Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi về loài vật của Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.15 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

-----***-----

HOÀNG THỊ XUÂN QUỲNHNGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VỀ LOÀI VẬT CỦA
TÔ HOÀI
Luận văn Thạc sĩchuyên ngành Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
Người hướng dẫn khoa học: TS. Diêu Thị Lan Phương
HÀ NỘI -2016

MỤC LỤC


MỞĐẦU.....................................................................................................................
4
1. Lý do chọn
đềtài.....................................................................................................4
2. Lịch sửvấn đề.........................................................................................................5
3. Mục đích nghiên
cứu...............................................................................................9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu...........................................................................9
5.Phương pháp nghiên
cứu.......................................................................................10
6. Cấu trúc của luận
văn............................................................................................10
NỘI
DUNG...............................................................................................................10


Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀNGHỆTHUẬT TỰSỰVÀ HÀNH TRÌNH SÁNG
TÁC CỦA TÔ
HOÀI................................................................................................10
1.1 Khái quát vềtựsựhọc........................................................................................10
1.1.1 Khái
niệm.........................................................................................................10
1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của tựsựhọc............................................12
1.1.3 Những đóng góp của tựsựhọc trong nghiên cứu văn học..............................14
1.2 Khái quát vềtruyện thiếu nhi vềloài vật của Tô Hoài.......................................15
1.2.1 Khái niệm truyện thiếu nhi và truyện thiếu nhi vềloài
vật..............................15
1.2.2 Truyện thiếu nhi vềloài vật của Tô Hoài........................................................21
Chương 2. NGHỆTHUẬT TỔCHỨC CỐT TRUYỆNVÀ XÂY DỰNG NHÂN
VẬT...........................................................................................................................2


72.1 Nghệthuật tổchức cốt
truyện.............................................................................27
2.1.1 Khái niệm cốt
truyện........................................................................................27
2.1.2 Các loại hình cốt truyện trong truyện thiếu nhi vềloài vật của Tô Hoài........30
2.1.3 Nghệthuật tổchức diễn biến cốt truyện..............Error! Bookmark not defined.
2.2.1 Khái niệm nhân vật văn học.................................Error! Bookmark not
defined.
2.2.2 Các loại hình nhân vật trong truyện thiếu nhi vềloài vật của Tô Hoài..Error!
Bookmark not defined.
2.2.3 Các biện pháp nghệthuật xây dựng nhân vật......Error! Bookmark not defined.
Chương 3. NGƯỜI KỂCHUYỆN VÀ NGÔN NGỮTRẦN THUẬT..............Error!
Bookmark not defined.
3.1 Người kểchuyện trong truyện thiếu nhi vềloài vật của Tô Hoài.................Error!

Bookmark not defined.
3.1.1 Khái niệm người kểchuyện trong văn học..........Error! Bookmark not defined.
3.1.2 Ngôi kể.................................................................Error! Bookmark not
defined.
3.2Giọng điệu trần thuật........................................Error! Bookmark not defined.
3.2.1Giọng hài hước hóm hỉnh..............................Error! Bookmark not defined.
3.2.2 Giọng nhẹnhàng triết lý.................................Error! Bookmark not defined.
3.3Ngôn ngữtrần thuật................................................Error! Bookmark not defined.
3.3.1 Khái niệm ngôn ngữtrong tác phẩm văn chươngError! Bookmark not defined.
3.3.2 Ngôn ngữtrần thuật trong truyện thiếu nhi vềloàivật của Tô Hoài......Error!
Bookmark not defined.
KẾT LUẬN...................................................................Error! Bookmark not
defined.
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tàiTruyện thiếu nhi là một trong những nguồn cảm xúc nuôi
dưỡng tâm hồn con người từ lúc còn là những cô bé, cậu bé hồn nhiên, ngây thơ. Ở
Việt Nam, những tác phẩm truyện thiếu nhi của Tô Hoài, Võ Quảng, Nguyễn Huy
Tưởng, Nguyễn Đình Thi... bắt đầu xuất hiện từ những năm 40 của thế kỷ XX,
được truyền tay nhau qua bao thế hệ và cho đến bây giờ, vẫn là những cây bút viết
cho thiếu nhi có sức ảnh hưởng lớn nhất, với những tác phẩm thành công và có giá
trị cao nhất. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về văn học viết cho thiếu nhi hiện nay vẫn
chưa xứng tầm với vai trò của nó.Trong số những nhà văn viết cho thiếu nhi ở Việt
Nam, Tô Hoài có thể xemlà tác giảcó khối lượng tác phẩm truyện thiếu nhilớn và
chất lượng, được nhiều thế hệ trẻ em và thậm chí cả người lớn ở Việt Nam yêu
thích hơn cả. Tô Hoài viết nhiều, bao gồm cả truyện thiếu nhi và tiểu thuyết, truyện
ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận... Thế nhưng trong các công
trình nghiên cứu về tác phẩm của Tô Hoài, mảng văn học thiếu nhi chưa thật sự
được quan tâm đúng với vị trí của nó, những công trình nghiên cứu về truyện thiếu

nhi của Tô Hoài còn rất ít, hoặc chỉ mang tính chất chung cho toàn bộ các tác phẩm
chứ chưa đi vào nghiên cứu riêng một mảng đề tài nào, trong khi lượng tác phẩm
viết cho thiếu nhi của Tô Hoài tương đối lớn và phong phú về đề tài.Đối với tuổi
thơ, thế giới loài vật chứa đựng biết bao nhiêu điều kỳ thú mà các em muốn tìm tòi
khám phá, từ những loài vật ngày ngày gần gũi bầu bạn xung quanh cho đến những
loài vật xa lạ mà các em chỉ được biết đến trong phim ảnh, sách báo...Vì thế, đây
lànguồn tài liệu phong phú cho các nhà văn, nhà thơ khi sáng tác các tác phẩm
dành cho thiếu nhi. VớiTô Hoài, ông viết rất nhiều và loài vật. Những Dế Mèn, Dế
Trũi, Bọ Ngựa... từ những trang sách của ông đã trở thành những người bạn vô
hình vớibao thế hệ độc giả Việt Nam.Khi nhắc đến cái tên


5Tô Hoài ở mảng văn học dành cho thiếu nhi, đây có thể coi là mảng đề tài khiến
ông được nhớ đến nhiều nhất, khối lượng các tác phẩm khai thác đề tài này cũng
chiếm số lượng lớn nhất. Thành công ấy có được nhờ sự am hiểu sâu sắc về tâm lý
của trẻ em, về thế giới loài vật cũng như cách viết dung dị, tinh tế, tưởng như rất
đơn giản mà lại vô cùng hiệu quả của Tô Hoài. Chọn đề tài “Nghệ thuật tự sự trong
truyện thiếu nhi về loài vật của Tô Hoài”, chúng tôi hy vọng tìm hiểu kỹ về một
mảng đề tài trong số rất nhiều những đề tài viết cho thiếu nhi của tác giả, qua đó
đưa ra một cái nhìn khái quát,đồng thời đánh giá về những thành công cũng như
những đóng góp của Tô Hoài với nền văn học nước nhà ở thể loại văn học này. 2.
Lịch sử vấn đềNhà văn Tô Hoài là một trongnhững nhà văn viết cho thiếu nhi xuất
sắc nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Những tác phẩm văn học thiếu nhi của
ông không chỉ hấp dẫn các bạn đọc nhỏ tuổi, mà còn được nhiều bạnđọc là người
lớn yêu thích. Những tác phẩm của ông là nguồn giá trị tinh thần nuôi dưỡng tuổi
thơ của các em thiếu nhi, giúp các em khám phá nhiều điều thú vị về cuộc sống
xung quanh và học hỏi những lẽ phải điều hay ở đời, đồng thời cũng là nguồn cảm
hứng khơi gợi lại quãng đời thơ ấu của biết bao bạn đọc lớn tuổi.Với tài năng và vị
trí quan trọng trong văn học Việt Nam nói chung, văn học thiếu nhi nói riêng, con
người và các tác phẩm của Tô Hoài đã trở thành đề tài nghiên cứu cho rất nhiều

nhà phê bình, nhà nghiên cứu văn học từ trước đến nay. Nói như Vũ Quần Phương
thì : "Khám phá về ông cả về văn lẫn về đời là một say mê với chúng ta, những
người có hạnh phúc được cùng thời với ông, và chắc cả thế hệ sau. Khám phá về
ông là cả một vấn đề khoa học lớn lao nhưng trước hết vớichúng tôi là đòi hỏi của
tình cảm, của lòng biết ơn, sự noi gương" [29,tr.165].Khi nghiên cứu về Tô Hoài,
các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao tài năng của ông, đặc biệt là khả năng quan
sát tinh tế các sự việc, hiện tượng của cuộc sống và tái hiện chúngmột cách sinh
động trong các tác phẩm của mình. Phan Cự Đệ
6nhận xét: “Tô Hoài có một khả năng quan sát đặc biệt, rất thông minh hóm hỉnh
và tinh tế. Khả năng này giúp anh thành công khi miêu tả những hiện tượng bên
ngoài, để trực tiếp quan sát và cảm thụ cảnh vật thiên nhiên, sinh hoạt hằng ngày,
phong tục lễ nghi, thế giới loài vật...”[29,tr.98]. Vũ Ngọc Phan cũng nhận xét
“Truyện ngắn của Tô Hoài không những đặc biệt về lời văn, về cách quan sát, về
lối kết cấu, mà còn đặc biệt cả về những đầu đề do ông lựa chọn nữa”
[29,tr.59].Trong lĩnh vực viết cho thiếu nhi, Tô Hoài viết về nhiều đề tài như
truyện loài vật, tự truyện, truyện về quê hương đất nước, truyện cổ tích viết lại,
trong số đó mảng truyện thiếu nhi về loài vật của ông được đánh giá rất cao. Nhà
nghiên cứu Hà Minh Đức cho rằng truyện viết về loài vật của Tô Hoài có một sức
hấp dẫn đặc biệt. Ông khẳng định: “Trong văn học Việt Nam thời kì hiện đại, Tô


Hoài là nhà văn viết thành công nhất, hấp dẫn nhất về các loài vật (...), chúng ta có
thể bắt gặp một thế giới loài vật đông đúc, hấp dẫn, sinh động từ gà ri, gà chọi, ri
đá, chuột bạch, mèo, chó đến cá chép, cá trê, từ cò, bồ nông, vành khuyên đến gấu,
sơn dương và các loài bé nhỏ như dế mèn, dế trũi, xén tóc, kiến chúa, bọ ngựa”
[29,tr.465]. Những ý kiến đánh giá phê bình về truyện của Tô Hoài được Phong Lê
và Vân Thanh tập hợp trong cuốn Tô Hoài –Về tác gia và tác phẩm. Ngoài Hà
Minh Đức, nhiều bài viết và công trình nghiên cứu của các tác giả khác cũng đề
cập khá nhiều đến mảng truyện loài vậtcủa Tô Hoài. Phong Lê đã nhận xét về sự
sáng tạo trong truyện thiếu nhi của Tô Hoài với việc lựa chọn nhân vật là các loài

vật: “Tô Hoài tỏ ra không giống một nhà văn nào trước ông và cũng không giống
một nhà văn nào mới nhập tịch làng văn như ông. Truyệncủa ông có những tính
chất nửa tâm lý, nửa triết lý, mà các vai lại là loài vật (...). Nó là những truyện tả
chân về loài vật, về cuộc sống của loài vật, tuy bề ngoài ra vẻ lặng lẽ, nhưng phần
trong có lắm cái “ồn ào”, vui cũng có mà buồn cũng có”[29,tr.59]. Khám phá nội
dung độc đáo trong sáng tác của Tô Hoài, bao gồm mảng truyện loài vật, Nguyễn
Đăng
7Điệp nhận ra sự giản dị đậm cảm hứng đời thường : “Tô Hoài không thật quen
với tầng lớp trên, ông chỉ gần gũi với đám bình dân... Tô Hoài là thế, chỉ viết về
những điều gì ông thật quen, những gì ông đã nhìn thấy. Trong Tự truyện, Tô Hoài
cho biết, thậm chí “cả những chuyện loài vật tưởng như xa lạ kia cũng không ngoài
cái rộn ràng hay thầm lặng của khu vườn trước cửa”[10]. Tuy giản dị như vậy,
nhưng theo Hà Minh Đức, những câu truyện của ông lại có giá trị hiện thực to lớn
vì đã truyền tải được những vấn đề của cuộc sống qua việc nói về thế giới loài
vật“Viết về loài vật, Tô Hoài muốn nói đến cuộc sống con người (...). Ông chú ý
đến những con vật quanh quẩn và gần gũi với cuộc sống của con người như chú
mèo, chú gà, con chuột và cả những con vật bé nhỏ như bọ ngựa, dế mèn, dế trũi,
xén tóc (...). Thế giới của loài vật cũng có nhiều chia li, tan tác đau khổ, chết chóc
như chính cuộc sống của con người. Có điều gì khác chăng là ở chỗ trong xã hội
con người các quy luật phức tạp và cuộc sống điên đảo hơn. Còn ở thế giới loài vật
mọi sự có thể đơn giản nhưng cái kết thúc thì không kém phần cay
đắng”[29,tr.134]. Trong số các các phẩm truyện thiếu nhivề loài vật của TôHoài,
tác phẩm thành công nhất phải kể đến Dế Mèn phiêu lưu ký, nhận xét về tác phẩm
này, Trần Hữu Tá cho rằng cuốn truyện có sức hấp dẫn với cả thiếu nhi lẫn người
lớn và đã xây dựng nên hệ thống nhân vật phong phú, sinh động từ những loài vật
vốn rất bình thường gần gũi “Dế Mèn phiêu lưu ký là một thành công xuất sắc của
Tô Hoài, khẳng định tiếng nói đặc sắc cũng như vị trí văn học độc đáo của ông
trong văn học đương thời cũng như trong lịch sử văn học lâu dài sau này”



[43,tr.148] còn Trần Đăng Xuyền chorằng: “Dế Mèn phiêu lưu kí thể hiện rõ tài
năng quan sát tinh tế, óc nhận xét sắc sảo, hóm hỉnh và tình yêu sự sống của Tô
Hoài. Ông đã thành công khi dựng lên cả một thế giới loài vật trong trắng, ngây
thơ, ngộ nghĩnh, khao khát và say mê lý tưởng...”. [29,tr.460].
8Thành công của tác giả, bên cạnh nhờ tài năng quan sát và khắc họa nhân vật, có
sự đóng góp to lớn của ngôn ngữ và cách kể truyện. Về ngôn ngữ giọng điệu, Vân
Thanh nhận xét ngôn ngữ mà Tô Hoài sử dụng thường ngắn gọn và rất gần với
khẩu ngữ của nhân dân lao động. Bùi Hiển cũng đồng quan điểm với Vân Thanh
khi cho rằng văn phong Tô Hoài dù viết về đề tài nào, con người hay loài vật thì
văn Tô Hoài “chủ yếu làm bằng những nét nhẹ, mảnh, nhuần nhị, tinh tế, đôi khi
hơi mờ ảo nữa”[29,tr.102]. Võ Xuân Quế thì cho rằng ngôn ngữ mà Tô Hoài sử
dụng trong các sáng tác đầu tay, trong đó có các truyện viết về loài vật của ông là
“ngôn ngữ của một vùng quê”và mang màu sắc của mảnh đất làng quê Nghĩa Đô –
nơi ông gắn bó tuổi thơ“Đến với nghề văn từ trong thực tế cuộc sống lao động của
nhân dân nên Tô Hoài luôn luôn có ý thức học tập lời ăn tiếng nói hàng ngày của
người lao động (...). Những từ có trong tiếng phổ thông nhưng ở làng Nghĩa Đô
được dùng với nghĩa khác và đã được Tô Hoài sử dụng đưa vào tác
phẩm...”[29,tr.429]. Nhận xét về tập truyện ngắn O chuộtcủa Tô Hoài, Phong Lê
cũng có nhận xét về lối kể chuyện hài hước dí dỏm trong lối viết văn của Tô Hoài:
“Tập O chuột là tập truyện ngắn đầu tiên của Tô Hoài và cũng là một tác phẩm tiêu
biểu cho lối văn đặc biệt của ông, một lối văn dí dỏm, tinh quái, đầy những phong
vịvà màu sắc của thôn quê”[29,tr.59].Như vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu khác nhau về Tô Hoài cũng như truyện thiếu nhi về loài vật của ông. Mỗi tác
giả lại có cách khai thácriêng ở những khía cạnh, phương diện và những nội dung
khác nhau, chủ yếu là khai thác từ việc nhận xét và phân tích các đặc điểm về nội
dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ và phong cách kể
chuyện của nhà văn. Lựa chọn đề tài “Nghệthuật tự sự trong truyện thiếu nhi về
loài vật của Tô Hoài”, chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần nào đó những hiểu
biết của mình đối với truyện thiếu nhi về loài vật của ông trên phương diện nghệ
thuật tự sự, giúp cho việc tìm hiểu mảng sáng tác này của Tô Hoài có một cái nhìn

khái quát và đầy đủ hơn.
93. Mục đích nghiên cứuVới đề tài nghiên cứu như trên, luận văn hướng đến mục
đích nghiên cứu như sau: Thứ nhất, cung cấp những kiến thức sơ lược về nghệ
thuật tự sự cũng như hành trình sáng tác của Tô Hoài.Thứ hai, chỉ ra được những
đặc sắc của truyện thiếu nhi về loài vật của Tô Hoài trên các phương diện cốt
truyện, nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ trần thuật.Trên cơ sở đó, khẳng định


và đánh giá được những đóng góp của ông trong sự nghiệp văn chương nước nhà
nói chung, trong đề tài truyện thiếu nhi về loài vật nói riêng.4. Đối tượng và phạm
vi nghiên cứu4.1 Đối tượng nghiên cứuNói đến nghệ thuật tự sự là nói đến việc tìm
hiểu tác phẩm trên nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau nhưng trong luận văn
này chỉ xin đề cập đến những khía cạnh nổi bật như: Khái lược về nghệ thuật tự sự,
hành trình sáng tác của tác giả Tô Hoài, tổ chức cốt truyện, nhân vật, người kể
chuyện và ngôn ngữ trần thuật.4.2Phạm vi nghiên cứuLuận văn tập trung khảo sát
các truyện thiếu nhi về loài vật tiêu biểu của Tô Hoài thông qua các tuyển tập sau
đây:+Con mèo lười, Tuyển tập truyện thiếu nhi, NxbVăn học, 1964 + Tuyển tập
truyện thiếu nhi, NxbVăn hóa dân tộc, 1999+ Tuyển tập truyện ngắn trước năm
1945, NxbVăn học, 1994+ Tuyển tập văn học thiếu nhi–tập 1, NxbVăn học, 1997+
Tuyển tập văn học thiếu nhi–tập 2, NxbVăn học, 1997+ Những truyện hay viết cho
thiếu nhi, NxbKim Đồng, 2015+ Dế Mèn phiêu lưu ký, NxbKim Đồng, 2010
105. Phương pháp nghiên cứuLuận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác
nhau, trong đó chủ yếu các phương pháp sau:Thứ nhất, luận văn sử dụng phương
pháp phân tích các tác phẩm để thấy được nội dung của tác phẩm, đặc điểm của hệ
thống nhân vật, mô hình cốt truyện, ngôi kể cũng như ngôn ngữ trần thuật. Từ đó,
luận văn khái quát những điểm chung về nghệ thuật tự sự trong truyện thiếu nhi về
loài vật của Tô Hoài.Thứ hai,luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh để thấy
được những điểm giống và khác nhau trong nghệ thuật tự sự của tác giả được phản
ánh trong các tác phẩm, cũng như sự khác biệt so với các tác giả khác...Thứ ba,
luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân loại để khảo sát các truyện thiếu

nhi về loài vật của Tô Hoài, từ đó thấy được sự phong phú về nội dung phản ánh và
sự đa dạng củathế giới loài vật trong sáng tác của Tô Hoài, góp phần đưa đến một
cái nhìn khái quát về nghệ thuật tự sự của các tác phẩm.6.


Cấu trúc của luận vănNgoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái lược về nghệ thuật tự sự và hành trình sáng tác của Tô Hoài.
Chương 2: Tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật.
Chương 3: Người kể chuyện và ngôn ngữ trần thuậ


NỘI DUNGChương 1. KHÁI LƯỢC VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰVÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TÁC CỦA TÔ HOÀI1.1 Khái quát về tự sự học1.1.1 Khái niệm
11Tự sự học (Narrtatology) là một lĩnh vực nghiên cứu đặc thù của lí luận văn học,
lấy nghệ thuật tự sự làm đối tượng nghiên cứu. Tự sự học xuất hiện từ khoảng
những năm 70 của thế kỷ trước. Tên gọi tự sự học được đề xuất từ năm 1969 bởi
nhà nghiên cứu người Pháp gốc Bungari T.Todorov trong sách Ngữ pháp “Câu
chuyện mười ngày”. Từ sau đề xuất của Todorov, “lí luận tự sự đã thay thế cho lí
luận về tiểu thuyết và trở thành một vấn đề chủ yếu của nghiên cứu văn học. Nó trở
thành một bộ môn nghiên cứu liên ngành, có tính quốc tế và và có vị trí ngày càng
quan trọng trong ngành” [40,tr. 12]. J.H.Miller, nhà giải cấu trúc Mỹ (1993) cho
rằng : “Tự sự là cách để ta đưa các sự việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà
chúng có được ý nghĩa. Tự sự là cách tạo nghĩa cho sự kiện, biến cố” [40,tr. 12] .
Jonathan Culler (1998) cũng phát biểu : “Tự sự là phương thức chủ yếu để con
người hiểu biết về sự vật” [40,tr.12].Còn ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu tự sự
học cũng đưa ra các khái niệm về tự sự học khác nhau. Theo Từ điển thuật ngữ văn
học thì “Tự sự là một phương thức tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan
của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống
trong không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời của con
người.” [46,tr.317]. Nếu chỉ đơn thuần coi tự sự như một thể loại văn học thì PGS

Nguyễn Nghĩa Trọng khái quát “các nhà văn thống nhất xem văn tự sự là văn kể
chuyện, trần thuật sự việc, mô tả hành động, bao gồm cả tả cảnh, tả tình, tả ngoại
hình, nội tâm...” [40,tr.315]. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào thì cho rằng “tự sự là
một khái niệm rất rộng và có thể xét ở hai bình diện. Bình diện thứ nhất, tự sự như
sự đồng nghĩa với “câu chuyện kể”, đối lập miêu tả. Bình diện thứ hai, tự sự được
xem xét theo hành động kể chuyện –như vậy, ít nhất, đã bao hàm vấn đề người kể
chuyện (điểm nhìn, giọng điệu), người tiếp nhận” [40,tr. 170]. Với Trần Đình Sửmột trong những nhà nghiên cứu rất tâm huyết với tự sự học thì “tự sự học Việt
Nam còn rất non trẻ” [42,tr.11].Theo ông “Tự sự học bao gồm cả hệ thống sự kiện,
cách tổ chức
12các sự kiện đó, các mô típ truyện, sự phân loại chúng, lịch sử vận động của tự
sự...” [40,tr. 8] và “đối tượng của tự sự học ngày nay không còn chỉ là ngữ pháp tự
sự nói chung mà còn là thi pháp tự sự, phong cách học tự sự của các tác phẩm cụ
thể, ngôn ngữ tự sự của các thể loại tự sự, các loại hình tự sự, mô hình tự sự của
các giai đoạn phát triển văn học, sự tiếp nhận tự sự và cách tác động đến người đọc
của tự sự” [42,tr. 13].Như vậy, qua các khái niệm trên, có thể khái quát nghệ thuật
tự sự làcách thức cấu trúc, tổ chức và triển khai văn bản tự sự. Nói đến nghiên cứu


nghệ thuật tự sự của một tác phẩm, một hiện tượng văn họclà nói đến việc tìm hiểu
văn bản tự sự đótrên nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau, trong đó chủ yếu
lànghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề khác có liên quan đến văn
bản đó.Hiện nay,khi nghiên cứu nghệ thuật tự sự, các nhà nghiên cứu sẽ tập trung
vào việc nghiên cứu những khía cạnh nổi bật như: Tổ chức cốt truyện, nhân vật,
người kể chuyện và ngôn ngữ trần thuật. 1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển
của tự sự họcTự sự học đã có từ thời kỳ xa xưa. Roland Barthes có nói đại ý tự sự
xuất hiện cùng bản thân lịch sử loài người. Nói theo một cách khác, khi lịch sử
được ý thức thì ta đã có tự sự. Từ thời Platon, Aristote, tự sự học đãđược chia ra
thành tự sự lịch sử và tự sự nghệ thuật. Đến thế kỷ V, tự sự học tiếp tục được phân
biệt rõ ràngthành3 loại tự sự: tự sự mô phỏng (không có sự can thiệp củangười kể,
như kịch), tự sự giải thích (có kèm phân tích, bình luận) và tự sự hỗn hợp (như sử

thi). Như vậy, ở giai đoạn sơ khai này, phạm vi quan tâm của tự sự học không vượt
ra ngoài giới hạn tu từ học.Tự sự học thực sự trở thành một ngành khoa học nghiên
cứu có tính độc lập với cột mốc lịch sửnăm 1969, nhưng trước đó nó đã được manh
nha hình thành từ sớm hơn rất nhiều. Trải qua một quá trình ra đời và đạt được
những thành công, sự
13phát triển của tự sự học có thể chia thành 3 thời kỳ: tự sự học trước chủ nghĩa
cấu trúc, tự sự học cấu trúc chủ nghĩa và tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa:Tự sự
học trước chủ nghĩa cấu trúc: Từ những năm 20 của thế kỷ trước, Bakhtin là một
trong những người mở đường cho tự sự học hiện đại với giai đoạn đầu tiên chính là
giai đoạn tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc. Thời kỳ này, tự sự học đi vào nghiên
cứu các thành phần, chức năng của tự sự với nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu
như: Năm 1925, B.Tomasepxki nghiên cứu các yếu tố và đơn vị của tự sự; Năm
1928, V. Propp nghiêncứu cấu trúc và chức năng tự sự trong truyện cổ tích, Percy
Lubbock (1921) và K.Friedemann lại đặc biệt quan tâm tới các vấn đề điểm nhìn,
dòng ý thức. Về sau, các vấn đề này tiếp tục được nhiều nhà nghiên cứu tự sự
học phát triển lên như J.Pouillon, A.Tate, Cl. Brook, T.Todorov...Tự sự học
cấu trúc chủ nghĩa:Đặc điểm của lý thuyết tự sự chủ nghĩa cấu trúc là lấy ngôn ngữ
học làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự
mở rộng của ẩn dụ. Công trình mở đầu thời kỳ này là tác phẩm Dẫn luận phân tích
tác phẩm tự sự của R.Barthes năm 1968, sau đó là các tác phẩm Ngữ pháp “Câu
chuyện mười ngày” của Todorov, Hình thái học truyện cổ tích của Propp, nghiên
cứu cấu trúc thần thoại của Claude Levi Strauss và mô hình hành vi ngôn ngữ
của Roman Jakobson và nhiều công trình khác của A.J.Greimas, G.Genete,
R.Barthes... Các nhà nghiên cứu tự sự học giai đoạn này đã có công góp phần làm
sáng tỏ bản chấtbiểu đạt và giao tiếp của tự sự song việc lạm dụng mô hình ngôn


ngữ học đã làm cho tự sự học gặp khó khăn.Tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa:Đây
là giai đoạn việc nghiên cứu tự sự học gắn liền với ký hiệu học.Đặc điểm của lý
thuyết tự sự theo hướng này, tuy cũng coi trọng phân tích hình thức nhưng không

tán thành việc sao phỏng đơn giản các mô hình ngôn ngữ học mà đi theo ký hiệu
học và siêu ký hiệu học. Tư tưởng này gắn với việc phân tích ý thúc hệ của
Bakhtin. Các tác giả như Iu. Lotman,
14B.Uspenski cũng đi theo hướng này. Ngoài ra, cũng cần kể đến một số tên tuổi
tiêu biểu cho tự sự học thờikỳ này như Pierre Macherey với quan điểm “bất kỳ sự
đồng nhất nào giữa nhà phê bình văn học với ngôn ngữ học đều sẽ thất bại, bởi nó
bỏ qua vai trò tác động của hình thái ý thức” hay Iu. Lotman cho rằng “thông tin
ngôn ngữ là thông tin phi văn bản, mà điểm xuất phát của văn bản lại chính là chỗ
bất cập của ngôn ngữ khiến nó trở thành văn bản” [40, tr.15]. Như vậy, nếu văn
bản trở về với ý nghĩa của ngôn ngữ học thì có nghĩa là sự sụp đổ của văn hóa, vì
thế lý thuyết sự sự phải gắn với chức năng nhận thức và giao tiếp.1.1.3 Những
đóng góp của tự sự học trong nghiên cứu văn họcLà “một lĩnh vực tri thức rộng
lớn, có lịch sử lâu đời” [42,tr. 3], tự sự học có thể coi như “bộ công cụ cơ bản nhất
giúp cho người ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứ điện ảnh, giao tiếp,
phương tiện truyền thông, nghiên cứu văn hóa” [40,tr.11]. Tự sự học là ngành khoa
học có vai trò rất quan trọng đối với các lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là đối với
lĩnh vực nghiên cứu văn học, bởi đối tượng trực tiếp và đầu tiên mà tự sựhọc
nghiên cứu hướng đến chính là các tác giả, tác phẩm, các hiện tượng văn học.
Trong bài viết “Tự sự học –một bộ môn nghiên cứuliên ngành giàu tiềm năng”,
Trần Đình Sử đã chỉ ra những đóng góp to lớn của tự sự học hỗ trợ cho công cuộc
nghiên cứu văn học,giúp các nhà nghiên cứu quan sát cụ thể cơ chế nghệ thuật của
tự sự.Nghiên cứu tự sự học có một ý nghĩa văn hóa rất rộng lớn. Xét trong góc độ
vai trò với văn học, “nghiên cứu tự sự học mở ra khả năng nghiên cứu truyền thống
tự sự trong mỗi nền văn học” [40,tr. 19], qua việc cung cấp những khái niệm về
cấu trúc văn bản tự sự giúp ta nhận ra và tìm hiểu các đặc điểm của văn bản một
cách khoa học.Nhưnghiện nay việc nghiên cứu vẫn nặng về các miêu tả dữ kiện bề
ngoài như tác giả, niên đại, bối cảnh xã hội, nội dung phản ánh...mà còn thiếu đi sự
phân tích các cấu trúc tự sự bên trong. Việc áp dụng những kết quả từ nghiên cứu
tự sự học vào nghiên cứu văn học Việt Nam là một trong những con
15đường giúp người đọc “hiểu lịch sử văn học với tư cách là lịch sử nghệ thuật

ngôn từ và lịch sử văn hóa, văn học của chính dân tộc ta” [40,tr.21]. Sự phát triển
nhanh chóng, thu hút nhiều công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự, tự sự học
trong thời gian vừa qua đã cho thấy vai trò, ý nghĩa lớn lao của tự sự học trong


nghiên cứu văn học nói riêng, trong nhiều lĩnh vực của đời sống nói chung.1.2
Khái quát về truyện thiếu nhi về loài vật của Tô Hoài1.2.1 Khái niệm truyện thiếu
nhi và truyện thiếu nhivề loài vật1.2.1.1 Khái niệmTheo Từ điển thuật ngữ văn
họccủa Lê Bá Hán, văn học thiếu nhi theo nghĩa hẹp gồm những tác phẩm văn học
hoặc phổ cập khoa học dành riêng cho thiếu nhi. Tuy vậy, khái niệm văn học thiếu
nhi cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông
thường (cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi... Bách khoa thư Văn
học thiếu nhi Việt Namquan niệm về văn học thiếu nhi tường tận hơn, chi tiết hơn.
Khái niệm văn học thiếu nhi được nhận diện ở nhiều góc độ: chủ thể sáng tác, nhân
vật trung tâm, mục đích sáng tác, đối tượng tiếpnhận... Cụ thể: Mọi tác phẩm được
mọi nhà sáng tạo ra với mục đích giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu
nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi, và đôi khi cũng là người lớn, hoặc là
một cơn gió, một loài vật, một đồvật, một cái cây... Tác giảcủa văn học thiếu nhi
không chỉ là chính các em mà cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi. Những tác
phẩm mà thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các em đã tìm thấy trong đó cách
nghĩ,cách cảm cùng những hành động gần gũi với các em, hơn thế, các emcòn tìm
được ở trong đó một lời nhắc nhở, một sự răn dạy, với những nguồn động viên
khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích... trong quá trình hoàn thiện tính cách của
mình [52,tr.23]


Như vậy, văn học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trungtâm hoặc
là thiếu nhi, hoặc là người lớn, hoặc là con người, hoặc là thế giới tự nhiên... nhưng
được nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ, có nội dung gần gũi, quen thuộc với vốn trải
nghiệm của trẻ, được các em thích thú, say mê và có tác dụng hoàn thiện đạo đức,

tâmhồn cho trẻ.1.2.1.2 Truyện thiếu nhi trong văn họcVăn học nghệ thuật đã ra đời
từ rất sớm, nhưng văn học dành cho thiếu nhi thì mới trở thành một thuật ngữ, một
hiện tượng trong vài thế kỷ trở lại đây. Một bộ phận các câu chuyện thần thoại, cổ
tích, truyền thuyết trong văn học dân gian được xếp vào các tác phẩm văn học dành
cho thiếu nhi, vì đó là những câu truyện có cốt truyện ly kỳ, hoang đường, có nội
dung phù hợp với tâm lý ngây thơ và tò mò muốn khám phá thế giới của các em,
cũng như dễ dàng đưa vàocác bài học giáo huấn nhẹ nhàng để các em tiếp thu một
cách hiệu quả và thấm thía nhất. Vậy khi nào văn học thiếu nhi thực sự trở thành
một bộ phận của văn học nói chung, với những sáng tác dành riêng cho lứa tuổi
thiếu nhi của các tác giả là những cá nhân độc lập? Có thể nói, nền móng đầu tiên
của văn học thiếu nhi là cuốn sách giáo khoa viết cho trẻ em của Aldhelm-một nhà
tôn giáo (còn được gọi là cha của dòng thơ ca Anglo-Latinh) vào khoảng thế kỷ
thứ VIII. Nhưng phải đến khoảng cuối thế kỉ XV, nhữngtác phẩm viết cho thiếu
nhi đầu tiên mới thực sự xuất hiện, đó là những tác phẩm của William Caxton-một
nhà đánh chữ đầu tiên của nước Anh như “Con cáo Reynard” (1481),
“Chuyện ngụ ngôn về Aesop” (1484), và “LeMorte D’Arthur” của Thomas
Malory (1484). Đây là những tác phẩm mà đến ngày nay vẫn được trẻ em trên thế
giới yêuthích. Sang thế kỉ XVII-XVIII, cuốn sách viết cho thiếu nhi đầu tiên phát
hành ở Mỹ có tên gọi là “Nguồn sữa tinh thần của những em bé Boston ở Anh”
(Spiritual Milk for Boston Babes in Either England) của tác giả John Cotton nhằm
giáo dục, hướng dẫn dạy dỗ các em cách cư xử. Sau đó, khoảng năm 1744 tại nước
Anh, John Newbery là người lập ra
17nhà xuất bản và tiệm sách đầu tiên dành cho thiếu nhi. Ông đã kí hợp đồng với
các tác giả nổi tiếngđể họ viết những cuốn truyện dành riêng cho độc giả nhỏ tuổi.
Những cuốn sách này sau đó đã được các em đón nhận nồng nhiệt, và nhiều nhà
nghiên cứu cũng coi đây là sự bắt đầu rõ ràng của nền văn học viết dành cho thiếu
nhi.Từ đó, văn học thiếu nhi đã nởrộ với rất nhiều tên tuổi thành công lớn, được
đông đảo các em yêu thích. Nổi bật hàng đầu phải kể đến nhà văn Hans Chiristian
Anđecxen với bộ sưu tập những câu chuyện cổ tích kì thú như: “Nàng tiên cá”,
“Bộ quần áo mới của hoàng đế”, “Con vịt xấu xí”, “Bà chúa tuyết, “Chú lính chì

dũng cảm”, “Cô bé bán diêm”... Ngoài ra còn rất nhiều tên tuổi lớn khác như Elsa
Beskow, Anna Maria Ross và Anna Wahlenberg, Maria Gripe, Gunnel Linde,
Ingeoch Lasse Sandberg, Sven Nordqvist... với nhiều tác phẩm dành cho thiếu nhi


xuất sắc như Pipi tất dài của Astrid Lindren, Mio, Mio của tôi, Ronja Rovardotter,
Túp lều bác Tôm...Thời gian gần đây, văn học thế giới xuất hiện nhiều nhà văn viết
cho thiếu nhi và đã gặt hái được những thành công lớn, tiêu biểu có thể kể đến
Nancy Farmer của Mỹ, một tác giả xuất sắc ba lần đoạt giải thưởng Newbery -giải
thưởng sách dành cho trẻ em trên toàn nước Mỹ, với những tác phẩm nổi tiếng như
“Tai, mắt và cánh tay”, “Cô gái có tên tai họa”, “Ngôi nhà Bọ cạp”, “Quỷ biển”...
hay nhà văn Canada Pamela Porter với tác phẩm “The Crazy Man”, nhà văn Anh
J.K.Rowling với tác phẩm Harry Porter... Nhìn chung những tác phẩm viết cho
thiếu nhi thành công qua các thời đại đều mang một số đặc điểm phù hợp với khả
năng tiếp nhận và sở thích của các em như:cốt truyện đơn giản với nhiều chi tiết kỳ
lạ mà gần gũi, cách viết hóm hỉnh, giọng văn trìu mến, nhiều yếu tố ly kỳ, kết thúc
có hậu... Sự thành công của nhiều cây bút thiếu nhi ở nhiều thời kỳ cho thấy văn
học thiếu nhi luôn làmột nhu cầu rất lớn của xã hội. Thiếu nhi ở bất kỳ lứa tuổi
nào,ở bất kỳ đất nước nào đều luôn yêu thích say mê các tác phẩm văn học dành
cho lứa tuổi của
18mình. Nhưng các tên tuổi viết chothiếu nhi còn quá ít ỏi cho thấy sự thách thức
trong lĩnh vực này,cũng như sự quan tâm của các cây bút dành cho các em vẫn còn
chưa tương xứng với vai trò của nó.Ở Việt Nam, “trước cách mạng tháng Tám,
chúng ta đã có sách viết cho các em, nhưng hiện tượng đó chưa đủ để khẳng định
là một nền văn học cho thiếu nhi đã hình thành” [49,tr. 38]. Cũng giống như sự
phát triển của văn học thiếu nhi thế giới, văn học thiếu nhi Việt Nam đã có những
mầm mống đầu tiên từ các câu truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn trong văn học dân
gian, nhưng văn học hiện đại viết cho thiếu nhi thì phải đến những năm 20 của thế
kỷ XX mới thực sự được manh nha, và bắt đầu phát triển trở thành một bộ phận
của văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tiến trình văn học

thiếu nhi Việt Nam hiện đại có thể phân chia thành các giai đoạn chính sau đây:
Trong những ngày đầu Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp,
lực lượng viết cho các em mới chỉcó một số nhà văn chuyên nghiệp thỉnh thoảng
có sách cho thiếu nhi như nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyễn Tuân,
Nguyên Hồng, Nguyễn Xuân Sanh, Huyền Kiêu,... Nhìn chung, giai đoạn này mới
chỉ xuất hiện những tác phẩm viết cho thiếu nhi một cách lẻ tẻ chứ chưa thực sự có
phong trào sáng tác cho các em. Đó cũng chính là những viên gạch đầu tiên đặt nền
móng để xây dựng nên nền văn học thiếu nhi Việt Nam. Tuy nhiên,một sốsáng tác
trong giai đoạn này lại được đánh giá là những thành công rực rỡ vào bậc nhất của
văn học thiếu nhi Việt Nam, đặc biệt làDế Mèn phiêu lưu kícủaTô Hoài.Từ sau
năm 1954, trên miền Bắc, đội ngũ viết cho thiếu nhi ngày càng phát triển nhanh,
với nhiều tên tuổi xuất sắc như: Võ Quảng, Phạm Hổ, Đoàn Giỏi,Nguyễn Kiên,


Hoàng Anh Đường, Vũ Ngọc Bình, Vũ Tú Nam, Đào Vũ, Lê Minh, Văn Linh,
Viết Linh, Bắc Thôn, Hà Ân, Hải Hồ, Xuân Sách ... Đây là chặng đường
19mở đầu cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam. Mặcdù trong hoàn cảnh khó khăn,
nhưng tất cả những thành tựu mà giai đoạn này mang lại đã ghi nhận cố gắng của
chúng ta trong việc tạo dựng một nền văn học viết cho trẻ em và thực sự vì trẻ em.
Trong những năm kháng chiến chống Mĩ ác liệt, đội ngũ viết cho thiếu nhi càng
phát triển nhanh với những cây bút mới: Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Văn
Hồng, Định Hải, Phong Thu, Hoàng Bình Trọng, Nguyễn ThịVân Anh, Văn Biển...
và cây bút thiếu nhi xuất sắc Trần Đăng Khoa. Nhiều tác phẩm văn học thiếu nhi
xuất sắc như Đất rừng phương Nam(Đoàn Giỏi), Đội thiếu niên du kích Đình
Bảng(Xuân Sách), Quê nội, Tảng sáng(Võ Quảng) Tuổi thơ dữ dội(Phùng
Quán), thơ Võ Quảng, Trần Đăng Khoa, Định Hải... đều thuộc về giai đoạn
này.Cuối những năm 80, đội ngũ viết cho các em dầndần khởi sắc với sự xuất hiện
những cây bút mới và trẻ như Nguyễn Hoàng Sơn, Dương Thuấn, Mai Văn Hai,
Phùng Ngọc Hùng, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Thiên Hương, Nguyễn Ngọc Ký, Lê
Hồng Thiện, Quách Liêu, Hà Lâm Kỳ, Đặng Hấn, Lý Lan... Một số nhà văn có tên

tuổivà giàu kinh nghiệm như Vũ Ngọc Bình, Hoàng Anh Đường, Văn Hồng cũng
rất tích cực đóng góp về mặt phê bình và dịch thuật sách thiếu nhi. Tiếp sau các
nhà văn này đã xuất hiện một số cây bút trẻ tuổi bước đầu đi vào con đường nghiên
cứu phê bình văn học cho thiếu nhi. Trong giai đoạn này, nhiều tác giả thể hiện sức
sáng tạo dồi dào với rất nhiều tác phẩm thành công, nổi bật nhất phải kể đến
Nguyễn Nhật Ánh với Kính vạn hoa, Chuyện xứ Lang Biang, Tôi là Bê Tô, Cho
tôi xin một vé đi tuổi thơ, Đảo mộng mơ, Tôithấy hoa vàng trên cỏ xanh... hay
Nguyễn Ngọc Thuần với Một thiên nằm mộng, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa
sổ...1.2.1.3 Truyện thiếu nhi về loài vật trong văn học Trong số các chủ đề được
lựa chọn khi sáng tạo các tác phẩm văn học cho thiếu nhi, chủ đề loài vật làmột
trong những chủ đề hấp dẫn với các nhà văn. Truyện thiếu nhivề loài vật có nguồn
gốc từ các câu truyện cổ tích, truyện ngụ
20ngôn cho các em.Ở hầu hết các quốc gia, các dân tộc, kho tàng văn học dân gian
bao giờ cũng có nhiều câu truyện kể về loài vật, những câu truyện “lấy các loài vật
(phần lớn là động vật) làm đối tượng phản ánh, tường thuật và lí giải chủ yếu. Loại
chuyện này ở thời kì cổ xưa hầu hết các dân tộc đều có. Ở đây, các loài vật được
nhân cách hóa một cách hồn nhiên trong trí tưởng tượngcủa nhân dân thời
cổ...”[15, tr.312]. Như vậy, xét về nguồn gốc, truyện về đề tài loài vật đã hình
thành từ rất sớm cùng với sự ra đời của văn học dân gian. Trong thời kỳ này, con
người sống gần gũi với thiên nhiên, với các loài vật. Trong quan niệm còn mang


tính sơ khai, con người đã quan sát các loài vật, coi chúng như những cá thể có suy
nghĩ, với những tính cách giống với con người. Trên cơ sở đó, họ đã sáng tác
những câu truyện truyền miệng vừa để giải trí vừa khéo léo gửi gắm các bài học về
thái độ sống, mà trong đó các loài vật là những nhân vật chính.Lúc đầu, các tác
phẩm này dành chung cho mọi đối tượng. Tuy nhiên càng về sau, con người trưởng
thành hơn, hiểu biết về cuộc sống được nâng cao thì tư duy và cách nhìn nhận về
thế giới loài vật cũng thay đổi theo hướng thực tế và khoa học hơn.Truyện viết về
loài vật không còn phù hợp với trình độ tiếp nhận của họ nữa. Vì thế, truyện về loài

vật thích hợp nhất là với đối tượng thiếu nhi, có vai trò vô cùng quan trọng đối với
đời sống tinh thần của lứa tuổi này. Khi sáng tác các câu chuyện về loài vật, một
cách mặc nhiên các tác giả sẽ hướng đến cách xây dựng cốt truyện, nội dung và
nghệ thuật biểu hiện để phục vụ cho đối tượng tiếp nhận là các em thiếu nhi.Cùng
với sự phát triển chung của văn học thiếu nhi, truyện viết về loài vật cũng không
ngừng phát triển, đạt được nhiều thành tựu.Những tác phẩm văn học thiếu nhi viết
về loài vật với cách viết dung dị, mộc mạc, cốt truyện đơn giản nhưng vẫn thấm
đẫm tính nhân văn, giọng văn trong sáng tràn đầy sự trìu mến yêu thương. Đặc biệt
việc miêu tả thế giới loài vật sinh động tạo nên tính hấp dẫn, kích thích trí tưởng
tượng, mở ra trước mắt các em một thế giới mới mẻ và thú vị.Đồng
21thời đây cũng là nơi gửi gắm những bài học nhẹ nhàng mà sâu sắc, là một
phương tiện giáo dục sinh động, đi vào suy nghĩ non nớt ngây thơ của các em
nhanh chóng và dễ dàng. Như vậy lịch sử truyện thiếu nhi về loài vật cũng có độ
dài tương ứng với lịch sử truyện thiếu nhi nói chung.Truyện thiếu nhi về loài vật
tuy ra đời muộn nhưng cũng đã đạt được những thành công nhất định, có những
bước phát triển tương ứng với sự phát triển của văn học thiếu nhi nói chung. Dưới
những tác động của hoàn cảnh lịch sử và xã hội, các tác phẩm truyện thiếu nhi về
loài vật ngày càng nhiều hơn, nội dung phong phú với đội ngũ nhà văn sáng tác
chuyên nghiệp hơn.1.2.2 Truyện thiếu nhi về loài vật của Tô HoàiNếu tính từ tác
phẩm đầu tiên làm rạng danh cho văn học thiếu nhi nói chung và truyện thiếu nhi
về loài vật nói riêng -Dế mèn phiêu lưu ký -đến nay, truyện thiếu nhi viết cho loài
vật đã trải qua quãng đường phát triển gần tám thập kỷ. Dù còn rất non trẻ, mảng
truyện thiếu nhi về loài vật đã thu hút được nhiều nhà văn sáng tác. Nhiều tác giả
đã có những tác phẩm thành công, ghi dấu ấn của mình trong lòng các bạn độc giả
nhỏ tuổi. Trong số các nhà văn viết truyện loài vật cho thiếu nhi, cho đến nay Tô
Hoài vẫn là cái tên nổi bật bậc nhất, xét cả về số lượng và chất lượng.1.2.2.1 Khái
quát về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Tô HoàiNhà văn Tô Hoài tên thật là
Nguyễn Sen, ông sinh ngày 27 –9 –1920 tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn
Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại



là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc
phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội). Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa
danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức quê hương ông. Ngoài ra, Tô Hoài còn có
nhiều bút danh khác ít người biết đến hơn như Mắt Biển, Mai Trang, Hồng Hoa,
Duy Phương.
22Sự nghiệp văn học của Tô Hoài bắt đầu từ rất sớm với những sáng tác đầu tiên
đăng trên Hà Nội tân văn, Tiểu thuyết thứ bảyvào cuối những năm 30. Ngoài viết
văn, Tô Hoài còn hăng hái tham gia cách mạng. Năm 1938, ông tham gia phong
trào ái hữu thợ dệt, làm thư ký ban trị sự Hội ái hữu thợ dệt Hà Đông. Sau đó, ông
tham gia phong tràoThanh niên phản đế. Năm 1943, ông gia nhập tổ văn hóa cứu
quốc đầu tiên ở Hà Nội.Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài tham gia Nam tiến rồi
ông lên Việt Bắc làm báo, sau đó làm chủ nhiệm Tạp chí Cứu quốcViệt Bắc. Tiếp
đóông làm chủ bút Tạp chí Cứu quốc. Từ năm 1954, ông về công tác tại Hội nhà
văn Việt Nam và được bầu làm Tổng thư ký của Hội vào năm 1957. Từ năm 1958
cho đến năm 1980, ông tiếp tục tham gia Ban chấp hành, rồi Phó tổng thư ký Hội
nhà văn Việt Nam. Đồng thời từ năm 1966 đến 1996, ông làm chủ tịch Hội Văn
nghệ Hà Nội. Ngoài ra, ông còn tham gia tích cực nhiều hoạt động xã hội khác và
đảm đương nhiều trọng trách như: đại biểu Quốc hội khóa VII, phó chủ tịch Ủy
ban đoàn kết Á –Phi, phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt -Ấn, Ủy viên Ban chấp hành
Hội Hữu nghị Việt –Xô. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ
94 tuổi.Tô Hoài chuyên viết văn xuôi. Ông bắt đầu đến với con đường nghệ thuật
từ cuối những năm 30 và chính thức xuất hiện trên văn đàn với truyện ngắn Nước
lên (1940). Ngay sau đó, năm 1941,Dế Mèn phiêu lưu kýcủa ông đã gây một tiếng
vang lớn trên văn đàn. Từ năm 1941 cho đến trước Cách mạng tháng Tám ông
“viết như chạy thi” và đã có một số lượng tác phẩm tương đối lớn chỉ sau vài năm
sáng tác. Mới ngoài 20 tuổi, Tô Hoài đã sớm khẳng định được vị trí của mình trong
đội ngũ nhà văn thời kì này bằng một loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc, trong đó có
Dế mèn phiêu lưu kí (1941, O chuột (1942)là những truyện về loài vật.Trải qua
quá trình lao động nghệ thuật “cần mẫn và sáng tạo”(Hà Minh Đức -Lời giới thiệu

Tuyển tập Tô Hoài) không ngừng nghỉ suốt hơn 60 năm, Tô Hoài đã sáng tác được
một số lượng tác phẩm đồ sộ (hơn một trăm sáu mươi đầu sách) ở nhiều thể loại


23khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn, kí,tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác.
Ông đã có một đời văn vừa dài vừa đầy thành công và ý nghĩa “vừa vào ngề sớm
lại vừa kéo dài tuổi nghề -một sự kéo dài đàng hoàng chứ không phải lê lết trong
sự tẻ nhạt” và “đời văn Tô Hoài gợi ra hình ảnh một dòng sôngmiên man chảy và
mang trong mình cả cuộc sống bất tận” (Vương Trí Nhàn -Cuộc phiêu lưu giữa
trần ai cát bụi). Với ý thức cố gắng tìm tòi, khám phá trong sáng tạo nghệ thuật
không ngừng, ở thể loại nào ông cũng đạt được những thành công đặc sắc, với
nhiềutác phẩm hấp dẫn, có sức sống và ý nghĩa lâu bền, được nhiều thế hệ bạn đọc
yêu thích. Năm 1996 ông đã được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.1.2.2.2
Truyện thiếu nhivề loài vật trong sự nghiệp của Tô HoàiTô Hoài viết nhiều thể
loại, đề tài và ở thể tài nào cũng đạt được những thành tựu đặc sắc. Đặc biệt, ở
mảng truyện loài vật, Tô Hoài đã tạo được ấn tượng sâu sắc ở mọi đối tượng độc
giả cả trong và ngoài nước với số lượng tác phẩm lớn và chất lượng cao. Hà Minh
Đức đã nhận xét: “Tô Hoài là nhà vănviết thành công nhất, hấp dẫn nhất về các
loài vật”[29,tr.465]. Sở trường này đã được thể hiện ngay từ những ngày đầu Tô
Hoài sáng tác văn chương với Dế Mèn phiêu lưu kývà sau đó là tập truyện ngắn O
chuột. Tô Hoài sáng tác Dế Mèn phiêu lưu kýnăm mới 17 tuổi. Tác phẩm ngay sau
khi được đăng lần đầu tiên trên tờ Truyền bádành riêng cho thiếu nhi đã gây một
ấn tượng mạnh đối với các nhà văn và độc giả bấy giờ, và được đánh giá là tác
phẩm tiên phong cho phong trào sáng tác về đề tài loài vật. Đến nay, tác phẩm này
đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng và được tái bản nhiều lần. Tô Hoàiviết nhiều, với
nhiều đềtài và thểloại, từđềtài miền ngược đến đềtài miền xuôi; từtruyện ngắn đến
tiểu thuyết, truyện đồng thoại đến kịch bản phim...Ở đề tài và thể loại nào, Tô
Hoài cũng viết hay và đạt được nhiều thành công. Nhưngngười ta vẫn nhớ đến Tô
Hoài trước hết là nhà văn cho thiếu nhi với sự thành công xuất sắc ở mảng truyện
thiếu nhi về loài vật. Có được thành công đó

24là nhờ tài năng, sự quan sát và khiếu miêu tả của ông, nhưng trên hết lànhờtâm
huyết của nhà văn cho các tác phẩm của mình.Sau Dế Mèn phiêu lưu kí, Tô Hoài
vẫn tiếp tục hành trình miêu tả thế giới loài vật, mở đầu là tập truyện ngắn O
chuộtvới 8 truyện ngắn và sau đó là rất nhiều truyện ngắn khác.Viết về Tô Hoài và
tập truyện ngắn O chuột, Vũ Ngọc Phan nhận định: “O chuột là truyện ngắn đầu
tiên của Tô Hoài và cũng là tác phẩm tiêu biểu cho lối văn đặc biệt của ông, một
lối văn viết dí dỏm, tinh quái đầy những phong vị và màu sắc thôn quê. Cái tinh ma
và cái xác thực có lẽ gặp nhau ở chỗ này”[29,tr.59]. Sau Cách mạng,Tô Hoài vẫn
sáng tác nhiều truyện thiếu nhi về loài vật “nhưng bổ sung thêm những sắc thái nội
dung mới để phù hợp với tinh thần của thời đại”[35,tr.141] như Chim chích lạc
rừng, Ò ó o, Hai ông cháu và đàn trâu, kịchCon mèo lười... Qua các tác phẩm của


mình, Tô Hoài đã sáng tạo nênmột thế giới loài vật hết sức sinh động với những
phát hiện của một tâm hồn nhạy cảm, đầm ấm trước cuộc đời. Ngoài giá trị hiện
thực, truyện loài vật củaTô Hoài còn thể hiện một sức sống mãnh liệt, sự liên
tưởng hết sức phong phú. Phần lớn các nhân vật chính trong truyện của ông luôn
có ý thức thay đổi bản thân, thay đổi hoàn cảnh để hướng đến một cuộc sống tốt
đẹp và nhân ái hơn. Chính điều đó đã làm nênsức hấp dẫn trong mỗi câu chuyện về
loài vật của ông. Qua khảo sát, Tô Hoài có hơn 180 tác phẩm truyện cho thiếu nhi,
thuộc 4 mảng nội dung chính là hồi ký, truyện loài vật, truyện quê hương đất nước
và truyện tích xưa kể lại. Trong số đó có tới 48tác phẩm có thể xếp vào truyện
thiếu nhi về loài vật, ngoài ra chưa kể đến nhiều tác phẩm khác tuy không trực tiếp
nói về loài vật, không đi sâu miêu tả loài vật nhưng vẫn có những miêu tả điểm
xuyết loài vật trong diễn biến nội dung. Thế giới loài vật trong truyện thiếu nhi Tô
Hoài phong phú, có đủ mọi loài. Tâm điểm của ông là những con vật sống gần gũi
với con người, hàng ngày quanh quẩn bên góc bếp, mảnh vườn, hay ngoài đồng
ruộng, các loài cá dưới nước như chó, mèo, chuột, bọ ngựa, dế mèn, dế trũi, xén
tóc,gà,
25trâu, ngựa...đếncác loài bay trên trời: chim, hải âu, bướm... các loài vật hung dữ

và hiền lành trong rừng núi xa xôi như sơn dương, hổ, khỉ... Với cách miêu tả tài
tình, sống động, cách viết hấp dẫn, am hiểu tâm lý tuổi thơ, Tô Hoài đã gắn cho
loài vật những đặc tính của con người, mượn thế giới loài vật để nói về con người,
qua đó đưa ra nhữngbài học giáo dục nhẹ nhàng, thấm thía.Những chuyện về loài
vật của Tô Hoài trước hết là những câu truyện tả chân về loài vật, về đặc tính sinh
hoạt của mỗi loài, dưới lăng kính chủ quan của nhà văn. Tô Hoài thể hiện óc quan
sát tinh tế và ngòi bút miêu tả đại tài qua việc miêu tả chi tiết, chính xác và cực kỳ
sinh động về thế giới loài vật. Dù là những giống loài côn trùng nhỏ bé ít khi được
con người để ý đến hay những loài vật hoang dã to lớn,chúng hiện lên trong trang
viết của Tô Hoài thật sinh động. “Ống kính của Tô Hoài vừa sắc nét trong việc tái
hiện lại các chi tiết, vừa có khả năng tạo ra sự lưu chuyển hợp lý giữa các trường
đoạn, màu sắc du ký và màu sắc tự truyện hòa vào nhau hết sức sống động (...). Tô
Hoài thực sự là cây bút hàng đầu về nghệ thuật miêu tả thế giới loài vật. Biệt tài ấy
còn được Tô Hoài mài sắc mãi về sau. Chung quy lại, nó xuất phát từ khả năng
quan sát sắc sảo và khả năng liên tưởng phongphú, cách tạo hình độc đáo của Tô
Hoài”[10]. Đồng thời, sáng tạo nên thế giới các sinh vật nhỏ bé, Tô Hoài bộc lộ tài
tình khả năng hóa thân vào sự sống của loài vật và đưa lại cho thế giới loài vật sự
sống của con người. Người ta thấy phảng phất trong truyện loài vật của Tô Hoài
bóng dáng của Laphôngten, Anđécxen, L.Tônxtôi, Pritvin... Sau này, ngòi bút Tô
Hoài càng có điều kiện hơn để gắn bó với hiện thực đời sống, những tác phẩm


truyện thiếu nhi về loài vật sau cách mạngcũng phần nào phản ánh công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa. Từ những gì đã trải nghiệm, những điều đã trở nên thân
thuộc, ông tái hiện vào trang viết của mình. “Nhà văn Tô Hoài luôn luôn có ý thức
chạy đua với thời gian, mong muốn được bày tỏ, được bộc lộ ở mức cao nhất
những gì mình đãtrải nghiệm qua năm tháng cuộc đời”[35,tr.131]. Tô Hoài là một
trong những nhà văn có khả năng quan sát
26tinh tế, sắc sảo, có tấm lòng thực sự yêu mến, thực sự sống trong thế giới nhân
vật của mình. Vì thế những con vật gần gũi thân thuộc như con mèo, conchó, con

ngan, con vịt, con chuột... cũngcó tâm tình, có cá tính và có cả số phận. Tô Hoài là
người biết tạo yếu tố truyện, phát hiện yếu tố truyện trong đời sống tự nhiên của
loài vật. “Đường dây truyện không nhiều mầu vẻ phức tạp mà đôi lúc đơn giản:
đôiri đá làm tổ, chú gà trống ri đi tìm người bạn tình, một đời vênh vang và tàn
phai của Gà chọi, cuộc phiêu lưu của Dế Mèn. Và chính trên mạch truyện tự nhiên
ấy, ngòi bút của tác giả đã biến hoá tạo nên những lí thú cho các “nhân vật hỗn tạp
và đa dạng” của mình. Ngoài bút của Tô Hoài đã phát hiện cái ngộ nghĩnh, lố lăng,
khoe mẽ, đa điệu của một số loài vật”[29,tr.469].Như nhiều tác phẩm dành cho
thiếu nhi khác, những truyện loài vật của Tô Hoài cũng ngầm ẩn chức năng giáo
dục, thường hướng đến những điều tốt đẹp về nhân sinh, cuộc sống con
người...hướng các em thiếu nhi đến những suy nghĩ và nhận thức đúng đắn, nhưng
không rơi vào tình trạng dạy dỗ nặng nề, những quan điểm giáo huấn mà thông qua
những câu chuyện về loài vật, người đọc có thể tự rút ra cho mình những bài học
có giá trị. Do vậy, câu chuyện diễn biến rất tự nhiên, thu hút, lôi cuốn.Truyện loài
vật của Tô Hoài đã có nhữngđóng góp to lớn cho nền văn học hiện đại nói chung
và truyện đồng thoại nói riêng. Trong văn nghiệp của Tô Hoài, truyện về loài vật là
một mảng sáng tác đặc sắc, không chỉ trẻ em mà người lớn cũng đem lòng yêu
thích. Với tài năng thiên phú, Tô Hoài đã sáng tạo nên nhiều tác phẩm sinh động,
hấp dẫn, góp phần quan trọng vào việc định vị cái đẹp trong tâm hồn thế hệ độc giả
mọithời đại.Suốt một đời văn, Tô Hoài đã tạo cho mình một phong cách riêng, một
“thương hiệu” nghề nghiệp riêng đáng kính trọng. Hơn 60 năm cầm bút, Tô Hoài
đã nỗ lực không ngừng và vượt qua được những gian nan thử thách của nghề văn.
Vị trí của ông trong lòng bạn đọc và giải thưởng cao quý “Giải thưởng Hồ Chí
27Minh về Văn học nghệ thuật, đợt 1(1996)” mà ông vinh dự được nhận chính là
minh chứng sinh động nhất cho một cuộc đời lao động nghệ thuật không mệt mỏi,
suốt đời phấn đấu, suốt đời cống hiến và hy sinhcho đời, cho văn học dân tộc.Tiểu
kết: Văn học thiếu nhi tuy đã có mầm mống từ rất lâu, nhưng mới được coi như
một thuật ngữ trong khoảng thời gian vài thế kỷ trở lại đây. Những tác phẩm văn



học thiếu nhi giữvai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của các em nhỏ nói
riêng, toàn nhân loại nói chung. Ở Việt Nam, văn học thiếu nhi mới thực sựbắt đầu
phát triển trở thành một bộ phận của văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945, nhưng đã sớm gặt hái được nhiều thành quả to lớn, với sự xuất
hiện của nhiều cây bút xuất sắc, nhiều tác phẩm thành công thuộc nhiều mảng đề
tài khác nhau. Trong số đó, Tô Hoài xứng đáng là cây bút xuất sắc bậc nhất. Tô
Hoài viết nhiều thể loại, đề tài và ở thể tài nào cũng đạt được những thành tựu đặc
sắc. Đặc biệt, ởmảng truyện thiếu nhi về loài vật, Tô Hoài cósố lượng tác phẩm lớn
và chất lượng cao, được các em thiếu nhi và cả người lớn yêu thích.Chương 2.
NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ XÂY DỰNG NHÂN VẬT2.1
Nghệ thuật tổ chức cốt truyện2.1.1 Khái niệm cốt truyệnKhi nghiên cứu về nghệ
thuật tự sự trong bất kỳ tác phẩm nào, yếu tố đầu tiên mà các nhà nghiên cứu quan
tâm đếnlà cốt truyện.Điều này cho thấy đây là yếu tố quan trọng hàng đầu của một
tác phẩm tự sự, có thể coi như cái khung, cái nền để làm chỗ dựa cho nội dung của
tác phẩm đó. Gớt từng nhấn mạnh: “Đúng vậy, còn gì quan trọng hơn cốt truyện và
thiếu nó thì cả nền lý luận nghệ thuật sẽ còn ra gì nữa? Nếu cốt truyện không dùng
được thì tài năng ta cũng sẽ lãng phí vô ích.Và chính vì nghệ sĩ hiện naykhông có
những cốt truyện xứng đáng nên tình
28hình nghệ thuật hiện tại mới bi đát như thế” [2, tr.69]. Môôm -Nhà văn Anh
(1874 -1965) cũng khẳng định: “Nhà văn sống bằng cốt truyện y như họa sĩ sống
bằng màu và bút vẽ vậy” [2, tr.69].Theo Lê Huy Bắc thìcốt truyện là “toàn bộ
những sự kiện được nhà văn kể trong văn bản tự sự (và văn bản dịch) mà người
đọc có thể kể lại” [5, tr. 34] và cốt truyện có một vị trí vô cùng quan trọng trong
các tác phẩm tự sự bởi lẽ “cốt truyện là yếu tố quan trọng bậc nhất, không thể thiếu
trong bất kỳ một hình thức tự sự nào” [5, tr. 34] vì đây là yếu tố được coi như là
“cái khung để đỡ cho toàn bộ tòa nhà nghệ thuật ngôn từ đứng vững” [5, tr.
34].Theo Từ điển văn học (Bộ mới)thì cốt truyện được hiểu “là một phương diện
của hình thức nghệ thuật. Nó chỉ lớp biến cố của hình thức tác phẩm –chính hệ
thống biến cố (tức cốt truyện) đã tạo ra sự vận động của nội dung cuộc sống được
miêu tả trong tác phẩm” [46,tr.324].Cuốn Lí luận văn họcdo Giáo sư Hà Minh Đức

chủ biên cũng đưa ra định nghĩa “Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ánh
những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật,
qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của
chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đềvà tư tưởng của tác phẩm” [11, tr.137].Như vậy, dù
có các cách thức biểu đạt khái niệmkhác nhau, thì nhìn chung các công trình
nghiên cứu trên đều công nhận vaitrò quan trọng của cốt truyện đối vớitác phẩm
văn học, nó có thể coi như cái khung cơ bản để các nhà văn dựa vào đó sáng tạo


nên các tình tiết, các sự việc, biến cố... làm cơ sở vững chắc cho sự triển khai nội
dung của bất kỳ tác phẩm nào. Cốt truyện không phải là toàn bộ nội dung tác
phẩm, nhưng thông qua những sự kiện và hành động thể hiện qua cốt truyện, tác
giả trình bày và giải quyết các xung đột, các mẫu thuẫn xã hội một cách nghệ thuật,
qua đó tính cách của các nhân vật được hình thành và phát triển trong những mối
quan hệ qua lại giữa chúng,nhằm làm sáng tỏ chủ đề tư tưởng của tác
29phẩm. Cốt truyện đóng vai trò rất quan trọng trong sự thành công của một tác
phẩm văn chương.Tuy nhiên không phải tác phẩm văn học nào cũng có cốt
truyện.Cốt truyện chỉ tồn tại trong các tác phẩm tự sự (bao gồm tiểu thuyết, truyện
dài, truyện vừa, truyện ngắn, truyện thơ), ký và kịch.Còn các tác phẩm trữ tình (ví
dụ thơ) chủ yếu thể hiện cảm xúc, tình cảm, tâm trạng một cách trực tiếp hoặc
thông qua những hình ảnh, không có hệ thống các sự kiện, hành động nên hầu như
không có cốt truyện.Cũng cần phân biệt cốt truyện (plot) với khái niệm truyện
(story), về cơ bản chúng đều là hệ thống những sự kiện nhưng trong khi chuỗi sự
kiện của truyện được sắp xếp theo một trật tự tuyến tính không có sự sắp đặt của
người kể, thì chuỗi sự kiện của một câu truyện có cốt truyện sẽđược sắp xếp theo
một ý đồ nghệ thuật chủ quan của người kể, không hoàn toàn tuân theo trật tự biên
niên của sự kiện đó, với mục đích nhằm đạt tới hiệu quả thẩm mỹ cao nhất, nêu bật
được tư tưởng chủ đề và tạo sự hấp dẫn cao nhất.Aristotle là người đầu tiên quan
tâm đến vai trò của cốt truyện trong tác phẩm văn học. Với quan điểm "nghệ thuật
là sự mô phỏng", Aristote cho rằng cốt truyện chính là "linh hồn và cơ sở của bi

kịch", là cái quan trọng nhất làm thành mục đích của bi kịch. Ông chia cốt truyện
ra làm ba phần: phần đầu, phần giữa và phần kết. Còncác nhà nghiên cứu tự sự học
hiện đại cho rằngcơ sở sâu xa của cốt truyện là một xung đột đang vận động, vì vậy
quá trình phát triển của cốt truyện cũng chính là quá trình phát triển của xung đột
đó với các giai đoạn: hình thành, phát triển và kết thúc. Ngày nay, một cốt truyện
điển hình sẽ bao gồm 5 phần chínhtheo thứ tự diễn biến như sau: phần trình bày,
phần thắt nút, phần phát triển, phần đỉnh điểm và cuối cùng là phần kết thúc (phần
mở nút). Tuy nhiêntrong thực tế, không phải lúc nào một cốt truyện cũng có đầy đủ
5 thành phần trên, và không phải lúc nào thứ tự của các thành phần đó cũng được
sắp xếp theo đúng trình tự
30diễn biến như trên. Tùy theo mục đích, ý đồ sáng tạo của người viết, cốt truyện
có thể thiếu mất một vài thành phần, hoặc có thể đưa phần kết thúc hoặc đỉnh điểm
lên trước.Cốt truyện được phân chia thành nhiều loại tùy các tiêu chí phân chia. Ví
dụ Lê Huy Bắc trong bản tổng kết các kiểu cốt truyện chung nhất cho loại hình tự
sự có đưa raquan điểm dựa trên các tiêu chí sự kiện, thời gian và nhân vật để phân


chia các loại cốt truyện. Theo đó, dựa trên tiêu chí về sự kiện, có các loại cốt
truyện phân đoạn (chương hồi) (episodic plot), cốt truyện liền mạch (chronological
plot), cốt truyện huyễn ảo (supernature plot) và cốt truyện ghép mảnh (Fragment
plot); dựa trên tiêu chí thời gian có cốt truyện siêu văn bản (hypertext plot), cốt
truyện tuyến tính (linear plot), cốt truyện khung (frame plot) và cốt truyện gấp
khúc (zigzag plot); còn dựa trên tiêu chí nhân vật có cốt truyện đơn tuyến (simple
plot), cốt truyện đa tuyến (complex plot), cốt truyện hành động (active plot) và cốt
truyện tâm lý (psychological plot) và cốt truyện dòng ý thức (stream of
consciousness plot).2.1.2 Các loại hình cốt truyện trong truyện thiếu nhi về loài vật
của Tô HoàiQua khảo sát, hầu hết các truyện thiếu nhi về loài vật của Tô Hoài đều
có dung lượng ngắn trong khoảng từ 5-7 trang, một số truyện ngắn chỉcó 1-2 trang
như Con chim gáy, Xem ếch Cuba, Con le nghiện, Gấu ăn trăng, CànhTÀI LIỆU


THAM KHẢO1. Phạm Thị Vân Anh (2013), Phong cách Tô Hoài qua truyện viết
cho thiếu nhi, Luận văn thạc sĩ, ĐH KHXH & NV Hà Nội, Hà Nội.2. Đào Tuấn
Ảnh (2004), Cách tân nghệ thuật của Anton Chekhov: thử một cách tiếp cận mới,
Tạp chí Nghiên cứu văn học(số 8), tr.69-793. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật
ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.4. Tào Văn Ân (2016) , Bài
giảng Lý luận văn học 2,
31 Đại họcCần
Thơ, Cần Thơ.5.Lê Huy Bắc (2008), Cốt truyện trong tự sự, Tạp chí Nghiên cứu
văn học(số 7), tr. 34-436. Nguyễn Đức Dân (1979), Cái lý và chiều sâu qua ngôn
ngữ trong truyện nhi đồng, Tạp chí Nghiên cứu văn học(số 3), tr.91-977. Nguyễn


Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.8. Đặng Anh Đào (2008), Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong kể
chuyện, Tạp chí Nghiên cứu văn học(số 7), tr.26-339. Phan Cự Đệ, Trần Đình
Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng (1998), Văn học Việt
Nam (1900 -1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội.10.Nguyễn Đăng Điệp (2011), Tô Hoài,
Người sinh ra để viết, tapchinhavan.vn.11.Hà Minh Đức (2003), Lí luận văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.12. G.N.Pospelop (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học,
Trần Đình Sử dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.13. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp
tiểu thuyết L. Tônxtôi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.14. Phạm Thị Thu Hà (2013), Đặc
điểm truyện viết cho thiếu nhi của Tô Hoài, Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ và văn
hóaViệt Nam, Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Vĩnh Phúc.15.Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.16. Nguyễn Thị Thu Hiền (2013), Truyện viết cho thiếu nhi của
Tô Hoài, Luận văn thạc sĩ, />3217. Tô Hoài (1964), Con mèo lười, Tuyển tập truyện thiếu nhi, Nxb Văn học, Hà
Nội.18. Tô Hoài (1968), Tôi viết đồng thoại “Dế Mèn, chim gáy, bồ nông”, Tạp
chí Nghiên cứu văn học(số 10), tr.48-5519. Tô Hoài (1987), Nghệ thuật và phương
pháp viết văn, NxbVăn học,Hà Nội.20. Tô Hoài (1994), Tuyển tập truyện ngắn
trước năm 1945, Nxb Văn học, Hà Nội.21. Tô Hoài (1997), Tuyển tập văn học

thiếu nhi –tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.22. Tô Hoài (1997), Tuyển tập văn học
thiếu nhi –tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.23. Tô Hoài (1998), Một số kinh nghiệm
viết văn miêu tả(tái bản lần thứ 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.24. Tô Hoài (1999), Bàn
Quý và ngựa con, Tuyển tập truyện thiếu nhi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.25. Tô
Hoài (2015), Những truyện hay viết cho thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.26. Tô
Hoài (2016), Dế Mèn phiêu lưu ký, />Tô Hoài (2016) , Chim chích lạc rừng, />title=chimchichlacrung28. Văn Hồng (1972), Một số ý kiến về truyện viết cho
thiếu nhi, Tạp chí Nghiên cứu văn học(số 5), tr.12-2129. Phong Lê –Vân Thanh
(tuyển chọn, 2000), Tô Hoài, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáodục, Hà Nội.30.
Phạm Thị Phương Liên (2011), Nghệ thuật miêu tả loài vật trong Dế Mèn phiêu
lưu kí, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật(số 323), tr.87-89
3331.Nguyễn Đăng Mạnh (2012), Tô Hoài và truyện thiếu nhi,
lenhatky.vnweblogs.com.32. M.Bakhtin (1993), Thi pháp Đôttôiepxki(Trần
Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.33.
Trần Đình Nam (1995), Nhà văn Tô Hoài, Tạp chí Nghiên cứu văn học(số 9),


×