Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Những biến đổi trong văn hóa gia đình ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.36 KB, 48 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 3
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 4
3. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 4
4. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 5
6. Bố cục ......................................................................................................... 5
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH............ 6
1.1. Một số khái niệm ................................................................................... 6
1.1.1. Văn hóa............................................................................................ 6
1.1.2. Gia đình ........................................................................................... 7
1.1.3. Văn hóa gia đình .............................................................................. 8
1.1.4. Biến đổi.......................................................................................... 10
1.2. Vai trò của nhà nước đối với gia đình hiện nay .................................... 11
1.2.1. Vai trò của gia đình ....................................................................... 11
1.2.2. Vai trò của nhà nước ..................................................................... 13
1.3. Định hướng xây dựng và phát triển văn hóa gia đình của Đảng và Nhà
nước .......................................................................................................... 13
1.3.1. Định hướng chung ........................................................................ 13
1.3.2. Tiêu chí xây dựng văn hóa gia đình ............................................... 15
Chương 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
HAI BÀ TRƯNG HIỆN NAY ....................................................................... 17
2.1. Khái quát chung về quận Hai Bà Trưng ............................................... 17
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ................................................... 17
2.1.2. Dân cư ........................................................................................... 19
2.1.3. Kinh tế, văn hóa xã hội .................................................................. 20
2.2. Khái quát về văn hóa gia đình trên địa bàn quận Hai Bà Trưng ........... 21

1



2.2.1. Văn hóa gia đình truyền thống ....................................................... 21
2.2.2. Sự biến đổi các giá trị văn hóa gia đình tại quận Hai Bà Trưng hiện
nay ....................................................................................................... 27
2.3. Những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự biến đổi văn hóa gia đình ........ 30
2.3.1. Truyền thông.................................................................................. 30
2.3.2. Văn hóa phương tây ....................................................................... 31
2.3.3. Kinh tế thị trường .......................................................................... 31
2.3.4. Giáo dục ........................................................................................ 33
2.3.5. Công nghệ thông tin....................................................................... 33
2.3.6. Công việc ....................................................................................... 34
2.4. Những thách thức đối với văn hóa gia đình hiện nay ........................... 35
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÌN GIỮ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY........................... 38
3.1. Những giá trị tích cực và tiêu cực của văn hóa gia đình hiện nay ......... 38
3.1. 1. Những giá trị tích cực ................................................................... 38
3.1.2. Những giá trị tiêu cực .................................................................... 39
3.2. Một số giải pháp phát huy những giá trị của văn hóa gia đình trong giai
đoạn hiện nay ............................................................................................. 41
3.2.1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý về gia đình .............................. 41
3.2.2. Kiện toàn các văn bản quy phạm pháp quy .................................... 42
3.2.3. Tăng cường công tác giáo dục ....................................................... 43
3.2.4. Tăng cường tuyên truyền giáo dục về giá trị đạo đức truyền thống
của gia đình Việt...................................................................................... 43
KẾT LUẬN ................................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 46
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 47

2



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển
với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hóa dân
tộc. Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường đầu tiên, thiêng liêng đối với
mỗi con người.Tính chất thiêng liêng trong quan hệ ruột thịt là nhân tố có sức
cảm hóa mạnh mẽ và các thành viên tự “hấp thụ” những giá trị tốt đẹp của gia
đình một cách hiển nhiên. Với những đặc điểm như vậy, gia đình rất cần có
những quy tắc, chuẩn mực để hình thành bệ phóng cho những nhân cách tốt
đẹp, giá trị gia đình có thể hình thành từ các sinh hoạt thông thường qua thói
quen ứng xử, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và trong các mối
quan hệ xã hội khác… chính những giá trị này có tác dụng sâu sắc đến nhận
thức hành vi của mỗi thành viên.
Sự giao lưu, mở cửa và hội nhập đã đem đến cho gia đình Việt Nam nhiều
cơ hội. Gia đình Việt Nam có điều kiện phát triển kinh tế, giao lưu hội nhập
với các nền văn hóa tiên tiến trên thế giới. Hiện nay, đất nước ta đang trên đà
phát triển mạnh mẽ và toàn diện, hòa cùng xu thế đó gia đình ngày nay càng có
một vị trí đặc biệt hơn. Gia đình là tế bào của xã hội, là một trong các tổ chức
cơ sở để thực hiện các chủ trương chính sách và pháp luật của Nhà nước về tất
cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, môi trường... Gia đình
Việt Nam là một nhân tố quan trọng góp phần để phát triển kinh tế xã hội của
đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đó là cơ sở để
khẳng định gia đình Việt Nam cũng đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới.
Tuy nhiên, hiện nay dưới sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường
và tiến trình hội nhập, toàn cầu hoá nhiều giá trị văn hóa truyền thống trong gia
đình Việt Nam đang có sự vận động và biến đổi nhất định. Bên cạnh việc xuất

3



hiện nhiều giá trị mới của xã hội hiện đại thì nhiều giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp trong gia đình Việt Nam đang có nguy cơ bị xâm hại và dần mai một.
Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội là địa bàn tương đối rộng được
thành lập từ lâu với số lượng dân cư tập trung đông đúc, nhiều hộ gia đình
sống xen kẽ nhau. Bên cạnh những nét văn hóa truyền thống trong gia đình thì
hiện nay, những trào lưu văn hóa mới đã phần nào gây nên những tác động
không nhỏ tới các gia đình trên địa bàn quận, nhiều biến đổi trong văn hóa gia
đình đã xuất hiện trong đó có nhiều tác động xấu như dấu hiệu của sự khủng
hoảng, các mối quan hệ truyền thống trong gia đình vốn tốt đẹp và bền vững
ngày càng trở nên lỏng lẻo; phong cách ứng xử giữa các thành viên trong gia
đình trở nên thô kệch, thiếu văn minh; nhiều quan điểm, cách sống, lối sống xa
lạ, lệch chuẩn đang được manh nha dần… Đứng trước thực trạng đó, là một
sinh viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội, em quyết định chọn đề tài “Những
biến đổi trong văn hóa gia đình ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội từ năm 1986
đến nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng vấn đề văn hóa gia đình trên địa bàn quận Hai Bà
Trưng từ năm 1986 đến nay.
+ Tìm hiểu văn hóa truyền thống của các gia đình, những phong tục tập
quán, nề nếp tốt đẹp được duy trì qua các thế hệ.
+ Ảnh hưởng của các trào lưu văn hóa mới đến gia đình hiện nay
+ Những thay đổi trong lối sống, cách ứng xử… của các thành viên trong
gia đình và trong xã hội.
- Đề ra những kiến nghị, giải pháp để nâng cao hiệu quả xây văn hóa gia
đình trên địa bàn quận Hai Bà Trưng hiện nay.
3.

Đối tượng nghiên cứu


- Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu về các gia đình với nhiều dạng thức
khác nhau như gia đình hạnh phúc, gia đình dạn vỡ…
4


- Văn hóa gia đình và những biến đổi về văn hóa gia đình hiện nay
4. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu các gia đình trên địa
bàn thành phố Hà Nội nói chung và quận Hai Bà Trưng nói riêng.
- Thời gian: Từ năm 1986 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp thống kê, so sánh
- Phương pháp tổng hợp, phân tích
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, bài tiểu luận
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về văn hóa gia đình
Chương 2: Thực trạng văn hóa gia đình trên địa bàn quận Hai Bà
Trưng hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp nhằm gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa
gia đình trong giai đoạn hiện nay

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH
1.1.


Một số khái niệm

1.1.1. Văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Nghĩa ban đầu của văn hóa trong tiếng Hán là những nét xăm mình qua
đó, người khác nhìn vào để nhận biết và phân biệt với người khác, biểu thị sự
quy nhập vào thần linh và các lực lượng bí ẩn của thiên nhiên, chiếm lĩnh
quyền lực siêu nhiên. Theo bộ Từ Hải (bản năm 1989) thì văn hóa vốn là một
cách biểu thị chung của khái niệm văn trị và giáo hóa.
Theo ngôn ngữ của phương Tây, từ tương ứng với văn hóa của tiếng
Việt (culture trong tiếng Anh và tiếng Pháp, kultur trong tiếng Đức…) có
nguồn gốc từ các dạng của động từ Latin colere là colo, colui, cultus với hai
nghĩa: giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; cầu cúng.
Trong cuộc sống hàng ngày văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ
thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh…Các “trung tâm văn hóa” có ở
khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: Vă hóa là
cách sống bao gồm trong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và đức tín, tri thức
được tiếp nhận…Vì thế chúng ta nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn
hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa.
Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến
theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận
trong đời sống con người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh
thần mà bao gồm cả vật chất.
Văn hóa liên kết đến sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản
phẩm của người thông minh (homo sapiens). Trong quá trình phát triển, tác
động sinh học hay bản năng dần dần giảm bớt khi loài người đạt được trí thông
6



minh để định dạng môi trường tự nhiên cho chính mình. Đến lúc này, bản tính
con người không còn mang tính bản năng mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo
của con người trong việc định hình thế giới hơn hẳn bất kỳ loại động vật nào
khác và chỉ có con người dựa vào văn hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho sự
sống còn của chủng loài mình. Con người có khả năng hình thành văn hóa và
với tư cách là thành viên của một xã hội, con người tiếp thu văn hóa, bảo tồn
nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có chung
một văn hóa giúp xác định nhóm người hay xã hội mà cá thể là thành viên.
1.1.2. Gia đình
Gia đình là một khái niệm mà các nhà xã hội học rất khó định nghĩa, tuy
bề ngoài có vẻ đơn giản nhưng để tìm ra được khái niệm mang tính toàn diện
cho gia đình là rất khó. Tuy nhiên ta có thể định nghĩa nó trong một hoàn cảnh
cụ thể. Chẳng hạn ở những nước Châu Á xem gia đình là tế bào xã hội, thì
ngược lại ở các nước Châu Âu gia đình chỉ được xem như là một nhóm xã hội,
một đơn vị cơ sở của xã hội thuộc một trong năm thiết chế cơ bản là: Nhà
nước, kinh tế, giáo dục, tôn giáo, gia đình.
Gia đình đã tồn tại trong lịch sử nhân loại hàng vạn năm, đã biến đổi qua
nhiều kiểu loại, qui mô,và cơ cấu rất khác nhau. Hiện nay, gia đình với nhiều
loại hình, nhiều biểu hiện phong phú và đa dạng. Do vậy, không thể đưa ra một
khái niệm có thể bao hàm hết các kiểu loại gia đình trong lịch sử và hiện tại
của đời sống nhân loại. Chúng ta chỉ có thể dựa vào một kiểu loại gia đình có
tính phổ biến và mang đặc trưng cơ bản của nhóm xã hội đặc thù để đưa ra một
quan niệm về gia đình. Đó là gia đình hạt nhân, dựa trên quan hệ hôn nhân và
có hai thế hệ là cha mẹ và con cái. Ở đây, tôi chỉ đưa ra những nét chung nhất
về gia đình: gia đình là một khái niệm chỉ một cộng đồng người (nhóm xã hội)
có quan hệ mật thiết với nhau trong sinh hoạt vật chất và tinh thần mang đặc
thù dựa trên quan hệ hôn nhân và huyết thống, các quan hệ pháp lý hoặc luật
tục khác.
7



Bên cạnh sự quy định của pháp luật, trong cuộc sống xã hội vẫn duy trì
lối sống, phương thức ứng xử tình nghĩa: vợ chồng, cha con, gia tộc. Trong cái
nghĩa ấy nổi lên là lòng biết ơn, sự quan tâm, chăm sóc người già, trẻ em, sự
hy sinh tự nguyện vì người thân và gia đình.
Như vậy, gia đình là một cộng đồng người mang tính huyết thống (thân
tộc) khác với cộng đồng làng xã (phường bản) mang tính địa lý hành chính.
Gia đình cũng khác với cộng đồng tộc người (mang đặc trưng chung về nguồn
gốc xuất hiện…). Nó cũng khác cộng đồng dân tộc hình thành trên quan hệ
chính trị, kinh tế, xã hội. Hiểu theo cách chung gia đình là một đơn vị xã hội
gồm những người thân cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà, xây dựng
thành một tổ ấm tinh thần và vật chất để phụng dưỡng ông bà cha mẹ, sinh sản
và nuôi dạy con cái, duy trì hệ thống gia tộc và đóng góp những công dân tốt
cho xã hội.
Gia đình là một hình thái xã hội đặc thù rất bền vững nhưng cũng luôn
“ứng vạn biến” để thích hợp với những thay đổi của xã hội. Gia đình đã biến
đổi và sẽ biến đổi nhưng dù biến đổi thế nào thì gia đình sẽ vẫn tồn tại trong
cuộc sống nhân loại bởi gia đình thực hiện hai chức năng cơ bản: tái sinh sản
giống nòi (duy trì nòi giống) và xã hội hóa trẻ em, cá thể hóa nhân cách và
hoàn thiện nhân cách mà xã hội không thể thay thế hoàn toàn được. Tuyên
ngôn Nhân quyền do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đưa ra tháng 12-1948 đã
khẳng định “Gia đình là yếu tố tự nhiên và căn bản của xã hội được xã hội và
quốc gia bảo vệ”.
1.1.3. Văn hóa gia đình
Từ góc độ lý luận về văn hóa, chúng ta cần làm rõ khái niệm văn hóa gia
đình về bản chất, chức năng và cấu trúc của nó đối với cá nhân và xã hội.
Theo đó, ta thấy gia đình là một hiện tượng văn hóa của con người, là giá
trị văn hóa, và là một thực thể văn hóa.


8


Gia đình chỉ xuất hiện trong xã hội loài người, không có trong thế giới
động vật. Dể duy trì nòi giống và thỏa mãn nhu cầu sinh học, động vật và loài
người cũng kết đôi. Song từ hình thức kết đôi của động vật đến „„gia đình‟‟ của
loài người là một bước tiến vượt bậc về chất (văn hóa) theo hai hướng: gia
đình của con người tồn tại lâu dài vì những người làm cha, làm mẹ của các cá
thể người được sinh ra phải gắn kết với nhau để nuôi dưỡng chúng trong nhiều
năm tháng thì chúng mới nên người. Thứ hai, về quan hệ tính giao giữa những
đối tượng khác giới thì ở loài người phần lớn thích thú sự quan hệ với một
người trong cả cuộc đời. Còn ở động vật thì không như vậy, một con đực có
thể quan hệ với nhiều con cái và ngược lại.
Có thể khẳng định gia đình của con người là một hiện tượng văn hóa
hoàn toàn khác về chất so với hình thức kết đôi của động vật. Nó không chỉ bị
quy định bởi nhu cầu sinh học mà nó được biến đổi về chất do nhu cầu xã hội
(nhu cầu người) trở thành hiện tượng văn hóa, gia đình là một thiết chế sinh
học – xã hội, vừa mang tính sinh học, vừa mang tính xã hội sâu sắc.
Trước hết nó đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của các cá nhân đặc
biệt là các cá thể người vừa được sinh thành. Sức mạnh của gia đình, thông qua
tình thương của cha mẹ và người thân là tổ ấm che chở cho các cá thể đó lớn
lên. Gia đình là nơi người ta yêu thương, tin cậy, tự hào, là mục tiêu phấn đấu
của con người. Gia đình còn là yếu tố cần hoàn thiện nhân cách đối với tất cả
những con người bình thường trong xã hội.
Gia đình là một thực thể văn hóa: Các quan hệ gia đình không chỉ mang
tính bản năng động vật mà đã trở thành quan hệ sinh học văn hóa. Chúng được
con người nhận thức, chọn lựa tìm đến những phương thức ứng xử được xem
là phù hợp và thích hợp với mỗi kiểu loại gia đình ở từng giai đoạn lịch sử, để
hình thành nên hệ thống giá trị chuẩn mực trong gia đình. Hệ thống ấy có vai
trò chi phối, điều tiết các quan hệ của gia đình, chi phối các phương thức ứng


9


xử của các thành viên gia đình. Vậy gia đình không chỉ là một nhóm xã hội đặc
thù mà còn là một thực thể sinh học – văn hóa, một thiết chế xã hội – văn hóa.
Như vậy, văn hóa gia đình là dạng đặc thù của văn hóa cộng đồng bao
gồm tổng thể sống động các hoạt động sống của gia đình mang đặc trưng văn
hóa bị chi phối bởi các giá trị, chuẩn mực, truyền thống, thị hiếu của cộng
đồng mà các thành viên gia đình đã chọn lựa để ứng xử với nhau trong gia đình
và ngoài xã hội. Ngoài ra, văn hóa gia đình còn được hiểu là một dạng đặc thù
của văn hoá xã hội, bao gồm tổng thể các giá trị, chuẩn mực, cách hành xử mà
các thành viên trong gia đình tiếp nhận, ứng xử với nhau trong gia đình và xã
hội.
1.1.4. Biến đổi
Từ xưa, cái gì đã thành “nếp” thì rồi cũng đến lúc phải lạc hậu? Phải chịu
sự nhàm chán vì lặp lại. Có vẻ vận dụng đúng trong nhiều tư duy sáng tạo.
Nhưng suy cho cùng, mọi thay đổi, không chịu lặp lại ấy chính là để nuôi
dưỡng một điều lặp lại, một cái nếp lớn hơn, thích nghi, hoàn hảo hơn.
Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt
tốt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Do đó phủ
định đồng thời cũng là khẳng định. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới
đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi
được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận
động và phát triển của sự vật.Ví dụ, Trong sinh vật các giống loài đều có tính
di truyền, các thế hệ con cái đều kế thừa những yếu tố tích cực của các thế hệ
bố mẹ. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, xã hội mới ra đời trên cơ
sở kế thừa những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội trước, đồng thời bổ
sung thêm những giá trị mới. Trong lĩnh vực nhận thức các học thuyết khoa
học ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những giá trị tư tưởng của các học thuyết

khoa học ra đời trước.v.v.
Từ đó suy ra biến đổi nói chung là sự thay đổi giữa tình trạng hiện tại
của nó với tình trạng trong quá khứ, là kết quả của sự tác động qua lại giữa sự
10


vật, hiện tượng, con người và xã hội, nó thể hiện ở sự thay đổi cấu trúc hay tổ
chức của xã hội. Nó diễn ra không đồng đều về nhịp độ, quy mô, thời gian ...
và chịu những tác động nhất định của yếu tố tự nhiên, xã hội.
Biến đổi là nền tảng phát triển của loài người, không như các sinh vật
khác, con người cần phải có hiểu biết xã hội để sống. Ngoài sự tồn tại có tính
chất sinh học đơn thuần, kinh nghiệm xã hội tạo ra nhân cách của mỗi con
người. Hiểu theo nghĩa đơn giản, nhân cách chính là hệ thống tư duy, cảm xúc
và hành vi có tổ chức trong đó con người suy nghĩ, nhận thức về thế giới, về
bản thân mình cũng như phản ứng, hành động trong tương tác xã hội. Chỉ có
thông qua sự hình thành và phát triển của nhân cách, loài người mới trở nên
khác biệt với tất cả các loài động vật khác, chỉ có loài người mới tạo ra được
văn hóa và mỗi con người, với tư cách là một thành viên của xã hội tiếp thu
văn hóa vào nhân cách của mình.
1.2.

Vai trò của nhà nước đối với gia đình hiện nay

1.2.1. Vai trò của gia đình
1.2.1.1.

Vai trò của gia đình nói chung

Cùng với sự phát triển nhiều mặt, quan niệm về gia đình có thể khác
trước. Nhưng bất kể thế nào, con người sinh ra, ai cũng cần có một gia đình.

Không gia đình là biểu hiện của sự bất hạnh. Không gia đình con người rất khó
trưởng thành theo đúng nghĩa một con người. Và nếu như sinh ra, lập tức đã
không có gia đình, không có người mẹ cho bú mớm, ôm ấp vỗ về… , con
người đó sống làm sao và hiểu sao được tình mẫu tử và lẽ sống ở đời?.
Gia đình là môi trường sống đầu tiên và quan trọng nhất của mỗi con
người. Tiếp mới đến xã hội. Và ngay khi con người hòa nhập vào cuộc sống xã
hội để mưu sinh, để khẳng định mình, để làm “ông nọ bà kia”, thì gia đình vẫn
luôn là môi trường không thể thiếu được. Trước mọi sóng gió cuộc đời, gia
đình phải luôn luôn là cái cảng an bình nhất, là “tổ ấm” hạnh phúc nhất, là nơi
chia sẻ mọi nỗi buồn vui, sự thành đạt cũng như nỗi bất hạnh…

11


Nói đến gia đình là nói đến nhóm tâm lý - tình cảm xã hội đặc thù, các
mối quan hệ trong gia đình, sự cấu kết giữa các thành viên trong gia đình bắt
nguồn từ quan hệ huyết thống ruột thịt và quan hệ tình cảm, trách
nhiệm. Trong gia đình, các thành viên gắn bó với nhau bằng những sợi dây liên
hệ thường xuyên, lâu dài, suốt đời người. Trong gia đình thuận hòa, hạnh phúc,
các thành viên luôn quan tâm đến nhau, hy sinh cho nhau, không ngại thiệt
thòi.
Hiện nay, nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gia đình
đã được coi là một vấn đề xã hội lớn, được đánh giá là một trong nhiều biện
pháp quan trọng để thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội. Việc tổ chức
gia đình tốt và giáo dục trong gia đình chu đáo sẽ có tác động sâu xa đến việc
hình thành nhân cách con người, tạo tiền đề quan trọng để cung cấp nguồn
nhân lực đáp ứng với yêu cầu của đất nước trong quá trình phát triển. Vì vậy,
vai trò gia đình thể hiện tính đa dạng và nhiều chiều, nó vừa có ảnh hưởng của
cá nhân đối với cá nhân (giữa cha mẹ với con cái; giữa ông bà với cháu) vừa
có ảnh hưởng của cả tập thể gia đình liên kết với nhau tác động đến từng cá

nhân qua lối sống, nếp sống ở mỗi gia đình.
1.2.1.2. Vai trò của gia đình nói riêng
Đời sống gia đình bao gồm ba yếu tố cơ bản: Các thành viên gia đình,
hoạt động của gia đình, văn hóa gia đình. Ba yếu tố này tương tác lẫn nhau tạo
nên đời sống gia đình. Trong đó các thành viên gia đình (con người) đóng vai
trò chủ thể, hoạt động là sự tác động của chủ thể vào tự nhiên và xã hội tạo nên
hình thái tồn tại của gia đình. Văn hóa gia đình đóng vai trò nền tảng tinh thần
điều tiết thúc đẩy sự biến đổi của gia đình theo hướng nhân văn, nhân bản hơn.
Nếu không có văn hóa thì con người không thể thành người và gia đình cũng
không thể tồn tại được.
Văn hóa gia đình góp phần duy trì và phát triển văn hoá các nhóm cộng
đồng xã hội (dòng họ, làng xã, dân tộc, giai cấp..). Nó lưu giữ, bảo tồn các giá
trị, chuẩn mực văn hoá truyền thống của các cộng đồng trong đời sống gia

12


đình. Gia đình với tư cách là một nhóm xã hội- một “ xã hội vĩ mô” và chịu sự
tác động của xã hội, vừa tác động lại xã hội. Mỗi cá nhân đều bắt đầu từ gia
đình, văn hoá gia đình. Văn hoá cá nhân, văn hoá gia đình và văn hoá xã hội có
mối quan hệ khắng khít chặt chẽ như kiềng ba chân.
Trong định nghĩa của Hội Nghị quốc tế do Unessco tổ chức ở Mehico
1982 về văn hóa đã nhấn mạnh: “Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành
sinh vật đặc biệt, nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách có
đạo lý”. Văn hóa gia đình, ngoài yếu tố cốt lõi là giá trị gia đình còn được xem
xét như là một tập hợp của những biểu hiện văn hóa gắn với các mặt quan hệ
và đời sống gia đình. Do vậy, vai trò của văn hóa gia đình còn thể hiện ra ở sự
tác động tích cực và tiêu cực của nó trong sự biến đổi của gia đình và các chức
năng của gia đình. Vấn đề này tôi sẽ trình bày kết hợp với các vấn đề liên quan
ở các chương sau.

1.2.2. Vai trò của nhà nước
Nhà nước đề ra các chủ trường, chính sách nhằm xây dựng và phát triển
các gia đình Việt Nam theo hướng bền vững. Tạo mọi điều kiện để cho các gia
đình, các cá nhân có điều kiện để phát triển năng lực toàn diện của mình.
Nhà nước thành lập các cơ quan chuyên môn phụ trách vấn đề gia đình từ
trung ương tới địa phương. Đây là các cơ quan có nhiệm vụ trực tiếp quản lý
về công tác gia đình, nắm bắt tình hình biến động của gia định trên địa bàn
quản lý. Tham mưu cho các cấp chính quyền trong việc đề ra các chính sách
hợp lý nhằm xây dựng và củng cố gia đình văn hóa, bảo lưu các giá trị gia đình
truyền thống trước những tác động của nhiều luồng văn hóa mới.
1.3. Định hướng xây dựng và phát triển văn hóa gia đình của Đảng
và Nhà nước
1.3.1. Định hướng chung
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng vai trò của gia
đình và văn hóa gia đình. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về Xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã nêu rõ:
13


“Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai
trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa. Xây
dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội”.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của
quá trình CNH-HĐH. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc,
thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường
quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn
và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21-2-2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng

(khoá IX) về xây dựng gia đình thời kỳ CNH, HĐH đất nước; đội ngũ cán bộ
về công tác gia đình được hình thành, không ngừng nâng cao năng lực, hiệu
quả quản lý nhà nước về công tác gia đình.
Đặc biệt, ngày 29/5 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã
ký Quyết định 629/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển gia đình Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030” càng thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước về gia đình Việt Nam. Quan điểm của Chiến lược là: Gia đình là tế
bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục
nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ
nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc là một trong các mục tiêu
quan trọng của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020,
đồng thời cũng là trách nhiệm của mọi gia đình trong thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH đất nước. Ưu tiên, tạo điều kiện để các gia đình khu vực nông thôn, miền
núi, khu vực đặc biệt khó khăn nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống.

14


Theo đó, mục tiêu cụ thể của Chiến lược là nâng cao nhận thức về vai trò,
vị trí, trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ
trương, đường lối chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng
giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào
gia đình. Kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt
Nam; tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát
triển; thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia
đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ.
Nâng cao năng lực của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai
và khủng hoảng kinh tế; tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi, đặc biệt đối
với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận nghèo theo quy định.

1.3.2. Tiêu chí xây dựng văn hóa gia đình
- Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
vấn đề xây dựng văn hoá gia đình càng cần phải được quan tâm hơn bao giờ
hết, tạo nền tảng vững chắc cho xây dựng đất nước bền vững. Để xây dựng văn
hóa gia đình cần thực hiện tốt các tiêu chí sau:
- Đời sống vật chất của gia đình ổn định, phát triển và tiến bộ:
Mọi thành viên đều được ăn no, mặc ấm, trong độ tuổi lao động đều có
việc làm- hăng hái Sản xuất, thực hiện Tiết kiệm, sinh đẻ có kế hoạch.
- Đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh.
Có các phương tiện sinh hoạt văn hoá tối thiểu như: Ti vi, hoặc Rađiô
cassete ...
Không vi phạm các tệ nạn xã hội, các quy chế về việc cưới, việc tang,
ngày giỗ ngày hội và các quy định khác của địa phương .
Có ý thức giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ
và quê hương.
- Các thành viên trong gia đình hoà thuận, Dân chủ, kỷ cương, nề nếp.

15


Vợ chống Bình đẳng, con cháu yêu kính ông bà, cha mẹ. Ông bà, cha mẹ
yêu thương và có trách nhiệm với con cháu. Luôn là tấm gương mẫu mực
trong gia đình .Luôn có ý thức xây dựng gia đình là tổ ấm tình thương .
- Tuân thủ Pháp luật, thực hiện tốt các Nghĩa vụ công dân, đoàn kết tốt
với xóm giềng.
Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các quy
định của chính quyền địa phương.
Thực hiện tốt các nghĩa vụ: Lao động, bảo vệ tổ quốc và các nghĩa vụ
khác.
Đoàn kết giúp đỡ nhau trong sinh hoạt, lúc khó khăn hoạn nạn, tôn trọng

tình làng nghĩa xóm.

16


Chương 2
THỰC TRẠNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN HAI BÀ TRƯNG HIỆN NAY
2.1. Khái quát chung về quận Hai Bà Trưng
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Hai Bà Trưng, thường được gọi tắt là Hai Bà, là một quận của thành
phố Hà Nội. Tên quận được đặt theo đền thờ Hai Bà Trưngnằm gần hồ Đồng
Nhân
 Đông
 Tây

chủ yếu giáp quận Đống Đa, một phần nhỏ giáp quận Thanh Xuân

 Nam
 Bắc

giáp sông Hồng, qua bờ sông là quận Long Biên

giáp quận Hoàng Mai

giáp quận Hoàn Kiếm

Trước đây, vùng đất Hai Bà Trưng thuộc các tổng Hậu Nghiêm (sau đổi
là Thanh Nhàn), Tả Nghiêm (sau đổi là Kim Liên), Tiền Nghiêm (sau đổi là
Vĩnh Xương) thuộc huyện Thọ Xương cũ; một số xã của huyện Thanh Trì,

thuộc trấn Sơn Nam Thượng.
Từ năm 1954-1961, vùng đất Hai Bà Trưng gồm các khu phố mang tên
Bạch Mai, Hai Bà, Hàng Cỏ và một phần đất thuộc quận VI ngoại thành Hà
Nội.
Từ năm 1961-1981, gọi là khu Hai Bà (sau gọi là khu Hai Bà Trưng).
Tháng 6/1981, khu Hai Bà Trưng chính thức gọi là quận Hai Bà Trưng
gồm 22 phường: Nguyễn Du, Lê Đại Hành, Bùi Thị Xuân, Phố Huế, Ngô Thì
Nhậm, Phạm Đình Hổ, Đồng Nhân, Đống Mác, Bạch Đằng, Thanh Lương,
Thanh Nhàn, Cầu Dền, Bách Khoa, Quỳnh Lôi, Bạch Mai, Quỳnh Mai, Vĩnh
Tuy, Minh Khai, Trương Định, Đồng Tâm, Giáp Bát, Tương Mai.
Ngày 2/6/1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 173-HĐBT,
thành lập phường Mai Động thuộc quận Hai Bà Trưng trên cơ sở điều chỉnh

17


diện tích và nhân khẩu của thôn Mai Động và xóm Mơ Táo của xã Hoàng Văn
Thụ thuộc huyện Thanh Trì. Sau khi điều chỉnh, quận Hai Bà Trưng có 23
phường.
Ngày 14/3/1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 42-HĐBT,
thành lập thêm phường Tân Mai trên cơ sở tách từ phường Giáp Bát. Sau khi
điều chỉnh, quận Hai Bà Trưng có 24 phường.
Tháng 10/1990, xã Hoàng Văn Thụ thuộc huyện Thanh Trì được sáp nhập
vào quận Hai Bà Trưng và đổi thành phường Hoàng Văn Thụ. Sau khi điều
chỉnh, quận Hai Bà Trưng có 25 phường.
Ngày 6/11/2003, Chính phủ ra Nghị định số 132/2003/NĐ-CP, điều chỉnh
toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của các phường Mai Động, Tương Mai,
Tân Mai, Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ (quận Hai Bà Trưng) về thuộc Quận
Hoàng Mai quản lý. Sau khi điều chỉnh, quận Hai Bà Trưng còn 21 phường
Khí hậu tại quận Hai Bàng Trưng cũng như khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho

vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu cận nhiệt đới ẩm, mùa hè nóng, mưa
nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa về đầu mùa và có mưa phùn về nửa cuối mùa.
Nằm về phía bắc của vành đai nhiệt đới, thành phố quanh nǎm tiếp nhận
lượng bức xạ Mặt Trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Và do tác động của biển,
Hà Nội có độ ẩm vàlượng mưa khá lớn, trung bình 114 ngày mưa một năm.
Một đặc điểm rõ nét của khí hậu Hà Nội là sự thay đổi và khác biệt của hai
mùa nóng, lạnh. Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 tớitháng 9, kèm theo mưa nhiều,
nhiệt độ trung bình 28,1 °C. Từ tháng 11 tới tháng 3 năm sau là mùa đông với
nhiệt độ trung bình 18,6 °C. Trong khoảng thời gian này số ngày nắng của
thành phố xuống rất thấp, bầu trời thường xuyên bị che phủ bởi mây và sương,
tháng 2 trung bình mỗi ngày chỉ có 1,8 giờ mặt trời chiếu sáng. Cùng với hai
thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 (mùa xuân) và tháng 10 (mùa thu), thành phố
có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu và đông.
18


2.1.2. Dân cư
Lịch sử của Hà Nội cũng đã ghi nhận dân cư của thành phố trong đó có
dân cư tại quận Hai Bà Trưng có những thay đổi, xáo trộn liên tục qua thời
gian. Ở những làng ngoại thành, ven đô cũ, nơi người dân sống chủ yếu
nhờ nông nghiệp, thường không có sự thay đổi lớn. Nhiều gia đình nơi đây vẫn
giữ được gia phả từ những thế kỷ 15, 16. Trong nội thành, chỉ còn lại vài dòng
họ đã định cư liên tục tại Thăng Long từ thế kỉ XV.
Do tính chất của công việc, nhiều thương nhân và thợ thủ công ít khi trụ
nhiều đời tại một điểm. Gặp khó khăn trong kinh doanh, những thời điểm sa
sút, họ tìm tới vùng đất khác. Cũng có những trường hợp, một gia đình có
người đỗ đạt được bổ nhiệm làm quan tỉnh khác và đem theo gia quyến, đôi
khi cả họ hàng.
Từ rất lâu, Thăng Long đã trở thành điểm đến của những người dân tứ xứ.
Vào thế kỷ 15, dân các trấn về Thăng Long quá đông khiến vua Lê Thánh

Tông có ý định buộc tất cả phải về nguyên quán. Nhưng khi nhận thấy họ
chính là lực lượng lao động và nguồn thuế quan trọng, triều đình đã cho phép
họ ở lại. Tìm đến kinh đô Thăng Long còn có cả những cư dân ngoại quốc,
phần lớn là người Hoa. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rất nhiều những
người Hoa đã ở lại sinh sống thành phố này. Trải qua các triều
đại Lý, Trần, Lê, vẫn có những người Hoa tới xin phép cư ngụ lại Thăng Long.
Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, trong số 36 phường họp thành kinh đô
Thăng Long có hẳn một phường người Hoa, là phường Đường Nhân. Những
thay đổi về dân cư vẫn diễn ra liên tục và kéo dài cho tới ngày nay.
Hiện nay, dân cư cư trú trên địa bàn quận Hai Bà Trưng với mật độ dân số
cao, với nhiều ngành nghề khác nhau. Chỉ có số lượng ít trong số này là các hộ
gia đình đã cư trú nhiều đời tại đây còn lại là dân cư đến từ nhiều tỉnh thành
khác nhau trong cả nước đã tạo nên diện mạo phong phú và đa dạng trong đời
sống cư dân nơi đây.
19


2.1.3. Kinh tế, văn hóa xã hội
- Về kinh tế: Trên địa bàn quận Hai Bà Trưng có nhiều nhà máy, xí
nghiệp của Trung ương và Hà Nội như: Dệt Kim Đồng Xuân; cảng Hà Nội;
cụm công nghiệp Minh Khai-Vĩnh Tuy với hàng chục xí nghiệp nhà máy, chủ
yếu thuộc các ngành dệt, cơ khí, chế biến thực phẩm.
- Kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn quận phát triển nhanh. Hiện trên
địa bàn quận có hơn 3.300 doanh nghiệp, trong đó 70% là thương mại, dịch vụ,
còn lại là hoạt động công nghiệp. Năm 2008, giá trị sản xuất công nghiệp
ngoài quốc doanh tăng 14,5%; doanh thu thương mại, du lịch, dịch vụ tăng
hơn15%; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn quận đạt 933,841 tỷ đồng.
- Về công tác xã hội: Hơn 5 năm qua quận đã hỗ trợ sửa chữa và xây
dựng 167 nhà đại đoàn kết, hỗ trợ cho 1.201 hộ gia đình thoát nghèo, trên
33.000 lao động được giới thiệu việc làm. Đến nay, số hộ nghèo trong toàn

quận còn 1.022 hộ (chiếm 1,35%).
- Công tác y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình; công tác giáo dục đào tạo;
công tác thông tin tuyên truyền và tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật,
thể dục thể thao tiếp tục giữ vững và đạt kết quả tốt trong nhiều năm qua.
Quận Hai Bà Trưng có 91 di tích lịch sử, văn hóa và cách mạng (đã có 33
di tích đã được xếp hạng). Trong đó có những di tích nổi tiếng như: Chùa
Hương Tuyết, Chùa Liên Phái, Chùa Thiền Quang-Quang Hoa-Pháp Hoa, Đền
Hai Bà Trưng, Đình Tương Mai, Di tích cách mạng 152 Bạch Mai, Khu tưởng
niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ, Khu tưởng niệm nạn đói năm 1945, Di tích
lịch sử cách mạng kháng chiến 18 Nguyễn Du v.v...
Trên địa bàn quận Hai Bà Trưng có hai công viên lớn là Công viên Thống
Nhất và Công viên Tuổi trẻ. Trong những năm tới các công viên này sẽ được
cải tạo theo hướng hiện đại và đa dạng các hoạt động, góp phần nâng cao đời
sống văn hóa, tinh thần cho dân cư trên địa bàn quận và thu hút khách du lịch ở
các nơi khác.
20


2.2. Khái quát về văn hóa gia đình trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
2.2.1. Văn hóa gia đình truyền thống
2.2.1.1. Truyền thống cưới hỏi
Dù tiếp thu nền văn hóa phương Tây hay cách tân theo sự phát triển của
thời đại nhưng phần lớn các đám cưới trên địa bàn phường Hai Bà Trưng vẫn
giữ trong mình phong vị riêng của cuộc sống cộng đồng xưa. Những nét đẹp
đó vẫn được lưu truyền, trường tồn và phát triển.
Cưới là một phong tục, một nghi lễ đậm phong vị dân tộc nhưng lại
nhiêu khê tốn kém. Phần lớn các đám cưới cổ xưa của người Việt thường được
tổ chức theo một cuốn sách cổ gọi là Thọ mai gia lễ – cuốn sách dạy người ta
những việc về quan, hôn, tang, tế. Về sau tuỳ từng vùng, từng thời, từng gia
cảnh mà việc hỷ (cưới) được tổ chức khác nhau. Nhưng cho dù là ở đâu, thời

nào thì một đám cưới truyền thống cũng gồm các thủ tục, các bước chính là:
kén chọn, giạm ngõ (chạm mặt), hỏi, cưới, lại mặt và nộp cheo.
Theo các phong tục ngày xưa, nghi lễ trong cưới hỏi phải gồm đủ sáu lễ.
Đó là lễ "Nạp thái" (người mai mối đem ý định kết sui gia của nhà trai đến
thưa chuyện với nhà gái). Lễ tiếp theo là "Vấn danh" (hỏi tên tuổi cô gái, cốt
để nhờ thầy xem tuổi hai người xung hay hạp). Lễ thứ ba là "Nạp cát" (đưa tin
vui, tức là tin về sự hợp tuổi, hai gia đình có thể tiến tới việc hôn nhân). Lễ thứ
tư là "Nạp trưng" (nạp những lễ vật cần thiết đối với nhà gái). Lễ thứ năm là
"Thỉnh kỳ" (nhà trai xin ngày cử hành hôn lễ) và lễ cuối cùng là "Thân nghing"
(đón dâu).
Nhưng ngày nay, lễ cưới đã đã lược bỏ đi nhiều thủ tục nhưng ba lễ
chính: Chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới vẫn được các gia đình trên địa bàn quận
Hai Bà Trưng lưu giữ và thực hiện như truyền thống của tổ tiên ông bà đã để
lại:
- Lễ chạm ngõ: Đây là một lễ nhằm chính thức hóa quan hệ hôn nhân
của hai gia đình. Lễ chạm ngõ ngày nay không còn theo lối xưa, mà chỉ là buổi
21


gặp gỡ giữa hai gia đình. Nhà trai xin đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho
đôi nam nữ được tự do đi lại, tiếp tục quá trình tìm hiểu nhau một cách kỹ càng
hơn trước khi đi đến quyết định hôn nhân. Buổi lễ này, không cần vai trò hẹn
trước của người mai mối và cũng không cần lễ vật rườm rà. Tuy không phải là
một lễ trọng nhưng lại là một lễ không thể thiếu trong tiến trình hôn lễ. Hơn
nữa, lễ này không tốn kém (lễ vật chỉ có trầu cau) mà lại biểu thị được bản sắc
văn hóa dân tộc thì việc bỏ qua là điều không hợp lý.
- Lễ ăn hỏi: Tại quận Hai Bà Trưng hiện nay, về hình thức lễ này vẫn
giữ tên là lễ ăn hỏi, nhưng trên thực tế, nó đã bao hàm cả lễ dẫn cưới. Chính vì
thế, mô hình lễ ăn hỏi ngày nay phải phản ánh được sự thay đổi ấy, nói cách
khác, trong các nghi thức ở lễ ăn hỏi ngày nay phải có cả những nghi thức của

lễ dẫn cưới. Lễ vật của lễ ăn hỏi thường là: cau tươi, bánh cốm, chè, rượu,
bánh xu xê (phu thê), phong bì tiền… những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ
truyền.
- Lễ cưới: Lễ cưới chỉ được tổ chức sau khi đã được chính quyền cấp
giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Trước đây, người ta gọi lễ này là lễ rước
dâu. Ngày nay, trong ngôn từ của đời sống thường ngày, người ta gọi lễ này là
lễ cưới (dịch theo tiếng Hán là hôn lễ). Ý nghĩa của lễ này là: Công bố sự
thành hôn của đôi trai gái (còn được gọi là lễ Thành hôn). Lễ cưới bao gồm các
nghi thức sau: Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu, mẹ chú rể sẽ cùng một người
thân trong gia đình đến nhà gái đem cơi trầu, chai rượu để báo trước giờ đoàn
đón dâu sẽ đến, nhà gái yên tâm chuẩn bị đón tiếp. Lễ rước dâu: Dù đoàn rước
dâu của nhà trai có đi bằng phương tiện gì chăng nữa thì trước khi vào nhà gái
cũng phải “chấn chỉnh đội hình”.Theo quan niệm dân gian thì cưới xin là một
nghi thức lớn và quan trọng nhất trong cuộc đời của mỗi con người, đồng thời
nó cũng thể hiện nét văn hóa đặc trưng của mỗi quốc gia. Ngày nay, tục lệ cưới
xin đã có phần đơn giản, nhanh gọn và tiết kiệm hơn nhiều, nhưng không vì
thế mà mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc...
22


2.2.1.2. Truyền thống đạo Hiếu
Về cơ bản, nội dung phạm trù “hiếu” mang một ý nghĩa tích cực, đó là
bổn phận làm con phải có hiếu với cha mẹ. Trong việc thực hành đạo hiếu,
người Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, song đạo hiếu ở Việt
Nam vẫn có nét đặc sắc riêng, không hà khắc và cứng nhắc như trong quan
niệm của Nho giáo.
Đã từ lâu, người dân trên địa bàn quận Hai Bà Trưng hết sức coi trọng
việc giáo dục đạo lý làm người cho con cháu, mà trước hết là phải lấy chữ hiếu
làm đầu. Bởi lẽ, một con người mà không có hiếu đối với ông bà, cha mẹ,
không biết yêu thương, kính trọng những người sinh thành dưỡng dục mình,

thì khi ra ngoài xã hội, con người ấy khó trở thành người có tình cảm, biết yêu
thương những người xung quanh. Trách nhiệm, nghĩa vụ đối với ông bà, cha
mẹ được cô đúc trong khái niệm hiếu. Hiếu không những được xem là đứng
đầu của đức hạnh, mà còn là cội nguồn để có được phúc thiện. Theo đó, mỗi cá
nhân phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc, chuẩn mực đạo đức của gia đình,
gia tộc, tuân theo nề nếp gia phong “trên kính dưới nhường”, khác đi đều bị coi
là bất hiếu.
Trong dân gian, đạo hiếu được thể hiện ngay trong những lời ru từ khi
con người mới sinh ra, còn nằm trong nôi. Nội dung chữ hiếu trong dân gian
đơn giản, thiết thực, bất kỳ ai cũng có thể thực hiện được, chỉ cần có tấm lòng
hiếu thảo thực tâm. Đó là sự quan tâm, chăm sóc, cầu mong cha mẹ khoẻ
mạnh, sống lâu, vui vẻ. Đó cũng là những cố gắng gìn giữ, phát huy nề nếp,
gia phong, là sự biết ơn ông bà tổ tiên và sự chăm sóc các thế hệ sau. Bởi bất
cứ ai tồn tại trên cõi đời đều được sinh ra từ cha mẹ mình. Thể hiện đạo hiếu
với cha mẹ không chỉ là bổn phận, trách nhiệm của người làm con, mà còn là
quyền lợi thiêng liêng và cao cả của mỗi người. Việc giáo dục đạo hiếu giúp
con cái thấy được bổn phận làm con, giữ đúng vị trí của mình trong gia đình là
vấn đề hết sức quan trọng trong giáo dục gia đình từ xưa đến nay. Không chú
23


tâm tới giáo dục đạo hiếu trong gia đình là thiếu sót, quên lãng cái nền móng
thiết yếu nhất của đạo đức xã hội và con người.
Thực tế hiện nay, vấn đề đọa hiếu còn phát sinh nhiều yếu tố biến
chuyển. Người dân tại Hà Nội nói chung và quận Hai Bà Trưng nói riêng bên
cạnh những tấm gương hiếu thảo, những tấm lòng nhân nghĩa, ân tình với cha
mẹ, thì vẫn còn đó nhiều người con đã có thái độ bất nhân, bất nghĩa, thiếu tôn
trọng hoặc có hành vi hỗn láo, vô đạo đức với cha mẹ. Một số người coi việc
nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ như một gánh nặng. Một số người khác lại nghĩ
rằng, chỉ cần đóng góp tiền bạc để nuôi dưỡng cha mẹ là đã làm tròn bổn phận

của người con. Có những gia đình kinh tế khó khăn, điều kiện vật chất eo hẹp
nên không có điều kiện hoặc thường lảng tránh việc chăm sóc cha mẹ. Nhưng
cũng có những người rất giàu có thì lại báo hiếu chỉ bằng cách thuê những
người xa lạ về chăm sóc cha mẹ, để cha mẹ sống trong buồn tủi, cô đơn.
2.2.1.3. Truyền thống thờ cúng tổ tiên
Truyền thống thờ cúng tổ tiên được một bộ phận lớn các gia đình trên địa
bàn quận Hai Bà Trưng duy trì qua các thế hệ . các gia đình đều có ban thờ để
thờ cúng tổ tiên, ông bà không kể giàu nghèo hay địa vị xã hội. Thờ cúng tổ
tiên là một nét văn hóa tâm linh truyền thống của người Việt và bàn thờ tổ tiên
là một phần không thể thiếu trong mỗi gia đình. Trong gia đình thờ cúng ông
bà tổ tiên để luôn nhắc nhở con cháu rằng : "cây có cội, nước có nguồn", vì
nhớ ơn mà phải cố gắng gắng giữ lấy "nếp nhà" (gia phong) và phấn đấu theo
nguyện
Vong linh ông bà tổ tiên nơi chín suối kia có biết được tấm lòng hiếu thảo
của con cháu hay không là điều nằm ngoài tầm hiểu biết của chúng ta, song giá
trị đọng lại trong nhận thức của từng thành viên là vô cùng quý giá. Đạo thờ
ông bà không chỉ là một sợi dây linh thiêng gắn kết gia đình, dòng tộc, mà qua
đó mỗi thành viên đều được giáo dục đạo đức truyền thống gia đình.

24


Người Việt Nam và các nước phương Đông coi trọng ngày mất và ngày
giỗ của tổ tiên, thể hiện của tinh thần coi trọng quá khứ và di sản từ quá khứ.
Có hai ý nghĩa lớn hình thành nên đạo thờ này ở phương Đông, một là quan
niệm chữ hiếu đối với thế hệ đi trước, qua các nghi lễ thể hiện mong muốn ông
bà tổ tiên có một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia, bên cạnh đó, họ cũng
mong muốn được vong linh tổ tiên che chở, “chỉ đạo” trước những khúc mắc
của cuộc sống phàm trần, và hai là ý nghĩa giáo dục dành cho người còn sống.
Như vậy thờ cúng tổ tiên ở đây không chỉ là tín ngưỡng dân gian bình

thường mà nó trở thành như là một tập quán sống có đạo lý của người Việt
Nam xưa nay, đó là tinh thần đề cao việc nhân nghĩa, thủy chung, "uống nước
nhớ nguồn", "ăn trái nhớ người trồng cây" và hơn nữa nó còn như là hạt nhân
quan trọng liên kết các giá trị căn bản trong nền văn hóa truyền thống Việt
Nam .
2.2.1.4. Mô hình gia đình
- Mô hình gia đình ít con
Ở các độ thị trong đó có quận Hai Bà Trưng, Hà Nội và cả ở nông thôn,
thay cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai trò chủ đạo. Gia đình Việt
Nam ngày nay phần lớn là gia đình hạt nhân trong đó chỉ có một cặp vợ chồng
(bố mẹ) và con cái mà họ sinh ra. Xu hướng hạt nhân hoá gia đình ở Việt Nam
đang có chiều hướng gia tăng vì nhiều ưu điểm và lợi thế của nó.
Trước hết, gia đình ít con tồn tại như một đơn vị độc lập, gọn nhẹ, linh
hoạt và có khả năng thích ứng nhanh với các biến đổi xã hội, có sự độc lập về
quan hệ kinh tế. Kiểu gia đình này tạo cho mỗi thành viên khoảng không gian
tự do tương đối lớn để phát triển tự do cá nhân. Vai trò cá nhân được đề cao.
Tuy nhiên, gia đình ít con cũng có những điểm yếu nhất định. Chẳng hạn, do
mức độ liên kết giảm sút và sự ngăn cách không gian giữa các gia đình nên khả
năng hỗ trợ lẫn nhau về vật chất và tinh thần bị hạn chế. Ảnh hưởng của các
thế hệ tới nhau ít đi cũng làm giảm khả năng kế thừa, phát huy các giá trị văn
25


×