LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu khoa học là sự say mê, trách nhiệm của các nhà khoa học. Đặc biệt
với sinh viên, học viờn và những cán bộ đang công tác trên mọi lĩnh vực việc, nghiên
cứu khoa học không chỉ làm giàu kiến thức cho bản thân mà còn góp phần vào việc
nâng cao hiệu qủa công việc. Với cán bộ giảng viên, giáo viên việc nghiên cứu khoa
học góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của quá trình giáo dục nói chung và dạy
học nói riêng. Nhằm thực hiện tốt mục tiêu của ngành GD&ĐT phát triển toàn diện về
tri thức, đạo đức, nhân cách… của người học.
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, chúng em đã nhận được sự giúp đỡ,
hướng dẫn nhiệt tình của T.S Trần Văn Công - Giảng viên môn Nghiên cứu khoa học,
các giảng viên của trường ĐHGD, Ban giám hiệu, tổ chuyên môn cùng các bạn bè,
đồng nghiệp và các em học sinh trường THPT Chuyên Tuyên Quang – Tuyên Quang;
THPT Nam Sách II – Nam Sách – Hải Dương; THPT Mỹ Đức B – Hà Nội; THPT Hoa
Lư A – Ninh Bình nơi thực nghiệm trong quá trình thực hiện đề tài.
Qua đây chúng em xin chân thành cảm ơn T.S Trần Văn Công, các giảng viên
của trường ĐHGD, Ban giám hiệu, tổ chuyên môn cùng các bạn bè, đồng nghiệp và
các em học sinh đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, kiến thức của chúng em đã được nâng lên rất
nhiều và là kinh nghiệm quý giá cho quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy. Tuy
nhiên do các điều kiện có hạn, việc nghiên cứu và vận dụng khó tránh khỏi sai sót,
chúng em rất mong được sự góp ý, chỉ dẫn của các Thầy, Cô và đồng nghiệp để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày …. tháng …. năm….
Nhóm học viên thực hiện
-1-
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng và phát triển trong
bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng. Chính điều này đã đặt ra thách thức sống
còn cho đất nước ta làm sao tìm ra được con đường đi sáng tạo và nhanh chóng hòa
nhập cùng với khu vực và thế giới thiện vào nền măn minh nhật loại.
Mốn vậy, trước hết cần phải có một nền giáo dục toàn diện và hiện đại đủ sức
tạo ra chất lượng và hiệu quả thật sự trong sứ mệnh “nâng cao dân trí, phát triển nhận
thức và bồi dưỡng nhân tài.
Do đó, ngành giáo dục nước nhà đã và đang từng bước đổi mới toàn diện để tạo
những con người vừa “hồng” vừa “chuyên” đáp ứng nhu cầu xã hội.
Nói riêng về hóa học – môn khoa học thực nghiệm – là môn học mà những con
người “công nghiệp” trong tương lai cần phải vận dụng rất nhiều vào thực tiễn. Vì thế,
học sinh cần phải được rèn luyện kỹ năng thực hành, có vốn kiến thức sâu rộng về sản
xuất khoa học ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông.
Thế nhưng, vì lí do nào đó mà không phải lúc nào người thầy cũng dạy được
cho các em theo kiểu “học đi đôi với hành”. Cho nên, những hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng,
đồ thị sẽ là ngôn ngữ diễn rả ngắn ngọn nhất nhưng rất hiệu quả bản chất của thực tiễn
hóa học, để giúp học sinh gắn lý thuyết với thực tiễn nhiều hơn.
Mặt khác, bài tập Hóa học trắc nghiệm khách quan hiện nay đang có xu hướng
phát triển mạnh mẽ. Bởi vì các ưu điểm mà nó mang lại là rất lớn như: Số lượng câu
hỏi nhiều nên phương pháp TNKQ có thể kiểm tra nhiều nội dung kiến thức bao trùm
gần cả chương, nhờ vậy buộc học sinh phải học kĩ tất cả các nội dung kiến thức trong
chương, tránh được tình trạng học tủ, học lệch của HS. Thời gian làm bài từ 1 cho đến
3 phút 1 câu hỏi, hạn chế được tình trạng quay cóp và sử dụng tài liệu. Làm bài TNKQ
học sinh chủ yếu sử dụng thời gian để đọc đề, suy nghĩ, không tốn thời gian viết ra bài
làm như TN tự luận, do vậy có tác dụng rèn luyện kĩ năng nhanh nhẹn, phát triển tư
duy cho HS.
Hiện nay, các sách đều xây dựng bài tập trắc nghiệm khách quan theo hướng
xuất phát từ những vấn đề Lý thuyết hoặc bài tập liên quan đến chương trình học. Việc
tham khảo sách trắc nghiệm khách quan trên thị trường cho thấy, hầu hết các sách đều
viết các vấn đề theo chương trình học THPT hoặc ôn luyện tốt nghiệp đại học với
-2-
những kiến thức trọng tâm về lý thuyết và bài tập tính toán. Các loại bài tập này có ưu
điểm giúp cho học sinh có được lý thuyết vững chắc và các tính toán hóa học, nhưng
chưa cho thấy được vấn đề thực nghiệm. Đây là đặc trưng của bộ môn Hóa học.
Các sách trắc nghiệm hiện nay chưa có hoặc có rất ít các sách đề cập đến loại
bài tập trắc nghiệm bằng đồ thị và hình vẽ. Với việc đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực và hướng người học làm quen nhiều hơn với thực nghiệm thì việc
cho người học tiếp xúc với các loại bài tập bằng đò thị và hình vẽ là rất quan trọng.
Điều này giúp cho người học có thể hiểu được bản chất của sự biến đổi các chất, cách
tổng hợp ra chúng trong phòng thí nghiệm hay trong công nghiệp như thế nào và cần
những dụng cụ, hóa chất gì. Hoặc có thể hình dung các lý thuyết khó thông qua hình
vẽ hoặc đồ thị. Với loại bài tập này, tính đặc thù bộ môn Hóa Học được thể hiện rất rõ.
Vì vậy, việc đưa thêm loại bài tập trắc nghiệm khách quan dùng đồ thị và hình vẽ là
việc làm rất cần thiết hiện nay.
Như vậy, vấn đề làm thế nào để học sinh sử dụng ngày càng nhiều và có hiệu
quả những bài tập có hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị?
Với mong muốn cải thiện phương pháp dạy học đặc thù của bộ môn, góp phần
nâng cao chất lượng học tập của học sinh nên chúng tôi chọn vấn đề “Xây dựng hệ
thống bài tập trắc nghiệm khách quan bằng đồ thị và hình vẽ trong chương trình
hóa học 10 THPT – Nâng cao” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Tuyển chọn, xây dựng các bài tập trắc nghiệm khách quan bằng đồ thị và hình
vẽ nhằm làm phong phú thêm hệ thống bài tập góp phần đổi mới phương pháp dạy
học, nâng cao chất lượng dạy học hoá học phổ thông.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu hệ thống lí luận về bài tập hóa học, phương tiện trực quan, bài tập
có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng và đồ thị.
- Phân tích hệ thống bài tập có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng và đồ thị trong
SGK, SBT trung học phổ thông.
- Điều tra cơ bản tình hình sử dụng bài tập hóa học có sử dụng hình vẽ, sơ đồ,
biểu bảng và đồ thị ở trường phổ thông hiện nay.
-3-
- Tuyển chọn, xây dựng các bài tập trắc nghiệm khách quan bằng đồ thị và
hình vẽ liên quan đến chương trình hóa học THPT – Nâng cao – THPT
- Đề xuất việc sử dụng hệ thống bài tập hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng và đồ thị
trong dạy học hóa học THPT
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của hệ thống bài
tập đã đề xuất.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học hoá học ở trường THPT Việt Nam.
- Đối tượng nghiên cứu: Bài tập hóa học 10 nâng cao – bậc THPT.
5. Giải thuyết khoa học
- Nếu tuyển chọn và xây dựng được các bài tập trắc nghiệm khách quan bằng
đồ thị và hình vẽ trong hóa học sẽ là nguồn tư liệu quí để giáo viên và học sinh tham
khảo.
- Qua các bài tập hóa học sẽ giúp các em học sinh học hóa học ở trường THPT
phát triển về năng lực tư duy, sáng tạo cho các em học sinh.
6. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Nghiên cứu các tài liệu lý luận dạy học để làm sáng tỏ về mặt lý luận các vấn
đề có liên quan tới nội dung đề tài.
- Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa, sách bài tập, các tài liệu tham khảo
có liên quan tới nội ung đề tài.
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra
giả thuyết của đề tài
+ Phương pháp thống kê toán học: Để xử lý kết quả thực nghiệm của đề tài.
7. Đóng góp của đề tài
7.1. Về mặt lý luận
- Làm rõ phương pháp dạy học tích cực
-4-
- Hệ thống bài tập trắc nghiệm khách quan bằng đồ thị và hình vẽ trong
chương trình hóa học THPT.
7.2. Về mặt thực tiễn
- Xây dựng và phân loại một cách đầy đủ và hợp lú hệ thống hóa bài tập bằng
đồ thị và hình vẽ trong chương trình hóa THPT.
- Áp dụng có hiệu quả hệ thống bài tập trong chương trình hóa học ở trường
THPT.
- Tài liệu tham khảo bổ ích cho GV và HS trong quá trình dạy và học hóa học.
-5-
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÀI TẬP HÓA HỌC
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Bài tập có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị hiện nay còn rất ít, nhất là
những bài tập về hình vẽ và đồ thị. Chỉ có một số ít công trình nghiên cứu về mảng bài
tập này. Chúng tôi xin giới thiệu một vài công trình có liên quan đến đề tài như sau:
1.1.1. Các tài liệu đã xuất bản
• Bài tập lý thuyết và thực nghiệm hóa học – tập 1 – hóa học vô cơ – của tác
giả Cao Cực Giác (2009), NXB Giáo dục.
Tác phẩm gồm 7 chương viết về các bài tập thực nghiệm lý thuyết và thực
nghiệm hóa học vô cơ. Đáng chú ý là ở trong chương 7, tác giả đã viết về “Bài tập
hóa học thực nghiệm có sử dụng các hình vẽ mô phỏng thí nghiệm”. Ở đây tác giả
đã đưa ra 35 bài tập có sử dụng hình vẽ để giả thấy được việc khai thác các bài tập
hóa học có sử dụng hình vẽ mô phỏng thí nghiệm là việc rất cần thiết để rèn luyện
kĩ năng thực hành và tăng cường tính thực tiễn của môn học.
• Ôn tập và hệ thống hóa nhanh giáo khoa hóa vô cơ – của tác giả Quan Hán
Thành (2003), NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
Trong tác phẩm, tác giả chia theo từng vấn đề, mỗi vấn đề tác giả hệ thống hóa
kiến thức, sau đó đưa ra các sơ đồ phản ứng hóa học để học sinh vận dụng, khắc
sâu và hoàn thiện kiến thức đã học.
• Giúp trí nhớ chuỗi phản ứng hóa học – của tác giả Ngô Ngọc An (2008),
NXB Đại học Sư phạm
Trong cuốn sách này, tác giả đã đưa ra các sơ đồ phản ứng hóa học cả phần vô
cơ lẫn hữu cơ để giúp các em học sinh 10, 11 và 12 dễ dàng hệ thống kiến thức và
thấy được mối liên hệ giữa các chất với nhau từ đó nhớ bài được lâu hơn.
1.1.2. Luận văn thạc sĩ
Một số biện pháp nâng cao chất lượng rèn luyện kiến thức – kỹ năng thí
nghiệm trong chương trình hóa học 1- nâng cao cho học sinh theo hướng dạy học
tích cực – của tác giả Đỗ Thị Bích Ngọc (2009), trường Đại học Sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh.
Trong luận văn này, tác giả đã nêu ra 5 biện pháp nâng cao chất lượng, kĩ năng
thí nghiệm cho học sinh, trong đó có hai biện pháp đáng chú ý là:
- Sử dụng bài tập có hình vẽ, đồ thị theo hướng phát huy tính tích cực cho HS
-6-
- Sử dụng đề kiểm tra có hình vẽ, bài tập thực nghiệm và bài tập thực tiễn để
rèn luyện kĩ năng thí nghiệm cho HS.
Với hai biện pháp này, tác giả đã đề xuất 34 bài tập và 10 đề kiểm tra có sử
dụng hình vẽ, đồ thị thuộc chương trình hóa học 10 nâng cao.
1.1.3. Bài viết trên tạp chí Hóa học và ứng dụng
• Một số sơ đồ phản ứng vui nhằm giúp học sinh củng cố - bổ xung kiến thức
đã học – của tác giả Bùi Xuân Đông (Số 03 (111)/2010 , trang 22-24.
Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra 8 sơ đồ vui, lạ mắt về mối quan hệ của các
loại hợp chất nhằm kích thức sự hứng thú học tập của học sinh, đồng thời giúp học
sinh tiếp thu kiến thức thoải mái và dễ nhớ bài hơn.
1.1.4. Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên
• Rèn luyện kỹ năng sử dụng hình và sử dụng hình vẽ cho sinh viên khoa hóa
trường đại học sư phạm – tác giả Nguyễn Thị Hồng Ngọc (1998) – đã nêu
được một số nội dung chú ý:
- Những ưu điểm của việc sử dụng hình vẽ trong dạy học
- Một số biện pháp sử dụng hình vẽ trong dạy học hóa học: khi truyền
thụ kiến thức mới, khi củng cố kiến thức và sự kết hợp hình vẽ với lời giảng và
thí nghiệm.
• Sử dụng tranh ảnh, hình vẽ trong dạy học hóa học ở trường THPT – của
tác giả Nguyễn Thị Thùy Trang (2000) – có nêu lên một số điểm đáng chú ý:
- Lợi ích, vai trò của tranh ảnh, hình vẽ trong dạy học
- Phạm vi và phương pháp sử dụng tranh ảnh, hình vẽ để dạy học.
• Sử dụng sơ đồ, biểu bảng và hình vẽ trong giải bài tập hóa học ở trường
THPT – của tác giả Trương Đăng Thái (2001) – đã đề cập đến:
- Tác dụng của việc sử dụng sơ đồ, bảng biểu và hình vẽ trong BTHH
- Các loại bài tập có thể sử dụng đồ thị, bảng biểu và hình vẽ để giải
cùng với phương pháp sử dụng chúng.
Các khóa luận tốt nghiệm trên đã nêu lên vai trò, tác dụng, phạm vi và một số
phương pháp sử dụng tranh ảnh, hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng trong dạy học.
Nhận xét chung:
Các tài liệu trên đã:
- Phần nào khái quát được vai trò, tác dụng của hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng và đồ thị.
- Đưa ra một số phương pháp sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT trong dạy học hóa học.
-7-
- Giới thiệu một số BTHH có sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT.
Tuy nhiên, các tài liệu trên
- Chưa giới thiệu được nhiều bài tập, nhất là bài tập có sử dụng hình vẽ, đồ thị hóa học
10
- Chưa nêu được tác dụng của bài tập có sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT.
- Chưa đề xuất được phương pháp sử dụng các bài tập có HV, SĐ, BB, ĐT trong dạy
học hóa học.
Đây là những vấn đề chúng tôi sẽ nghiên cứu trong đề tài này.
1.2. Phương tiện trực quan trong dạy học hóa học.
1.2.1. Khái niệm
Phương tiện dạy học là những đối tượng vật chất (sách vở, đồ dùng, máy móc,
thiết bị, …) dùng để dạy học.
Phương tiện trực quan trong dạy học hóa học là những đối vật chất bao gồm
mọi dụng cụ, đồ dùng, thiết bị, kĩ thuật từ đơn giản đến phức tạp dùng trong quá trình
dạy học với tư cách là mô hình đại diện cho vật, hiện tượng, là nguồn phát ra thông tin
về sự vật, hiện tượng đó, làm cơ sở và tạo thuận lợi cho sự lĩnh hội kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo cho HS.
1.2.2. Phân loại phương tiện trực quan
Tùy theo cơ sở mà có nhiều cách phân loại khác nhau, ở đây chúng tôi phân
chia phương tiện trực quan trong nhà trường thành ba nhóm sau:
1.2.2.1. Nhóm thí nghiệm trong nhà trường
- Các thiết bị, dụng cụ thí nghiệm
- Hóa chất
- Kỹ thuật tiến hành thí nghiệm trong nhà trường
1.2.2.2. Nhóm đồ dùng trực quan
- Sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo
- Sách giáo khoa (dùng cho học sinh và giáo viên)
- Sách giáo viên
- Sách tham khảo
- Tạp chí chuyên đề
- Các đồ dùng dạy học:
- Bảng các loại (bảng đen, bảng gấp, bảng di động, bảng nỉ, …)
-8-
- Tranh ảnh, hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, bản đồ, đồ thị
- Mô hình
- Mẫu vật
1.2.2.3. Nhóm phương tiện kỹ thuật
Bao gồm các máy dạy học và các phương tiện nghe nhìn
- Máy chiếu và bản trong
- Máy ghi âm
- Tivi
- Máy vi tính
- Loa
- Máy ảnh, ….
1.2.3. Vai trò của phương tiện trực quan
Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học, nó thay thế
cho những sự vật, hiện tượng, các quá trình xảy ra trong thực tiễn mà GV và HS không
thể tiếp cận được. Phương tiện dạy học giúp cho HS phát huy tối đa các giác quan
trong quá trình tiếp thu kiến thức, do đó HS dễ dàng tái hiện kiến thức và vận dụng
kiến thức vào thực tiến.
Phương tiện trực quan trong dạy học hóa học có các vai trò quan trọng sau đây:
- Cung cấp cho học sinh các kiến thức một cách chắc chắn và chính xác
giúp học sinh nhớ lâu.
- Giúp cho việc giảng dạy của GV trở nên cụ thể hơn, giúp HS dễ dàng
tiếp thu sự vật, hiện tượng và các quá trình phức tạp mà học sinh bình thường
khó nắm vững.
- Giúp GV tiết kiệm thời gian
- Giúp GV đỡ vất vả hơn
- Dễ dàng gây được cảm tình và sự chú ý của HS, giúp cho bài giảng hấp
dẫn, HS hứng thú học tập
- Giúp cho lớp học sinh đông
- Giúp GV có thể kiểm tra một cách khách quan khả năng tiếp thu kiến
thức cũng như sự hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho HS.
1.2.4. Sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học
Có ba nguyên tắc sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học hóa học:
-9-
1.2.4.1. Sử dụng đúng lúc
- Trình bày phương tiện lúc cần thiết, lúc HS mong muốn được quan sát, qua đó
dễ dàng gợi nhớ trong tình trạng tâm sinh lý thuận lợi nhất.
- Theo trình tự bài giảng, đúng nội dung và phương pháp dạy học.
- Phân biệt thời điểm sử dụng của từng phương tiện dạy học
- Cân đối và bố trí lịch sử dụng phương tiện hợp lý, đúng lúc, thuận lợi nhằm
tăng hiệu quả sử dụng.
1.2.4.2. Sử dụng đúng chỗ
- Tìm vị trí để giới thiệu phương tiện trên lớp học hợp lý nhất, giúp HS có thể
sử dụng nhiều giác quan nhất để tiếp xúc với phương tiện một cách đồng đều ở mọi vị
trí trong lớp.
- Đảm bảo các yêu cầu về chiếu sáng, thông gió và các yêu cầu kĩ thuật khác
- Các phương tiện phải được giới thiệu ở vị trí an toàn cho cả GV và HS
- Phải bố trí cất phương tiện dạy học tại lớp sau khi dùng.
1.2.4.3. Sử dụng đủ cường độ
- Phù hợp nội dung và phương pháp giảng dạy, phù hợp với trình độ tiếp thu
của HS.
- Tùy thuộc từng loại phương tiện mà có mức độ sử dụng khác nhau. Nếu kéo
dài việc sử dụng các phương tiện trực quan nhiều trong một bài giảng thì hiệu quả bài
học sẽ giảm sút.
1.3. Bài tập Hoá học
1.3.1. Khái niệm
“Bài tập là một nhiệm vụ mà người giải cần phải thực hiện. Trong đó có dữ kiện và
yêu cầu cần tìm”.
Trong sách giáo khoa và tài liệu tham khảo ở phổ thông hiện nay, thuật ngữ “
bài tập” chủ yếu được sử dụng theo quan niệm: Bài tập bao gồm cả những câu hỏi và
bài toán, mà khi hoàn thành chúng học sinh vừa nắm được vừa hoàn thiện được một tri
thức hay một kỹ năng nào đó, bằng cách trả lời miệng, trả lời viết hoặc kèm theo thực
nghiệm.
Về mặt lý luận dạy học, để phát huy tối đa tác dụng của bài tập hóa học trong quá trình
dạy học, người giáo viên phải sử dụng và hiểu nó theo quan điểm hệ thống và lý thuyết
hoạt động. Bài tập chỉ có thể thực sự là “bài tập” khi nó trở thành đối tượng hoạt động
-10-
Những điều kiện
Những yêu cầu
Phương pháp giải
Phương ện giải
của chủ thể, khi có một người nào đó chọn nó làm đối tượng, mong muốn giải nó, tức
là khi có một “người giải”. Vì vậy, bài tập và người học có mối liên hệ mật thiết tạo
thành một hệ thống toàn vẹn, thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau.
Sơ đồ cấu trúc của hệ bài tập:
Bài tập không chỉ cung cấp cho học sinh hệ thống các kiến thức mà còn giúp
cho học sinh thấy được niềm vui khám phá và kết quả của quá trình nghiên cứu tìm tòi
khi tìm ra kết quả của bài tập .
1.3.2. Phân loại bài tập hóa học
Hiện nay có nhiều cách phân loại bài tập hoá học dựa trên cơ sở khác nhau:
a/ Dựa vào mức độ kiến thức: (cơ bản, nâng cao)
b/ Dựa vào hình thái hoạt động của học sinh: (lý thuyết, thực nghiệm)
c/ Dựa vào mục đích dạy học: (nghiên cứu tài liệu mới, ôn tập, luyện tập, kiểm
tra)
d/ Dựa vào cách tiến hành trả lời: (trắc nghiệm khách quan, tự luận)
e/ Dựa vào kỹ năng, phương pháp giải bài tập: (lập công thức, phương pháp bảo
toàn: khối lượng, electron, nguyên tố )
f/ Dựa vào loại kiến thức trong chương trình: (cấu tạo nguyên tử, bảng tuần
hoàn , phản ứng oxi hóa khử, tốc độ phản ứng và cân bằng hóa học)
g/ Dựa vào đặc điểm bài tập:
- Bài tập định tính: (giải thích hiện tượng, nhận biết, điều chế, tách hỗn hợp )
- Bài tập định lượng: (có lượng dư, giải bằng trị số trung bình, giải bằng đồ thị )
1.3.3. Vai trò, ý nghĩa của bài tập trong dạy học hóa học ở trường THPT
Trong quá trình dạy học bộ môn Hóa học ở trường phổ thông, BTHH giữ một
vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện tốt và hoàn thành mục tiêu đào tạo, nó
vừa là mục đích, vừa là nội dung, vừa là phương phương pháp dạy học rất có hiệu quả.
-11-
BTHH có những ý nghĩa, tác dụng to lớn về nhiều mặt được thể hiện qua một số vai
trò như sau:
1.3.3.1. Ý nghĩa trí dục
- Làm chính xác hoá các khái niệm hoá học, củng cố, đào sâu và mở rộng kiến
thức một cách sinh động, phong phú, hấp dẫn.
- Ôn tập, hệ thống hoá kiến thức một cách tích cực nhất.
- Rèn luyện các kỹ năng hoá học như tính toán theo công thức hoá học và
PTHH… Nếu là bài tập thực nghiệm sẽ rèn các kỹ năng thực hành, góp phần vào việc
giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho học sinh.
- Rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống, lao động sản
xuất và bảo vệ môi trường.
- Giáo dục đạo đức, tác phong: rèn luyện tính kiên nhẫn, sáng tạo, chính xác và
phong cách làm việc khoa học. Giáo dục lòng yêu thích bộ môn.
1.3.3.2. Ý nghĩa phát triển
- Phát triển ở HS các năng lực tư duy logic, biện chứng, khái quát, độc lập, sáng
tạo.
- Bài tập hóa học rèn luyện cho HS kỹ năng suy nghĩ độc lập, trí thông minh và
khả năng sáng tạo.
1.3.3.3. Ý nghĩa giáo dục
- Rèn luyện đức tính kiên nhẫn, trung thực và lòng say mê khoa học. Bài tập
thực nghiệm còn có tác dụng rèn luyện văn hoá lao động (lao động có tổ chức, có kế
hoạch, gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ ).
1.3.4. Sử dụng bài tập trong dạy học hóa học.
1.3.4.1. Chọn bài tập
Hiện nay, ngoài SGK và SBT còn rất nhiều sách tham khảo về BTHH ở trường
phổ thông. Tuy nhiên, tùy theo từng điều kiện cụ thể mà GV cần lựa chọn các BT cho
phù hợp. Khi chọn BT cần chú ý đến các yếu tố sau.
- Cắn cứ trên khối lượng kiến thức HS nắm được để lựa chọn bài tập phù hợp
vời trình độ HS.
- Qua việc giải quyết BT của HS có thể đánh giá được chất lượng học tập,
phân loại được HS, kích thích được toàn lớp học.
- Căn cứ vào chương trình giảng dạy, nen xây dựng một ngân hàng bài tập
phù hợp với mức độ của từng lớp.
-12-
- Nên chọn các bài tập có nội dung gắn hóa học với các môn học khác, với
thực tiễn, bài tập có nhiều cách giải, qua đó đòi hỏi HS phải suy nghĩ thông
minh để có cách giải nhanh và ngắn nhất, sẽ tạo hứng thú, nâng cao chất
lượng giải bài tập.
- Sau mỗi bài giảng, cần rèn luyện cho HS có thói quen làm hết các bài tập có
trong SGK.
1.3.4.2. Chữa bài tập
- Khi chú trọng chất lượng: Giáo viên nên chữa bài kiểm tra viết, chữa các bài
tập chọn lọc điển hình.
+ Chữa chi tiết, trình bày rõ ràng, chính xác, nên kết hợp chữa các lỗi điển hình
mà HS đã mắc phải.
+ Hướng dẫn cho HS cách phân tích BT, nên có ví dụ về bài làm của HS từ việc
phân tích sai đến giải sai.
+ Cần lựa chọn các bài tập điển hình, các dạng bài tập bắt buộc.
- Khi chú trọng tới số lượng: HS phổ thông cần phải chữa nhiều BT, kiểm tra
để khuyến khích HS học tập, đánh giá kịp thời chất lượng dạy học. GV có thể tiến
hành theo các hình thức sau:
+ Tiến hành kiểm tra vào đầu hoặc cuối giờ học, kiểm tra một lúc nhiều HS
+ Kiểm tra trắc nghiệm
+ Các dạng bài tập cơ bản.
1.3.5. Xây dựng bài tập hóa học mới.
1.3.5.1. Các xu hướng hiện nay
- Loại bỏ những bài tập có nội dung hóa học nghèo nàn nhưng lại cần đến
những thuật toán phức tạp để giải (hệ nhiều ẩn, nhiều phương trình, bất phương trình,
cấp số nhân, cấp số cộng, )
- Loại bỏ những BT có nội dung rắc rối, phức tạp, xa rời hoặc phi thực tiễn.
- Tăng cường sử dụng bài tập thực nghiệm
- Đa dạng hóa các loại hình bài tập: Bài tập bằng hình vẽ, BT vẽ đồ thị, sơ đồ,
BT dùng bảng số liệu, BT lặp dụng cụ thí nghiệm,
- Xây dựng những BT có nội dung hóa học phong phú, sâu sắc, phần tính toán
đơn giản và nhẹ ràng.
- Tăng cường xây dựng và sử dụng bài tập hóa học thực nghiệm.
1.3.5.2. Một số loại hình bài tập mới cần xây dựng
-13-
Bài tập bằng hình vẽ:
Ví dụ 1: Các hình vẽ sau mô tả một số phương pháp thu khí thường được tiến hành ở
phòng thí nghiệm. Cho biết từng phương pháp (1); (2) và (3) có thể áp dụng để thu
được khí nào trong số các khí sau: H
2
; O
2
; N
2
; Cl
2
; HCl, NH
3
, SO
2
, CO
2
và H
2
S.
Ví dụ 2: Tiến hành thí nghiệm như hình vẽ sau:
a. Khả năng hấp phụ của than gỗ thuộc tính chất vật lý hay hóa học của cacbon?
b. Vì sao than gỗ có tính hấp phụ, các dạng thù hình khác của cacbon có tính chất này
hay không ? Vì sao ?
c. Nêu ứng dụng thực tế về tính hấp phụ của than gỗ.
Bài tập có sử dụng đồ thị
Ví dụ 3: Nung nóng đều dần một chất rắn A trong thời gian 20 phút. Nhiệt độ gây ra
sự biến đổi trạng thái của chất rắn A được biểu diễn bằng đồ thị sau:
Từ đồ thị, hãy cho biết:
-14-
a. Ở nhiệt độ nào thì chất A nóng chảy ?
b. Ở nhiệt độ nào thì chất A sôi ?
c. Ở nhiệt độ cao nhất là bao nhiêu để chất A tồn tại ở trạng thái rắn ?
d. Hãy cho biết chất A ở trạng thái nào (rắn, lỏng, khí) khi A ở những nhiệt độ sau:
25
0
C, 50
o
C và 100
0
C.
e. Ở nhiệt độ nào thì chất A vừa tồn tại ở trạng thái rắn, vừa tồn tại ở trạng thái lỏng ?
Vừa tồn tại ở trạng thái lỏng vừa tồn tại ở trạng thái khí ?
1.4. Bài tập hóa học có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị
1.4.1. Khái niệm
Hiện nay, chưa có tài liệu nào định nghĩa cụ thể về bài tập hóa học có sử dụng
hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị.
Theo chúng tôi, bài tập hóa học có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểub ảng, đồ thị là
bài tập trong đó đòi hỏi học sinh phải dựa trên các hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị để
giải.
1.4.2. Phân loại bài tập hóa học có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị.
Trong tài liệu này, chúng tôi chia bài tập có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng,
đồ thị ra làm 2 loại:
• Bài tập có hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị trong đề bài.
• Bài tập có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị để giải.
1.4.2.1. Bài tập có hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị trong đề bài.
* Bài tập có hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị chứa đầy đủ các thông tin để tổ chức
cho học sinh quan sát, khai thác thông tin, hình thành kiến thức mới.
Ví dụ 1: Bảng sau giới thiệu một số tính chất của các nguyên tố nhóm nitơ.
Hãy cho biết:
a. Các nguyên tố nhóm Nito có điểm gì giống nhau ?
b. Bán kính nguyên tử thay đổi như thế nào ?
c. Nguyên tố nào có độ âm điện lớn nhất ?
d. Nguyên tố nào dễ bị oxi hóa nhất ? Nguyên tố nào khó bị oxi hóa nhất.
-15-
* Bài tập có hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng chưa đầy đủ thông tin hoặc không chú thích
và yêu cầu học sinh bổ xung để hoàn thiện hoàn chỉnh.
Ví dụ 1: Thực hiện sơ đồ chuyển hóa sau:
2
3
N X Y
Z T HNO
→
→
¬
→
→
¬
↓ ↑
Ví dụ 2: So sánh Cacbon và Silic:
Đặc điểm/Nguyên tố Cacbon Silic
Cấu hình elecdtron
Các dạng thù hình
Các số oxi hóa
Tính oxi hóa
Tính khử
Ứng dụng
1.4.3. Vài trò của bài tập có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị
Hóa học là môn học vừa lí thuyết vừat hực nghiệm, ngoài thực nghiệm của PTN
còn có thực nghiệm của sản xuất hóa học. HV, SĐ, BB, ĐT là ngôn ngữ diễn tả rất
ngắn và hiệu quả về bản chất của thực tiễn hóa học, vì thế sẽ giúp HS dễ gắn lý thuyết
với thực tế, vận dụng lí thuyết vào thực tế. Hơn nữa, sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT sẽ tạo
điều kiện cho các em học sinh vận động nhiều giác quan, phát huy tính tích cực, tự lực
và chủ động, sáng tạo của học sinh. Do đó, ngoài những tác dụng chung của BTHH,
các BT về HV, SĐ, BB, ĐT còn có những tác dụng thiết thực khác.
1.4.3.1. Bài tập có sử dụng hình vẽ
Hiện nay, BT bằng hình vẽ còn quá ít do vậy cũng ít được sử dụng. Đây là dạng
BT mang tính trực quan, sinh động gắn liền với kiến thức và kỹ năng thực hành HỖN
HỢP. BT có sử dụng hình vẽ có tác dụng:
- Mô tả, thay thế những thí nghiệm khó, phức tạp hoặc điều kiện thực tế
không thể tiến hành được, từ đó giúp HS dễ tái hiện và vận dụng kiến thức.
- Giúp HS rèn luyện kỹ năng vẽ hình.
- Giúp HS rèn luyện kĩ năng quan sát, phân tích, tổng hợp và suy đoán.
- Bài giảng hấp dẫn, HS hứng thu học tập, nâng cao kết quả học tập của HS.
- Giúp GV tiết kiệm thời gian do không phải mô tả, giải thích dài dòng.
1.4.3.2. Bài tập có sử dụng sơ đồ.
Bài tập sử dụng sơ đồ có tác dụng
-16-
- Trình bày kiến thức cô đọng, khái quát, gây dược sự chú ý cho HS.
- Dễ củng cố, hệ thống kiến thức cho HS, từ đó giúp HS nhớ lâu
- Giúp HS giải nhanh một số dạng bài tập như: Nhận biết. Tính chế, lập sơ đồ
điều chế; lập sơ đồ chuyển hóa; lập mối liên hệ giữa các chất,
- Nâng cao hiệu quả bài lên lớp.
- Giúp GV tiết kiệm thời gian
1.4.3.3. Bài tập có sử dụng biểu bảng.
Bài tập có sử dụng bảng biểu có tác dụng:
- Giúp HS dễ nhận xét, so sánh.
- Giúp GV và HS dễ củng cố, ôn tập và hệ thống hóa kiến thức
- Giúp HS giải nhanh, trình bày ngắn gọn một số dạng BT như: Nhận biết,
xác định thành phần của các chất, biện luận tìm kết quả bài toán,
- Giúp GV tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả học tập của HS.
1.4.3.4. Bài tập có sử dụng đồ thị
Bài tập có sử dụng đồ thị hiện nay rất ít, do đó cũng rất ít được sử dụng, bài tập sử
dụng đồ thị có tác dụng:
- Giúp HS tái hiện được một số quá trình quá học
- Giúp HS phát triển kỹ năng quan sát và suy đoán.
- Hình thành phương pháp giải một số dạng toán, từ đó giải nhanh các dạng bài
tập đó, nhất là những bài tập trắc nghiệm
1.5. Phân tích hệ thống bài tập có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị trong
sách giáo khoa, sách bài tập trung học phổ thông.
Qua nghiên cứu, chúng tôi thống kê được bảng so sánh giữa số lượng BT có sử
dụng HV, SĐ, BB, ĐT với BTHH được đưa ra trong SGK, SBT trung học phổ thông
như sau:
Bảng 1.1: Thống kê tỉ lệ BT có sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT trong số lượng BTHH
Khối
lớp
BT có sử dụng
HV, SĐ, BB, ĐT
(1)
BTHH
(2)
Tỉ lệ
(1)/(2)
Chương trình
nâng cao
10 38 631 6,02 %
6,71
%
11 63 735 7,92 %
12 47 781 6,02 %
Chương trình
cơ bản
10 11 590 1,86 %
3,83%
11 40 586 6,82 %
-17-
12 19 654 2,91 %
Nhận xét:
Tỉ lệ bài tập có sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT so với hệ thống BTHH ở SGK và
SBT trung học phổ thông hiện nay là rất ít, chỉ đạt có 6,71 % đối với chương trình
nâng cao và 3,83% đối với chương trình cơ bản.
1.6. Thực trạng việc sử dụng bài tập có hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị ở trường
trung học phổ thông.
1.6.1. Mục đích và phương pháp điều tra
Để nắm rõ thực trạng việc sử dụng bài tập có HV, SĐ, BB, ĐT ở trường THPT
cũng như ý kiến của giáo viên về dạng bài tập này, chúng tôi đã tiến hành điều tra và
trưng cầu ý kiến của một số giáo viên bằng phương pháp sau:
- Phát phiếu trưng cầu ý kiến cho 72 giáo viên dạy hóa học ở các trường THPT
thuộc một số tỉnh: Tuyên Quang, Hải Dương, Ninh Bình, Hà Nội (phụ lục số 10)
- Trò truyện, đàm thoại với một số giáo viên và học sinh trường THPT Chuyên
Tuyên Quang.
1.6.2. Kết quả điều tra
Sau khi phát phiếu trưng cầu ý kiến cho 72 giáo viên dạy hóa học ở một số tỉnh
thành và thu lại, chúng toi đã thống kê ý kiến của các GV về một số nội dung như sau:
Nội dung 1
Bảng 1.2. Ý kiến của GV về việc đa dạng hóa hệ thống BTHH phổ thông
(mức độ 1 thấp nhất, mức độ 5 cao nhất)
ST
T
Dạng bài tập
Mức độ cần biết
1 2 3 4 5
1 Bàit ập thực tiễn
1
(1,4%)
8
(11,1%)
20
(27,8%)
28
(38,9%)
15
(20,8%)
2
Bài tập thực
nghiệm
2
(2,8%)
9
(12,5%)
28
(38,9%)
20
(27,8%)
13
(18,1%)
3
Bài tập có sử
dụng hình vẽ
1
(1,4%)
9
(12,5%)
24
(33,3%)
21
(29,2%)
17
(23,6%)
4
Bài tập sử dụng
sơ đồ
0
(0%)
15
(20,8%)
27
(37,5%)
21
(29,2%)
9
(12,5%)
5
Bài tập có sử
dụng đồ thị
2
(2,8%)
17
(23,6%)
26
(36,1%)
14
(19,4%)
13
(18,1%)
6 Bài tập có sử 0 17 28 25 2
-18-
dụng biểu bảng (0%) (23,6%) (38,9%) (34,7%) (2,8%)
7 Bài tập tính toán
8
(11,1%)
13
(18,1%)
16
(22,2%)
20
(27,8%)
15
(20,8%)
Như vậy, đa số giáo viên đều đồng ý với việc bổ xung bài tập có sử dụng HV,
SĐ, BB, ĐT để đa dạng hệ thống BTHH phổ thông.
Nội dung 2:
Bảng 1.3. Ý kiến của GV về số lượng và dạng BT có sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT
Nội dung Ý kiến của GV
1. Số lượng BT có sử dụng HV,
SĐ, BB, ĐT trong SGK và
SBT phổ thông hiện nay
Nhiều Trung bình Ít
2
(2,8%)
16
(22,2%)
54
(75%)
2. Việc bổ xung BT có sử
dụng HV, SĐ, BB, ĐT vào hệ
thống BTHH phổ thông hiện
nay
Rất cần thiết Cần thiết Không cần
27
(37,5%)
45
(62,5%)
0
(0%)
3. Quý thầy cô có sử dụng BT
có HV, SĐ, BB, ĐT trong các
hoạt động dạy học
Rất thường xuyên Thường xuyên Ít sử dụng
1
(1,4%)
18
(25%)
53
(73,6%)
Từ kết quả trên chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết GV (75%) đều cho rằng số
lượng BT có sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT hiện nay ít và việc bổ xung là cần thiết (100%),
và các GV (73,6%) ít sử dụng bài tập này trong hoạt động dạy học của mình.
Nội dung 3.
Bảng 1.4. Ý kiến của GV về nguồn sử dụng bài tập hóa học
(mức độ 1 thấp nhất, mức độ 5 cao nhất)
ST
T
Nguồn sử dụng
Mức độ sử dụng
1 2 3 4 5
1 Sách giáo khoa
8
(11,1%
)
11
(15,3%
)
17
(23,6%
)
20
(27,8%
)
16
(22,2%)
2 Sách bài tập
5
(6,9%)
9
(12,5%
)
25
34,7%)
22
(30,6%
)
11
(15,3)
3 Sách tham khảo
3
(4,2%)
5
(6,9%)
29
(40,3%
)
24
(33,3%
)
11
(15,3%)
4
Sách tham khảo
có biến đổi
7
(9,7%)
14
(6,9%)
20
(27,8%
)
16
(22,2%
)
15
(20,8%)
5
Bài tập do thầy cô
tự xây dựng
7
(9,7%)
23
(31,9%
)
24
(33,3%
)
9
(12,5%
)
9
(12,5%)
-19-
Như vậy, đa số GV sử dụng BT có HV, SĐ, BB, ĐT từ nhiều nguồn, chưa có
nguồn nào là chủ yếu. Vì thế, cần phải có một nguồn bài tập về dạng này để giáo viên
sử dụng trong hoạt động dạy học của mình.
Bên cạnh đó, qua trò chuyện, trao đổi trực tiếp với GV và HS cũng thu được kết
quả tương tự.
- Cô Nguyễn Thị Bình – Giáo viên trường THPT Nam Sách II - Hải Dương –
cho biết: BT có sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT trong SGK và SBT hiện nay còn rất ít, nhất
là BT về HV và ĐT, cho nên cô cũng ít sử dụng dạng BT này trong giờ học. Hơn nữa,
những BT này cũng hiếm khi cho vào trong các kì thi học kì, thi tốt nghiệp hay đại
học. Vì thế, GV thường hay bỏ qua và ít đầu tư để soạn giảng.
- Đinh Thị Thu Hiền - Giáo viên trường THPT Hoa Lưu A – Ninh Bình -
Cho biết: Cô cũng ít khi đầu tư soạn những BT về HV, BB, ĐT cho HS giải mà chỉ
cho HS giải một số bài tập có sẵn trong SGK và SBT, tại vì những dạng BT này ít mà
cũng hiếm
Hiếm khi cho thi. Cô nghĩ những BT này cũng rất cần thiết để HS tư duy, tìm ròi ra
những cái hay mà ở những BT tính toán hay làm chưa có.
- Em Nguyễn Thị Bích Hiền – Học sinh lớp 11H, trường THPT Chuyên Tuyên
Quang – Tuyên Quang – cho biết: Em nhớ ở năm lớp 9 và lớp 10 trong SBT có một số
bài tập về HV, ĐT, thầy cô dặn tụi em về nhà làm tất cả, nhưng lại ít sửa bài, có lẽ vì
không có nhiều thời gian để sửah ết. Cho nên có một số bài em không biết làm đành
phải lật phần hướng dẫn phía sau ra chép.
Từ những kết quả trên, chúng tôi nhận thấy rằng:
• Trong sách giáo khoa và sách bài tập, số lượng bài tập sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT là
quá ít trong các sách tham khảo, các đề thi càng hiếm hơn nữa, nhất là bài tập về
hình vẽ và đồ thị.
• Nhiều giáo viên và học sinh rất hứng thú với mảng bài tập này, nhưng lại ngại dạy,
ngại sưu tầm, ngại làm bài tập do không có thời gian và cũng hiếm khi cho thi.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong chương 1, chúng tôi đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài gồm các
nội dung sau:
Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Chúng tôi đã tìm hiểu một số tài liệu liên quan
đến đề tài.
-20-
Phương tiện trực quan: Khái niệm, phân loại, vai trò và việc sử dụng các phương
tiện trực quan trong dạy học hóa học.
Bài tập hóa học. Chúng tôi đã đề cập đến vấn đề khái niệm, phân loại, ý nghĩa, tác
dụng củaB THH cũng như việc sử dụng BT và phương pháp xây dựng BTHH mới.
Bài tập hóa học có sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT. Chúng tôi đã nghiên cứu về khái
niệm, phân loại, vai trò của dạng bài tập này.
Phân tích hệ thống bài tập hóa học có sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT trong SGK, SBT
trung học phổ thông. Qua phân tích, chúng tôi nhận thấy, dạng bài tập này chỉ
chiếm 6,71% đối với chương trình nâng cao và 3,81% đối với chương trình cơ bản.
Thực trạng việc sử dụng BT hóa học có sử dụng HV, SĐ, BB, ĐT ở trường phổ
thông. Chúng tôi đã nêu lên mục đích, phương pháp và kết quả điều tra. Qua điều
tra, chúng tôi nhận thấy rằng đa số GV (73,6%) ít sửduụng dạng bài tập này và
100% GV đều cho rằng đây là dạng bài tập cần được bổ xung trong hệ thống
BTHH .
-21-
CHƯƠNG II:
XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM VỀ HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ
TRONG CHƯƠNG TRÌNH HÓA HỌC THPT.
o O o
2.1: Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng
và đồ thị
• Hệ thống bài tập phải góp phần thực hiện mục tiêu môn học
Bài tập là phương tiện để tổ chức hoạt động của HS, nhằm giúp HS khắc sâu
kiến thức, vận dụng và phát triển hệ thống tri thức đã học, hình thành và rèn
luyện các kỹ năng cơ bản. Vì thế, bài tập phải bám sát mục tiêu và góp phần
thực hiện mục tiêu môn học.
• Hệ thống bài tập phải bám sát nội dung học tập
Căn cứ vào mục tiêu của chương, bài và từng nội dung trong từng bài để xây
dựng và lựa chọn bài tập cho phù hợp với mực tiêu đó.
• Đảm bảo tính chính xác, khoa học và hiện đại
Nội dung bài tập đưa ra phải được cập nhật phù hợp với việc đổi mới chương
trình học. Kiến thức phải chính xác, tránh ra bài tập với những mảng kiến thức
còn đang tranh cãi.
• Đảm bảo tính logic, hệ thống
Các bài tập được sắp xếp theo thứ tự:
+ Từng dạng bài tập theo thứ tự hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, đồ thị
+ Từng chương, từng bài, mức độ tăng dần theo trình độ phát triển của
HS
• Đảm bảo tính sư phạm
Các kiến thức bên ngoài khi đưa vào làm bài tập phải qua khâu xử lí sư phạm
để phù hợp với phương pháp giảng dạy và thức đẩy khả năng tiếp thuc của HS.
• Các hình vẽ đúng quy chuẩn, có tính thẩm mỹ, các đường nét cân đối, hài hòa
• Phù hợp với trình độ và phát huy tính tích cực nhận thực của học sinh
Tùy theo trình độ HS mà xây dựng hệ thống bài tập cho phù hợp với khả năng
của các em. Các bài tập phải được xây dựng từ dễ đến khó, từ vận dụng đến
sáng tạo để phát huy tính tiachs cực của học sinh. Nếu thấy học sinh đã đạt
được mức độ này thì từng bước nâng dần lên mức độ cao hơn.
2.2. Quy trình xây dựng hệ thống bài tập hóa học có sử dụng hình vẽ, sơ đồ, biểu
bảng, đồ thị.
• Bước 1: Xác định cấu trúc bài tập
• Bước 2: Phân tích mục tiêu dạy học
-22-
+ Phân tích mục tiêu của chương, từng nội dung trong từng bài để định hướng
cho việc thiết kế bài tập.
+ Nghiên cứu kĩ nội dung SGK, SBT, các tài liệu tham khảo và các vấn đề có
liên quan đến nội dung đó.
+ Nghiên cứu đặc điểm, trình độ nhận thức của HS để thiết kế bài tập cho phù
hợp
• Bước 3: Thu thập thông tin để xây dựng hệ thống bài tập
+ Các bài tập trong SGK, SBT hóa học THPT
+ Bài tập trong các sách tham khảo, tạp chí
+ Các thông tin trên mạng internet,
• Bước 4: Tiến hành soạn thảo
+ Soạn từng bài tập
+ Xây dựng phương án giải bài tập
+ Dự kiến các tình huống, những sai lầm của HS có thể xảy ra khi HS giải bài
tập và các khắc phục
+ Sắp xếp các bài tập thành từng loại theo cấu trúc đã đề ra.
• Bước 5: Lấy ý kiến của đồng nghiệp và chỉnh sửa
2.3. Mục tiêu của chương trong SGK hóa học 10 – Ban nâng cao
-23-
2.4. Hệ thống bài tập
Câu 1: Cho những nguyên tử của các nguyên tố sau:
1 2 3 4
Những nguyên tử nào sau đây là đồng vị của nhau ?
A. 1 và 2 B. 2 và 3 C. 1, 2 và 3 D. Cả 1, 2, 3, 4
Câu 2: Nguyên tử nào trong hình vẽ dưới đây có số e lớp ngoài cùng là 5?
1 2 3 4
A. 1 và 2 B.1 và 3 C. 3 và 4 D.1 và 4
Câu 3: Trong các AO sau, AO nào là AOs ?
z
x
y
z
x
y
y
z
x
x
y
z
1 2 3 4
A. Chỉ có 1 B. Chỉ có 2 C. Chỉ có 3 D. Chỉ có 4
Câu 4: Trong các AO sau, Ao nào là AOp
x
?
z
x
y
z
x
y
y
z
x
x
y
z
1 2 3 4
A. Chỉ có 1 B. Chỉ có 2 C. Chỉ có 3 D. Chỉ có 4
Câu 5: Nguyên tử nào trong hình vẽ dưới đây có số e lớp ngoài là 8
-24-
1 2 3 4
A. 1 và 2 B.Chỉ có 3 C. 3 và 4 D.Chỉ có 2
Câu 6: Hình vẽ nào sau đây vi phạm nguyên lý Pauli khi điền electron vào AO?
a b c d
A. a B. b C. a và b D.c và d
Câu 7: Hình vẽ nào sau đây mô tả đúng nguyên lý Pauli khi điền electron vào AO?
a b c d
A. a B. b C. a và b D. c và d
Câu 8: Cho các cấu hình sau của
7
N. Hình vẽ nào sau đây đúng với quy tắc Hund?
A.
B.
C.
D.
Câu 9: Cấu hình của nguyên tử sau biểu diễn bằng ô lượng tử. Thông tin nào không
đúng khi nói về cấu hình đã cho?
1s
2
2s
2
2p
3
A.Nguyên tử có 7 electron B.Lớp ngoài cùng có 3 electron
C.Nguyên tử có 3 electron độc thân D.Nguyên tử có 2 lớp electron
Câu 10: Cho cấu hình của nguyên tố X sau, cho biết kết luận nào đúng?
1s
2
2s
2
2p
6
3s
2
X ở ô số 12, chu kỳ 3, nhóm IIIA trong bảng tuần hoàn.
X ở ô số 12, chu kỳ 3, IIIB trong bảng tuần hoàn.
-25-