu tư vào CNTT và TMĐT còn hạn chế,
các doanh nghiệp tự nhận thấy những vấn đề mang tính kỹ thuật như an ninh mạng,
hệ thống thanh toán là các trở ngại cao nhất. Tuy nhiên hiện nay, hai trở ngại lớn
nhất lại chính là môi trường kinh doanh và nhận thức của người dân về TMĐT (vẫn
còn e ngại và chưa mặn mà khi tham gia giao dịch TMĐT vì mức độ đảm bảo về

chất lượng, tính pháp lý trong giao dịch). Về thực trạng này, thông qua phiếu điều
tra, các doanh nghiệp cũng đã đề xuất phía cơ quan quản lý nhà nước cần đẩy mạnh
tuyên truyền, phổ biến để người tiêu dùng tin tưởng và biết đến lợi ích của TMĐT,
đồng thời cần nhanh chóng hoàn thiện các chính sách pháp luật liên quan đến
TMĐT như vấn đề chữ ký số, hoá đơn điện tử, giải quyết tranh chấp…
Báo cáo được thực hiện dự trên việc điều tra với 2004 doanh nghiệp trên cả
nước và dự kiến sẽ được công bố chính thức vào ngày 12/5/2010.
1.7. Tình hình xuất khẩu tiêu việt Nam cuối năm 2008 đầu năm 2009:
Tin từ Bộ Thương mại cho biết từ đầu năm đến nay các doanh nghiệp trong
nước đã xuất khẩu 59.000 tấn hạt tiêu, đạt kim ngạch 84 triệu USD (tăng 40% về
lượng và 44% về giá trị.
Việc nhu cầu thế giới tiếp tục tăng, nguồn cung hạt tiêu trên thị trường khan
hiếm, giá xuất khẩu cao và ổn định đã có tác động tốt đến giá thu mua hạt tiêu nội
địa.


Hiện giá thu mua hạt tiêu trong nước đã tăng lên trên mức 19.000 đồng/kg.
Riêng trong tháng 5/2006, các doanh nghiệp đã xuất khẩu 14.000 tấn hạt tiêu với
kim ngạch 20 triệu USD. Hiện Việt Nam đang nắm giữ một nửa thị trường hạt tiêu
thế giới và có mặt ở 73 quốc gia, nhiều nhất là Mỹ, các nước EU, vùng Trung Đông.
Hạt tiêu Việt Nam được các nước đánh giá đóng
vai trò quyết định trên thị trường thế giới. Tại một số
thị trường lớn, hạt tiêu Việt Nam chiếm vai trò chi
phối quan trọng, chẳng hạn như 33% tổng nhu cầu
tiêu thụ tại Mỹ và 40% tại EU. Gần đây, đã có doanh
nghiệp Nhật Bản sang Việt Nam đầu tư xây dựng nhà
máy chế biến hạt tiêu đưa về Nhật Bản tiêu thụ.
Việt Nam được bầu giữ chức Chủ tịch trong năm
2007. Vài ba năm trở lại đây nhiều doanh nghiệp đã
đầu tư các dây chuyền sản xuất tiêu sạch, chế biến hạt

tiêu, vì vậy chất lượng hạt tiêu Việt Nam đã cải thiện đáng kể, giảm dần việc xuất
khẩu hạt tiêu thô, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. Đồng thời, để nâng cao chất
lượng hạt tiêu, ngay từ khâu thu hoạch, người nông dân đã chú trọng đến việc thu hái
và bảo quản hồ tiêu.
Theo thống kê, diện tích trồng hạt tiêu của Việt Nam hiện lên tới 52.500 ha,
năng suất hạt tiêu ổn định ở mức 2,3 tấn/ha. Để nâng cao chất lượng và giá thành
xuất khẩu hạt tiêu, các doanh nghiệp xuất khẩu hạt tiêu được khuyến khích tăng
cường đầu tư khâu chế biến, nâng cao sản lượng hạt tiêu trắng.
Như vậy để ngành Hồ tiêu Việt Nam phát triển bền vững, VAP đã khuyến
cáo người dân không nên phát triển ồ ạt diện tích trồng tiêu. Kế hoạch của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn là ổn định diện tích hồ tiêu cả nước khoảng 50.000
ha và sản lượng ở mức 100.000 tấn/năm. Đẩy mạnh mô hình liên kết 4 nhà (nhà
nước, doanh nghiệp, nông dân và nhà khoa học) để hỗ trợ người dân đầu tư nâng
cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành để tăng sức cạnh tranh.


CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG TMĐT TẠI CÔNG TY INTIMEX
HOCHIMINH
2.1. Giới thiệu công ty:
Công ty Cổ phần XNK INTIMEX
Trụ sở: 61 Nguyễn Văn Giai, Phường Đakao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: +84-8-38201754 / 38208052 Ext: 16
Fax: +84-8-38201998
E-mail:
2.1.1. Lịch sử hình thành:
Công ty Cổ phần Xuất Nhập Khẩu Intimex (Intimex Hochiminh) tiền
thân là Chi nhánh Công ty Xuất Nhập Khẩu Intimex tại TP. HCM, được thành lập
vào tháng 9 năm 1995. Intimex Hochiminh bước vào hoạt động dưới hình thức công
ty cổ phần từ ngày 01 tháng 07 năm 2006 và đang quản lý hàng chục công ty cổ
phần chi phối và các chi nhánh ở Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Buôn Ma Thuột,

Gia Lai, Lâm Đồng, Bình Dương, Tây Ninh, Cần Thơ… Năm 2008, Intimex
Hochiminh được xếp hạng 5 trong 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam với
tốc độ tăng trưởng về kim ngạch và doanh thu bình quân từ 20-50%/năm. Kim
ngạch xuất nhập khẩu bình quân hàng năm của Intimex Hochiminh đã vượt 300
triệu USD, doanh thu đạt trên 7.000 tỉ đồng.
Trong lĩnh vực xuất khẩu, Intimex Hochiminh đã trở thành doanh nghiệp
hàng đầu Việt Nam về xuất khẩu cà phê, hạt tiêu với số lượng xuất khẩu bình quân
từ 120.000 – 150.000 tấn cà phê/năm (chiếm 15% lượng cà phê xuất khẩu của cả
nước) và từ 7.000 – 10.000 tấn tiêu/năm (chiếm 10% lượng tiêu xuất khẩu của cả
nước). Ngoài ra, Intimex Hochiminh còn đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông
sản khác như: gạo, hạt điều, cao su, sắn lát, tinh bột sắn…


Trong lĩnh vực nhập khẩu, Intimex Hochiminh đang là doanh nghiệp hàng
đầu Việt Nam về nhập khẩu thực phẩm đông lạnh với số lượng hàng ngàn tấn/tháng
Intimex Hochiminh đã xây dựng nhà máy chế biến tiêu xuất khẩu hiện đại
theo tiêu chuẩn ASTA cùng nhà máy chế biến cà phê chất lượng cao tại Bình
Dương và sẽ tiếp tục xây dựng những nhà máy tương tự tại các tỉnh Tây Nguyên…
Intimex Hochiminh đã nhiều năm liền nhận được những giải thưởng quan
trọng do Bộ Công Thương, Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn cùng các tổ
chức có uy tín khác trao tặng. Đó chính là một trong những đánh giá xác thực về sự
thành công cũng như uy tín của Công ty.
Bên cạnh những thành tích trên của Intimex Hochiminh, ông Đỗ Hà Nam –
Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị, Tổng Giám đốc Công ty– còn được tín nhiệm bầu làm
Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA), Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê – Ca cao
Việt Nam (VICOFA).
 Sơ đồ tổ chức:


 Thành tích Công ty:

-Kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh thu qua các năm:
N
ăm
2
000
2
001
2
002
2
003
2
004
2
005
2
006
2
007
2
008
2

Kim ngạch XNK (USD)

Tổng doanh thu (tỷ đồng)

40.537.231,35

532,014


34.906.826,17

524,154

42.506.662,49

665,216

71.986.805,80

1.156,307

98.902.541,17

1.673,850

105.625.162,13

1.869,159

191.065.942,32

3.565,280

291.747.869,67

5.202,000

314.813.407,00


7.191,000

277.394.920,00
7.462,230
009
 Các giải thưởng Intimex Hochiminh đã đạt được trong năm 2008:
1. Giải thưởng "Doanh nghiệp phát triển bền vững" do Bộ Công thương
phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh trao tặng;
2. "Top 15 Doanh nghiệp Thương mại Dịch vụ xuất sắc năm 2008" theo
bình chọn của Bộ Công thương và báo Công thương;
3. Được bình chọn là doanh nghiệp tư nhân lớn thứ 5 ở Việt Nam năm 2008
theo bảng xếp hạng VNR500 - TOP 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam do Báo
VietNamNet kết hợp với Công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam


×