Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sử dụng bài tập hình vẽ trong chương trình hóa vô cơ lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.62 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Mục lục ...........................................................................................................................1
Phần I. Đặt vấn đề .........................................................................................................2
I. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................2
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài .............................................................................. 3
III. Nhiệm vụ của đề tài .................................................................................................3
IV. Khả năng áp dụng của đề tài ..................................................................................3
Phần II. Giải quyết vấn đề .............................................................................................4
I. Những vấn đề lý luận chung ..................................................................................... 4
II. Thực trạng của vấn đề ..............................................................................................5
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề ................................................5
1. Sử dụng bài tập hình vẽ để khắc sâu tính chất vật lý.............................................5
2. Sử dụng bài tập hình vẽ để khắc sâu tính chất hóa học ........................................8
3. Sử dụng bài tập hình vẽ để hình thành và phát triển kỹ năng thực hành ...........9
4. Một số bài tập vận dụng ..........................................................................................13
IV. Hiệu quả của SKKN .............................................................................................16
Phần III. Kết luận .........................................................................................................17
1. Kết luận......................................................................................................................17
2. Hướng phát triển của đề tài ....................................................................................17
Tài liệu tham khảo ....................................................................................................... 18

Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

1


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Hóa học là một môn khoa học thực nghiệm nên các thí nghiệm hoá học đóng vai
trò hết sức quan trọng trong việc giảng dạy và học tập môn hóa học ở trường phổ thông.
Bên cạnh đó, việc giải các bài tập thực nghiệm cũng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng


trong việc học tập môn hóa học. Thông qua việc giải các bài tập sẽ giúp học sinh củng
cố, vận dụng và nắm vững hơn những kiến thức lý thuyết đã học.
Tuy nhiên, trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học ngày nay các bài tập hóa
học phải phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh nhằm vừa củng cố kiến
thức lý thuyết, vừa rèn kỹ năng thực hành cho học sinh, tăng khả năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn đời sống và sản xuất.
Trong trường trung học phổ thông, thí nghiệm giúp học sinh làm quen với những
tính chất, mối liên hệ và quan hệ có tính qui luật giữa các đối tượng nghiên cứu, giúp
làm cơ sở để nắm vững các qui luật, các khái niệm khoa học và biết cách khai thác
chúng. Đối với bộ môn Hóa học, thí nghiệm giữ vai trò đặc biệt quan trọng như một
bộ phận không thể tách rời của quá trình dạy – học. Thí nghiệm hóa học có tác dụng
phát triển tư duy, giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng và củng cố niềm tin khoa
học của học sinh, giúp hình thành những đức tính tốt của người lao động: ngăn nắp,
trật tự, gọn gàng. Vì vậy, khuynh hướng chung của việc cải cách bộ môn hóa học là
tăng tỉ lệ giờ cho các thí nghiệm và nâng cao chất lượng các bài thí nghiệm.
Việc sử dụng bài tập thực nghiệm vào các giờ thực hành thí nghiệm nếu được
thực hiện tốt thì không những giúp học sinh củng cố và vận dụng những kiến thức đã
học trên lớp mà còn rèn luyện các kỹ năng thực hành cho học sinh: các thao tác lấy
hóa chất, lắp dụng cụ thí nghiệm, cẩn thận khi tiếp xúc với hóa chất... Thông qua các
thí nghiệm đó, học sinh được đóng vai trò như các nhà nghiên cứu, tìm tòi, phân tích
một mẫu chất nào đó. Điều này đã gây được hứng thú học tập cho học sinh đối với bộ
môn hóa học. Việc kết hợp giữa lý thuyết với thực hành là một nguyên tắc trong giáo
dục. Đặc biệt, đối với môn học có tính thực nghiệm cao như Hóa học thì vấn đề thực
hành hóa học hay việc sử dụng các bài tập khác mang tính chất thực nghiệm thực sự
rất cần thiết.
Việc xây dựng các bài tập thực nghiệm Hóa học có ý nghĩa quan trọng trong việc
gắn liền lý thuyết với thực hành. Loại bài tập này vừa mang tính chất lý thuyết, vừa
mang tính chất thực hành. Muốn giải được loại bài tập này học sinh phải nắm vững lý
thuyết, vận dụng lý thuyết và cần sự chú ý quan sát trong quá trình làm thí nghiệm
thực hành và vận dụng những kĩ năng, kĩ xảo thực hành để tìm phương án giải quyết.

Qua thực tế giảng dạy hơn 12 năm ở trường THPT Phú Lộc tôi nhận thấy việc sử
dụng bài tập thực tiễn hóa học nói chung và bài tập hình vẽ nói riêng sẽ đáp ứng được
phần lớn các yêu cầu trên. Vì vậy, tôi chọn viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Sử
dụng bài tập hình vẽ trong chương trình Hóa Vô cơ Lớp 10”.
Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

2


II. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong việc học tập, tạo được niềm say mê,
hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao chất lượng, hiệu quả quá trình giảng dạy
môn Hóa học nói chung và Hóa học lớp 10 nói riêng. Đồng thời thông qua đề tài này
với mong muốn bản thân và các đồng nghiệp giảng dạy bộ môn hóa học có thể vận
dụng để mở rộng loại bài tập này cho các bài dạy khác trong chương trình hoá học phổ
thông (kể cả hóa học vô cơ và hóa học hữu cơ).

III. Nhiệm vụ của đề tài
- Tìm hiểu cơ sở lí luận về bài tập hóa học; phương tiện trực quan; bài tập có sử
dụng hình vẽ.
- Nắm vững cơ sở lí luận của việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
- Nghiên cứu cấu trúc chương trình, nội dung kiến thức chương trình hóa học THPT
ban cơ bản và nâng cao nhất là nghiên cứu phần Hóa học vô cơ lớp 10.
- Phân tích hệ thống bài tập có sử dụng hình vẽ trong SGK, SBT trung học phổ thông.
- Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập hoá học có sử dụng hình vẽ chương
trình hóa vô cơ lớp 10 cơ bản và nâng cao.
- Đề xuất việc sử dụng hệ thống bài tập có hình vẽ trong dạy học hóa học.
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của hệ thống bài tập đã
đề xuất.


IV. Khả năng áp dụng của đề tài
Đề tài này có thể sử dụng trong hầu hết các tiết học như: dạy bài mới, ôn tập – luyện
tập, thực hành của chương Halogen; oxi – lưu huỳnh Hóa học lớp 10 cơ bản và nâng
cao. Ngoài ra còn có thể dùng các bài tập hình vẽ này để kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh trong học kỳ II lớp 10.

Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

3


PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Những vấn đề lý luận chung
Trong xã hội ngày nay, trước sự bùng nổ thông tin, sự phát triển của khoa học và
công nghệ như vũ bão thì việc dạy học không chỉ đơn thuần là truyền thụ kiến thức mà
phải dạy phương pháp học tập cho học sinh. Bản thân học sinh phải có phương pháp
nghiên cứu mà cốt lõi là phương pháp tự học. Việc học là nhiệm vụ của học sinh mà
không ai có thể làm thay được. Để học tốt các môn học nói chung và môn Hóa học nói
riêng thì trước hết cần có đó là sự nỗ lực của bản thân học sinh, ý chí vươn lên trong
học tập của người học và sau đó là một phương pháp học tập hợp lý.
Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy ở trường THPT cho thấy có nhiều học sinh bị
động trong học tập, thường gặp phải các “chướng ngại nhận thức” và có cảm giác chán
nãn trong học tập.
Theo tác giả Nguyễn Cương – NXB GD 2007 về Phương pháp dạy học hóa học ở
trường phổ thông và đại học cho thấy, để tạo được tính tích cực chủ động, niềm say mê
hứng thú học tập cho học sinh người giáo viên cần phải:
- Đặt cho học sinh những câu hỏi, những bài tập có tính chất nêu vấn đề và học sinh
giải quyết vấn đề thông qua suy nghĩ, trao đổi và thảo luận hoặc thông qua các thí
nghiệm, ...
- Đề ra các công việc cho học sinh có tính chất nghiên cứu kết hợp với sự tái hiện

kiến thức cũ.
- Sử dụng đồng thời và hợp lý các phương tiện trực quan như các đồ dùng dạy học
của môn học.
- Tạo ra được các tình huống “có vấn đề” để kích thích được lòng ham muốn, đam
mê khoa học của học sinh.
Hóa học – môn khoa học thực nghiệm – là môn học mà những con người “công
nghiệp” trong tương lai cần phải vận dụng rất nhiều vào thực tiễn. Vì thế, học sinh cần
phải được rèn luyện kỹ năng thực hành, có vốn kiến thức sâu rộng về sản xuất hóa học
ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông. Thế nhưng, vì lí do nào đó mà
không phải lúc nào người thầy cũng dạy được cho các em theo kiểu “học đi đôi với
hành”. Cho nên, những hình vẽ sẽ là ngôn ngữ diễn tả ngắn gọn nhưng rất hiệu quả bản
chất của thực tiễn hóa học, để giúp học sinh gắn lí thuyết với thực tiễn nhiều hơn.
Trong những năm gần đây Bộ GD & ĐT đã tăng cường câu hỏi thực tiễn trong các đề
thi tốt nghiệp THPT, đề thi Đại học và Cao Đẳng. Tuy nhiên, những bài tập hóa học có
sử dụng hình vẽ trong chương trình hóa học phổ thông hiện nay chưa được sử dụng
một cách phổ biến, có hiệu quả trong quá trình dạy học, các tài liệu hiện hành còn ít
quan tâm đến loại bài tập này và cũng chưa được nhiều giáo viên sử dụng. Như vậy,
vấn đề là làm thế nào để học sinh sử dụng ngày càng nhiều và có hiệu quả những bài
tập hóa học có hình vẽ. Nếu sử dụng tốt các bài tập có hình vẽ sẽ góp phần đa dạng hệ
thống bài tập hóa học và nâng cao kết quả học tập cho học sinh.

II. Thực trạng của vấn đề
Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

4


Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu, tôi nhận thấy, hiện nay việc tổ chức
tiến hành thí nghiệm và xây dựng nên các bài tập thực nghiệm ứng dụng vào trong các
bài thí nghiệm của giáo viên các trường THPT còn nhiều hạn chế:

- Còn ít làm thí nghiệm (vì thời gian chuẩn bị mất nhiều thời gian, thiếu dụng cụ và
hóa chất,...) nên chất lượng giờ dạy chưa cao. Học sinh ít được làm (quan sát) thí
nghiệm, dẫn đến khó hiểu bài và không thích học bộ môn.
- Thao tác thí nghiệm chưa linh hoạt, còn hạn chế về sử dụng những thiết bị mới và
hiện đại.
Học sinh ở các trường THPT, trong các tiết thí nghiệm thực hành đôi khi làm thí
nghiệm còn sai nguyên tắc, chưa nắm được các yêu cầu về các thao tác trong làm thí
nghiệm như:
+ Dùng tay trực tiếp cầm ống nghiệm (không dùng kẹp).
+ Cách sắp xếp dụng cụ hóa chất còn lộn xộn, thiếu khoa học.
+ Lấy hóa chất xong quên không đậy nắp.
+ Lấy quá ít hoặc quá nhiều hóa chất.
+ Dụng cụ học sinh làm thí nghiệm rửa không sạch.
+ Dùng giấy lau khô ống nghiệm
+ Cách thực hiện các thao tác thí nghiệm như kẹp ống nghiệm, rửa ống nghiệm, đun
nóng ống nghiệm, lấy hóa chất chưa đúng,….

III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Bài tập hình vẽ, tranh ảnh về các thí nghiệm hóa học là loại bài tập mang tính trực
quan, có tác dụng to lớn trong việc phát huy trí lực của học sinh. Nó có tác dụng tạo
điều kiện để phát triển tư duy khoa học cho học sinh. Khi giải loại bài tập này bắt buộc
học sinh phải phân tích, tổng hợp các kiến thức về cấu tạo, tính chất vật lý, tính chất
hóa học của các chất, biết cách lắp ráp các thiết bị thí nghiệm,... Từ đó lập luận đưa ra
kết quả phù hợp. Chúng ta có thể sử dụng bài tập hình vẽ cho một số trường hợp sau

1. Sử dụng bài tập hình vẽ để khắc sâu kiến thức về tính chất vật lý
Bài tập 1: Để kiểm tra kiến thức của học sinh về tính chất vật lý của SO 2 ta có thể
dùng hai cách hỏi sau:
Cách 1: Hỏi dưới dạng tự luận : Nêu tính chất vật lý của SO2?
Hoặc hỏi dưới dạng trắc nghiệm : Tính chất vật lý của khí SO2 là

A. chất khí nặng hơn không khí và không tan trong nước
B. chất khí nhẹ hơn không khí và không tan trong nước
C. chất khí nhẹ hơn không khí và không tan trong nước
D. chất khí nặng hơn không khí và tan nhiều trong nước
Với loại câu hỏi này học sinh cần nhớ lại các kiến thức về tính chất vật lý của SO 2 đã
học là có thể trả lời được ngay.
Cách 2: Khí SO2 được thu bằng cách nào trong các cách ở hình vẽ sau
Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

5


A. Cách (1)
B. Cách (2)
C. Cách (3)
D. (1) hoặc (3)
Bài tập này sẽ kích thích ngay trí tò mò của học sinh: tại sao lại có các cách thu khí
như vậy? điều kiện để có thể thu được một chất khí bằng các hình vẽ tương ứng?
Để giải được bài tập này cũng đòi hỏi học sinh phải nhớ lại các kiến thức của SO2 đó là:
- SO2 có bị oxi hóa trong không khí ở điều kiện thường không?
- SO2 nặng hay nhẹ hơn không khí?
- SO2 có tan nhiều trong nước không?
Khi đó học sinh sẽ lập luận:
- SO2 nặng hơn không khí (d SO2 / kk =

64
≈ 2,2)
32

- SO2 tan nhiều trong nước ⇒ không thể thu được bằng phương pháp đẩy nước.

- SO2 không bị oxi hóa trong không khí ở điều kiện thường
⇒ có thể thu bằng phương pháp đẩy không khí
Như vậy, học sinh nhận ra ngay chỉ có cách (hình 2) mới phù hợp
⇒ Chọn phương án B.
Trong hai cách trên thì với cách 2, khi quan sát hình vẽ mang tính trực quan hơn, rèn
được tư duy suy luận cho học sinh hơn. Từ đó sẽ giúp học sinh khắc sâu và nhớ lâu
kiến thức hơn.
Bài tập 2: Các hình vẽ sau mô tả các cách thu khí thường được sử dụng khi điều chế
và thu khí trong phòng thí nghiệm.

Trong các chất khí : H 2, NH3, SO2, HCl, N2. Hình 3 có thể dùng để thu được những
chất khí là
A. H2, N2

B. HCl, SO2, NH3

C. N2, H2

D. H2 , N2, NH3

Tương tự như bài tập 1, để giải được bài tập này cũng đòi hỏi học sinh phải nhớ lại kiến
thức về các khí tan được trong nước và các khí không tan hoặc tan ít trong nước.
Học sinh phân tích : Hình 3 thu khí bằng phương pháp đẩy nước ⇒ các khí phải không
tan trong nước.
Như vậy, học sinh biết chỉ có các khí H2, N2 không tan trong nước
⇒ Chọn phương án A
Bài tập 3: Trong các hình vẽ mô tả cách thu khí clo sau, hình vẽ nào đúng?

Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc


6


Tương tự bài tập 1, bài tập này học sinh dựa vào tính chất vật lí và hoá học của khí clo là:
- Nặng hơn không khí và không tác dụng với không khí (d Cl2 / kk =

71
≈ 2, 45)
32

- Khả năng hòa tan, tác dụng với H2O
- Khí clo là một khí độc, phải dùng bông tẩm NaOH để tránh sự phân tán của Cl2 ra ngoài.
Từ đó, học sinh biết được phương pháp thu khí clo trong phòng thí nghiệm là phương
pháp đẩy không khí.
⇒ Chọn phương án Hình 1
Bài tập 4: Trong các hình vẽ sau, xác định hình vẽ đúng nhất mô tả cách thu khí HCl
trong phòng thí nghiệm.

Bài tập này yêu cầu học sinh nắm được tính chất vật lí và tính chất hóa học của khí HCl
- Nặng hơn không khí, không tác dụng với không khí
- Tan nhiều trong nước

Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

7


Từ đó, học sinh thấy rằng phương pháp thu khí HCl trong phòng thí nghiệm là phương
pháp đẩy không khí, được mô tả bằng hình 2 và trong thí nghiệm này phải dùng bông
tẩm dung dịch NaOH để xử lý khí HCl khi đầy ống nghiệm sẽ bay ra phòng thí nghiệm

⇒ Chọn phương án Hình 2

2. Sử dụng bài tập hình vẽ để khắc sâu kiến thức về tính chất hóa học
Bài tập 5: Cho hình sơ đồ điều chế khí SO 2 như hình vẽ: Giáo viên (GV) có thể nêu
các câu hỏi cho học sinh (HS) thảo luận các vấn đề sau:
- GV: Hãy cho biết vì sao phải dùng bông tẩm
NaOH ở miệng bình thu khí?
H SO
- HS: Khí SO2 đầy thì sẽ thoát ra ngoài, gây độc
(SO2 là một khí độc)
SO
⇒ dùng bông tẩm NaOH để hấp thu khí SO 2 và
không cho khí SO2 thoát ra ngoài.
- GV: Vì sao phải dùng dung dịch NaOH, nếu
Na SO
dùng các dung dịch Ca(OH)2, H2SO4 thay cho
NaOH được không?
Bông tẩm
NaOH
- HS: SO2 là một oxit axit nên nó phản ứng với
dung dịch kiềm, không phản ứng với axit nên
SO
có thể thay NaOH bằng một dung dịch kiềm
khác như KOH, Ca(OH)2…
(2NaOH + SO2 → Na2SO3 + H2O và Ca(OH)2 + SO2 → CaSO3 + H2O)
Nhưng không thể dùng các axit như H 2SO4 vì H2SO4 không phản ứng với SO2 nên
không giữ được SO2.
- GV: Khí SO2 không có màu vậy làm thế nào để biết khi nào thì SO2 đầy?
Đến đây đòi hỏi học sinh phải nhớ lại cách nhận ra khí SO2 một cách đơn giản nhất là dùng
giấy quỳ tím ẩm. Nếu SO2 lên đến miệng bình thì sẽ làm giấy quỳ chuyển sang màu hồng vì

SO2 khi tan trong nước tạo thành axit sunfurơ (SO2 + H2O  H2SO3)
Để kiểm tra các kiến thức đó, GV có thể hỏi dưới dạng trắc nghiệm :
Tính chất nào sau đây không phải là của SO2?
A. Là một oxit axit
B. Tan nhiều trong nước
C. Tác dụng với H2SO4.
D. Tác dụng với dung dịch bazơ
Nếu GV đặt câu hỏi dưới dạng trắc nghiệm thì khi đó sẽ chỉ có tác dụng kiểm tra kiến
thức thuộc lòng của học sinh mà thôi.
Qua ví dụ trên cho thấy việc giải bài tập bằng hình vẽ đã rèn cho học sinh cách
suy luận, cách tái hiện lại các kiến thức về tính chất hóa học của SO 2, đặc biệt là việc
vận dụng tri thức khoa học vào thực tiễn. Không những thế bài tập trên còn giáo dục
học sinh về ý thức bảo vệ môi trường (qua việc xử lý không cho SO 2 thoát ra trong
phòng thí nghiệm, đảm bảo nguyên tắc an toàn thí nghiệm).
2

4

2

2

3

2

Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

8



Bài tập 6: Cho hình vẽ sau:
Hình vẽ dụng cụ và hóa chất này dùng để
điều chế khí nào sau đây?
A. O2.
B. H2.
C. H2S
D. Cl2.
Lưu ý: (1) và (2) là các chất phản ứng với
nhau (không phải là chất xúc tác).
Để làm được bài tập này đòi hỏi HS phải biết suy luận theo các mức độ khác nhau:
- Với HS trung bình sẽ nắm được khí trên phải nặng hơn không khí không tan hoặc
tan rất ít trong dung dịch H2SO4 đặc, không phản ứng với H2SO4 đặc. Như vậy chỉ có
O2 và Cl2 thoả mãn (vì H2 nhẹ hơn không khí, H2S bị oxi hoá bởi H2SO4 đặc)
- Với học sinh khá hơn còn phân tích được dựa vào hình vẽ (1) và (2) là: Hai khí
này phải điều chế được bằng cách cho một chất lỏng (hoặc dung dịch) tác dụng với
một chất rắn mà không cần đun nóng. Điều này chỉ có Cl2 thoả mãn với phản ứng:
2KMnO4 + 16HClđặc → 2KCl + 2MnCl2 + 5Cl2↑ + 8H2O
Với bài tập này, giáo viên có thể khai thác thêm ở học sinh một số kiến thức khác như sau:
- Tại sao phải ghi chú là (1) và (2) là chất phản ứng:
Với học sinh nắm chắc kiến thức sẽ biết ngay nếu không có dữ kiện này thì O 2 vẫn thoả
mãn với dung dịch (1) là dung dịch H2O2 và chất rắn (2) là MnO2 làm chất xúc tác.
- Tại sao lại có bình số (3)?
Bình số (3) là bình rửa khí, có tác dụng làm khô khí Cl2. Đến đây tùy điều kiện tiết dạy
giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh về cách làm khô các khí.
Như vậy, bài tập này không những dùng củng cố cho học sinh về một số tính chất
của O2, H2S, H2, Cl2 mà còn củng cố cho học sinh về cách thu khí, cách rửa khí, cách
nhận biết khí đầy, .....
Thông qua những ví dụ trên cho ta thấy việc giải bài tập hình vẽ sẽ rèn cho học
sinh cách suy luận, cách tái hiện các kiến thức về tính chất vật lí, tính chất hóa học,... của

các chất. Hơn thế nữa một bài tập hình vẽ có thể khai thác được nhiều khía cạnh của các
vấn đề hóa học và thông qua đó giúp học sinh khắc sâu và nhớ lâu kiến thức hơn.

3. Sử dụng bài tập hình vẽ để hình thành và phát triển kỹ năng thực hành
Với bài tập 1 như trên, không chỉ giúp học sinh khắc sâu kiến thức hơn mà còn giúp
học sinh nhớ lại các cách thực hành thu chất khí.
- Cách 1: Dời chỗ không khí: Thường sử dụng cho các khí có các đặc điểm sau:
+ Không bị oxi hóa trong không khí ở điều kiện thường
+ Nặng hay nhẹ hơn khá nhiều so với không khí
+ Có dấu hiệu để nhận biết khi nào khí đầy bình
Với khí nặng hơn không khí người ta sử dụng ống nghiệm lật ngửa, khí nhẹ hơn không
khí người ta sử dụng ống nghiệm úp xuống. Ngoài ra, một kỹ năng thực hành được
hình thành quan trọng ở đây là khi thu khí phải để đầu vòi gần sát với đáy ống nghiệm
để hiệu suất thu khí cao hơn.
Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

9


- Cách 2: Dời chỗ nước: Thường sử dụng cho chất khí có các đặc điểm sau:
+ Không tan (hoặc ít tan) trong nước, không tác dụng với nước
+ Không tan (hoặc ít tan) trong một dung dịch phổ biến (ví dụ khí clo tan rất ít trong
dung dịch NaCl bão hòa).
Tương tự với Bài tập 6 ở trên ta có thể rèn cho học sinh về một số kiến thức thực hành như:
- Phương pháp cho chất lỏng tác dụng với chất rắn.
- Cách thu khí, cách nhận biết khí đầy.
- Cách xử lí không cho khí thoát ra ngoài
- Cách rửa khí,....
Bài tập 7: Để điều chế khí O2 trong phòng thí nghiệm người ta có thể nhiệt phân
KMnO4. Dụng cụ vẽ nào đưới đây thích hợp với cách điều chế trên?


Trước khi giải các bài toán này, giáo viên cần kiểm tra học sinh một số kỹ năng như:
- Cách rửa, cách làm khô ống nghiệm và dụng cụ thủy tinh.
- Một số kinh nghiệm bảo quản ống nghiệm và dụng cụ thủy tinh khi đun nóng, làm lạnh.
- Kỹ thuật nung hỗn hợp chất phản ứng, cách thu khí và một số phương pháp thu khí.
Giáo viên có thể nêu ra hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh thảo luận để đi đến kết
quả như sau:
+ GV: Để bảo quản ống nghiệm không bị vỡ khi đun nóng cần phải lưu ý những gì?
+ HS: Không nên làm lạnh đột ngột (nơi có nước hoặc để nước rơi vào).
+ GV: Nếu để ống nghiệm miệng hướng lên hoặc ngang bằng thì khi nung chất rắn
hơi nước sẽ đi đâu?
+ HS: Hơi nước sẽ ngưng tụ lai và chảy xuống đáy ống nghiệm tại vị trí đun nóng.
Kết hợp với kiến thức về bảo quản ống nghiệm học sinh sẽ rút ra ngay được: Nếu để
ống nghiệm miệng hướng lên hoặc ngang bằng với đáy thì sẽ dễ gây vỡ ống nghiệm
khi nung chất rắn. Vì vậy, học sinh sẽ chọn hình (2).
Qua bài tập này sẽ hình thành cho học sinh kiến thức thực hành hết sức quan
trọng là: Khi nung chất rắn thì phải để đáy ống nghiệm phải hơi cao hơn miệng. Bài
tập này cũng đã hướng dẫn cho học sinh cách nung nóng để làm khô ống nghiệm.
Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

10


Kiến thức thực hành này sẽ làm cho học sinh khắc sâu và nhớ lâu hơn nhiều so với việc
giáo viên truyền thụ, giới thiệu cho học sinh. Hơn thế nữa, bài tập này còn có thể dùng
để củng cố, ôn tập, kiểm tra kỹ năng thực hành của học sinh trước buổi thực hành.
Bài tập 8: Trong phòng thí nghiệm người ta thường tiến hành điều chế khí clo tinh
khiết theo hình vẽ sau: hãy giải thích tại sao lại phải mắc sơ đồ thí nghiệm như thế?

Qua sơ đồ thí nghiệm trên học sinh phải hiểu và ghi nhớ được khí clo điều chế

được có lẫn: khí HCl, hơi nước nên phải dẫn qua dung dịch NaCl để hấp thụ HCl và
H2SO4 đặc để hấp thụ hơi nước. Khí clo nặng hơn không khí và không tác dụng được
với không khí nên có thể thu bằng cách đẩy không khí, bông tẩm dung dịch NaOH đặc
để hấp thụ khí clo dư nhằm hạn chế clo thoát ra ngoài không khí vì clo là một khí độc.
Ngoài cách hỏi như trên thì chúng ta còn có thể đưa bài tập này trở thành dạng
bài tập trắc nghiệm nhiều lựa chọn với việc sắp xếp thứ tự của các hóa chất sao cho
phù hợp với việc điều chế ra khí clo. Tùy vào từng mức độ của học sinh mà có thể đưa
ra nhiều dạng câu hỏi có độ khó dễ khác nhau.
Bài tập 9: Cho sơ đồ thí nghiệm điều chế khí clo trong phòng thí nghiệm. Người ta có
thể sắp xếp các hóa chất như thế nào cho phù hợp việc điều chế.

A. NaCl, MnO2, HCl đặc, H2SO4 đặc
B. NaCl; H2SO4 đặc, MnO2, HCl đặc
C. HCl đặc, MnO2, NaCl, H2SO4 đặc
D. H2SO4 đặc, MnO2, HCl đặc, NaCl
HS phân tích: Dựa vào hình vẽ sẽ xác định được đây là sơ đồ thí nghiệm điều chế khí
clo trong phòng thí nghiệm, khi đó nhớ lại các chất cần dùng để điều chế ra khí clo và
thứ tự sắp xếp và bố trí các thí nghiệm để thu được khí clo khô ⇒ Chọn phương án C
Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

11


Và để nâng cao độ khó của câu hỏi chúng ta có thể chỉ cho biết rằng đây là sơ đồ phản
ứng dùng để điều chế khí clo và yêu cầu học sinh lựa chọn các hóa chất phù hợp cho
các vị trí số ta đánh trong sơ đồ.
Bài tập 10: Cho sơ đồ thí nghiệm điều chế khí clo trong phòng thí nghiệm, hãy giải
thích sơ đồ lắp ráp đó?
Với sơ đồ thí nghiệm này yêu cầu học sinh phân
tích được: Khí clo được điều chế từ chất rắn MnO 2

và axit HCl đặc nên tiến hành trong bình cầu, cần
đốt nóng bình cầu vì phản ứng xảy ra cần nhiệt độ.
Khí clo thoát ra thu trực tiếp vào bình đựng khí để
ngửa, không nút đậy (phương pháp đẩy không
khí), vì khí clo nặng hơn không khí và không tác
dụng với không khí.
Bài tập 11: Phân tích chỗ sai trong sơ đồ hình vẽ
điều chế khí clo trong phòng thí nghiệm.
Bài tập này yêu cầu học sinh nắm được : Hình vẽ
bên mô tả cách điều chế và thu trực tiếp khí clo
bằng phương pháp đẩy không khí, nên bình thu khí
không đậy nút kín để không khí trong bình
bị đẩy ra ngoài. Sai ở nút B

Bài tập 12: Cho các thao tác thí nghiệm khi tiến hành thí nghiệm điều chế clo và thử
tính tẩy màu của clo ẩm.
(1). Lấy kẹp gỗ (hoặc giá gỗ) kẹp ống nghiệm.
(2). Đậy miệng ống nghiệm bằng nút cao su có kèm ống hút nhỏ giọt dung dịch HCl
đặc vào ống nghiệm đựng KMnO4.
(3). Lấy 1 lượng nhỏ KMnO4 cho vào ống nghiệm.
(4). Kẹp 1 mảnh giấy màu ẩm, 1 mảnh giấy màu ở miệng ống nghiệm.
(5). Bóp nhẹ đầu cao su của ống hút cho 3 - 4 giọt dung dịch HCl đặc vào KMnO4.
Thứ tự sắp xếp các thao tác hợp lý là
A. (1), (2), (3), (4), (5)
B. (1), (3), (4), (2), (5)
C. (1), (2), (3), (5), (4)
D. (1), (5), (2), (3), (4)

Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc


12


- HS : Dựa vào các quy trình tiến hành làm thí nghiệm điều chế clo và thử tính tẩy
màu của khí clo ẩm ở bài thực hành số 02 trong sách Hóa học 10 – bài 27 trang 120,
để sắp xếp đúng thứ tự các thao tác hợp lý.
⇒ Chọn phương án B
- GV : Phân tích cách chọn đúng thứ tự các thao tác hợp lý.
+ Trong quá trình tiến hành thí nghiệm chúng ta cần chú ý việc đặt giấy quỳ tím
không tiếp xúc với dung dịch axit vì nếu để cho giấy quỳ tiếp xúc nó sẽ chuyển thành
màu đỏ và khi đó chúng ta chỉ quan sát được hiện tượng mất màu của giấy quỳ
+ Trong thí nghiệm chúng ta có thể để bước (4) là bước cuối cùng nhưng chúng ta sẽ
không nên làm như thế bởi khí clo là một khí độc gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới
sức khỏe của người làm thí nghiệm.
+ Ngoài ra, trong thí nghiệm này chúng ta có thể đảo thứ tự của bước (3) và (4) cho
nhau. Nhưng chú ý khi làm cần tránh để tinh thể KmnO4 bám vào giấy màu ẩm.
Qua các bài tập trên chúng ta thấy, các bài tập về hình vẽ có tác dụng rất lớn
trong việc hình thành và củng cố các kiến thức và kỹ năng thực hành hóa học, nó giúp
học sinh hiểu rõ bản chất của các thao tác thí nghiệm. Việc sử dụng bài tập hình vẽ sẽ
cho học sinh một cách nhìn các tri thức khoa học trực quan hơn, kích thích được tính tò
mò và sự hứng thú của học sinh trong việc giải các bài tập hóa học và từ đó giúp học
sinh khắc sâu, nhớ lâu kiến thức, rèn được kỹ năng thực hành, kỹ năng tư duy suy luận,
kỹ năng vận dụng tri thức vào thực tế đời sống sản xuất.

4. Một số bài tập vận dụng
Bài 1: Cho thí nghiệm về tính tan của khi HCl như hình vẽ. Trong bình ban đầu chứa
khí HCl, trong nước có nhỏ thêm vài giọt quỳ tím. Hiện tượng xảy ra trong bình khi
cắm ống thủy tinh vào nước:
A. Nước phun vào bình và chuyển sang màu đỏ
B. Nước phun vào bình và chuyển sang màu xanh

C. Nước phun vào bình và vẫn có màu tím
D. Nước phun vào bình và chuyển thành không màu.
Bài 2: Các chất khí điều chế trong phòng thí nghiệm thường được thu theo phương
pháp đẩy không khí (cách 1, cách 2) hoặc đầy nước (cách 3) như các hình vẽ dưới đây:

Có thể dùng cách nào trong 3 cách trên để thu khí NH3 ?
A. Cách 1

B. Cách 2

C. Cách 3

Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

D. Cách 2 hoặc Cách 3

13


Bài 3: Cho hình vẽ về cách thu khí dời nước như sau:
Hình vẽ bên có thể áp dụng để thu được những khí nào trong các khí sau đây?
A. H2, N2, O2, CO2, HCl, H2S
B. O2, N2, H2, CO2
C. NH3, HCl, CO2, SO2, Cl2
D. NH3, O2, N2, HCl, CO2
Bài 4: Cho hình vẽ thu khí như sau:
Những khí nào trong số các khí H2, N2, NH3 ,O2, Cl2, CO2, HCl,
SO2, H2S có thể thu được theo cách trên?
A. H2, NH3, N2, HCl, CO2
B. H2, N2, NH3, CO2

C. O2, Cl2, H2S, SO2, CO2, HCl
D. H2, N2, NH3 ,O2, Cl2, CO2, SO2
Bài 5: Cho thí nghiệm như hình vẽ sau:

S

Phản ứng xảy ra trong ống nghiệm 2 là:
A. H2S + Pb(NO3)2 → PbS↓ + 2HNO3
B. Zn + 2HCl → ZnCl2 + H2
(Zn + dd HCl)
C. H2 + S → H2S
D. 2HCl + Pb(NO3)2 → PbCl2↓ + 2HNO3

2

dd Pb(NO3)2

Bài 6: Cho hình vẽ mô tả thí nghiệm điều chế khí Cl2 từ MnO2 và dung dịch HCl:

Khí Cl2 sinh ra thường lẫn hơi nước và hiđro clorua. Để thu được khí Cl 2 khô thì bình
(1) và bình (2) lần lượt đựng
A. dung dịch NaOH và dung dịch H2SO4 đặc .
B. dung dịch H2SO4 đặc và dung dịch NaCl.
C. dung dịch H2SO4 đặc và dung dịch AgNO3.
D. dung dịch NaCl và dung dịch H2SO4 đặc .
Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

14



Bài 7: Hình bên mô tả thí nghiệm điều chế Cl2 trong phòng thí nghiệm
Các dung dịch X và
Y lần lượt là:
A. NaOH và NaCl
B. NaCl và Na2CO3
C. NaOH và Na2CO3
D. NaCl và NaOH

Bài 8: Cho hình vẽ như sau:
Hiện tượng xảy ra trong bình eclen chứa dung
dịch Br2 là
A. Có kết tủa xuất hiện.
B. Dung dịch Br2 bị mất màu.
C. Vừa có kết tủa vừa mất màu dung dịch Br2.
D. Không có phản ứng xảy ra.
Bài 9: Cho hình vẽ sau:
Cho biết phản ứng nào xảy ra trong bình cầu ?
A. SO2 + Br2 + 2H2O → 2HBr + H2SO4
B. Na2SO3 + H2SO4 → Na2SO4 + SO2 + H2O
C. 2SO2 + O2 → 2SO3
D. Na2SO3 + Br2 + H2O → Na2SO4 + 2HBr

Bài 10: Cho hình vẽ mô tả thí nghiệm điều chế clo trong phòng thí nghiêm như sau:

Hóa chất được dung trong bình cầu (1) là:
A. MnO2
B. KMnO4
C. KClO3

D. Cả 3 hóa chất trên đều được.


Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

15


ĐÁP ÁN BÀI TẬP VẬN DỤNG
Câu hỏi

01

02

03

04

05

06

07

08

09

10

Đáp án


A

A

B

C

A

D

D

B

B

A

IV. Hiệu quả của SKKN
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm của bản thân cho thấy việc sử dụng bài tập hình
vẽ đã mang lại hiệu quả tốt trong việc giảng dạy, tạo cho học sinh hứng thú học tập
môn Hóa học, khắc sâu và nhớ lâu kiến thức hơn.
Trong năm học 2012 – 2013 tôi đã sử dụng bài tập hình vẽ chương Halogen vào
giảng dạy các lớp học chương trình nâng cao: 10/1 và 10/10 với năng lực học tập
tương đương nhau để kiểm chứng (Lớp 10/1 tôi không sử dụng bài tập hình vẽ còn lớp
10/10 tôi đã sử dụng các bài tập hình vẽ).
Kết quả học kỳ II của lớp 10/1 và 10/10 như sau:

Lớp
10/1
10/10

Số
HS
42
44

Kết quả học kỳ II năm học 2012 - 2013
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
6
14,3%
30
71,4%
6
14,3%
0
0%

18
40,9%
20
45,5%
6
13,6%
0
0%

Trong năm học 2014 – 2015 tôi đã sử dụng bài tập hình vẽ trong chương trình Hóa
Vô cơ lớp 10 vào giảng dạy các lớp 10 học chương trình cơ bản gồm: 10B4 và 10B6 với
năng lực học tập tương đương nhau để kiểm chứng (Lớp 10B4 tôi đã sử dụng các bài tập
hình vẽ còn lớp 10B6 tôi không sử dụng bài tập hình vẽ)
Kết quả bài kiểm tra chương Halogen của lớp 10B4 và 10B6 như sau:
Lớp
10B4
10B6

Số
HS
37
34

Kết quả bài kiểm tra nhóm Halogen
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
TL

SL
TL
SL
TL
SL
TL
4
10,8%
10
27,0%
18
48,7%
5
13,5%
0
0%
8
23,5%
16
47,1%
10
29,4%

Kết quả cho thấy, các lớp được sử dụng bài tập hình vẽ thì học sinh có hứng thú
học tập môn Hóa học hơn, các bài kiểm tra trong học kỳ II có nhiều học sinh đạt điểm
cao hơn lớp không được sử dụng bài tập hình vẽ. Đặc biệt, các thao tác làm thí
nghiệm, cách sử dụng các dụng cụ thí nghiệm, cách lấy hóa chất,... trong những bài
thực hành số 2, 3 và 4 của các em học sinh trong các lớp được sử dụng bài tập hình vẽ
chuẩn và thành thạo hơn. Tuy nhiên, một hạn chế của bài tập này là việc ra bài tập, đề
kiểm tra phải tốn rất nhiều thời gian vẽ hình và tốn giấy in (đối với đề thi trắc nghiệm).


PHẦN III. KẾT LUẬN
1. Kết luận
Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

16


Việc sử dụng bài tập hình vẽ vào các bài dạy về chất và các tiết dạy thực hành nếu
được thực hiện tốt thì không những giúp học sinh củng cố và vận dụng những kiến thức
đã học trên lớp mà còn rèn luyện các kỹ năng thực hành cho học sinh: quan sát, mô tả,
lắp đặt sơ đồ thiết bị để tiến hành làm thí nghiệm, các thao tác lấy hóa chất, cách thu
khí và cách xử lí khí độc,... Thông qua các bài tập đó, học sinh có thể tự định hướng và
đề ra các bước tiến hành làm một thí nghiệm, các em được đóng vai trò như các nhà
nghiên cứu, tìm tòi tri thức mới. Điều này đã tạo được sự hứng thú học tập bộ môn Hóa
học cho học sinh. Bài tập hình vẽ là một bước trung gian cho học sinh đi từ lí thuyết
được lĩnh hội đến chứng minh bằng thực hành thí nghiệm. Dạng bài tập này có thể sử
dụng trong hầu hết các tiết học như: dạy bài mới, ôn tập – luyện tập, thực hành. Ngoài
ra còn có thể dùng bài tập này để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
Tuy nội dung chương trình cải cách sách giáo khoa Hóa học 10 ban cơ bản và
nâng cao đã đưa những thí nghiệm bằng hình vẽ và có thêm tiết thực hành, nhưng số
lượng thí nghiệm, bài tập và câu hỏi liên quan tới thí nghiệm cho học sinh làm và theo
dõi từ thầy cô giáo làm trong các giờ học và giờ thực hành còn hạn chế, nên việc hình
thành kĩ năng thực hành thí nghiệm cũng hạn chế như cách thu khí, cách cầm ống
nghiệm, cách lấy các hóa chất, ... Đặc biệt với các trường THPT có sự hạn chế về cơ sở
vật chất, thiết bị thí nghiệm thì các bài tập hình vẽ được dùng trong các tiết giảng dạy
trên lớp, trong các giờ thực hành qua sự phân tích các hình vẽ thí nghiệm của giáo viên
và học sinh cũng có thể đáp ứng được yêu cầu kết hợp giữa lý thuyết và thực hành
trong giảng dạy môn Hóa học.
Vì vậy, với đề tài này chúng tôi mong rằng các đồng nghiệp có thể phát triển hơn

nữa để áp dụng vào quá trình giảng dạy một cách rộng rãi nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả của việc giảng dạy bộ môn Hóa học ở trường trung học phổ thông.
Dù bản thân đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài và
áp dụng vào công việc dạy học nhưng cũng không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu
sót chủ quan và khách quan rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng
nghiệp và hội đồng khoa học. Tôi xin chân thành cám ơn.

2. Hướng phát triển của đề tài
Qua kiểm nghiệm thực tế cho thấy việc sử dụng bài tập hình vẽ không chỉ áp
dụng cho các chương Hóa vô cơ lớp 10 mà còn sử dụng cho các chương khác trong
chương trình Hóa học vô cơ lớp 11, lớp 12 và cả chương trình Hóa học hữu cơ nữa.
Chúng tôi mong rằng qua hướng nghiên cứu trong một phạm vi nhỏ của đề tài,
các đồng nghiệp có thể phát triển đề tài để áp dụng vào quá trình giảng dạy môn Hóa
học một cách rộng rãi, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình dạy và học
bộ môn Hóa học ở trường trung học phổ thông.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

17


1. Hóa học 10, Sách giáo khoa ban cơ bản, Nhà xuất bản giáo dục, 2006.
2. Hóa học 10, Sách giáo khoa ban nâng cao, Nhà xuất bản giáo dục, 2006.
3. Bài tập hóa học 10, Ban cơ bản, Nhà xuất bản giáo dục 2006.
4. Bài tập hóa học 10, Ban nâng cao, Nhà xuất bản giáo dục 2006.
5. Sách giáo viên hóa học 10, Ban cơ bản, Nhà xuất bản giáo dục, 2006.
6. Sách giáo viên hóa học 10, Ban nâng cao, Nhà xuất bản giáo dục, 2006.
7. Nguyễn Cương (Chủ biên), Nguyễn Mạnh Dung, Nguyễn Thị Sửu, Phương pháp
dạy học Hóa học, NXB Giáo dục, 2001.

8. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn hóa học – Nhà xuất bản giáo dục – 2006
9. Nguyễn Cương, Thí nghiệm thực hành – Phương pháp dạy học hóa học, nhà xuất
bản sư phạm, 2005
10. Nguyễn Hải Châu – Vũ Anh Tuấn – Những vấn đề đổi mới về phương pháp giáo
dục ở trường phổ thông – Môn Hóa học NXB GD – 2007
11. Lê Trọng Tín – Phương pháp dạy học hóa học ở trường phổ thông – NXB GD - 2000
12. Nguyễn Xuân Trường – Vũ Thị Kim Oanh – Trần Ung Ninh. Tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên chu kỳ III (2004 – 2007) – Môn hoá học – NXB GD – 2004
13. Cao Cự Giác (2009), Bài tập lí thuyết và thực nghiệm hóa học – tập 1 – hóa học vô
cơ, NXB Giáo dục.
14. Ứng dụng tin học trong giảng dạy hóa học – Nhà xuất bản giáo dục – 2002
15. Đề thi tuyển sinh đại học cao đẳng các khối A, B môn Hóa học năm 2014.

Giáo viên: Nguyễn Văn Thông – Trường THPT Phú Lộc

18



×