Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Ngôn từ thơ thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954) nhìn từ bình diện ngữ nghĩa và ngữ dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.59 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƢỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN DUY PHƢƠNG

NGÔN TỪTHƠTHỜI KỲKHÁNG CHIẾN CHỐNG
PHÁP (1946-1954)NHÌN TỪBÌNH DIỆN NGỮNGHĨA
VÀ NGỮDỤNG

Chun ngành: Ngơn ngữhọcMã số: 60 22 02 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Đinh Văn Đức
HÀ NỘI –2016


MỤC LỤCTrang
MỞĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề..................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu........................................................................................8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................8
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu......................................................8
6. Giá trị khoa học và giá trị thực tiễn..................................................................9
7. Cấu trúc luận văn...........................................................................................10
NỘI
DUNG.......................................................................................................11Chƣơng
một.CƠ SỞ LÝ LUẬN.....................................................................11
1.1. Quan niệm thơ........................................................................................11
1.2. Ngôn từthơ.............................................................................................13
1.2.1. Ngơn từ-chấtliệu duy nhất đểxây dựng hình tượng của văn chương13
1.2.2. Phân biệt ngôn ngữvà ngôn từ.............................................................14


1.2.3. Ngôn ngữvăn học và ngôn ngữthơ......................................................15
1.3. Những cơ sởlý luận ngữnghĩa học......................................................16
1.3.1. Lý luận của Jakobson vềthi pháp.........................................................17
1.3.2. Diễn ngôn và phân tích diễn ngơn thơ..................................................20
1.3.3. Tình thái trong ngơn ngữthơ................................................................24
1.4. Nhữngcơ sởlý luận ngữdụng học.......................................................26
1.4.1. Ngữcảnh và thơ....................................................................................27
1.4.2. Chiếu vật, chỉxuấtvà thơ.....................................................................28
1.4.3. Hành động ngôn từvà thi pháp thơ.....................................................28
1.5. Thành tựu nổi bật của thơ thời kì kháng chiến chống Pháp (19461954)................................................................................................................29


1.6. Tiểu kết....................................................Error! Bookmark not defined.Chƣơng
hai.NGƠN TỪ THƠ THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (19461954)NHÌN TỪ BÌNH DIỆN NGỮ NGHĨAError!
Bookmark
not defined.
2.1. Chất thơ trong thơ chống Pháp............Error! Bookmark not defined.
2.2. Cảm xúc trong thơ trong thơ chống PhápError!

Bookmark

2.2.1. Tính nhạc tạo nên cảm xúc trong thơ chống PhápError!
defined.
2.2.2. Tính hội họa trong thơ trong thơ chống PhápError!
defined.

not defined.
Bookmark not

Bookmark not


2.2.3. Cảm xúc trong thơ được bộc lộthông qua việc xây dựng hình
tượng.........................................................................Error! Bookmark not defined.
2.3. Các biện pháp tình thái.........................Error! Bookmark not defined.
2.3.1. Nghĩa tình thái.......................................Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Các phương tiện diễn đạt nghĩa tình tháiError!
defined.

Bookmark

not

2.4. Tiểu kết....................................................Error! Bookmark not defined.
Chƣơng ba.NGƠN TỪ THƠ THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
(1946-1954)NHÌN TỪ BÌNH DIỆN NGỮ DỤNGError!
Bookmark
not
defined.
3.1. Ngữcảnh.................................................Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Nhân vật giao tiếp.................................Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Bối cảnh ngoài ngôn ngữ......................Error! Bookmark not defined.
3.1.3. Văn cảnh................................................Error! Bookmark not defined.
3.2. Biện pháp tăng hiệu lực tại lời..............Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Tăng hiệu lực tại lời nhờcác biện pháp tu từtừvựngError! Bookmark not
defined.
3.2.2. Tăng hiệu lực tại lời nhờcác biện pháp tu từcú pháp..................Error!
Bookmark not defined


.3.2.3. Tăng hiệu lực tại lời nhờsửdụng đa dạng các kiểu câu...............Error!

Bookmark not defined.
3.3. Chức năng tác động của thơ..................Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Hành động bày tỏ..................................Error! Bookmark not defined.
3.3.2. Hành động miêu tả...............................Error! Bookmark not defined.
3.3.3. Hành động cảnh báo, đe dọa................Error! Bookmark not defined.
3.3.4. Hành động trấn an (giải tỏa)................Error! Bookmark not defined.
3.3.5. Hành động khen ngợi............................Error! Bookmark not defined.
3.3.6. Hành động kể........................................Error! Bookmark not defined.
3.3.7. Hành động tuyên bố(khẳng định)........Error! Bookmark not defined.
3.3.8. Hành động kêu gọi, cổđộng.................Error! Bookmark not defined.
3.3.9. Hành động thúc giục, điều khiển..........Error! Bookmark not defined.
3.4. Tiểu kết....................................................Error! Bookmark not defined

.KẾT LUẬN....................................................Error! Bookmark not defined.TÀI
LIỆU THAM KHẢO

BẢNG CÁC KÍ TỰVIẾT TẮT


DN: Diễn ngơn
HĐNT:Hành động ngơn từ
NNTT:Ngơnngữtruyền thơng
PTDN:Phân tích diễn ngơn

MỞĐẦU


1.Lý do chọnđề tài 1.1. Trong quá trình 30 năm phát triển của văn học cách mạng
(1945-1975), giai đoạn văn học 1945-1954 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ðây vừa
là thời kỳmởđầu, đắp nền cho văn học mới vừa là bước chuyển tiếp lịch sửghi nhận

nhiều thay đổi triệt đểvà sâu sắc, từquan niệm nghệthuật cho tới thực tếsáng tác.
Vượt qua những thửthách khắc nghiệt của hoàn cảnh chiến tranh, văn học chín
năm kháng chiến chống Pháp đã khẳng định sựtồn tại và phát triển với tầm vóc
xứng đáng. Tuy những thành tựu cịn ởmức độban đầu nhưng đóng góp chính của
nó là mang đến một sắc thái độc đáo, làm bừng lên khí thếmới chưa từng có trong
đời sống văn học dân tộc.1.2.Thơ là một thểloại văn học truyềnthống của dân tộc
Việt Nam. Đây cũng là một thểloại đạt nhiều thành tựu và đểlại nhiều tác phẩm
hay trong quá trình hình thành và phát triển. Là một thểloại văn học nằm trong
phương thức trữtình nhưng bản chất của thơ lại rất đa dạng, với nhiều biến thái và
màu sắc phong phú. Thơ tác động đến người đọc vừa bằng tựnhận thức cuộc
sống vừa bằng khảnăng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm xúc cụthể,
vừa gián tiếp thông qua liên tưởng và những tưởng tượng phong phú, vừa theo
những mạch cảm nghĩ,vừa bằng sựrung động của ngôn từgiàu nhạc điệu.Thơ gắn
với cuộc sống khách quan, gắn với chiều sâu thếgiới nội tâm. Thơ ca thời kì
kháng chiến chống Pháp (1946–1954) là thểloại phát triển thành cao trào mạnh
hơn cảvới nhiều thành tựu nổi bật. Truyềnthống yêu thơ của dân tộc và đặc điểm
lịch sửcụthểcủa chín năm kháng chiến đã quyết định thực tếấy. Thơ ca tiếp tục gắn
bó với đời sống buồn vui, lúc hạnh phúc cũng như khi gian lao, vất vảcủa con
người Việt Nam. Nhà phê bình Hồi Thanh đã có nhận xét xác đáng: Hầu hết
những người mang balô lặng lẽđi trên các nẻo đường kháng chiến trong một
quyển sổtay nào đó thếnào cũng có ít bài thơ... Trong cuộc chiến tranh nhân dân
của chúng ta, tiếng súng, tiếng nhạc, tiếng thơ cùng hịa điệu [83,tr.357].
Thơ ca 1946-1954 ln gắn bó chặt chẽ, phản ánh chân thực và sinh động hiện
thực kháng chiến hào hùng. Lần giởnhững trang thơ, có thểgặp lại bước đường
của lịch sử. Khác với thơ lãng mạn trước đó, thơ ca kháng chiến phát triển trên
nền hiện thực tâm trạngcủa nhân dân. Từchỗthơ Mới chỉbộc lộc cái Ðẹp trong
từng con người riêng lẻ, trường cảm xúc giờđây được mởrộng; phạm vi phản ánh
cũng bao gồm từnơi sâu kín tâm hồn người cho tới khoảng rộng bao la của cảđất
nước, dân tộc.Thơ kháng chiến chống Pháp (1946-1954) đã tiếp thu và kếthừa
thành tựu của Thơ mới trên nhiều phương diện trong đó có thành tựu vềngơn

ngữvà đưa nó đến một cấp độmới, vào lúc phong trào Thơ mới đã lụi tàn. Thời kì
đầu, thơ kháng chiến cịn hơi hướng ngơn ngữcũ, sau này nó tựđiều chỉnh vừa
kếthừa thành tựu ngơn ngữcủa Thơ mới, vừa tiến xa hơn một bước, đưa ngôn
ngữthơ từchỗcủa một sốtầng lớp trởthành ngôn ngữcủa sốđông người dân Việt


Nam.1.3.Ngơn ngữmang trong tất cảtính chất thẩm mỹcủa nó là chất liệu, là
phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Khơng có ngơn từthì
khơngthểcó tác phẩm văn học.Trong tác phẩm văn học ngơn từlà phương tiện
đểcụthểhóa và vật chất hóa sựbiểu hiện của chủđềtư tưởng, nội dung, cảm xúc,
tâm trạng nhân vật trữtình...Ngơn từnghệthuật trong tác phẩm văn học là ngơn
từtồn dân đã được nghệthuật hóa. Ngơn từđã đượcchọn lọc, gọt rũa, trau chuốt
và đặc biệt ngôn từấy phải đem lại cho người đọc những cảm xúcthẩm mỹ, xúc
cảm được nhận biết thông qua những rung động tình cảm. Từgóc độloại hình, thơ
là thểloại thuộc loại hình trữtình, hiện thực trong thơ là hiện thực tâm trạng. Tiếng
nói trong thơ là tiếng nói của tình cảm. Ngơn từthơ là một hiện tượng nghệthuật.
Theo M. Bakhtin “Ngôn ngữthơ là ngơn ngữcủa anhta, anh ta làm chủnó triệt đểvà
khơng chia sẻ, sửdụng từng hình thái, từng từngữ, từng thành ngữtheo mục đích
trực tiếp... như những biểu hiện thuần khiết và trực tiếp ý đồcủa mình” [62, tr.
115].Ngơn từthơ thường mang đậm dấu ấn chủquan của nhà thơ. Roman
Jakobson cũng cho rằng “Ngôn ngữthơ không thay thế
đơn giản đối tượng được chỉđịnh, cũng không trởthành dấu hiệu vô hồn của hiện
thực, ngơn từthơ chịu sựthống trịcủa chức năng thơ, tính thơ, nó có trọng lượng
riêng, giá trịriêng” [72, tr. 18].1.4.Nghiên cứu thơ nói chung và nghiên cứu thơ
thời kì kháng chiến chống Pháp (1946–1954) nói riêng, từtrước đến nay các nhà
nghiên cứu, phê bình đã có nhiều cơng trình và đạt được những thành tựu lớn. Xét
trên bình diện lý luận, ngôn ngữthơ được nghiên cứu trên nhiều mặt: thi phápthơ,
cảm thụthơ, tổchức ngơn ngữ, cấu trúc hình tượng thơ,đặc trưng của thơ, thểloại
thơ, đặc điểm loại hình,chữvà nghĩa trong thơ... Trên cơ sởnghiên cứu ấy, các tác
giảđã làm rõ vẻđẹp vềnội dung, vềhình thức, vềgiá trịvà những đóng góp của thơ

ca kháng chiến chống Pháp (1946-1954) cho văn học Việt Nam nói chung và cho
văn học cách mạng nói riêng. Tuy nhiên cịn rất ít người nghiên cứu thơ thời kì
kháng chiến chống Pháp (1946–1954) trên phương diện ngơn từthơ, đặc biệt là
soi chiếu từgóc nhìn ngữnghĩa học và ngữdụng học.Nghiên cứu ngơn từthơ thời
kì kháng chiến chống Pháp (1946-1954) nhìn từbình diện ngữnghĩa và ngữdụng
đến nay vẫn cịn là khoảng trống địi hỏi được nghiên cứu đểcó cái nhìn sâu sắc
hơn,tồn diện hơn vềthơ.Hướng nghiên cứu này với mục đích sẽgóp phần làm rõ
hơn cách nhìn vềthơ thời kì kháng chiến chống Pháp (1946–1954) trên hai bình
diện ngữnghĩa và ngữdụng.Đồng thời cũng đem đến cho người đọc có cái nhìn
chân xác hơn vềthơ thời kì kháng chiến chống Pháp (1946–1954).2. Lịch sử vấn
đềThơcathời kì kháng chiến chống Pháp (1946-1954) đã cách chúng ta một
khoảng thời gian dài:hơn 60 năm. Trong suốt thời gian ấy, nhiều cơng trình nghiên
cứu vềthơ thời kì kháng chiến chống Pháp trên cảhai góc độ(góc độvăn học và góc


độngôn ngữhọc) đạt được những thành tựu cơ bản. Quá trình triển khai đềtài,
chúng tơi đã tập hợp một khối lượng lớn các cơng trình nghiên cứu vềthơ thời kì
kháng chiến chống Pháp (1946-1954), từđó tập trung vào các ý kiến, luận giải,
đánh giá vềngôn từthơ chống Pháp. Trong phần Lịch sửvấn đềchúng tơi chỉnêu
những cơng trình, chun luận, những bài báoliên quan gần và trực tiếp đến thơ và
ngôn từthơ thời kì kháng chiến chống Pháp (1946-1954).Nói đến những cơng trình
nghiên cứu ngơn ngữthơ, trước hết có thểnói đến các nhà hình thức Nga như
Roman Jakobson, V. Girmunski. Đặc biệt cơng trình Ngơn ngữhọc và thi học
củaRoman Jakobson là cơng trình cơng phu đi sâu nghiên cứu các yếu tốngơn
ngữcấu thành nhịp điệu thơ, phân tích chức năng ngơn ngữthông qua các đơn vịcấu
trúc hệthống. Những quan điểm nghiên cứu của Roman Jakobson vềchức năng của
ngơn ngữthơ có vai trò như một cánh cửa gợi mởcho các nhà nghiên cứu bước
sang một con đường nghiên cứu thơ ViệtNamtheo hướng thi pháp học kết hợp với
lý thuyết vềchức năng ngôn ngữthơ.Ngôn ngữvăn học đã được đềcập ngắn gọn
trong các giáo trình tu từhọc, phong cách học tiếng Việt hiện đại của các tác giả:

Cù Đình Tú, Đinh Trọng Lạc, Đào Thản, Nguyễn Thái Hịa, Hồng Trọng
Phiến...Các cơng trình nghiên cứu văn học, đặc biệt là ngôn ngữthơ ca đã được các
nhà lý luận, phê bình chun nghiệp, có uy tín trong giới văn chương như Thiếu
Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Hải Triều...đi sâu tìm tịi, khám phá. Hồi
Thanhcịn rất trẻvà đi “tìm cái đẹp trong nghệthuật đã trởthành lí tưởng của
cuộc đời ông”. Trong bài giới thiệu“Một thời đại trong thi ca”, ơng đã có những
khái qt sâu sắc vềphong tràoThơmới, từnguồn gốc, quá trình hình thành, các
giai đoạn phát triển, các xu hướng [84,tr. 38]. Cuốn sáchNói chuyện thơ kháng
chiến(1951) tập hợp những bài nói chuyện vềthơ của Hồi Thanh trước đơng đảo
cơng chúng trên những nẻo đường đầy gian lao mà anh dũng của cuộc kháng chiến
chống Pháp. Trước sau Hoài Thanh vẫn là một nhà nghệsĩ dạt dào tình cảm dân
tộc, đồng bào và thiết tha yêu thương quê hương đất nước. Với sựđồng cảm sâu xa,
Hồi Thanh ln khẳng định “nội dung của thơ ca kháng chiến là tình u nước, và
khơng có gì ngồi tình u nước, khơng có gì ngồi những phương diện của tình
yêu nước”[80,tr.136]
Năm 1965, trong chuyên luận Thơ ca Việt Nam –hình thức và thểloại Bùi Văn
Nguyên, Hà Minh Đức đã có cái nhìn sâu hơn vềhình thức thơ. Đến năm 1987, tác
giảVương Trí Nhàn đã khái quát “Bốn mươi năm pháttriển ngôn ngữvăn học” (In
trong tập tiểu luận Một thời đại văn học mới, Nguyễn Đăng Mạnh chủbiên).
Khi đềcập đến ngôn ngữthơ, tác giảchỉra những thành tựu và cảnhững hạn chếtrong
ngơn từthơ mới. Trần Đình Sửgắn với xu hướng nghiên cứu, phê bình theo hướng


thi pháp học hiện đại. Trần Đình Sửlà người đi tiên phong trong việc giới thiệu một
cách hệthống và đầy đủthi pháp học hiện đại với tư cách một bộmôn khoa học từlý
thuyết đến diện mạo, tinh thần, thao tác nghiên cứu. Cuốn giáo trình “Dẫn luận
thi pháp học”, “Những vấn đềthi pháp học hiện đại”được coi là những cuốn lý
thuyết thi pháp uy tín nhất hiện nay. Khơng chỉcó tầm bao qt lý thuyết, Trần
Đình Sửcịn là người đi tiên phong trong việc áp dụng lý thuyết vào thực tiễn.
Những cuốn sách như “Thi pháp thơ TốHữu”, “Những thếgiới nghệthuật thơ”,

“Mấy vấn đềthi pháp văn học trung đại Việt Nam”, “Thi pháp Truyện Kiều”... đã
cho thấy điều đó. Chuyên luận Thi pháp thơ TốHữu, nhà nghiên cứu Trần Đình
Sửđã có những nhận xét khái quát về“khảnăng giao tiếp trực tiếp” của thơ: “Thơ
mới sửdụng giọng điệu trực tiếp của lời nói, của tiếng kêu, tiếng than tạo thành
thơ trữtình điệu nói” [73, tr. 43]. Ngơn ngữthơ(2006) của Nguyễn Phan Cảnh là
một cơng trình nghiên cứu đi sâu vềngơn ngữthơca. Tác giảđi từngơn ngữgiao
tếđến ngơn ngữnghệthuật. Ơng phân biện nghệthuật ngơn ngữvà các loại hình
nghệthuật khác. Trên cơ sởđó, cơng trình đi sâu nghiên cứu ngơn ngữthơ và ngơn
ngữvăn xi, chỉra sựkhác biệt giữa chúng. Tác phẩm còn đi sâu nghiên cứu các tín
hiệu đơn, cáchtổchức kép các lượng ngữnghĩahay bản chất các phương thức
chuyển nghĩa có tính ẩn dụ, lắp ghép hay bản chất các phương thức chuyển nghĩa
có tính chất hốn dụ, nét khu biệt và nét dư trong ngôn ngữthơ. Theo Nguyễn
Phan Cảnh “Nếu bằng cách nào đấy mà tạo ra được những nét dư nhân tạo cho
văn bản thơ, thì chúng ta sẽcó được các điều kiện giúp giải mã dễdàng và chính xác
cho thứngơn ngữấy” [4, tr. 147].
Cơng trình Ngơn ngữthơ Việt Namcủa Hữu Đạt là chun luận mang tính chun
biệt vềngơn ngữthơ. Đặc biệt trong “Vài nhận xét vềsựphát triển của ngôn ngữthơ
ca Việt Nam hiện đại”, tác giảđã có những đánh giá xác đáng: “Tiếp tục thơ ca
truyền thống, thơ ca hiện đại Việt Nam mấy chục năm trởlại đây có nhiều bướctiến
đáng kể. Trong tất cảnhững thay đổi lớn lao đó phải kểđến sựthay đổi vềngôn ngữ.
Thực hiện bước ngoặt đầu tiên chính là đónggóp của phong trào Thơ mới” [21,
tr.215]. Năm 2004, tổng kết Thơ Việt Nam thếkỷXX (in trong Văn học Việt Nam
thếkỷXX-Những vấn đềlịch sửvà lý luận, Phan CựĐệchủbiên), Mã Giang Lân đã
khái quát lại “Sựvận động của ngôn ngữthơ” và khẳng định: “Qua mỗi giai đoạn
phát triển của thơ, ngôn ngữthơ cũng không ngừng biến đổi”. Tác giảnhận xét: “Ý
thức khẳng định cá thể, cá tính, tựdo tìm tòi, thểhiện nội tâm buộc các nhà thơ
trong phong trào Thơ mới tìm chữ, tìm câu đểdiễn tảđúng những rung động tinh
tếcủa tâm hồn một cáchsinh động và chân thành...” [56, tr. 508-515].Trong tác
phẩm “Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngơn ngữhọc”, Mai Ngọc Chừđã khẳng
định được vai trị của ngơn ngữhọc trong việc nghiên cứu thơ. Cơng trình đã khai



thác triệt đểvấn đềvần thơ Việt Nam: chức năng của vần, mối quan hệcủa nó với
các yếu tốkhác, đơn vịhiệp vần, hai mặt đồng nhất và khác biệt của vần thơ, vai trò
và quy luật phân bốcác yếu tốcấu tạo âm tiết tiếng Việt trong việc tạo lập vần thơ,
vấn đềphân loại vần, vịtrí và sựhoạt động của các loại vần trong các thểthơ,
khổthơ, vần xét vềmặt hòa âm.Thơ Việt Nam và mấy vấn đềtrong thơ Việt Nam
hiện đại(2010) của Hà Minh Đức là một cơng trình có nhiều giá trịcảvềmặt lý luận
và thực tiễn. Cơng trình đi từvấn đềlý luận vốn xưa nay đã được bàn đến “Xác
định một quan niệm đúng đắn vềthơ”. Ông cho rằng “Xác định được một quan
niệm chung, một định nghĩa vềthơ là một vấn đềcần thiết. Người ta đã bàn nhiều
vấn đềvềthơ nhưng thực ra ý kiến vẫn có nhiều điểm khác nhau, thậm chí đối lập
nhau và thực sựvẫn chưa có một định nghĩa hồn chỉnh vềthơ” [29, tr. 14].Khơng
dừng lại ởđó, cơng trình đi sâu bàn luận vềcác nội dung: nhà thơ, cái tơi và nhân
vật trữtình trong thơ; Tính khuynh hướng của thơ ca; Cảm xúc và suy nghĩ trong
thơ; Vấn đềphản ánh
hiện thực trong thơ; Truyền thống và sáng tạo trong thơ; Hình thức của thơ.
ChếLan Viên trong lời đềtựa vềcuốn sách đã nói “Những tác phẩm như thếnày
thật cần biết bao nhiêu. Chỉvì, mới hơm qua đây, những quyển như thếkhơng thấy
có mấy, gần như là khơng có” [29, tr. 12].Năm 2011, cơng trình Ngơn ngữvăn
chươngcủa Hồng Kim Ngọc(chủbiên) và Hồng Trọng Phiến đã đi sâu nghiên
cứu ngơn ngữvăn xi và ngơn ngữthơ. Trong đó, khi nghiên cứu ngơn ngữthơ
cơng trình tập trung vào những nét trội, khu biệt: vần điệu, nhịp điệu và các biện
pháp tu từthuộc ba cấp độcủa ngôn ngữngữâm, từvựng -ngữnghĩa và cú pháp.Tác
phẩm Ngơn ngữvới văn chương của tác giảBùi Minh Tốn đã đi sâu nghiên cứu
một sốvấn đềthuộc vềngôn ngữ, văn chương và mối quan hệgiữa chúng. Tác phẩm
nghiên cứu quan niệm vềngơn ngữ, các chức năng của nó, những đặc tính
nghệthuật văn chương trong hệthống các loại hình nghệthuật. Sau đó đi sâu nghiên
cứu, có cái nhìn so sánh giữa giao tiếp ngơn ngữđời thường và giao tiếp trong văn
chương; tìm hiểu tín hiệu ngơn ngữđến tín hiệu thẩm mĩ trong văn chương và từđó

đưa ra cách cảm thụvà phân tích nghệthuật văn chương.Năm 2014,
NguyễnThịPhương Thùy có cơng trình “Xu hướng tựdo hóangơn ngữthơ Việt
Nam thếkỉXX”. Tác giảđã sửdụng kiến thức vềngơn ngữhọc đểxem xét, phân tích,
đánh giá thơ Việt Nam trong một giai đoạn nổi bật của lịch sửvăn học nước nhà
-thơ Việt Nam thếkỉXX. Bên cạnh đó vấn đềngơn từThơ mới còn được quan tâm
tới trong các chuyên luận, các cơng trình chun biệt vềtác giả, tác phẩm.Tuy
nhiên, trong tất cảcác cơng trình mà chúng tơi kểtrên, hiện nay chưa có cơng trình
nào đi sâu nghiên cứu thơ trên bình diện ngữnghĩa và ngữdụng. Vì vậy, nghiên cứu


thơ nhất là nghiên cứu ngơn từthơ thời kì chống Pháp (1946-1954) trên bình diện
ngữnghĩa và ngữdụng là sựtìm tịi, khám phá mới.

3. Mục đích nghiên cứuLuận văn đi sâu tìm hiểu ngơn từthơ thời kì kháng chiến
chống Pháp (1946-1954) nhìn từbình diện ngữnghĩavà ngữdụngvới mong muốn có
cái nhìn đầy đủhơn vềngữnghĩa và ngữdụng của ngôn từthơ thời chống Pháp. Bên
cạnh đó luận văn mong muốn đưa ra một cái nhìn sâu hơn, tồn diện hơn vềngơn
từthơ, đặc biệt là cái nhìn từbình diện ngữnghĩa học và ngữdụng học. Qua đó muốn
đặt ra một vấn đềvềnghiên cứu văn học trong nhà trường phổthông và đại học (nhất
là với khoa ngữvăn), nghiên cứu các tác phẩm văn chương nói chung và nghiên
cứu thơ nói riêng cần chú trọng trên cảhai bình diện ngữnghĩa và ngữdụng.4. Đối
tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Như đã trình bày ởtrên,
luận văn lựa chọn “ngơn từthơ thời kì kháng chiến chống Pháp (1946–1954)” làm
đối tượng nghiên cứu.4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu đối
tượng ởphạm vi ngữnghĩa và ngữdụng.5. Phương pháp nghiên cứuvà nguồn tài
liệu5.1. Phương pháp nghiên cứuThực hiện đềtài này, ngoài những phương pháp,
thủpháp nghiên cứu khoa học ngôn ngữchung, luận văn sửdụng một sốphương
pháp nghiên cứu chủyếu sau:Phương pháp phân tích diễn ngơn trên bình diện
ngữnghĩa: tiến hành nghiên cứucác văn bản thơ, phân tích các chức năng, thơng



điệp liên nhân và chức năng tác động.Phương pháp phân tích dụnghọc: tiến hành
phân tích ngữcảnh, phân tích dụng học văn hóa qua các hành động ngơn từ, phân
tích hành động ngôn từtrong các diễn ngôn thơ.
Phương pháp miêu tả, phân loại và hệthống hóa: phương pháp này dùng đểxác
định tập hợp các đặc trưng khu biệt của ngôn từthơ nhìn từhai bình diện ngữnghĩa
và ngữdụng.Phương pháp thống kêngơn ngữhọc: phương pháp này được sửdụng
đểxửlí ngữliệu như thu thập ngữliệu, thống kê ngữliệu.Phương pháp nghiên cứu
ngơn ngữvăn học từcác bình diện văn hóa, tín hiệu thẩm mỹ.5.2. Nguồn tư
liệuLuận văn sửdụng nguồn tư liệu vềthơ thời khì chống Pháp (1946-1954) được
chọn lọc từ:Văn học Việt Nam thếkỷXX (Thơ ca 1945-1975), Quyển bốn (Lưu
Khánh Thơ chủbiên, 2010), từtập VIIđến tập XIII, NXB Văn học, Hà Nội.Thơ Việt
Nam, tuyển tập 1945-1956(1956), NXB Văn nghệ, Hà Nội.Tuyển tập thơ Việt
Nam1945-1960(1960), NXB Văn học, Hà Nội.6. Giá trị khoa học và giá trị thực
tiễnVềlý thuyết:Ngữnghĩa và ngữdụng là hai lĩnh vực quan trọng của ngơn
ngữhọc. Tìm hiểu ngơn từthơ thời kì kháng chiến chống Pháp (1946-1954) từgóc
độlý thuyết ngữnghĩa và ngữdụng sẽgóp thêm một cơng trình vận dụng ngữnghĩa
và ngữdụng vào nghiên cứu ngơn ngữ. Đềtài góp phần làm rõ thêm một sốvấn
đềngơn từthơ nhìn từbình diện ngữnghĩa (chất thơ, cảm xúc trong thơ, vấn đềtình
tháitrong thơ) và ngơn từthơ nhìn từbình diện ngữdụng(ngữcảnh trong thơ,biện
pháp tăng hiệu lực tại lời và chức năng tác động của thơ).Thực hiện đềtài này,
người viết mong muốn có sựlý giải xác đáng, khoa học vềvấn đềngữnghĩa,
ngữdụng của ngơn từthơ thời kì chống Pháp, góp phần làm sáng tỏgiá trịcủa thơ ca
thời kì này.
Vềthực tiễn: Kết quảnghiên cứu của đềtài có thểứng dụng vào giảng dạy phần thơ
kháng chiến chống Pháp cho học sinh cấp trung học cơ sởvà trung học
phổthông cũng như là tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành ngữvăn.7. Cấu trúc
luận vănNgoài phần mởđầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
ba chương:Chương một: Cơ sởlý luận và những vấn đềchung. Trong chương một,
luận văn trình bày những vấn đềcơ bản vềngơn từthơ, khái quát vềngữnghĩa học,

khái quát vềngữdụng học và vài nét vềvăn học và thơ thời kì kháng chiến chống
Pháp (1946-1954).Chương hai: Ngơn từthơ thời kì kháng chiến chống Pháp nhìn
từbình diện ngữnghĩa. Trong chương hai, luận văn đi vào phân tích nhữngvấn
đềngữnghĩa ngơn từthơ: chất thơ, cảm xúc trong thơ, vấn đềtình thái trong thơ.
Chương ba: Ngơn từthơ thời kìkháng chiến chống Pháp nhìn từbình diện ngữdụng.
Trong chương ba, luận văn đi vào phân tích ngữcảnh trong thơ, biện pháp tăng
hiệu lực tại lời và chức năng tác động của thơ


NỘI DUNGChương mộtCƠ SỞ LÝ LUẬN1.1. Quan niệm thơThơ là một
thểloạivăn học nảy sinh rất sớm trong đời sống con người, có phạm vi phổbiến
sâu và rộng. Thơ ca bao giờcũng là tấm gương của tâm hồn, là tiếng nói của tình
cảmcon người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Thơ là gì?là một câu
hỏi lớn. Vì thế, từthời cổđại các nhà hiền triết: Arixtốt, Điđơrô, Lý Bạch, ĐỗPhủ,


MạnhHạo Nhiên... đã bàn đến những vấn đềcủa thơ.M. Bakhtin nhấn mạnh sựkhu
biệtcủa cái tơi trữtình trong thơ: “Thơ là tiếng nói độc bạch, chẳng hạn một bài thơ
diễn đạt một nỗi oán thán, một niềm vui, một nỗi nhớ, một suy tưởng”[62, tr.19].
R. Tago (Ấn Độ)quan niệmvềthơ lại nhấn mạnh đến chức năng giáo dục lí tưởng
thẩm mĩ của thơ:“Thơ dạy người ta cảm nhận đời sống một cách tinh tếvà sâu sắc.
Thơ mởrộng và nâng cao tâm hồn người đọc. Thơ giáo dục con người vềcái
đẹp”[64,tr.104].Raxun Gamzatop lại quan niệm: “Nhà thơ khơng có con mắt của
nhà hiện thực sẽvất vưởng, sống dở, chết dở. Nhưng chỉthấy những chuyện có thực
thơi thì cũng chẳng hay ho gì hơn. Thơ phi lí chỉdễhiểuvới chính nhà thơ và bạn bè
thân tín của anh ta, đấy là một điều đáng buồn. Nhưng thơ duy lí quá tới mức mọi
con lừa đều hiểu được thì cịn đáng buồn hơn”[64,tr.106]. Nghĩa là ơng cho rằng
thơ phải mang tính gợi mở, nhưng cũng khơng nên q trừu tượng vì người đọc
khó cảm thụ.Bên cạnh những quan niệm của các tác giảnước ngoài, các tác giảViệt
Nam cũng có những quan niệm khác nhau vềthơ. Tùy từng cái nhìn, sựsoi chiếu

trên từng mặt, khía cạnh, đặc điểmmà các tác giảđưa ra những quan niệm
khácnhau.Các nhà thơ, những người trực tiếp cầm bút sáng tác thơ lại có quan
niệm khác. Nhà thơ TốHữu cho rằng:“Thơbiểu hiện tinh chất của cuộc sống; thơ là
cái nhụy của cuộc sống; thơ là tiếng nói tri âm; thơ là chuyện đồng
điệu”[48,tr.432].Nhà thơ Lưu Trọng Lư trên Tạp chí văn nghệ(1961) số48, tháng 5
lại quan niệm “Thơ là sựsống tập trung cao độ, là cốt lõi của cuộc sống”. Với nhà
thơ Hoàng Cầm,thơ lại
được chú ý ởviệc cảm nhận ý nghĩamỹhọc “Thựcchấtgiátrịcủamộtbàithơlàvẻđẹp và
mỹcảm mà nó mang lại cho người đọc. Khơng có vẻđẹp, khơng cịn thơ nữa, chỉlà
cái xác khơng hồn, chỉcịn một bài giáo huấn nôm na, khô khan hay những câu vè
ghép vần mà thơi”[6,tr.357].Các nhà lý luận, phê bình lại có cái nhìn khác vềthơ.
Lê Hữu Trác nhấn mạnh:“Thơ cốt ởý, ý có sâu xa thơ mới hay. Khơng phải bất
cứđiều gì cũng phải nói ra bằng thơ. Như thếmới là thơ có giá trị”[64,tr.106]. Mã
Giang Lân lại quan niệm Thơ là một thơng báo thẩm mĩ trong đó kết hợp bốn
yếu tốý -tình -hình -nhạc. Phạm Quang Trung trong “Thơ trong con mắt người
xưa”viết “Thơ là tình, nhưng là tình khơng tách rời ý. Nếu chỉlà tình, dẫu là tình tột
bậc, cũng khơng thểlàm nên những vần thơ tuyệt bút”[99, tr. 27].
ĐặngTiếntrongVũtrụthơlạichorằng“Thơlàmộtngơnngữtựlấymìnhlàmđốitượng”[77,t
r.12].Ơngquanniệm“Nguồnthơnàomàkhơngmangítnhiềunhansắccủaphơipha,nếubả
nchấtcủathơkhơngphảichínhlàditíchcủaphơipha...”[77,tr.135].Nhà phê bình Hồi
Thanh quan niệm: “Thơ là sựthểhiện những rung động chân thành, sâu xa, mãnh
liệt của nhà thơ vềcon người và cuộc sống”[81,tr.17]. Vì vậy, ông cho rằng bình
thơ là lao động nghệthuật nghiêm túc, vất vả, nhưng cũng là một cái nghiệp rất vui,


những chuyến đi say người và bổích; là cảm hiểu cái hay, cái đẹp của thơ rồi
truyền nó cho người đọc, người nghe; là cảm hiểu thơ bằng sức mạnh tổng hợp
của vốn văn hóa, kinh nghiệm và trực cảm của người bình... Muốn gặt hái được
một cách hiệu quảcơng việc phức tạp, tinh tế, lắm chuyện phiền ấy, người bình cần
tơn trọng và phát huy quyền làm chủcủa bạn đọc, cần học tập và rèn luyện suốt

đời... nhưng cái chính là phải sống bằng những tình cảm cao đẹp.Các nhà ngôn
ngữcũng đưa ra những quan niệm vềthơ. Phan Ngọc trong bài “Thơ là gì”quan
niệm “Thơ là cách tổchức ngơn ngữhết sức quái đản đểbắt người tiếp nhận phải
nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do chính hình thức tổchức ngôn
ngữnày”[64,tr.107]. Nguyễn Hữu Đạt trong “Ngôn ngữthơ Việt Nam”lại nêu quan
niệm “Thơ là một thểloại của văn học được trình bày bằng hình thức ngắn gọn và
súc tích nhất với các tổchức ngơn ngữcó vần điệu và các quy luật
phối âm riêng của từng ngôn ngữnhằm phản ánh cuộc sống tập trung và khái quát
nhất, dưới dạng các hình tượng nghệthuật”[21, tr.52]. Như vậy, có thểkhẳng định
có rất nhiều các khái niệm vềthơ. Mỗi tác giảđứng từmột góc nhìn khác nhau mà
soi chiếu, cảm nhận, từđó đưa ra những quan niệm thơ khác nhau. Nhưng tựu
chung lại là thơ được nhìn từhai góc độhình thức thơ và nội dung thơ. Có quan
niệm thiênvềhình thức, cho rằng hình thức là cái quan trọng của thơ. Nhưng cũng
có quan niệm lại cho rằng thơ quan trọng là ý, là tứ, là nội dung. Phần lớn các quan
niệm cho rằng thơ là sựtổng hịa cảnội dung và hình thức. Khơng thểcó một tác
phẩm thơ hay khi chỉchú trọng vào một trong hai mặt đó. Đây là quan niệm đúng
đắn. Thơ hay phải hay cảnội dung và hình thức. Nội dung phải ẩn trong hình thức
và hình thức phải thểhiện được nội dung.1.2. Ngơn từthơ1.2.1.Ngơn từ-chất liệu
duy nhất đểxây dựng hình tượng của văn chươngTheo Từđiển Tiếng Việt
(2004), Hồng Phê (chủbiên), “ngơn từlà ngơn ngữđược nói hay viết thành
văn”.Có thểnói, tất cảcác loại hình nghệthuật, kểcảvăn chương, đều thống nhất
ởmột điểm cơ bản là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Hình tượng của
nghệthuật hội họa, điêu khắc, kiến trúc là có tính chất tĩnh và chiếm một khoảng
khơng gian nhất định; hình tượng của nghệthuật âm nhạc, điện ảnh... có tính chất
động và diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định... Hình tượng của các
loại hình nghệthuật khác nhau vừa có những điểm tương đồng, lại vừa có những
nét khác biệt. Sựkhác nhau đó bởi chính là ởđặc trưng của chất liệu xây dựng nên
hình tượng nghệthuật của chúng. Chất liệu màu sắc, đường nét của hội họa khác
hẳn chất lượng âm thanh của âm nhạc, hình khối của điêu khắc. Chất liệu ngơn
từcủa hình tượng văn chương khác xa với màu sắc, âm thanh, đường nét, hình khối

của các nghệthuật kia. Ngơn từlà ngơn ngữđã được nói hay viết thành văn làchất


liệu cấu tạo nên các hình tượng văn chương. Vì thếmà ngơn từđã tạo nên những
hình tượng trong
văn học dân gian (văn nói) và trong văn học viết (văn viết). Tuy nhiên những hình
tượng nghệthuật do ngơn từxây dựng nên trong từng thểloại văn học cũng có
những nét riêng biệt. Bởi ngôn từtrong văn xuôi, ngôn từthơ, ngôn từkịch hay
ngôn từtrong văn học dân gian cũng khác xa nhau do đặc trưng thểloại mang đến.
Ngơn từthơđã qui định tính độc đáo và đặc biệt của văn chương. Vì vậy, đểtìm
hiểu vềvăn chương nghệthuật, khơng thểkhơng tìm hiểu đặc trưng chất liệu đã tạo
nên hình tượng văn chương.1.2.2. Phân biệt ngơn ngữvà ngơn từNgơn ngữtheo
Từđiển Tiếng Việt(2004), Hồng Phê (chủbiên), ngơn ngữlà:“1. Hệthống những
âm, những từvànhững quy tắc kết hợp chúng mànhững người trong cùng một cộng
đồng dùng làm phương tiện đểgiao tiếp với nhau;2. Hệthống kí hiệu dùng làm
phương tiện đểdiễn đạt, thơng báo;3. Cách thức, nghệthuật hay trình độsửdụng
ngơn ngữcó tính chất riêng”[69, tr. 688].Ngơn ngữtheo 777 khái niệm ngôn ngữhọc
(2010), Nguyễn Thiện Giáp lại định nghĩa: “Ngôn ngữđược dùng đểchỉphương tiện
giao tiếp bằng lời của loài người”[37, tr. 282].“Ngôn ngữlà phương tiện giao
tiếp ởdạng khảnăng tiềm tàng, trừu tượng hóa khỏi bất kìmột sựáp dụng cụthểnào
của chúng... Ngơn ngữchính là hệthống những yếu tốvà ngun tắc có giá trịchung,
làm cơ sởđểcấu tạo các lời nói” [37, tr. 283].Như vậy, ngôn ngữlà một hiện tượng
xã hội, một sản phẩm tập thểđược ra đời trong quá trình lao động sản xuất xã hội.
Nó cũng là hệthống ký hiệu tồn tại trong ý thức của những người cùng một dân
tộc. Ngôn ngữlà nguồn dựtrữcác từvà nguyên tắc kết hợp, ngữpháp, là một pho
từđiển chung cho mọi người, mỗi cá nhân không thểsáng tạo ra ngơn ngữ. Lời nói
là hình thức tồn tại thực tếcủa ngôn ngữ, là ngôn ngữtrong hành động, là bản
thân q trình giao tiếp bằng ngơn ngữgiữa người và người cụthể, nảy



sinh trong một hoàn cảnh cụthểvà bao giờcũng biểu đạt những tư tưởng nhất định,
mang màu sắc tình cảm và khuynh hướng tư tưởng nhất định. Lời bao gồm lời nói
và lời viết, đồng nghĩa với hoạt động ngơn từ.Như vậy, chất liệu xây dựng hình
tượng văn chương khơng phải là ngơn ngữmà là ngơn từ. Chỉcó ngơn từ-yếu tốvật
chất mang tính hình tượng mà cơ sởlà câu, cái có khảnăng phản ánh các yếu tốcủa
hiện thực trong một tương quan nhất định mới là chất liệu văn chương.1.2.3. Ngôn
ngữvăn học và ngơn ngữthơCó thểkhẳng định ngơn ngữlà chất liệu, là phương tiện
biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Khơng có ngơn ngữthì khơng thểcó tác
phẩm văn học. Ngôn ngữlà yếu tốđầu tiên nhà văn sửdụng trong quá trình chuẩn
bịvà sáng tạo tác phẩm. Và nó cũng là yếu tốxuất hiện đầu tiên trong sựtiếp xúc
của người đọc với tác phẩm.Theo Từđiển Tiếng Việt(2004), Hồng Phê (chủbiên),
“ngơn ngữvăn học là hình thức ngơn ngữtồn dân tộc, có hệthống chuẩn thống
nhất, được sửdụng trong mọi lĩnh vực đời sống văn hóa, chính trị, xã hội” [69, tr.
688]. Ngơn ngữvăn học là kết quảcủa sựsáng tạo tập thể, là một trong những thành
tựu văn hóa chung của dân tộc nói bằng ngơn ngữnày. Ngơn ngữvăn học là nơi
giữgìn tất cảnhững gì có giá trịđược biểu hiện bằng ngơn từđã được tạo ra bởi các
thếhệtừng sửdụng ngôn ngữnày.“Ngôn ngữthơ là ngôn ngữđược dùng trong các
văn bản thơ. Do yêu cầu thểhiện thếgiới nội tâm, thếgiới tinh thần, cách tổchức
ngôn ngữcủa thơ khác hẳn cách dùng lời nói của các phong cách chức năng phi
nghệthuật. Đặc trưng của ngơn từthơ là có tính tượng trưng, tính biểu cảm và chứa
đựng sựbắt chước”[37, tr. 307].Có thểkhẳng định ngơn ngữthơ là ngơn ngữtiêu


biểu cho ngơn ngữvăn học, bởi các đặc điểm tính chính xác, tính hàm súc, tính biểu
cảm, tính hình tượng đều được biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu cao nhất
trong ngơn ngữthơ ca.
Trong thơ,các thuộc tính âm thanh như cao độ, cường độ, trường độđược lưu giữ,
truyền đạt trong khi tổchức các quá trình thi ca, làm nên tiết tấu của thơ. Các đơn
vịâm thanh như nguyên âm, phụâm thì được lưu giữ, truyền đạt trong khi tổchức
các quá trình loại thể, làm nên vần thơ. Trong thơ ca, hình thức tổchức ngơn

từkhơng chỉlà phương tiện mà cịn được coi là mục đích. 1.3. Những cơ sởlý luận
ngữnghĩa họcNgữnghĩa học (linguistic semantics) là một bộmôn ngôn ngữhọc
nghiên cứu nghĩa. Khơng phải chỉcác đơnvịngơn ngữmới có nghĩa mà các hệthống
tín hiệu khác cũng có nghĩa. Ngữnghĩa học nghiên cứu nghĩa của một câu được
xác định bởi các nghĩa của các bộphận tạo thành và các quan hệcú pháp của
chúng. Nghĩa của câu thường được giải thuyết như sau: Nghĩacơ bản của câu được
xác địnhnhờsựkết hợp của các bộphận tạo thành. Cách thuyết giải này chưa cung
cấp đầy đủthông tin mà câu có được trong một ngữcảnh nào đó. Các phát ngôn
được tạo ra vào thờigian và địa điểm nào đó bởi một người nào đó. Cần quan tâm
đến người nói đang làm gì khi tạo ra một phát ngơn và người nghe có thểgiải thích
thơng điệp ấy như thếnào, dù chỉvới mục đíchnhận diện những nguyên tắcchung
của phát ngơn hơn là giải quyết các tình huống thực tế. Truyền thống ngôn
ngữhọc coi ngữnghĩa học là bộmôn nghiên cứu: 1. Nghĩa của các từmà ngườinói
đã cung cấp trong từvựng tinh thần của chúng; 2. Nghĩa của các câu trong đó
các từnày được kết hợp với nhau;3.Cái mà các biểu tượng đó quy chiếu vào trong
thếgiới. Hiện nay người ta đãvượt qua khn khổđó, đã nghiên cứu những ngun
tắc chung vềngữcảnh ảnh hưởng đến nghĩa như thếnào, người nghegiải thích như
thếnào cái đượcnói.
1.3.1. Lý luận của Jakobson vềthi phápVăn thơ là một loại hoạt động giao tiếp,
trong đó có dịng thơ kháng chiến. Bản thân ngôn ngữthơ, trong giao tiếp, nó cũng
biểu hiện những chức năng nhất định của mình.Bàn vềchức năng của ngơn
ngữthơ nói riêng, giới nghiên cứu thường nhắc đến R. Jakobson (một học giảnổi
tiếng của thời kì hậu cấu trúc luận).Với hai cơng trình “Luận vềngữhọc đại cương”
và “Những vấn đềthi pháp học”, R. Jakobson đã cung cấp một kho tư liệu gốc
vềlí thuyết đểphát triển phương pháp phê bình thi pháp học cấu trúc.Ơng cho rằng,
mỗi chức năng ngơn ngữlại có mối liên hệtrực tiếp với một trong những bộphận
cấu thành của sơ đồdữliệu của ông mà chúng tôi đã dẫn ởmục trên. Theo R.
Jakobson (1960), trong giao tiếp, ngơn ngữcó 6 chức năng theo thứtựtương ứng với
các nhân tốgiao tiếp trong sơ đồcủa ông đưa ra là



Hình1.1: Sơ đồ6 chức năng theo thứtựtương ứng với các nhân tốtrong sơ đồgiao
tiếp của R. Jakobson.(Nguồn: Bài “Ngôn ngữhọc và thi học” Cao Xuân Hạo dịch
đăng trong tạp chí Ngôn ngữsố14/2001)-Quy chiếu (nhận thức, biểu nghĩa);-Biểu
cảm, yêu cầu (hướng tới người nhận);-Duy trì (giữhoặc cho thơi giao tiếp);-Siêu
ngữ(ngơn ngữnói vềngơn ngữ);-Chức năng thơ (hướng vềchính bản thân thơng
điệp, chức năng này thống trịtrong ngơn ngữvăn học).Trong q trình nghiên cứu,
R. Jakobson đã phát hiện phong cách chức năng ngôn ngữlà tập hợp của một
sốcác tiểu chức năng. Ông cho rằng, sựkhác nhau giữa các thơng điệp chính là
sựkhác nhau giữa tôn ti và thứbậc của các tiểu chức năng.a. Tiểu chức năng “biểu
hiện”Theo R. Jakobson, chức năng đầu tiên gọi là chức năng “biểu hiện” hay
“nhận thức”. Đây là chức năng chủyếu trong nhiệm vụcủa rất nhiều loại thông
điệp.b.Tiểu chức năng “biểu cảm”Biểu cảmThi họcKêu gọiSựduy trì tiếp xúc (Đưa
đẩy)Siêu ngữBiểu hiện


Tiểu chức năng này, trong ngôn ngữtập trung vào người nói (thểhiện thái độđối với
nội dung mệnhđề) nhằm bày tỏmột cảm xúc nào đó, liên quan đến cái đang được
nói đến. Vì vậy, chức năng này rất quan tâm đến tình thái của phát ngơn. Chức
năng biểu cảm được biểu hiện bằng cách thay đổi sắc thái biểu cảm trong
những tình huống khác nhau.c.Tiểu chức năng “kêu gọi”Chức năng này hướng
vềngười nhận, mà diễn đạt ngữpháp tiêu biểu nhất là hô cách và mệnh lệnh thức.
Những câu mệnh lệnh khác hẳn với câu khẳng định. Các câu khẳng định có
thểkiểm điểm được tính chân ngụy, có thểđúng hay khơng đúng cịn với các câu
mệnh lênh người nghe có thểlàm hay không làm.Trên cơ sởba chức năng: biểu
hiện, biểu cảm và kêu gọi, R. Jakobson đềxuất thêm một vài chức năng
phụtrợkhác mà theo ơng thì những chức năng đó là: siêu ngữ, duy trì sựtiếp xúc và
chất thơ.d. Tiểu chức năng “ siêu ngữ”Vềchức năng siêu ngữ, theo ông, trong logic
người ta phân biệt hai cấp độcủa ngôn ngữlà “ngôn ngữđốitượng” nói vềcác sựvật,
và “siêu ngữ” nói vềbản thân ngơn ngữ. Bất kì ngơn ngữnào cũng phải lấy nó

đểthơng báo, giải thích cho chính nó, hay, khi nào người ta dùng ngơn ngữđểgiải
thích, mơ tảchính ngơn ngữthì lúc đó người ta đang sửdụng chức năng thứba -chức
năng siêu ngữ.Siêu ngôn ngữlà việc người gửi và người nhận phải cùng kiểm tra
xem hai người có đang ởcùng một mã giao tiếp khơng, câu nói của họcó được
hướng vào tín mã khơng.Trong giao tiếp, nếu tỉlệbiểu hiện của những siêu ngữcàng
cao thì khoảng cách giữa hai người càng lớn, hoặc, đó là biểu hiện của sựphá
vỡmối quan hệ.e.Tiểu chức năng “duy trì sựtiếp xúc”
Tiểuchức năng đáng chú ý khác là tiểu chức năng “duy trì sựtiếp xúc” hay nói
cách là tiểu chức năng tác động. Tiểu chức năng này có tác dụng liên kết người nói
với người nghe thành một khối nhằm đảm bảo cho sựgiao tiếp luôn liên tục.Tiểu
chức năng tác động thểhiện qua hành động ngôn từvới các hành động như: thỉnh
cầu, van xin, sai khiến, động viên...tùy cương vịcủa người nói với người nghe. Nếu
theo lí luận của ngữnghĩa học cú pháp hiện đại thì tác động này có tính xun
ngơn. Nó có thểgây ra hiệu ứngtâm lí ởngười nghe khơng chỉvềmặt ngữpháp,
ngữnghĩa mà cịn có nhiều liên hệvới cảm xúc và chất thơ. f.Tiểu chức năng “tính
thơ”Tiểu chức năng cuối cùng là “tính thơ”. Đây là chức năng mà R. Jakobson đã
nhấn mạnh và phân tích nhiều trong lí luận vềngôn ngữthi ca của ông. Theo ông,
bản thân mỗi một ngôn ngữ, khi cấu tạo thông điệp, con người đều can thiệp, kiểm
sốt, tạo nên những hình thức đưa nó vào hành lang của cái đẹp, của chuẩn mực xã
hội. Bởi, một trong những tập tính tựnhiên trong giao tiếp giữa con người với con
người là hướng vềcái đẹp (bên cạnh việc hướng vềcái thiện, cái chân). Chức năng
“tính thơ” làm cho các yếu tốngôn ngữđược sắp xếp một cách tựnhiên, hài âm, hài
nghĩa cho thuận tai người nghe. Theo quan niệm của trường phái Praha thì chức


năng “tính thơ” xuất hiện khi ngơn ngữtrởvềvới chính nó.Nói tóm lại, từR.
Jakobson, ngơn ngữhọc chuyển sang một thời kì mới trong nghiên cứu vềcác
chức năng ngôn ngữ. Việc đưa ra 6 chức năng trong ngôn ngữlà kết quảcủa một
tiến trình nhận thức củanhân loại vềbản chất của ngơn ngữ. Chính vì vậy, trong
lịch sửngơn ngữhọc, người ta thường xếp lí thuyết 6 chức năng ngơn ngữcủa R.

Jakobson như là một bước ngoặt từcấu trúc luận cổđiển sang chức năng luận hiện
đại và gọi đó là “lí thuyết chức năng của hậu cấu trúc luận”.1.3.2. Diễn ngơn và
phân tích diễn ngônthơCác bài thơ được lựa chọn khảo cứu trong luận văn này
đều tồn tại dưới dạng các diễn ngôn(đơn và phức), cho nên trên phương diện lí
luận, đềtài cần thiết phải dựa vào lí luận vềPTDN. Dưới đây là những trình bày sơ
bộvềdiễn ngơnvà phương pháp PTDNthơ.
1.3.2.1. Diễn ngơn (ngơn bản) và văn bảnTrong các tài liệu ngôn ngữhọc tiếng
Việt, thuật ngữdiễn ngôn (ngôn bản) được dịch từchữdiscourse và thuật ngữvăn
bản được dịch từchữtext của tiếng Anh. Thực tế, các thuật ngữtrên có khi được
dùng ởcác trường hợp đối lập tuyệt đối: diễn ngơn chỉsản phẩm hồn chỉnh của
ngơn ngữnói, cịn văn bản chỉsản phẩm hồn chính của ngơn ngữviết; ngược lại,
có khi chúng được dùng đểthay thếcho nhau: người ta nói đến diễn ngơn (ngơn
bản) nói và diễn ngơn (ngơn bản) viết hoặc văn bản nói và văn bản viết. Điều này,
đã gây khơng ít khó khăn, nhầm lẫn cho người nghe, người đọc các tài liệu vềngôn
ngữhọc.Từtrước đến nay, có nhiều định nghĩa vềdiễn ngơn(discourse). Sau đây là
một sốđịnh nghĩa tiêu biểu:“Một chuỗinối tiếp của ngôn ngữ(đặc biệt là ngơn
ngữnói) lớn hơn một câu, thường được cấu thành bởi một chỉnh thểcó tính mạch
lạc kiểu như một bài thuyết giáo, tranh luận, truyện vui hoặc truyện kể” [107,
tr.25].“Một chuỗi ngơn ngữđược nhận biết là có ý nghĩa,thống nhất và có mục
đích” [109,tr.156].“Diễn ngơnchỉmột sản phẩm giao tiếp trong ngữcảnh”[108,
tr.37].Các định nghĩa trên tuy khơng hồn tồn giống nhau nhưng cóđiểm chung là
đều nhấn mạnh tới tính liên tục của chuỗi ngơn ngữlớn hơn phát ngơn, tính mạch
lạc và tính đồng quy vềmột HĐNT chủđạo nào đó (như tựsự, thỉnh cầu, lập
luận...) hoặc liên kết với nhau tạo thành một đơn vịhội thoại theo một kiểu loại hội
thoại nào đó (như phỏng vấn, hành lễtrong nhà thờ...).Cách hiểu trên đây vềdiễn
ngơn hồn tồn có thểáp dụng cho những diễn ngơn chỉdo một người thực hiện
(nói hoặc viết) dù cho người nghe có mặt hoặc vắng mặt. Tuy nhiên, nó sẽgặp
khó khăn khi được nhận diện các diễn ngơn trong giao tiếp mặt đối mặt, trong đó,
các nhân vật giao tiếp đều chủđộngnói. Trong trường hợp này ta nên giải quyết ra
sao? Chúng tôi cho rằng:



Diễn ngơn là lời của từng người nóira trong cuộc giao tiếp, cũng có thểcó những
diễnngơn do haihay hơn hainhân vật giao tiếp tạo nên (như trong các cuộc hội thoại
tay ba, tay tư, hoặc quảng cáo... chẳng hạn).Tổng những lời nói của một
ngườitrong một cuộc hội thoại có thểlà mộtdiễn ngônliên tục hay ngắt quãng (do
nhân vật kia), mà cũng có thểlà một sốdiễn ngơn, mặc dù xét cho cùng tất cảcác
diễn ngôn bộphận đều đồng quy vào mục đích giao tiếp mà người nói đó đặt ra
từđầu. Lúc này, tiêu chí đểphân định diễn ngơn sẽlà hành động giao tiếp chủđạo.
Đích của diễn ngơn sẽđược thựchiện bởi hành động giao tiếp chủđạo này.Luận
văn rất chia sẻvới định nghĩa vềdiễn ngơn của ĐỗHữu Châu trong giáo trình “Đại
cương ngơn ngữhọc” (tập 2, 2001): diễn ngônlà thuật ngữchung đểchỉtất cảcác
đơn vịlời nói phù hợp với những tiêu chuẩn nêu trên. Tùy theo đường kênh hay
dạng ngôn ngữđược sửdụng mà ta có diễn ngơnnói hay diễn ngơnviết. Diễn ngơncó
thểlà một phát ngơn hay một chuỗi phát ngơn. Diễn ngơncó cảmặt động và mặt
tĩnh: Diễn ngơnlà một q trình sảnsinh ra và liên kết các phát ngôn thành một
chỉnh thể, đồng thời, nó cũng là tên gọi của một sản phẩm ngơn từdo chính q
trình đó tạo nên[14, tr.35].1.3.2.2. Phân tích diễn ngơnthơNhư trình bày ởtrên
“diễn ngơn” là khái niệm cịn “phân tích diễn ngơn” là phương pháp và kĩ năng.
Nội dung tổng thểcủa “phân tích diễn ngơn” là phân tích các yếu tốngơn ngữthơ
trong phạm trù diễn ngơn. Tuy vềmặt lí thuyết, PTDNcịn có những vấnđềcịn
chưa có tiếng nói chung, nhưng vềmặt thực hành thì PTDN được ứng dụng khá
rộng rãi trong đời sống xã hội, kểcảtrong lĩnh vực ngôn ngữvăn chương và ngơn
ngữmang tính nghệthuật.Đểphân tích được một diễn ngơnthơ, nhất thiết chúng ta
phải nắm được “phương pháp phân tích cấu trúc/tổchức diễn ngơn”đó.
Trước hết, PTDN khơng phải là phân tíchbất kì diễn ngơnnào, người ta chỉphân
tích những diễn ngơn có những hiện tượng cần xem xét, với những mục đích nhất
định. Đểphân tích một văn bản (viết) thơng thường người ta đọc toàn văn bản
đểnắm được ý tổng thểcủa nó. Tiếp theo là cơng đoạn đọc từcâu này đến câu khác,
rồi đọc từtừnày đến từkhác. Chính cơng đoạn này giúp ta nhận ra những điều cần

quan tâm. Việc đọc từcâu này đến câu khác giúp nhận biết những khối ý lớn nhỏvà
cách sắp xếp chúng trong văn bản. Việc đọc từtừnày đến từkhác giúpnhận ra kiểu
nghĩa được dùng của chúng và vịtrí của chúng trong từng ngữcảnh cụthể(trong
quan hệvới các từkhác trong văn bản). Cần chú ý rằng việc người tạo văn bản chọn
từnày, tổhợp từnày, tổhợp câu này... mà không chọn cái kháctương ứng với chúng
cũng như dùng cách sắp xếp này mà không dùng cách khác tương ứng, đối với
PTDN là điều có ý nghĩa (khơng phải tùy tiện).Việc phân tích tác phẩm bằng ngơn
ngữthơ có thểdừng lại ởnhững vấn đềchung như tư tưởng nghệthuật của tác phẩm,
ý tưởng của tácgiảthểhiện qua tác phẩm, cụthểlà qua việc chọn chủđề, đềtài, triển


khai đềtài nhằm phục vụcho việc thểhiện chủđềtheo ý thức hệthích hợp với một
giai đoạn lịch sử... Một tác phẩm nghệthuật bằng ngơn ngữcịn quan trọng ởtính
nghệthuật của việcsửdụng ngơn ngữ, khơng có yếu tốnày thì tác phẩm nghệthuật
khơng cịn là nó nữa. Người viết giàu kinh nghiệm thường vận dụng tất cảcác
phương tiện ngôn ngữbằng âm thanh và chữviết (nếu là bài viết) cho mục đích diễn
đạt ý định nghệthuật của mình. Cho nên việc nhận biết các phương tiện
nghệthuật của một bài viết địi hỏi phải phân tích tỉmỉđểtìm gặp ý tưởng của tác
giả(hiện tượng tác giảsáng tạo một cách trực giác khơng phải là phổbiến, nó chỉcó
thểlà những phút giây “thăng hoa”, là cái “ vô thức” trên cái nền của một bềdày
kinh nghiệm, một vốn “ hữu thức” đáng kính nể).Tóm lại, những nội dung trên
đây sẽgiúp ích rất nhiều cho việc khảo cứu, phân tích các diễn ngơnthơ kháng
chiến mà tác giảđang thực hiện.
1.3.3.Tình thái trong ngơn ngữthơTình thái vốn là một khái niệm của logic học,
gắn với sựphân loại các phán đoán, các mệnh đềlôgic. Theo Nguyễn Đức Dân
(1998), trong “Logic và Tiếng Việt”, thì từthời Aristotle, tính tình thái đã được bàn
đến trong phần bàn vềmệnh đềtình thái và tamđoạn luận tình thái. Trong ngơn
ngữhọc, khái niệm tình thái (modality, modalité) khơng phải là mới. Tuy nhiên nó
được hiểu khơng giống nhau ởcác khuynh hướng ngôn ngữhọc khác nhau


Ch. Bally cho rằng cần phân biệt trong câu hai yếu tốkhác nhau là: (1) Dictum –
thuật ngữchỉnội dung biểu hiện có tính chất cốt lõi vềngữnghĩa của câu. (2) Modus
–thuật ngữchỉthái độcủa người nói với nội dung phát ngôn. Từsựphân biệt nêu
trên của Ch. Bally, nhiều nhà ngôn ngữhọc hiện nay đã thống nhất xác định hai
thành phần trong nghĩa của câu như sau: (1) Nội dung nghĩa biểu hiện: là phần
cốt lõi của câu. Nó được tạo nên bởi nội dung của sựtình, bao gồm lõi hạt nhân
của vịtừvà những tham tốxoay quanh nó. Nghĩa biểu hiệnlà nội dung chính của
mệnh đề.(2) Nội dung nghĩa tình thái: được tạo nên từmối quan hệgiữa nội dung
của câu với hiện thực khách quan, với tình huống phát ngơn, với người nói, tức
thái độcủa người nói với nội dung ấy. Như vậy, tình thái thuộc bình diện ngữnghĩa
và có thểnói tình thái làphần tất yếu, là “linh hồn” của câu. Rõ ràng khi tạo ra
một phát ngơn, một thơng điệp chúng ta có thểbộc lộthái độvà cách đánh giá của


mình vềtính chất thực hay khơng thực, tất yếu hay khơng tất yếu, có thểcó hay
khơng thểcó...của sựkiện nêu ra trong lời nói. Người tiếp nhận sẽcó những phán
đốn tình thái bằng cách dựa vào những tri thức của họvà những thơng tin khác
mà họcó được đểđánh giá và kết luận xem thái độcủa người nói như thếnào, cái
điều được nói ra là sựthực hay hư cấu, có lý hay khơng có lý, đáng tin cậy hay
khơng. Đó là bản chất của vấn đềtình thái. Và chính yếu tốtình thái tạo nên tính
cụthểsinh động cho lời nói. Ví dụ: Anh ấy đến. Anh ấy đến rồi. Anh ấy đến rồi kìa!
Anh ấy đến kìa. Hình như anh ấy đến.
Anh ấy lại đến. Anh ấy cứđến mãi.Các câu trên rõ ràng cùng nhận định vềmột
sựtình “anh ấy đến” nhưng chúng khác nhau chính là do tình thái trong câu. Mỗi
câu đã bộc lộthái độnhận định vềsựtình trên khác nhau. Từsựphân biệt hai bộphận
dictum và modus, Ch.Bally đã địnhnghĩa: “Tình thái là thái độcủa người nói được
biểu thịđối với sựviệc hay trạng thái diễn đạt trong câu” [61, tr.10].Cách kiến giải
trên của Ch.Bally vẫn được nhiều nhà ngôn ngữhọc chấp nhận, nhất là trong
hướng nghiên cứu hoạt động ngơn ngữ. Tuy có những hướng giải quyết khác
nhau vềvấn đềtình thái nhưng tựu trung lại các tác giảvẫn có một sựthống nhất cơ

bản vềnhững điểm chủyếu của khái niệm tình thái. Có thểnêu ra cụthểmột vài quan
điểm như sau: (1) V.N. Bondrenko đưa ra định nghĩa: “Tính tình thái là một phạm
trù ngơn ngữchỉra đặc điểm của các mối quan hệkhách quan (tình thái khách
quan) được phản ánh trong nội dung của câu và chỉra mức độcủa tính xác thực
vềnội dung của chính câu đó theo quan niệm của người nói(tình thái chủquan)”
[104,tr.31].Phạm Hùng Việt đồng tình với quan điểm trên và cho rằng: “Tính tình
thái là phạm trù ngữpháp -ngữnghĩa biểu thịquan hệcủa người nói với nội dung
thơng báo (tình thái chủquan) và quan hệcủa nội dung thông báo với hiện thực
khách quan (tình thái khách quan)” [104, tr. 48-52].N. Chomsky, người mởđường
cho ngữpháp tạo sinh, có một cách nhìn khác vềtình thái khi cho rằng: Câu bao
giờcũng phải là câu khẳng định (declarative), hay là câu nghi vấn, hay là câu mệnh
lệnh. Tính chất khácnhau của những câu đó là “tình thái”. Như vậy, tình thái là yếu
tốbắt buộc phải có, đểcùng với “hạt nhân” tạo ra “câu cơ sở” (câu cơ sởthuộc cấu
trúc sâu, tồn tại trong tư duy người nói. Từcấu trúc sâu này trong thực tiễn hoạt
động ngơn ngữ, nó trải qua những “cải biên” đểchuyển sang “cấu trúc bềmặt”).
Và khơng thểnào có một câu mà khơng có tình thái, tức khơng thuộc một trong các
kiểu câu nói trên. Cũng khơng thểnào lại có một câu có 2, 3 tình thái, tức là cùng
một lúc thuộc 2, 3 kiểu câu.
Vận dụng ngữpháp chức năng và lý thuyết dụng học vào tiếng Việt, đồng thời
nhận thức vềgiá trịcủa tác tửtình thái trong hệthống, ĐỗHữu Châu cho rằng phạm


trù tính tình thái truyền đạt quan hệgiữa nhận thức của người nói với nội dung
của câu và quan hệcủanội dung này với thực tếmọi ngôn ngữ. Nội dung này có
thểđược khẳng định, được phủđịnh, được yêu cầu hay bịcấm đốn, được cầu
mong hay đềnghị...Từđó, các câu được phân chia theo phạm trù tính tình thái thành
các câu: tường thuật, hỏi, mệnh lệnh, cầu khiến... Cao Xuân Hạo cũng khẳng định:
“Nội dung của bất kỳmột lời phát ngôn nào cũng chứa đựng một tình thái (nếu
khơng phải là kết hợp nhiều lớp tình thái)” [41, tr.98]. Ơng cho rằng các yếu tốtình
thái phần lớn đều có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến ba phạm trù tính hiện

thực, tính tất yếu và tính khảnăng như trong logic nhưng dưới nhiều sắc thái khác
nhau và có nhiều cách biểu hiện khác nhau. Ngồi ba phạm trù đó, tình thái liên
quan đặc biệt đến thái độvà cách đánh giá của người nói. T. Givóncũng đặc biệt
nhấn mạnh vềthái độcủa người nói khi ơng phát biểu quan niệm của mình vềtình
thái một cách ngắn gọn rằng: “Tình thái biểu thịthái độngười nói đối với phát
ngơn” [71, tr. 1-8].Theo T. Givón, thái độbao gồm hai loại đánh giá của người nói
vềthơng tin của phát ngôn được chuyển tải qua nội dung mệnh đề: a. Những đánh
giá, nhận thức vềtính hiện thực, khảnăng, lịng tin, sựchắc chắn hay bằng chứng. b.
Những đánh giá giá trịvềước muốn, sựưa thích, ý định, năng lực, sựràng buộc hay
sựđiều khiển. Từnhững quan điểm được trình bày ởtrên vềtình thái, chúng ta nhận
thấy một vấn đềnổi bật mà các tác giảquan tâm khi đềcập đến tình thái là thái độ,
cách đánh giá của người nói.Hồng Phê (1989) cho rằng tình thái phản ánh nhận
thức, sựđánh giá, thái độcủa con người đứng trước hiện thực nên chính yếu tốtình
thái này tạo nên tính cụthểvà sinh động của lời nói [68, tr.139].1.4. Những cơ sởlý
luận ngữdụng họcCó nhiều cách định nghĩa khác nhau vềngữdụng học:
“Ngữdụng học nghiên cứu những quan hệngôn ngữvà ngữcảnh đã được ngữpháp
hoá hoặc mã
hoá trong cấu trúc của ngôn ngữ” [19, tr. 34]. Định nghĩa này cho thấy ngữdụng có
mối quan hệvới cú pháp. “Ngữdụng học nghiên cứu việc dùng ngôn ngữtrong diễn
từvà các chỉhiệu đặc thùtrong ngơn ngữ, những cái làm nên cách thức nói năng”
[10, tr. 56].Định nghĩa này nhấn mạnh sựquan tâm của ngữdụng là q trình tạo
ra diễn từvà kết quảcủa chúng chứkhơng chỉlà ngơn ngữ. Nói cách khác, một kí
hiệu nói chung hay một phát ngơn nói riêng có thểđược giải thích khác nhau
tuỳtheo tình huống (ngữcảnh) của kí hiệu. “Ngữdụng học nghiên cứu ý nghĩa của
người nói, ý nghĩa của ngữcảnh, nghiên cứu việc người ta có thểthơng báo nhiều
hơn điều được nói như thếnào, nghiên cứu những biểu hiện của những khoảng cách
tương đối” [10, tr.57].“Ngữdụng học nghiên cứu sựgiao tiếp bằng ngôn ngữ,
nghiên cứu cách dùng ngôn ngữthực sựtrong những ngữcảnh chuyên biệt” [10, tr.
58].Nhìn chung, tất cảcác định nghĩa trên cho thấy ngữdụng nghiên cứu ngữnghĩa



×