Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Cảm hứng Kitô giáo trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.17 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƢỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM VĂN HẢI

CẢM HỨNG KITÔ GIÁO TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN VIỆT HÀLUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Xuân Thạch
Hà Nội –2016


2MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đềtài...........................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu......................................................................6
3. Lịch sử vấn đề...............................................................................6
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................9
6.Phƣơng pháp nghiên cứu..................................................................9
Chƣơng 1: KITÔ GIÁO VÀ VĂN CHƢƠNG NGUYỄN VIỆT HÀ.................11
1.1. Kitôgiáo, Kitôgiáo ở Việt Nam......................................................11
1.2. Văn chƣơngcủa Nguyễn Việt Hà....................................................20
Chƣơng 2: NHỮNGYẾU TỐKITÔGIÁO QUA NGÔN NGỮ, KHÔNG GIAN,
NGHI LỄ, BIỂU TƢỢNG VÀ LỊCH SỬ................................................37
2.1. Tên tác phẩm...........................................................................37
2.2. Không gian..............................................................................40
2.3. Ngôn ngữ................................................................................42
2.4. Nghi lễ, biểu tƣợng, ngày lễ............................................................44
2.5. Lịch sử Kitô giáo ở Việt Nam trong bộ ba tiểu thuyết.............................48


Chƣơng 3: NHỮNGYẾU TỐ TÔN GIÁO Ở CẤP ĐỘ NHÂN VẬT...............52
3.1.Quan niệm vềnhân vật, nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà...........52
33.2. Các loại nhân vậttrongtiểu thuyết Nguyễn Việt Hà..............................55
3.3.Thành công trong xây dựng nhân vật, những con ngƣời tôn giáo và xã
hội............................................................................................................................69
Chƣơng4: VAI TRÒ CỦATÔN GIÁO TRONG VIỆC THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG,
CHỦ ĐỀ......................................................................................72
4.1. Sự xung đột, bộ mặt đƣơng đại của xã hội...........................................72
4.2. Đức tin và con ngƣời tinh thần qua tôn giáo.......................................76
KẾT LUẬN..................................................................................84


TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................86


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tàiTôn giáo bản chất là một hiện tƣợng xã hội mang tính lịch sử,
văn hóa. Đâylà một trong những cảm hứng quan trọng trong các sáng tác văn
chƣơng. Bàn về mối quan hệ giữa tôn giáo và văn học, Phƣơng Lựu trong giáo
trìnhLý luận văn họctập 1, đã khẳng định:“Chủ nghĩa nhân văn tôn giáo cũng là
một nguồn cảm hứng của văn nghệ, đồng cảm với con người nhân đạo trong văn
chương”.[30]Trong kho tàng văn học nhân loại,nhiều tác phẩm đƣợc viết ra dựa
trên cảm hứng tôn giáo. Tùy vào đức tin, tôn giáo và tín ngƣỡng của mỗi tác giả
hay đặc điểm của của thời đại, địa điểm sinh sống mà những tác phẩm có thểchứa
đựngít hay nhiều những yếu tố tôn giáo.Qua đó,tác giả chuyển tải những thông
điệp sâu xa đến độc giả.Việt Nam là một đất nƣớc nằm ở trung tâm Đông Nam Á.
Từ xƣa đã là nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa với những luồng tƣ tƣởngkhác
nhaunhƣ Phật giáo, Khổng giáo, Hồi giáo, Kitô giáo... Những tôn giáo này cùng
với những tín ngƣỡng bản địa đã là nguồn cảm hứng, ảnh hƣởng và tác động đến

đời sống văn hóa tinh thần, đặc biệt là cả trongđời sống văn học.Trong đó, Kitô
giáo chiếm một vị trí quan trọng.Văn học thế giớitừng có nhiều tác phẩmnổi tiếng
lấy hình tƣợng tôn giáo làmđối tƣợng phản ánhnhƣ Tây du kí(1590) của Ngô
Thừa Ân, Nhà thờĐức bà(1831), Những người khốn khổ (1862) của Victo
Huygo, Nghệ nhân và Margarita(1840) của Mikhail Bulgacov, Lũ người quỷ
ám(1872) của Dostoyevsky, Tiếng chim hót trong bụi mận gai(1977) của Colleen
McCulloug, Đoạn đầu đài(1986) của Aimatov, , và gần đây là Thiên thần và ác
quỷ(2000), Mật mã Da Vinci (2003) của Dan Brown. Hầu nhƣ cácnền văn học lớn
nhƣ Trung Quốc, Nga, Ấn Độ... đều mang đậmdấu ấn tôn giáo.
5Văn học Việt Nam từ xƣa đã có rất nhiều tác phẩm đƣợc sáng tác dựa trên cảm
hứng tôn giáo nhƣ thơ văn Phật giáo thời kì trung đại, thơ văn ảnh hƣởng của Nho
giáo, Đạo giáo hiện diện thƣờng xuyên kể từ khihai hệ tƣ tƣởng xã hội này ảnh
hƣởng tới Việt Nam. Theo thời gian, sự tiếp nhậnKitô giáo sau đó đã tạo nên
nhiều tác phẩm mang cảm hứng từ tôn giáo mới này ở Việt Nam dù chƣa nhiều,


sâu đậm nhƣ những những tác phẩm văn chƣơng Phật giáo, Nho giáo...Trong văn
học hiện đại và đƣơng đại của Việt Nam, cảm hứng tôn giáotiếp tục có mặt trong
các tác phẩm văn học có tiếng vang nhƣ Hồn bướm mơ tiêncủa Khái Hƣng, Tắt
lửa lòngcủa Nguyễn Công Hoan, Nhân sứ, Bụt mệtcủa Hòa Vang, Đường Tăngcủa
Trƣơng Quốc Dũng, Thợ maycủa Phạm Hải Vân, Giàn thiêucủa Võ Thị Hảo, Mẫu
thượng ngàn, Đội gạo lênchùacủa Nguyễn Xuân Khánh, Cõi người rung chuôngtận
thế, Đức Phật, nàng Savitri và tôicủa Hồ Anh Thái, Đêm thánh vô cùngcủa Sƣơng
Nguyệt Minh, Lời nguyền hai trăm nămcủa Khôi Vũ, Gióngcủa Nguyễn Minh Hà,
tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơngnhƣ Tàn đenđốm đỏ, Những đứa trẻ chết
giàhay Phẩm tiếtcủa Nguyễn Huy Thiệp...và đặc biệt là trong những tiểu thuyết của
cây bút Nguyễn Việt Hà.So với những tôn giáo, tín ngƣỡng khác thì Kitôgiáo mới
chỉ đƣợc truyền bá tại Việt Nam với thời gian chƣa lâu và cũng chƣa thực sự ảnh
hƣởng sâu rộng trong các tác phẩm văn học hiện đại, đƣơng đại. Chính vì thế, việc
tìm hiểu cảm hứng tôn giáo mà cụ thể là Kitôgiáo vẫn là một mảng đề tài còn mới

mẻtrong việcnghiên cứu văn họcViệt Nam.Trong các tác giả của văn học Việt Nam
đƣơng đại, Nguyễn Việt Hà là một trong những cái tên đáng chú ý nhất. Nhà văn
này đãtạo đƣợc dấu ấn cho mình ở nhiều thể loại khác nhau nhƣ tiểu thuyết, tản
văn... Mỗi nhà văn đều có những nétđặc trƣng trong sáng tác của mình.Nguyễn
Việt Hà là mộtngƣời có thể khiến cho độc giả nhớ tới mình bằng những “đứa con
tinh thần” rất Tây, rất độc đáo đầy giọng
6giễu nhại của mình. Là con ngƣời của Hà Thành nêncác sáng tác của ông mang
đậm dấu ấn đô thị Hà thành từ văn hóa, con ngƣời...dù vẫn ẩn chứa ở đó cái nhìn
xót xa trƣớc sự biến chất của xã hội hiện đại.Bên cạnh yếu tố thành thị đặc trƣng,
độc giả còn dễ dàng nhận thấy yếu tố tôn giáo trong những sáng tác của ông, đặc
biệt là Kitôgiáo. Nó thể hiện từ ngôn ngữ, nhân vật, cốtchuyện.... và là đề tài vẫn
chƣa đƣợc nhắc nhiều đến khi nghiên cứu về những sáng tác của Nguyễn Việt Hà.
Việc nghiên cứu tác phẩm của nhà văn Nguyễn Việt Hà, một trong những hiện
tƣợng khá thú vị của văn chƣơng Việt Nam đƣơngđại là một điểu đáng chú ý. Bởi
lẽ, trong vô số nhữngcây bút hiện tại, ít ngƣời tạo đƣợc dấu ấn thực sự với những
tác phẩm của mình nhƣ Nguyễn Việt Hà. Nguyễn Việt Hà mƣợn cảm hứng tôn
giáo không chỉ vì ông là ngƣời Công giáo, là ngƣời Hà Nội mà qua đó ông còn
khéo léo bằng cách thể hiện đức tin để có thể khắc họa nên những chân dung,
những con ngƣời của thời đại. Chúng ta đã quá quen thuộc với việc đi vào phân
tích nhân vật qua tính cách, qua lý tƣởng sống hay bản chất trong xã hội mà chƣa
nhiều ngƣời đi vào nghiên cứu nhân vật bằng những ẩn ức về đức tin, về tôn giáo
để thấy đƣợc một mặt rất mới mẻ trong cách hiểu đƣợc con ngƣời không chỉ trong
các tác phẩm văn học mà còn ở ngoài thực tế. Việc nghiên cứu tác phẩm văn học,


nhân vật từ cảm hứng tôn giáo của nhà văn cũng là cách để phát hiện ra những tƣ
tƣởng,những giá trị mà nhà văn muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình.Nhiều
ngƣời chorằng, những tác phẩm mang nặng màu sắc tôn giáo là tác phẩm không
thực tế, nhìn nhận không khách quan hay khó có thể có những điểm đặc sắc. Thế
nhƣng, khi đi vào nghiên cứu ta mới thấynhững quan niệm trên không đúng và tôn

giáo thực sự tạo nên những giá trị đặc biệt cho tác phẩm. Không phải tự nhiên mà
Nguyễn Việt Hà dành hẳn gần hai chục năm của mình để viết bộ ba tác phẩm mà
thấp thoáng đâu đó sự ảnh hƣởng của Kitô giáo ngay từcái tên, hình ảnh bìa cũng
là hình ảnh những con ngƣời nhộn nhạo xung quanh cây thánh giá thiêng
7liêng. Ông muốn đặc tả lại cả một xã hội với đầy đủ góc cạnh, tạo nên những con
ngƣời của thời đại thông qua cảm hứng tôn giáo.Ngƣời ta từng thấy những tác
phẩm mang đậm màu sắc tôn giáo, hệ tƣ tƣởng xã hội trong các giai đoạn trung
đại nhƣng ở văn học hiện đại, thì những tác phẩm mà yếu tố tôn giáo đƣợc nhìn
thấy ngay từ tên gọi không nhiều. Nguyễn Bình Phƣơng, Nguyễn Xuân Khánh và
Nguyễn Việt Hà là ba cái tên đáng chú ýtrong việc này. Tuy nhiên, nếu nhƣ hai nhà
văn đàn anh lấy cảm hứng từ những tín ngƣỡng dân gian, những tôn giáo thuần Á
đông nhƣ đạo Phật, tín ngƣỡng thờ mẫu thì Nguyễn Việt Hà lại rất “Tây”, nhà văn
này tạo cho mình “những đứa con tinh thầncủa Chúa” trên cảm hứng Kitô giáo.
Nghiêncứu tác phẩm của Nguyễn Việt Hà trên phƣơng diện cảm hứng tôn giáo sẽ
thấy, vì sao anh xứng đáng là một trong những nhà văn tiêu biểu hiện nay và không
nhạt nhòa giữa hàng loạt nhà văn thị trƣờng khác.2. Mục đíchnghiên cứuNguyễn
Việt Hà với những điểm đặc biệt, đáng chú ý trong sáng tác của mình thời gian gần
đây đã là đề tài cho nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đánh giá. Thế nhƣng,
những nghiên cứu nàyvẫn chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu cảm thức đô thị, văn hóa
hay con ngƣời đô thị... còn yếu tố tôn giáo, mà cụ thểlà Kitôgiáo đƣợc thể hiện rõ
nét vẫn chƣathực sựđƣợc quan tâm nghiên cứu. Chính vì thế, mục đích của luận
văn mong muốn phân tích vai trò của yếu tố Kitô giáo trong tiểu thuyết Nguyễn
Việt Hà và xác định đây là những tiểu thuyết Kitô giáo hay những tiểu thuyết có
yếu tốKitô giáo.3. Lịch sử vấn đềNghiên cứu tôn giáo mà cụ thể là nghiên cứu Kitô
giáo trong văn học Việt Nam từ trƣớc đến nay chƣa nhiều. Ngƣời ta có thể nghiên
cứu những tôn giáo thuần Á
8đông nhƣng còn chƣa chú trọng vào tôn giáo mang màu sắc phƣơng Tây này. Có
thể kể đến việc nghiên cứu Kitô giáohay một khía cạnh nào đó của tôn giáo
nàytrong một số công trình nhƣ:-“Cơ hội của Chúa” –từ nhật kí hậu trường đến
văn học, Đoàn CầmThi, Pari tháng 6/2014, evan.com.vn.-Cảm quan tôn giáo trong

văn xuôi Việt Nam đương đại, Lê Dục Tú, Tạp chí Sông Hƣơng số 304.-“Đau


thương”và “Xuân như ý”nhìn trong sự ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo đến văn
học, Khóa luận tốt nghiệp, Nguyễn Thị Vân,Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Hà Nội.Nguyễn Việt Hà là một cây viết đặc sắc trong nền văn chƣơng Việt Nam
đƣơng đại. Chính vì thế, ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu những đặc
điểm đặc sắc từ nội dung, tƣ tƣởng cho tới nghệ thuật của ông. Có thể kể đến một
số công trình nghiên cứu về những sáng tác của nhà văn này nhƣ: -Văn xuôi gần
đây và quan niệm về con người, Bùi Việt Thắng, Tạp chí văn học số 6/1991.-Tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà và thi pháp hậu hiện đại, Phùng Gia Thế,
evan.com.vn.-Đọc “Cơ hội của Chúa” của Nguyễn Việt Hà, Hoàng Ngọc Hiến, Tạp
chí Sông Hƣơng số 130, tháng 12/1999.-“Khải huyền muộn” –cảm hứng và những
dấu hiệu của hình thức nghệ thuật đương đại trong tiểu thuyết, Nguyễn Huy Thiệp,
Tạp chí Văn học số 4/2016
“Khảihuyền muộn” –cuốn tiểu thuyết về chính nó, Nguyễn Chí Hoan, báo Ngƣời
Hà Nội số ngày 4 và 11/11/2005.-Không gian và thời gian của vô cùng Hà Nội,
Nguyễn Trƣơng Qúy, lời giới thiệu “Ba ngôi của ngƣời”, Nxb Trẻ, 7/2014.-Cốt
truyện và người kể truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà,Luận văn thạc sĩ Lí
luận văn học, Đào Ánh Diệp, Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.-Tư duy nghệ thuật tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà, Luận văn thạc sĩ Văn học Việt Nam, Lê Thị Loan, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội.Việc nghiên cứu tôn giáo trong tiểu thuyết
của Nguyễn Việt Hà là rất hiếm hoi. Hầu hết các nhà nghiên cứu, học giả chỉ mới
đi vào khía cạnh nội dung, nghệ thuật hay đô thị cũng nhƣ bức tranh xã hội trong
các tiểu thuyết của ông. Về tôn giáo trong sáng tác Nguyễn Việt Hà, đáng chú ý
nhất có công trình sau:-Vấn đề tôn giáo trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà, Báo cáo
khoa học, Nguyễn Thị Thuyên, Tạp chí khoa học tập XXXVII số 4B/2008, Đại học
Vinh.Khái lƣợc lại những vấn đề từng nghiên cứu có liên quan ít nhiều tới đề tài
của luận văn này thì mức độ tìm hiểu, tiếp cận tới tôn giáo trong bộ ba tiểu thuyết
của Nguyễn Việt Hà vẫn chƣa nhiều, sâu và rộng. Có lẽ, bởi sự ra đời cách quãng

của những tiểu thuyết trong thời gian gần hai năm và vấn đề tôn giáo cũng là vấn
đề khá nhạy cảm đối với nhiều ngƣời. Trong những công trình nghiên cứu về tôn
giáo trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, những ngƣời nghiên cứu trƣớc đây đã
khái quát đƣợc về những yếu tố tôn giáo trong các tiểu thuyết, sự hiện diện của các
tôn giáo trong tiểu thuyết nhƣng chƣa nói lên đƣợc cụ thể tôn giáo đậm nét nhất là
Kitô giáo cũng nhƣ vai trò của tôn giáo với tƣ tƣởng, chủ đề của tác phẩm.
104. Phạm vi nghiên cứuNhƣ đã nói ở trên, Nguyễn Việt Hà là một trong những
nhà văn nổi bật của văn học Việt Nam đƣơng đại. Bên cạnh những tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Khánh... thì những tác phẩm của Nguyễn Việt


Hà thời gian gần đây cũng là đối tƣợng đƣợc nghiên cứu khá nhiều. Vấn đề đô thị,
những trăn trở về con ngƣời cùng bi kịch của các nhân vật chính là những đề tài
đƣợc nghiên cứu khá nhiều khi đến với tác phẩm của nhà văn này. Trong khi đó,
tôn giáo với những sự biểu hiện rõ rệt và truyền tải những nội dung đáng chú ý lại
chỉ đƣợc coi nhƣ một khía cạnh nhỏ bổ trợ cho những nghiên cứu trên. Vì thế,
việc nghiên cứu cảm hứng tôn giáo với tƣ cách một đề tài riêng rẽ sẽ là một cách
để có thể hiểu hơn những giá trị mà Nguyễn Việt Hà thể hiện qua tác phẩm của
mình.Đƣợc biết đến với nhiều tiểu thuyết và tản văn nhƣng khi nghiên cứu về tôn
giáo, cụ thể là Kitôgiáo trong tác phẩm văn chƣơng của Nguyễn Việt Hà thì bộ ba
tiểu thuyết gồm: “Cơ hội của Chúa”, “Khải huyền muộn” và “Ba ngôi của
Ngƣời”là những tác phẩm tiêu biểu về đề tài này. Đây là ba tác phẩm mà yếu tố
tôn giáo đƣợc thể hiện rõ rệt nhất ngay từ tiêu đềcủa tiểu thuyết cho tới những
thông điệp, nội dung, nhân vậtbên trong của nó. Hơn nữa, bộ ba tiểu thuyết dƣờng
nhƣ có sự tiếp nối nhau trong cùng chủ đề. Việc dừng lại ở ba tác phẩm tiêu biểu
này cũng đã tiếp cận và đáp ứng đƣợc mục đích nghiên cứu của đề tài này.5.
Phƣơng pháp nghiên cứuTrong công trình nghiên cứu luận văn này, tác giả sử
dụng hai phƣơng pháp nghiên cứu chính là thi pháp thể loại và văn hóa học. Đây là
hai phƣơng pháp để thực hiện việc ngiên cứu các tác phẩm từ nhiều góc độ khác
nhau nhƣ ngôn ngữ, biểu tƣợng, văn hóa, nhân vật, chủ đề và tƣ tƣởng. Ngoài ra,

tác giả cũng sử dụng nhiều thao tác nhƣ so sánh, thống kê, phân tích...
116. Cấu trúc luận vănNgoài phần Mở đầu,Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần
Nội dung luận văn đƣợc triển khai thành bốn chƣơng:Chƣơng 1: Kitô giáo và văn
chƣơng Nguyễn Việt HàChƣơng 2: Những yếu tốKitô giáo qua ngôn ngữ, không
gian, nghilễ, biểu tƣợng và lịch sửChƣơng 3: Những yếu tố Kitô giáo qua nhân
vậtChƣơng 4: Vai trò củaKitô giáo trong việc thể hiện chủ đề, tƣ tƣởng
12Chƣơng 1:KITÔGIÁO VÀ VĂN CHƢƠNG NGUYỄN VIỆT HÀMỗi tôn giáo
đều trải qua quá trình ra đời, định hình và phát triển. Trên mỗi chặng đƣờng đều để
lại những dấu ấn riêng. Kitô giáo trải qua khoảng thời gian dài đã định
hìnhđƣợcchỗ đứng của mình vớinhững đặc trƣng riêng biệt. Tìm hiểu Kitô giáo,
đặc biệt đặc điểm Kitô giáo ở Việt Nam giúpmang lại cái nhìn khái quát,là cơ sở
cho việc tìm hiểu mối liên hệ giữa Kitô giáo và văn chƣơng Nguyễn Việt Hà. 1.1.
Kitô giáo, Kitô giáo ở Việt Nam1.1.1 Kitô giáo –lịch sử hình thành và phát
triểnKitô giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới cùng với Phật giáo và Hồi
giáo. Tầm ảnh hƣởng của Kitô giáođƣợc cho là rộng lớn,trảidàinhiều quốc gia trên
thế giới,từ phƣơng Tây hiện đại tới phƣơng Đông vẫn còn nhiều bí ẩn, từ những
đất nƣớc hiện đại của châu Âu, Bắc Mỹ cho tới những đất nƣớc còn kém phát


triển ởchâu Phi, châu Á. Tôn giáo này có một lịch sử ra đời, hình thành và phát
triển lâu dài. Nếu Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, vùng đất thuộc Nam Á,Hồi giáo ra đời
ở tại bán đảo Ả Rập thì Kitôgiáo ra đời trên vùng đất của đế quốc La Mã cổ đại.
Kitô giáo ra đời trên cơsở của Do Thái giáo vốn tồn tại ở vùng Trung cận đông, nơi
tiếp giápcủa ba châu lục, cƣdân vốn theo đa thần giáo. Tại vùng đất này, những
mâu thuẫn xã hội thực sự gay gắt dƣới những cuộc chiến tranh xâm lƣợc mở rộng
thuộc địa của đế chế La Mã. Sự ra đời của Ki tô giáo gắn liền với tên tuổi của Jesus
Christ hay còn gọi là Chúa Giê su. Theo những gì đƣợc truyền lại, chúa Giê su là
ngƣời đã sáng lập ra đạo Kitô, là con của Chúa Trời đã đầu thai vào một ngƣời
con gái đồng trinh tên là Maria. Với Kitô giáo, sự sinh nở thần kì của bậc tối cao
cũng nhƣ các tôn giáo khác, Chúa Giê su đƣợc sinh ra dù cho Đức Mẹ Maria

vẫnđồng trinh. Ngài sinh ra ở Palextin, một vùng đất thuộc vào lãnh thổ của La Mã
trƣớc kia vào khoảng thế kỉ thứ V hoặc thế kỉ thứ IV trƣớc công nguyên.
13Hình thành trên cơ sở của Do Thái giáo cùng với nhu cầu một sự độc tôn về tôn
giáo ở vùng đất này, dƣới chế độ chiếm hữu nô lệ, các tín đồ ban đầu của Kitô giáo
bao gồm nô lệ, các nô lệ đƣợc giải phóng, dân nghèo thành thị. Ban đầu, họ thành
lập những công xã nhỏ, những tổ chức có vai trò giúp đỡ lẫn nhau và làm việc từ
thiện. Các công xã này tồn tại với nguyên tắc sự bình đẳng giữa các thành viên
trong đó. Quyền lành đạo công xã thuộc về các nhà truyền giáo lƣu động và các sứ
đồ của họ, những đại biểu của quần chúng nghèo khổ. Với nguyên tắc bình đẳng,
rõ ràng những gì mà đạo Kitô thủa ban đầu đƣa ra trái ngƣợc hẳn với bản chất xã
hội chiếm hữu nô lệ và vì thế, nó bị chính quyền La Ma đàn áp thẳng tay. Tiêu biểu
là vụ chính quyền thời hoàng đế Nê rôn đã ra tay tàn sát tín đồ Ki tô giáo một cách
thảm khốc. Sau giai đoạn đó, đến thế kỉ thứ II, các công xã nhỏ của Kitô giáo đã
liên hiệp lại và tổ chức thành giáo hội. Điều này khiến cho cách hoạt động của giáo
hội có nhiều thay đổi, đặc biệt là những tín đồ không còn chỉ là những ngƣời nô lệ,
thƣờng dân mà đã có cả những ngƣời khá giả, giàu có tham gia vào.Bị chính
quyền La Mã đàn áp nhƣng sự phát triển của tôn giáo này lại mang một dấu ấn,
một bƣớc ngoặt dƣới triều đại của Hoàng đế Constantine khi vị hoàng đế này nuôi
tham vọng chinh phục toàn cầu. Dƣới triều đại của ông, không còn những vụ tàn
sát, bách hại nhƣcác hoàng đế tiền nhiệm. Điều đặc biệt chính là mẹ của hoàng đế
là một tín đồ Kitô giáo và ông rất tôn trọng mẹ. Ông nhận thấy rằng nhiều tín đồ
của tôn giáo này chấp nhận cái chết nhƣng không chịu bỏ đạo, tuy không có ý định
theo tôn giáo này tại thời điểm đó nhƣng với sự thông minh của mình, ông đã
muốn biến Kitô giáo thành một công cụ hữu hiệu cho mục đích chinh phụcthế giới
của mình. Ngày càng có nhiều ngƣời thuộc giai cấp quý tộc, chủ nô tìm đến với
Kitô giáo nhƣmột chỗ dựa tinh thần và dần dần họ đã tham gia vàobộ máy của tôn


giáo này vào cuối thế kỉ thứ III. Những ngƣời lãnh đạo của Kitô giáo cũng dần
thuộc về những ngƣời thuộc tầng lớp trên. Giai cấp quý tộc, chủ nô sau

14khi tham gia vào Kitô giáo đã nhận thấy sức mạnh tinh thần của tôn giáo này và
việc cần thiết phải sử dụng nó nhƣmột công cụ để cai trị.Chính quyền La Ma cũng
chính thức ra lệnh ngừng sát hại những tín đồ đạo Kitô. Năm 313, Hoàng đế
Constantine còn ra sắc lệnh Milano, chính thức công nhận địa vị hợp pháp của đạo
Kitô. Sau đó, ông cũng triệu tập cuộc đại hội của các giáo chủ trong đạo để xác
định giáo lý, chấn chỉnh tổ chức của giáo hội. Trƣớc lúc chết, ông cũng chịu phép
rửa tội và trở thành hoàng đế đầu tiên theo đạo Kitô. Một trong những dấu mốc
quan trọng của đạo Kitô là việc chính thức đƣợcthừa nhận là quốc giáo của La Mã
vào cuối kế kỉ thứ IV.Bộ Kinh Thánh chính thức của đạo Kitô cũng đƣợc Gierôm
dịch từ tiếng Hi Lạp ra tiếng La Tinh bao gồm kinh Cựu ƣớc và Tân ƣớc. Cựu
ướclà kinh thánh của đạo Do Thái mà đạo Kitô tiếp nhận, còn Tân ướclà kinh
thánh thực sựcủa đạo Kitô. Kinh Tân ướcvốn viết bằng tiếng Hy Lạp, gồm có 4
phần là Phúc âm, Hoạt động của các sứđồ, Thư tín và Khải thi lục. Nhờ việc này
mà đạo Kitô phát triển mạnh mẽ cả về số lƣợng, tƣtƣởng thần học, các triết lý và
giáo lý.Trong lịch sử phát triển của mình, cũng nhƣ nhiều tôn giáo khác thì Kitô
giáo cũng không còn giữ đƣợc nhƣlúc ban đầu mà cũng bắt đầu có những sự phân
chia thành các bộ phận khác nhau. Điều này là do số lƣợng tín đồ đông đảo trải dài
khắp thế giới, rộng lớn nhất trong các tôn giáo. Kitô giáo bị phân chia thành Đông
và Tây mặc cho những nỗ lực của phong trào đại đoàn kết. Nhiều chi phái của Kitô
giáo,Chính thống phƣơng Đông chiếm ƣu thế tại những vùng Đông Âu, Cận đông,
châu Phi trong khi giáo hội phƣơngTây thì chia thành Kitô giáo La Mã và Tin
lành. Chính sự phân chia này tạo thành một cộng đồng Kitô giáo với nhiều bộ mặt
khác nhau:
15-Ở châu Âu với mô thức những giáo hội quốc gia thì Kitô giáo tĩnh lại. Tôn giáo
này đƣợc sự ủng hộ của các chính phủ quốc gia và thực sự có uy tín trong cộng
đồng. Việc đào tạo những học giả của Kitô giáo cũng đƣợc các trƣờng đại học,
giáo hội thực hiện. Tuy nhiên, số lƣợng ngƣời đi nhà thờ không quá nhiều tại các
quốc gia này.-Một trong những sự phát triển đáng chú ý nhất của Kitô giáo là ở
Mỹ, đặc biệt là vị thế ngày một cao của nhóm Tin Lành Phúc âm. Nhóm này ngày
một phát triển và có tầm ảnh hƣởng rộng trong cộng đồng.-Ở châu Phi nơi là thuộc

địa của những quốc gia châu Âu thì tín đồ Kitô giáo ngày một đông đảo, hơn cả
Hồi giáo. Điều này cũng tƣơng tự với số lƣợng tín đồ tại các quốc gia châu Á.
Ngay tại nhiều quốc gia mà Phật giáo có tầm ảnh hƣởng lớn nhƣTrung Quốc, Nhật
Bản, Việt Nam, Thái Lan... thì số lƣợng tín đồ Kitô giáo cũng ngày một tăng và


tôn giáo này cũng có chỗ đứngtrong cộng đồng.Hiện nay, Kitôgiáo là tôn giáo có
đông tín hữunhất với con số ƣớc tính khoảng 2,2 tỷ ngƣời vào năm 2010, chiếm
32% dân số thế giới. Theo thời gian phát triển, những biến động và cải cách thì
Kitôgiáo hiện giờ đƣợc chia làm nhiều nhánh nhƣCông giáo, Tin Lành, Chính
thống giáo... Ngoài ra còn những giáo hội ngoại vi với số lƣợng tín đồ ít hơn. Tỉ lệ
ngƣời theo Kitôgiáovẫn chiếm đa số ở các nƣớc phƣơng Tây nhƣ châu Âu, châu
Mỹ, châu Phi và châu Đại dƣơng. Ở châu Á số lƣợng ngƣời theo Kitônhiều nhất
là ở Philippines, một quốc gia từng là thuộc địa của Tây Ban Nha. Số lƣợng tín đồ
Kitôcũng có mặt ở nhiều quốc gia khác tại châu lục này.Tƣtƣởng nhân văn của
Kitô giáo đƣợc xây dựng dựa trên cơsở của thế giới quan thần sángtạo vũtrụ và
vạn vật, quan phòng, chi phối mọi sự. Trêncơsở nhân sinh

quan,Kitôgiáo xem con ngƣời là một sản phẩm kết hợp hai thực thể linh hồn và thể
xác, linh hồn luôn có tính thiêng liêng, bất tử còn thể xác thuộc về thế giới vật chất.
Nội dung cơbản của tƣtƣởng nhân văn Kitô giáo chính là đề cao vị trí và vai trò
của con ngƣời, xem con ngƣời là tinh hoa của vũtrụ, một chỉnh thể đƣợc kết hợp
bởi những yếu tố vật chất và phi vật chất, bởi cái hữu hình và cái vô hình, bởi cái
hữu hạn và cái vô hạn, bởi cái khảtửvà cái bất tử...; đềcao quyền tựdo và bình
đẳng của con ngƣời nhƣ những nguyên tắc bất khảxâm phạm, vấn đềgiải phóng
con ngƣời khỏi những ràng buộc của những luật lệvà hủtục phi nhân tính. Nội
dung tƣ tƣởng đạo đức cơ bản của Kitô giáo là bàn vềcác phạm trù công bằng, bác
ái, khiêm nhƣờng, nhẫn nhục, khoan dung và tha thứ nhƣ những chuẩn mực
luân lý Kitô giáo. Tƣ tƣởng nhân văn và đạo đức Kitô giáo có những tính chất
nhƣ tính duy lý, tính hệthống, tính kết hợp, tính duy tâm -siêu hình và tính nhân

loại phổbiến. Các tính chất đó vừa thểhiện đặc trƣng của tƣ tƣởng nhân văn và
đạo đức Kitô giáo, vừa thểhiện tính ƣu điểm và nhƣợc điểm của tƣ tƣởng ấy đối
với thực tiễn cuộc sống.Về giáo lý, những xác tín căn cốt của Kitôtập trung vàosự
nhập thể làm ngƣời, sự đền tội cho nhân loại, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại


của Chúa Giêsu. Trọng tâm của Kitôlà việc đặt yếu tố Thiên Chúa sai Con Một của
mình đến thế gian để cứu nhân loại, đây là một điểm khác biệt với tƣtƣởng con
ngƣời tự giải thoát mình của những tôn giáo khác. Dù phân chia làm nhiều nhánh
nhƣng các xác tín cơ bản của Kitôvẫn là Thiên Chúa có Ba Ngôi, là thực thể vĩnh
cửu duy nhất hiện hữu trong ba thân vị gồm: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần; Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa lại vừa là ngƣời, cả hai bản tính đó đều trọn
vẹn trong Ngƣời; Đức mẹ Maria -ngƣời đã cƣu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa,
Đấng vô hạn và vĩnh cửu đã đƣợc hình thành trong thân thể của bà bởi quyền năng
siêu nhiên của Chúa Thánh Thần. Ngài nhận lãnh từ Maria trí tuệ và ý chí con
ngƣời và mọi điều khác
17nhƣ một đứa trẻ bình thƣờng nhận lãnh từ mẹ mình; Chúa Giêsu đồng thời cũng
là Đấng Messiah mà ngƣời Do Thái vẫn hằng mong đợi, Ngài là niềm tin, niềm hy
vọng, là Đấng biện hộ và là Đấng phán xét toàn thể nhân loại; Chúa Giê su không
bao giờ phạm tội, qua cái chết và sự phục sinh của Ngƣời, tín đồ đƣợc tha thứ tội
lỗi và hòa giải với Thiên Chúa, tín đồ chịu lễ rửa tội là biểu tƣợng cho sự cùng
chết và cùng sống của Thiên Chúa, Chúa Thánh Linh khi đó sẽ ban cho tín đồ hi
vọng, dẫn họ vào sự hiểu biết chân xác về Thiên Chúa và ý chỉ của Ngƣời giúp họ
sống trong đời sống thánh khiết; Chúa Giê su cũng trở lại để phán xét toàn thể
nhân loại, tiếp rƣớc những ngƣời tin vào Ngài về với Chúa; Kinh Thánh cũng làlời
của Thiên Chúa. Tôn giáo là một hệ thống các biểu tƣợng. Hệ thống biểu tƣợng là
một phần quan trọng của Kitôgiáo cũng nhƣ nhiều tôn giáo khác. Chúng không
đơn giản chỉ là phƣơng tiện truyền đạt thông tinmà còn đƣợc truyền tải một cách
đầy xúc động. Các biểu tƣợng tôn giáo có tác dụng mạnh mẽ và lâu dài trên các tín
hữu. Kitô giáo có nhiều biểu tƣợng, quy về đức tin Kitô giáo. Cây thập giá tƣợng

trƣng cho nơi mà Đức Kitô đã chịu chết. Nó cũng tƣợng trƣng cho sự đau khỏ của
con ngƣời, nhƣng gì khó chấp nhận trong đời sống, sự trông đợi cái chết của mỗi
ngƣời và lời mời gọi tranh đấu cho công bằng và bác ái. Tùy theo sự cảm nghiệm
của mỗi ngƣời mà cây thập giá có ý nghĩa khác nhau. Bồ câu tƣợng trƣng cho
Chúa Thánh Thần ngự trên Đức Giêsukhi Ngƣời chịu thanh tẩy. Bồ câu tƣợng
trƣng cho sự bình an, thanh thản, sự tràn đầy thần khí Chúa Thánh Thần, sự trong
trắng của ngƣời mới đƣợc rửa tội, sự tự do của tâm linh khi hƣớng tới thiên đàng.
Đức Maria biểu tƣợng cho sự vâng phục thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ cũng là biểu
tƣợng cho sự khôn ngoan, đạo đức, tin tƣởng vào quyền năng của Chúa, mẹ của
Hội Thánh. Nƣớc rửa tội biểu trƣng cho sự cứu rỗi, tha thứ, thanh tẩy, nghi lễ nhập
đạo.Ngoài ra các bí tích, ngôn ngữ, Giáo hội cũng đƣợc coi là những biểu
tƣợng.Nhờ những


18biểu tƣợng của tôn giáo mà mỗi tín hữu thấu hiểu hơn các ý nghĩa sâu xa của
tôn giáo mình.1.1.2 Kitôgiáo và con đƣờng truyền bá, phát triển ở Việt NamNhững
mầm mống đầu tiên Kitô giáo xuất hiện tạiViệt Nam vào khá sớm. Theo bài Ảnh
hưởng của Cônggiáo tới nền văn hóa Việt Namđăng trên trang web của Ban tuyên
giáo trung ƣơng cho biết, theo sách Khâm định Việt sửthông ghi nhận vào năm
Nguyên Hòa thứnhất đời vua Lê Trang Tông (1533) có một ngƣời Tây dƣơng tên
là I-nê-khu (Ignatio) theo đƣờng biển lẻn vào giảng đạo Gia Tô ở các làng Ninh
Cƣờng, Quần Anh, Trà Lũ (thuộc Nam Định cũ). Từđó các giáo sỹBồ Đào Nha và
Tây Ban Nha tìmđếnngày càng đông. Ban đầu, dochƣa quen thông thổvà không
thạo ngôn ngữnên việc truyền giáo lý ít thu đƣợc kết quả. Dần dần công việc tiến
triển ngày càng khá hơn. Theo tài liệu của giáo hội thì năm 1593, ởNghệAnđã có
12 làng Cônggiáotoàntong. Cuôinăm1642, giáo sỹ ngƣời Pháp là Alexandre de
Rhodes, sau mấy năm truyền đạo ở Đàng Trong và Đàng Ngoài Việt Nam đã
trởvềchâu Âu vận động tòa thánh Roma giao cho ngƣời Pháp quyền truyền đạo
ởViễn Đông. Kết quả là năm 1658, Giáo hoàng đã phong cho hai giáo sỹPháp là
Francois Pallu và Lambert de la Motte làm giáo mục cai quản hai địa phận Đàng

Ngoài và Đàng Trong. Những câu chuyện về con đƣờng truyền giáo này vào Việt
Nam chúng ta cũng sẽ gặp lại trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà. Năm 1664,
Hội thừa sai Paris, thƣờng gọi là Hội truyền giáo nƣớc ngoài
củaPhápđƣợcthànhlâp.Cuôcnội chiến Nguyễn Ánh –Tây Sơn vào thếkỷXVIII là
một cơ hội tốt cho sự bành trƣớng của Hội truyền giáo nƣớc ngoài và sựcan
thiệp của thực dân Pháp. Giám mục Pièrre Pignenaux de Béhaine đã trở thành
ngƣời đỡđầu tích cực cho Nguyễn Ánh. Ông đƣa Hoàng tửCảnh đi Pháp, và năm
1787 đại diện cho Nguyễn Ánh ký với Pháp Hiệp ƣớc Versailles. Sau đó, do xảy
ra cách mạng Pháp 1789, Hiệp ƣớc này không thực hiện
19đƣợc, Béhaine đã tựmình mộquân và sắm vũ khí giúp Nguyễn Ánh đánh Tây
Sơn. Hoạt động của Béhaine giúp cho nƣớc Pháp có chỗđứng vững chắc ởViệt
Nam cảvềchính trịvàtôngiao.Sau khi lên ngôi vào năm 1802, lấy niên hiệu là Gia
Long, Nguyễn Ánh lâm vào một tình thế nƣớc đôi: Một mặt thì chịu ơn các giáo sỹ
và ân nhân ngƣời Pháp, do vậy ông đã ban thƣởng hậu và sửdụng một số ngƣời
làm cốvấn và quan lại trong triều; mặt khác lại lo ngại sựphát triển của Kitô giáo
trƣớc mắt sẽảnh hƣởng xấu đến truyền thống đạo đức và thuần phong mỹtục
cổtruyền, sau nữa có thểlàm mất ổn định chính trịvà dẫn đến
nguycơmấtnƣơc.Đêđối phó với tình hình, nhà Nguyễn chủ trƣơng “bếmôn tỏa
cảng” trong giao lƣu và giữnguyên trạng đạo Kitô chứkhông
khuyếnkhíchpháttriên.Cùng vớisựđôhộcủathựcdânPháp, quátrình
truyềnbáđạoKitôvàoViệtNamtrởnêndễdàngvànhanhchónghơn. Nhiềunhờthờ,


cácgiáoxứđƣợcthànhlậpnhấtlàtạicácđôthịlớnnhƣHàNội, NamĐịnh, NinhBình,
SàiGòn...
Sốlƣợngbàcongiáodâncũngngàymộttănglênvàsựảnhhƣởngcủatôngiáonàytớiđờisốn
gcủamộtbộphậnngƣờidânđã đƣợcghinhận.
MặcdùsauđóPhápbịthấtbạitrongcuộcđôhộViệtNam, xã
hộiViệtNammớiđƣợcthànhlậpvàlãnh đạochínhquyềnnhƣngtheothờigian,
sựhiệndiệncủaKitôgiáovẫntồn tại theo thời gian. Thế kỉ thứ XX, đây là giai đoạn

khá trầm lắng trong sự phát triển của Kito giới bởinhững đặc điểm của xã hội.
Không có nhiều tài liệu về sự phát triển hay hoạt động của giáo hội ở Việt Nam
thời kì này. Thế nhƣng, cùngvớiquátrình đôthịhóavàhộinhậpvớithếgiới,
thâpniêncuôicungcuathêkyXXvàthậpniênđầu của thếkỷ
XXIcothêđƣơcghinhơnhƣlàmộttrongnhữngthờikỳlớnnhấtvềsựpháttriểncủaKitôgiá
otại Việt Nam. Hiện giờ, Kitô giáo là một tôn giáo lớn tại Việt Nam bên cạnh Phật
giáo, Hồi giáo và những tôn giáo, tín ngƣỡng nhỏ hơn khác. Trải qua nhiều biến cố
thăng trầm vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, đến nay, số lƣợng tín đồ Kitô
giáo có khoảng 7triệu ngƣời. Trong đó, khoảng 6triệu ngƣời Công giáo và khoảng
1 triệu ngƣời
20Tin Lành phân bố gần nhƣ khắp các vùng trên lĩnh thổ Việt Namnhƣng tập
trung ở một số nơi nhƣ Ninh Bình, Sài Gòn,...Kitô giáo ở Việt Nam gồm hai
nhánh: Công giáo La Mã và Tin Lành. Cả hai cộng đồng này ở Việt Nam đều
đƣợc thừa nhận[36].Tầm ảnh hƣởng của tôn giáo này cũng ngày một rộng hơn,
sâu hơn. Tôn giáo này có ảnhhƣởng tới đời sống nghệ thuật từ ki xuất hiện tại Việt
Nam và ngày càng có những dấu ấn nhất định. Về văn học, Kitôgiáo cũng có ảnh
hƣởng tới văn học, điển hình là trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Việt
Hà.Kitô giáo là một tôn giáo ra đời từ rất sớm. Trảiquahơn20 thếkỷ, tuy
cónhữnggiaiđoanthăngtrâm, những biến thiên theo thời gian và thời cuộc,
cólúctƣơngchƣngnhƣdiêtvong,
nhƣngcuôicungthiKitôgiaođachiêmmôtvitrikhavƣngvàngtrênthếgiới.Tronggiaiđoa
nhiênnay, Kitôgiaohiện
làmộttrongnhữngtôngiáopháttriểnnhanhnhấtởmọinơitrênthếgiới.
HâuhêtsƣphattriênnaycovekhôngdosƣtruyêngiaotƣnhƣngngƣơiKitôgiaophƣơngT
âymalà một điều tất yếu của thời đại.Ở Việt Nam, theo chân ngƣời phƣơng Tây và
những giáo sĩtới muộn hơn so với những tôn giáo khác nhƣng hiện tại,
Kitôgiaoqua những bƣớc thăng trầm đã có một vị trí quan trọng đối với ngƣời
Việt. Ta có thể thấy, tuy không hiện diện rộng lớn nhƣPhật giáo nhƣng những
vùng đất cógiáo dân cũng ngày một nhiều, đặc biệt là ở những vùng đất đô thị,
nhữngvùngđấtmàKitôgiaoảnh hƣởng từ rất sớm. Những nhà thờ, những nghi lễ,



những tác phẩm tinh thần củaKitôgiaocũng không còn xa lạ với mọi ngƣời và trở
thành một phần quan trọng của cuộc sống hiện nay.1.2. Văn chƣơng của Nguyễn
Việt Hà1.2.1.Vài nét về con ngƣời Nguyễn Việt Hà
21Nguyễn Việt Hà tên thật là Trần QuốcCƣờng, sinh năm 1962, tự nhận mình là
ngƣời Công giáo(một nhánh của Kitôgiáo). Ôngxuất thân là một tiểu thị dân ngƣời
Hà Nội, với tuổi thơ bụi bặm và lang thang hè phố. Đó là những năm tháng cho
ông những âm thanh hỗn tạp của đô thị, những cảnh đời lam lũđến những bản
thánh ca trong giáo đƣờng phố Nhà Chung. Sau khi tốt nghiệp trƣờng Đại học
Kinh tế, ông làm việc cho một Ngân hàng. Ông tham gia viết kịch bản phim Của
rơinăm 2001. Đến tháng 12 năm 2004 ông trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Với
Nguyễn Việt Hà, văn nghiệp là sự trải nghiệm đồng thời là sự giãi bày, cảm nhận,
chiêm nghiệm.Có lẽ vì thế mà khi đọc tác phẩm của ông, độc giả cảm thấy hết sức
gần gũi và thân thiện, nhƣ gặp những con ngƣời đâu đó xung quanh mình. Ngƣời
đọc không hết thú vị và nhanh chóng yêu mến cách viết, cách xây dựng nhân vật,
nghệ thuật tự sự rất đỗi nhẹ nhàng, hài hƣớc mà thông minh, sắc sảo của nhà văn.
Để rồi từ đó, công chúng đồng cảm, chia sẻ với ông về những lo toan bộn bề của
cuộc sống, những xô bồ, nhốn nháo, biến dạng của đô thị đƣơng đại. Ông còn là
nhà văn của nhiều hứa hẹn phía trƣớc.1.2.2.Quá trình sáng tác của Nguyễn Việt
HàGần hai mƣơi năm cầm bút, cho đến nay, Nguyễn Việt Hà đang ở độ chín, trở
thành một cây viếtquen thuộc của độc giả và đƣợc khẳng định là một cây bút đô
thị đặc sắc trên văn đàn Việt Nam đƣơng đại. Nhìn lại lộ trình sáng tác của ông
cũng là dịpta đƣợc đồng hành khám phá thành quả lao động nghệ thuật miệt mài
và không kém đam mê của một ngƣời viết văn chân chính.Những năm 1989-1990,
Nguyễn Việt Hà đã yêusâu sắcHà Nội tạo đƣợc những dấu ấn đầu tiên của mình
trên văn đàn Việt Nam. Đó cũng là thời điểm ông viết Cơ hội của Chúavới bao
nhiêu trăn trở, suy tƣ, với tâm trạng "Hồi đó mình rất muốn viết những trang về
đƣờng tàu điện ở Hà Nội. Tàu điện từng là thứ rất đặc trƣng cho phố phƣờng của
Hà Nội"... nhƣng điều cuốn hút hơn cảđối với ông vẫn là

22cuộc sống "nội đô" Hà Nội. Bởi theo ông, nội đô là nơi sinh ra tầng lớp thị dân,
"những người ngoại tỉnh do hoàn cảnh xô đẩy về đô thị, cái đầu tiên mà họ tiếp xúc
là văn hóa cửa ô. Cửa ô mang hình ảnh đô thị nhưng cũng là sự tha hóa của nội
ô”.Đọc Cơ hội của Chúa, chúng ta nhận thấy "ba vạn chín nghìn tổng, chánh, phó
giám đốc trong và ngoài quốc doanh đều mù và điếc theo mọi nghĩa" [6, tr. 397],
lại thấy "Quan buôn lậu có thế hơn dân buôn lậu" và nhất là thấy "Thương trường
chân chính... đầy rẫy kỹ xảo. Phương châm chủ yếu là đôi bên cùng có lợi. Một sự
hợp tác mang tính chất trí thức và trung thực. Thương gia ở các nước tiên tiến được


coi như một bộ phận tinh hoa của Hà Nội"[6, tr. 122]. Sinh ra, lớn lên rồi trƣởng
thành ở Hà Nội, ngƣời đọc dễ nhận thấy sự lịch lãm, thâm thúy vốn có của một
nhà văn gốc Hà thành ngay trong sáng tác đầu tay của ông, mặc dù tác giả tự nhận
đó là cuốn tiểu thuyết thể hiện sự hồn nhiên của một thời nông nổi. Thực ra, đó đã
là một khởi đầu thuận lợi của một cây bút có tố chất chuyên nghiệp. Sự chào đón
một cách hồ hởi của độc giả và giới phê bình ngay khi cuốn tiểu thuyết này ra đời
khẳng định điều đó.Từ năm 2003 đến năm 2013, chỉ trong khoảng thời gian
khoảngmƣời năm, Nguyễn Việt Hà đã cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết, một tập
truyện ngắn, bốn tập tạp văn dày dặn và ngày càng thể hiện sự già dặn trong lối
viết. Tiểu thuyết Khải huyền muộn(2003, tái bản lần thứ hai 2013) của ông đƣợc
độc giả chờ đợi và càng đọc càng thấy hài lòng sau sự thành công của tiểu thuyết
Cơ hội của Chúahơn mƣời năm trƣớc. Tất nhiên đây vẫn là cuốn sách rất khó đọc
đối với tất cả bạn đọc, kể cả những "siêu độc giả" (những ngƣời cầm bút nhƣ ông).
Văn học, nói nhƣ nhà văn tiền bối Nam Cao "chỉ dung nạp những ai biết đào sâu,
tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có" (Đời thừa1943). Nếu nhƣ trong Cơ hội của Chúa, Nguyễn Vệt Hà vẫn còn "chuyện", đƣợc
kể khá liền mạch để ngƣời đọc dễ theo dõi thì đến “Khải huyền muộn”ngƣời ta có
một độ hoang mang nhất định, rất khó xác định nó hay dở thế nào, thành công đến
đâu. Nhà văn
23Nguyễn Huy Thiệp trong lời giới thiệu cuốn sách này đã có những nhận xét khá
sâu sắc về dấu ấn đƣơng đại trong văn xuôi Nguyễn Việt Hà: "anh.... cố tình vi

phạm các "nguyên tắc vàng" sau đó trình bày ra một nội dung khác với các nhà văn
đương thời, là một câu hỏi "chơi thẳng" vào "trái tim" văn học: "Thế mà các vị coi
đấy là văn học à?". Tinh thần khủng bố trắng trợn với các giá trị cổ điển ngoài nội
dung lại được nhấn mạnh thêm bằng một hình thức cấu trúc ngữ pháp và bố cục
không cân đối, làm cho độc giả đã khó đọc lại thêm một lần nữa khó đọc hơn nếu
không muốn nói là không thể đọc được"[20].Đọc Khải huyền muộn, nhà văn dẫn
dắt ngƣời đọc bằng cách kể chuyện "không có truyện", mở đầu rất vu vơ, tầm phào
và không định thần kịp trƣớc kết thúc của một "tiểu truyện" mới bắt đầu đƣợc
tung ra. Đó là một nhân vật xƣng tôivới anhđi lang thang quanhHà Nội, đang
ngắm cảnh, tả cảnh chợt chuyển sang kí ức, kể về thời trung học...rồi nhảy cóc
sang chuyện nhà văn đi tìm nhân vật,...chƣa xong lại chuyển sang chuyện tôivới
Vũ... và kết thúc lại là hình ảnh nhà văn Bạch "đôi khi ngồi quán lạ, chợt thấy ai đó
to giọng văng tục thì tự biết ngay đấy là khách hàng đã thâm niên ngồi ở quán
Vinh. Rồi đây, Bạch và cô bé cũng chỉ đến quán Vinh thêm một lần nữa" [7,
tr.338]...Nghĩa là tác phẩm kết thúc trong tâm thế ngƣời đọc hầu nhƣ còn muốn
biết sau đó nhƣ thế nào, vì họ chƣa kịp hiểu, chƣa thể ngay tức thì ngộ ra ý nghĩa


của hồi kết. Lâu nay chúng ta vẫn tâm niệm về một "cốt truyện là chuỗi sự kiện, có
mở đầu và một kết thúc có ý nghĩa".Đến Nguyễn Việt Hà, lối kết cấu cổ điển ấy
dƣờng nhƣ hết dấu vết. Tất cả các tiểu truyện và các liên tƣởng đều không có một
kết thúc nào (đã đành rồi), thậm chí chúng còn không có một ý nghĩa nào liên quan
gì với nhau nhiều lắm nữa. "Điều này giống như người ta nói "thúng gạo này nặng
mười mét" vậy",(Nguyễn Huy Thiệp).Tập truyện ngắn Của rơi(2004) và các tập
tạp văn lần lƣợt xuất bản ngay sau đó nhƣ Nhà văn thì chơi với ai(2005), Mặt của
đàn ông(2008), Đàn bà uống rượu(2010), Con giai phố cổ(2013) cho thấy sức
sáng tạo ngày một dồi dào của


26Đầu những năm 90 của thế kỉ XX, Nguyễn Việt Hà bắt đầu đƣợc độc giả chú ý

với một số truyện ngắn hoạt kê hài hƣớc, hóm hỉnh nhƣ Thiền giả, Của rơi, Bậc
cuối... chủ yếu là để giễu chuyện đời nay. Nhƣng phải đến khi sự ra đời của các tập
tiểu thuyết: Cơ hội của Chúanăm1999, Khải huyền muộnnăm2005, đƣợc giải
thƣởng của Hội Nhà văn và năm 2014 là sự ra đời của tiểu thuyết thứ ba Ba ngôi
của người,Nguyễn Việt Hà mới thực sự gây ấn tƣợng mạnh đối với giới nghiên
cứu và ngƣời đọc. Từ đây ông dƣợc đánh giá là cây bút đô thị xuất sắc, lão luyện.
Tuy xuất hiện sau so với các cây bút kì cựu nhƣng Nguyễn Việt Hà là gƣơng mặt
mới, tiêu biểu của thế hệ trẻ bƣớc vào làng văn với tâm thế hoàn toàn chủ động
nhập cuộc. Cũng là niềm hạnh phúc của nền văn chƣơng Việt khi đƣợc đón nhận
một nhà văn Hà Nội, nói cƣời rổn rảng cả một góc phố, có biệt tài nói nhƣ viết,
tấu lên khúc khải huyền độc đáo qua những áng tiểu thuyết đầy đặn mà ngổn ngang
bao nhiêu sự đời, nỗi đời đang chạy qua trƣớc mắt nhƣ những thƣớc phim tỉ
mỉ.Nguyễn Việt Hà với truyện ngắn Phải chăng truyện ngắn mới là địa hạt thể hiện
tài năng của nhà văn? Viết thì dễ nhƣng viết cho đậm đà một khẩu vị đặc trƣng
chứ không nhạt hoét, dễ dãi mới khó. Truyện ngắn đòi hỏi nhà văn phải có những
năng lực đặc biệt. Trƣớc hết là khả năng nắm bắt thời sự một cách nhạy bén và
một tƣ duy sắc sảo để phân tích, nhào nặn những hỗn độn từ cuộc sống thành chất
sốngcụ thể, có hình hài, mang tính tƣ tƣởng và cả chất triết lí sâu xa. Hơn nữa lại
phải tối thiểu hạn chế dung lƣợng, dùng ít chữ nhất mà vẫn phản ánh một cách
chính xác, sâu sắc nhất về bức tranh đời sống mà nhà văn đã công phu lựa chọn.
Nguyễn Việt Hà là nhà văn của nội đô Hà Nội, có một thời tuổi trẻ vất vả, lang
thang hè phố. Chính những năm tháng nhƣ thế đã giúp ông thu vào tầm mắt, in
một dấu ấn rất đậm về những ngƣợc xuôi, bộn bề và cả những bi hài vốn có của
cuộc sống đô thị với cơ chế kinh tế thị trƣờng thời mở cửa. Nhà văn Thạch Lam
(1910-1942) có những năm tháng tuổi


27thơ sống ở phố huyện Cẩm Giàng (Hải dƣơng), để rồi sau này, cái phố huyện
heo hút, hiu quạnh ấy trở thành không gian nghệ thuật trở đi trở lại trong nhiều
truyện ngắn của ông. Văn hào Nga M. Gorki tổng kết đời mình thành kiệt tác Thời

thơ ấu.... Hà Nội cũng nhƣ thế trong truyện ngắn của NguyễnViệt Hà. Đó là những
khoảnh khắc ít ỏi Nắng bắt đầu đậm vàng qua kẽ xanh tán lá... nắng vàng long lanh
trong giọt mưa sót mong manh bám trên những cành hồng đỏ...(Từng vòng khói
thuốc, Của rơi, 2004, Nxb Phụ nữ). Chủ yếu trong truyện ngắn của Nguyễn Việt
Hà là một không gian Hà Nội náo nhiệt với những căn buồng tƣơng tự nhƣ buồng
hoàng tử Phở nồng nặc mùi nước hoa Cologne (Người đi thi hộ -Sđd) hay Ngột
ngạt người trong ăm ắp rượu và đủ loại món ăn nóng nguội. Khách sạn nổi tiếng
với những món Tầunhưng làm tiệc đứng kiểu Tây...(Rửa tội -Sđd). Không những
có năng khiếu chọn lọc đề tài theo một lối riêng, đậm bản sắc, ông còn tạo nên một
giọng điệu văn chƣơng mang thƣơng hiệu Nguyễn Việt Hà: lúc hóm hỉnh, sinh
động một cách tự nhiên nhƣ nói, lúc lại thâm trầm sâu xa. Nhất là khi ông dành
một góc riêng để khắc họa hình tƣợng những trí thức Hà Nội, những cốt cách Hà
Nội gốc mà theo ông, không bao giờ mai một, dù thời thế có thăng trầm và bụi
bặm hơn nữa. Thành công trong tiểu thuyết thể hiện sự trƣởng thành của nhà văn
thì đặc sắc của truyện ngắn chính là biểu hiện của độ bền vững, của kĩ năng viết đã
trở nên sành sỏi, nhuần nhuyễn. Năm 2001, đạo diễn Vƣơng Đức thích truyện
ngắn của ông và đã yêu cầu Nguyễn Việt Hà chuyển thành kịch bản phim với ý
tƣởng Của rơimang ý nghĩa kép: ở một mức độ nào đó, ngƣời trí thức là một thứ
của rơi, ai nhặt đƣợc và sử dụng nó nhƣ thế nào lại là vấn đề khác. Tình yêu cũng
tựa nhƣ một thứ của rơi, ai may mắn thì nhặt đƣợc. Phúc họa ở đời không lƣờng
hết là vì thế.Tập truyện ngắn Của rơi(2004) với hơn hai mƣơi tác phẩm cho thấy
Nguyễn Việt Hà đang vƣơn đến một địa hạt văn chƣơng mới, phong phú hơn, thú
vị hơn. Ông là nhà văn Hà Nội, là cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn chƣơng Việt
hiện nay.
28Nguyễn Việt Hà với tạp vănTạp văn là mộtthể loại có lịch sử lâu đời, phổ biến từ
thời Chiến quốc. Thế kỉ XX ghi danh nhà văn Lỗ Tấn cũng chính ở thể loại tạp văn
hiện đại, dùng để phê phán một cách hữu hiệu những vấn nạn của quốc dân Trung
Hoa mà ông cho là căn bệnh tinh thần, ngu dốt, u mê, lạc hậu, tự mãn và đớn hèn.
Cho đến nay, tạp văn vẫn phát triển với diện mạo và nội dung ngày càng phong
phú. Những nhà tạp văntiêu biểu của nƣớc ta hôm nay nhƣ Tạ Duy Anh, Nguyễn

Quang Lập, Nguyễn Khải, Nguyễn Ngọc Tƣ, Phan Thị Vàng Anh, Dƣơng Ngọc
Dũng, Nguyễn Việt Linh, Nguyễn Văn Thọ...cho thấy sự nở rộ và tính ƣu việt của
thể loại. Nhìn chung đây là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, linh hoạt, dễ bắt nhịp
với nhu cầu thƣởng thức của nhiều giới độc giả. Tuy dung lƣợng ngắn nhƣng tạp


văn chứa đựng những nộidung phong phú đa dạng, có thể liên quan đến các vấn đề
chính trị -xã hội mang tính chính luận sắc sảo, cũng có thể là những thiên “tạp
cảm” giàu cảm xúc trữ tình, đặc trƣng cho phong cách nghệ thuật của tác giả văn
chƣơng. Thể văn này thƣờng chớp lấy một ý nghĩ, khoảnh khắc suy tƣ, một
thoáng liên tƣởng bất ngờ, độc đáo, đậm dấu ấn cá nhân của nhà văn. Do đó, ngắn
nhƣng tạp văn lại chứa đựng những ý tƣởng ngầm, sắc và sâu.Ngoài tiểu thuyết và
truyện ngắn, Nguyễn Việt Hà còn nổi danh với những tập tạp văn đặc biệt. Những
ngƣời từng gặp Nguyễn Việt Hà đều nhận xét, ít ai nghĩ ông là nhà văn bởi cái
dáng cao lớn, khuôn mặt mang nhiều nét phôi pha và trải nghiệm cuộc đời. Nhƣng
khi nói chuyện mới thấy ông là một con ngƣời khá thú vị. Ông thƣờng làm chủ
đƣợc câu chuyện và có cách nói rất thu hút. Nhà văn lại có biệt tài viết nhƣ đang
nói, nhƣ đang ngồi nhậu ba la bông lơn với bạn bè, chẳng biết câu nào đùa, câu
nào thật. Ấn tƣợng chung của mọi ngƣời là đọc tạp văn của ông thấy nhƣ lúc ông
nói chuyện với mình vậy. Khởi đầu là tiểu thuyết, song tạp văn chính là cái
duyênmặn mòi trên con đƣờng văn chƣơng của Nguyễn Việt Hà.
29Một trong những lí do độc giả yêu tạp văn Nguyễn Việt Hà chính là ở lối viết
nhẹ nhàng mà thu hút của ông. Nhà văn có lần tâm sự “Thật ra córất nhiều ngƣời,
nhƣ nhàbáoTrịnh Tú nhận xét về tôi: “Cậu viết về đàn bà hay hơn đàn ông”.Nói
chung là do cảm giác đọc chi phối thôi, vì thật sự tạp văn viết về đàn ông hay đàn
bà thì đều phải “điêu toa” nhƣ nhau. Tôi quan niệm viết văn không dựa trên câu
chuyện cụ thể nào, mà chính là cách dẫn dắt, câu chữ sao cho hấp dẫn”. Ông viết
về đàn bà uống rượu, mặt của đàn ông, tá lả tiến sĩ, anh hùng tuyệt lộ, bi kịch của
lạ... hay con giai phố cổđều bằng một giọng văn dí dỏm mà sâu sắc lạ lùng. Không
thiếu những văn phẩm nhƣ thế, chẳng hạn một đoạn trong tạp văn Anh hùng tuyệt

lộcủa Nguyễn Việt Hà: “Đàn ông đƣợc coi là anh hùng (từ điển Hán Việt Đào Duy
anh chú: Anh là vua loài hoa, Hùng là vua loài thú, chỉ người hào kiệt xuất chúng),
khi lâm tuyệt lộ thì tuyệt nhiên khác. Một phần do cái sự họ gặp phải bi thảm đến
cực cùng, một phần là do cái cách họ ứng xử với những bất thƣờng bi thƣơng ấy.
Cố nhiên, vì là đàn ông nên cũng có lúc họ bị tán gia bại sản, cũng có lúc họ gặp ác
phụ phản thùng. Có điều, với tất thảy bọn họ, tiền bạc hay hôn nhân chƣa hẳn quá
trọng, nó nhỏ nhƣ bò ăn cỏ. Chuyện làm họ lao đao day dứt hơn cả lẽ sinh tử chính
là chữ Hiếu, chữ Nghĩa, chữ Tín.Ngƣời đọc đến với tạp văn của Nguyễn Việt Hà
để thƣởng thức một phong vị hài hƣớc sâu cay, tƣởng là bông lơn nhƣng thực ra
là nhiều hàm ý. Nhà văn mƣợn một hiện tƣợng cụ thể nhƣng không hoàn toàn cá
biệt, ngƣợc lại, rất phổ biến trong cuộc sống đƣơng đại (chẳng hạn nhƣ chuyện
khôn ngoan nhận hối lộ, chơi chứng khoán, sự bất ổn của giá cả thị trƣờng...). Qua
những trang tạp văn ngắn gọn, xinh xinhcủa ông, độc giả nhận thấy bức tranh hiện


thực xã hội đƣơng đại thật phong phú, đa dạng. Những vấn đề nhạy cảm nhất liên
quan đến chính trị, việc giáo dục những con ngƣời bình dị, vấn đề văn hóa thời
kinh tếthị trƣờng... đi vào tạp văn của ông một cách tự nhiên, sống động, linh hoạt.
Khác với những đao to búa lớn mà ngƣời ta hay bàn về tiểu thuyết của Nguyễn
Việt Hà, đọc tạp văn của ông chúng ta có cảm giác nhƣ trút
30đƣợc gánh nặng mà vẫn không mất đi sự đồng cảm khi nhà văn bộc lộ nhận
thức và tình cảm của mình với cuộc sống, con ngƣời, xã hội bằng một mĩ cảm hiện
đại mà gần gũi, dung dị. Chính Nguyễn Việt Hà cũng đầy trăn trở về thể loại này:
“Nói cho cùng, tản văn là thứ văn mƣu sinh, là thể loại “tủi thân” nếu miễn cƣỡng
phải so với tiểu thuyết hay truyện ngắn. Đàn ông viết ra nó đều là những ngƣời có
nhân cách, thậm chí còn tử tế. Ngày hôm nay, số ngƣời mua và đọc tạp văn
thƣờng đông hơn hẳn số ngƣời mua và đọc tiểu thuyết. Điều này không biết nên lo
hay mừng”.1.2.4.Các vấn đề xuyên suốt trong văn xuôi Nguyễn Việt HàHiện thực
đời sống đương đạitrong tiểu thuyết Nguyễn Vệt HàTrƣớc hết phải thấy một thực
tế, Nguyễn Việt Hà lớn lên ở thời hậu chiến (chỉ những năm 1975-1985 ở nƣớc ta)

nhƣng bƣớc vào văn nghiệp ở buổi đầu của nền kinh tế thị trƣờng thời mở cửa
(sau 1986). Các tiểu thuyết Cơ hội của Chúa(1999), Khải huyền muộn(2003), Ba
ngôi của người(2014) và các tập tạp văn của ông không có dấu vết của quá khứ
đậm chất sử thi trƣớc đó. Tác phẩm của Nguyễn Việt Hà đã phản ánh hiện thực đời
sống đƣơng đại một cách sinh động và đặc biệt phong phú, đa dạng, tinh tế theo
một cách riêng. Ngƣời đọc cảm nhận đƣợc một cách sâu sắc về "cái thời buổi nhố
nhố nhăng nhăng, ông không ra ông, thằng không ra thằng" [11, tr.331]đang phơi
bày trƣớc mắt.Nhà văn dựng "chân dung" và miêu tả khá chi tiết, một đô thị đầy
rẫy những "gã quan tham đã có biệt thự còn cố chiếm lấy một suất phân nhà bé tí
trong khu tập thể rồi thanh thản hạ cánh an toàn...[7, tr.12]. Một cô Hoa hậu "mặc
bikini... uyên bác vanh vách trả lời các câu hỏi của giám khảo". Tiêu biểu hơn
làtiểu sử quái đản của những giám đốc "chưa học hết cấp Một... được báo chí khen
là biết tám ngoại ngữ và trong giao tiếp không bao giờ dùng tiếng Việt[11,
tr.398].Đó còn là một Nguyễn Văn Mƣời Hai, "một thằng vô học móc cống dám
len vào điều hành kinh tế ở tầm vĩ mô" [11, tr.397].Đọc những câu nhƣ thế chợt
nhiên nhớ đến cảnh quê nhà bỗngxoay ra phốvới những kẻ "Chí cha chí chát khua
giày dép. Đen thủi đen thui cũng lượt là"
31trong thơ Trần Tế Xƣơng xƣa kia. Lại nhớ cái thời của những Xuân Tóc Đỏ, từ
một thằng ma cà bông, sốngbằng nghề trèo me trèo sấu và thổi kèn quảng cáo
thuốc lậu, nhặt ban quần, không cha không mẹ bỗng nhiên trở thành vĩ nhân, nhà
Âu hóa, anh hùng cứu quốctrong sáng tác đƣợc xem là mẫu mực về đề tài đô thị


hiện đại của nhà văn Vũ Trong Phụng, tiểu thuyết Số đỏ. Khái quát mặt trái xã hội
đƣơng đại, Nguyễn Việt Hà không quên chỉ rõ nguyên nhân sâu xa của nó. Nhà
văn bật lên những câu cảm thán tƣởng bâng quơnhƣng thực ra là chua chát trong
tạp văn Đàn bà uống rượu: "Khốn nạn thay cho cái nhân loại đã bị đục ngầu
này"hay "cõi đời bất trắc đang dần dần bị ô nhiễm này" [10, tr.189]. Những năm 90
của thế kỉ XX ở nƣớc ta cho đến nay, những yếu kém về năng lực quản lí của Nhà
nƣớc; sự sơ hở, chắp vá của luật và dƣới luật tạo nên những kẽ hở cho những kẻ

cơ hội và những mẫu ngườikhông chính danh kia nổi lên nhƣ rƣơi, làm mai một
những thuần phong mĩ tục vốn sâu xa quý báu của ngƣời Việt. Tất cả hiện lên sống
động chân thực dƣới ngòi bút châm biếm sắc sảo của Nguyễn Việt Hà.Tuy nhiên,
không phải bao giờ nhà văn hiện thực cũng chỉ nhìn đời một phía và Nguyễn Việt
Hà cũng nhƣ thế. Cuộc sống đƣơng đại vừa có những xô bồ, phức tạp, thậm chí cả
những nhốn nháo (chữ dùngcủa Vũ Trọng Phụng), nhố nhăng của một xã hội đầy
biến động, nónglên để hội nhập lại vừa giữ lại những nét trong trắng xƣa cũ,
vƣơng vấn bản sắc mà đậm đà hồn Việt. Văn xuôi Nguyễn Việt Hà không ít lần
chạm khắc hình ảnh "Một đô thị đã ngoài nghìn tuổi thì đương nhiên phải có linh
hồn..., nó thăm thẳm mơ màng rêu phong tạo riêng một bản sắc. Phố cổ chính là
nơi giữ gìn được những mảnh hồn độc đáo ấy"[38]. Không thể tránh những ồn ã
phồn tạp nhƣng Hà Nội trong văn Nguyễn Việt Hà có lúc chợt tĩnh lặng, thâm trầm
đến nao lòng, cảm xúc nhƣ nâng cánh cho ta có thể hát lên những ca từ duyên
dáng nhất về Hà Nội của ta "Gió khuya lá rụng", "dịu dàng những góc phốheo
may".
32Gắn với hình ảnh phố nhỏ, phố cổ mơ màng rêu phong ấy là những con ngƣời
chính danh Hà Nội. Đócó thể là hình ảnh "một nhạc sĩ già, ông là người chơi đại
phong cầm duy nhất của ca đoàn giáo xứ. Ông nhạc sĩ là kiểu ẩn sĩ tinh hoa nhiều
kĩ tính của Hà Nội cũ phố cổ" trong Đàn bà uống rượu;cũng có thể là những thiếu
phụ phố cổ "kiêu sa áo dài nhung","phong độ của họ là tinh tế đoan trang cực kì
sang trọng" trong Con giai phố cổ.Trong tiểu thuyết mới nhất, Ba ngôi của
ngườithì Nguyễn Việt Hà đã dựng lại hình ảnh những ngƣời mẹ nấu ăn ngon đứt
lƣỡi, những ngƣời cha yêu con theo cách riêng của họ, đámcon trai, con gái phố
cổ đã hấp thu cái tinh hoa và cả những văn hóa lai căng tứ xứ đổ về. Đó là dòng
chảy của kí ức, nói nhƣ chính tác giả là "ngồn ngộn những kí ức về Hà Nội",một
đô thị phức tạp với những góc khuất và cả "văn hóa ngƣời Hà Nội" mà ngày nay
chúng ta vẫn tiếc nhớ. Giữa một Hà Nội trong quá trình đổi thay, những ngƣời Hà
Nội gốc ấy hiện ra. Họ sinh ra ở mảnh đất đƣợc gọi là nghìn năm văn hiến, lớn lên
ở đây và dƣờng nhƣ mọi biến cố, tâm lí đều có một phần nguyên do từ không
gian, nếp sống của nơi này. Họ là những ngƣời ngƣời Hà Nội và sống rất Hà



Nội.Có thể nói những không gian đặc trƣng và những con ngƣời nhƣ thế đã làm
nên một phố phƣờng Hà Nội có khuôn mặt kinh thànhriêng theo cốt cách và phong
vị độc đáo của Nguyễn Việt Hà. Dấu ấn đa dạng của lịch sử trong cuộc sống
đƣơng đại in đậm trong sáng tác của nhiều nhà văn cùng thời với ông thêm một lần
nữa cho thấy tính dân chủ sâu sắc của văn học thời nay.Đô thị với cảm quan hậu
hiện đại của con ngườiCảm quan hậu hiện đại là một thuật ngữ của chủ nghĩa hậu
cấu trúc và chủ nghĩa hậu hiện đại, là hình thức cảm nhận thế giới đặc thù và là
phƣơng thức phản xạ suy tƣ lí thuyết tƣơng ứng với nó, tiêu biểu cho tƣ duy khoa
học của các nhà nghiên cứu văn học hiện thời thuộc định hƣớng hậu cấu trúc -hậu
hiện đại. Cảm quan hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà chính là
cách cảm nhận về con
33ngƣời trong xã hội hỗn độn, của những cơn khủng hoảng niềm tin vào những
giá trị tồn tại từ lâu. Những hoài nghi với mọi thứ và xung đột, phá vỡ những giá
trị thƣờng thấy của văn học.Cùng với cuộc sống đặc trƣng đô thị, cảm quan hậu
hiện đại càng đƣợc thể hiện rõ nét qua những tác phẩm của nhà văn này.Không
phải đến nay đô thị mới xuất hiện trong văn học, gắn với cảm quan -cách quan sát
và cảm nhận của con ngƣời nói chung. Các nhà văn luôn đồng thời là nhà xã hội
học theo một nghĩa nhất định nào đó ở khả năng phân tích hiện thực và cả những
dự cảm nhạy bén, sâu xa thâm thúy vốn là tố chất của ngƣời cầm bút chuyên
nghiệp. Đô thị trong văn học, qua mỗi thời thế có một sắc thái riêng. Cũng nhƣ
thế, cảm quan về đô thị của con ngƣời không hoàn toàn lặp lại một khi xã hội đã
biến đổi từ thể chế này sang mô hình khác. Nó là một trƣờng thẩm mĩ độc đáo
đƣợc nhào nặn, đƣợc tạo tác bởi mĩ cảm riêng, không lặp lại giữa nhà văn này với
nhà văn khác. Đô thị qua thế giới nhân vật của Nguyễn Việt Hà cũng muôn màu
nhƣng sắc điệu của nó đã khác, là cái nhìn của con ngƣời thời hậu công nghiệp,
vừa đầy giễu cợt, mỉa mai vừa không khỏi những xót xa, lo lắng. Văn xuôi của ông
đã mạnh dạn đề cập tới nhiều vấn đề, vấn nạn trong xã hội, mang lại cho ta cái
nhìn phức hợp, phong phú về cuộc sống luôn luôn vận động, thay đổi mà ở đó các

chuẩn mực, quan niệm cũng thay đổi theo. Ông không ngần ngại tung lên hình ảnh
một thành phố Hải Phòng những năm đầu Đổi mới "dân tình ham hố làm giàu...",
"cuộc sống sôi sục mùi đồng"và cả những "phi vụ buôn lậu xuyên dọc chiều dài đất
nước có thể là của dân nhưng muốn xuyên ngang qua các quốc gia thì phải là của
quan" [8, tr.99];lại có cả những"cái hay của nước ngoài học được thì ít, cái dở của
ngoại bang mót được thì nhiều"... Từ những chấm phá nhƣ thế, Nguyễn Việt Hà đã
đƣa hình tƣợng trong những sáng tác của mình phù hợp với thực tại luôn biến đổi,
xô bồ, nhộn nhịp, cung cấp cho ngƣời đọc cái nhìn toàn diện hơn về mọi mặt của
đời sống, phù hợp với tinh thần dân chủ hóa trong văn học của thời đại. Cũng


có thể nói, đọc tác phẩm của ông, ta cũng nhƣ đƣợc cháy hết mình, chợt vỡ ra, giật
mình vì hình nhƣ soi thấy một phần chính mình trong đó. Văn học là thế, nó lặng
lẽ mà mãnh liệt trong quá trình khơi gợi sự đồng cảm từ phía ngƣời đọc. Nhất là
qua những sáng tác hoàn toàn chủ động về tâm thế và một bút lực khỏe khoắn,
thông minh nhƣ Nguyễn Việt Hà. Nhìn một cách bao quát, Nguyễn Việt Hà là nhà
văn đã có những bƣớc tiến dài, chắc chắn, độc đáo trong sự nghiệp văn học đang
còn rộng mở. Sáng tác của ông hấp dẫn ngƣời đọc ở một lối văn tinh tế, giọng điệu
phong phú, cái nhìn đa diện và cả sự mẫn cảm về cuộc đời, thời thế. Xoay, soi,
ngắm nghía... văn xuôi của ông đã và đang đƣợc ngƣời đọc chờ đợi, bởi càng đọc
càng thấy "ghét" một cóc cụ Hà Nộilắm mồmtán nhảmmà sâu sắc đến điều.Nổi lên
trên văn đàn Việt chƣa lâu nhƣng Nguyễn Việt Hà đã có những thành công đáng
kể và tiến những bƣớc dài, khá vững chắc trên con đƣờng văn nghiệp. Với tiểu
thuyết và truyện ngắn, ông là ngƣời khai phá một lối viết mới, đậm chất hậu hiện
đại. Ngƣời đọc cũng bị chinh phục bởi những tạp văn xinh xắn, hài hƣớc nhƣng là
cả một pho kiến thức đƣợc chắt lọc, tổng hợp từ nhiều nguồn, từ kiến thức sách vở
cổ kim đến hết thảy những gì đang hàng ngày, hàng giờ diễn ra trƣớc mắt. Trong
cảm quan của ông và hầu hết những nhà văn viết cùng đề tài, con ngƣời đô thị hiện
lên với tất cả dở hay, xấu tốt. Bức tranh đời sống trong văn xuôi Nguyễn Việt Hà
thực chất là sự tái hiện một cách sáng tạo, vừa gắn với không khí dân chủ thời mở

cửa vừa tạo riêng một giọng điệu, một góc nhìn. Xung quanh sáng tác của ông có
nhiều cuộc tranh luận khá sôi nổi. Nhƣng dù thẩm định ở phƣơng diện nào, chúng
ta cũng có cơ sở khẳng định rằng đây là nhà văn Hà Nội độc đáo và giàu bản sắc.
Chắc chắn, ông còn có nhiều đột phá trong sự nghiệp văn chƣơng của mình, bởi
đây là lúc bút lực của anh đang ở độ chín với phong độ dồi dào, khỏe khoắn
nhất.Một cái nhìn về Kitô giáoqua văn học


35Với rất đông độc giả, ngƣời ta mới chỉbiết đến Kitô giáo qua những cuốn
sách, những câu chuyện hay bộ phim nhƣng tất cảđều dƣờng nhƣ không gần gũi
với cuộc sống. Chính vì thế, một cái nhìn toàn diện vềKitô giáo vẫn còn là điều gì
đó xa lạ hay mơ hồvới nhiều ngƣời, đặc biệt là những ngƣời không theo đạo.
Thế nhƣng, nhờcó bộba tiểu thuyết Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộnvà Ba
ngôi của người thì Nguyễn Việt Hà đã nhờnhững yếu tốtôn giáo thểhiện từngôn
ngữ, biểu tƣợng, lịch sử, nhân vật... để đƣatới một cái nhìn tƣơng đối toàn diện
hơn vềKitô giáo cũng nhƣ mối quan hệgiữa tôn giáo và thời đại.Một bức tranh
vềKitô giáo đƣợc viết lên với những không gian nhà thờ, những ngôn ngữcủa
ngƣời theo đạo, những ngày lễ, lịch sửcủa tôn giáo này ởViệt Nam cũng đƣợc
khéo léo đƣa vào câu chuyện. Những con ngƣời tôn giáo cũng hiện lên rõ ràng
hơn, ởđó có những sâu thẳm, những ẩn ứctrên cơ sởđức tin. Những con ngƣời theo
đạo với cuộc sống nhƣ bao con ngƣời khác trong cuộc sống. Họcũng là những con
ngƣờibình thƣờng, những con ngƣời thuộc mọi tầng lớp với nhiều công việc khác
nhau, cũng có những yêu ghét đời thƣờng nhƣng ẩn trong họlà một đức tin, một
sựcứu rỗi của Chúa. Những nhân vật này chính là đại diện cho tất cả những con
ngƣời của xã hội, đức tincủa Kitô giáo trong các nhân vật cũng mở rộng ra là niềm
tin, là sự cứu rỗi của con ngƣời với thực tại cuộc sống.Bằng việc tạo nên những
tiểu thuyết mang đậm dấu ấn Kitô giáo, nhà văn đã tái hiện lại một bức tranh của
cuộc sống. Nhờ cảm hứng tôn giáo Nguyễn Việt Hà đã thành công trong việc xây
dựng nên một xã hội thu nhỏ trong tác phẩm của mình. Ở đó, tôn giáo nhƣ một
màu sắc thú vị, một đòn bẩy giúp cho những thông điệp, những giá trị đƣợc thể

hiện một cách sâu sắc và chân thực nhất. Xã hội đã tác động lớn đến tôn giáo, một
xã hội càng phát triển, càng lộn xộn thì chỗ đứng của tôn giáo càng bị hẹp đi
nhƣng ngƣợc lại. Tôn giáo ra đời dựa trên nhu cầu cần chỗ dựa tinh thần của con
ngƣời vì thế con ngƣời càng đau khổ thì tôn giáo càng có chỗ
36đứng cho mình. Một xã hội đem đến cho con ngƣời những nỗi đau, sự cùng
quẫn thì ở đó họ chỉ có thể tìm cho mình niềm tin nơi tôn giáo. Cuộc sống thực tại
là vậy, càng phát triển thì càng khiến con ngƣời thay đổi, nhiều nỗi đau hơn và khi
tôn giáo tƣởng nhƣ mất đi vị thế của mình thì cũng là lúc nó thể hiện đƣợc vai trò
không thể thay thế. Những thông điệp, những quan điểm về cuộc sống, con ngƣời
và thời đại đã đƣợc thể hiện trọn vẹn và một trong những điều giúp tạo nên thành
công đó chính là cảm hứng tôn giáo.TÀI LIỆU THAM KHẢO1. M. Bakhtin
(Phạm Vĩnh Cƣtuyển chọn dịch) (2003),Lý luận và thi pháp tiểu thuyết,Nxb Hội
Nhà Văn, Hà Nội2. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn
học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.3. Hà Minh Đức (Chủbiên) (2008),Lý luận văn
học, NxbGiáo dục, Hà Nội4. Jean Francois Froger và Jean Piere Durand (2014),


×