Tải bản đầy đủ (.doc) (179 trang)

Nghiên cứu cảnh quan phục vụ sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 179 trang )

MỤC LỤC

TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU

PHỤ LỤC.....................................................................................................ii
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................2

CHƯƠNG I .................................................................................................5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU CẢNH QUAN PHỤC VỤ
SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN,
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỈNH QUẢNG BÌNH.....................................5
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về lý luận nghiên cứu cảnh quan, sử dụng
hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường..............................................5
1.1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu cảnh quan trên thế giới..........................5
1.1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu cảnh quan ở Việt Nam..........................................17
1.1.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến cảnh quan tỉnh Quảng Bình...19

1.2. Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan...............22
1.2.1. Quan niệm Cảnh quan và Cảnh quan học......................................................................22
1.2.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cảnh quan tỉnh Quảng Bình..............24

1.3. Vấn đề sử dụng hợp lý tài nguyên thiên và bảo vệ môi trường......................39
1.3.1. Một số vấn đề về sử dụng hợp lý TNTN và BVMT.........................................................39
1.3.2. Mối quan hệ giữa cảnh quan và sản xuất lãnh thổ.......................................................41

CHƯƠNG II...............................................................................................45
ĐẶC ĐIỂM CÁC YẾU TỐ THÀNH TẠO CẢNH QUAN
TỈNH QUẢNG BÌNH................................................................................45


2.1. Đặc điểm các yếu tố tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên tỉnh Quảng Bình.........45
2.1.1. Vị trí địa lý .....................................................................................................................45
2.1.2. Đặc điểm địa chất – kiến tạo..........................................................................................46
2.1.3. Địa hình..........................................................................................................................48
2.1.4. Khí hậu............................................................................................................................51
2.1.5. Thuỷ văn.........................................................................................................................57
2.1.6. Thổ nhưỡng....................................................................................................................60
2.1.7. Sinh vật ..........................................................................................................................64

2.2. Đặc điểm các yếu tố kinh tế-xã hội tỉnh Quảng Bình.....................................70
2.2. 1. Dân cư và lực lượng lao động.......................................................................................70
2.2.2. Các ngành kinh tế...........................................................................................................71
2.2.3. Hiện trạng sử dụng tài nguyên và môi trường tỉnh Quảng Bình...................................74

2.3. Vai trò các yếu tố tự nhiên và kinh tế-xã hội trong thành tạo cảnh quan tỉnh
Quảng Bình .....................................................................................................................79
2.3. 1. Các yếu tố tự nhiên trong thành tạo cảnh quan tỉnh Quảng Bình................................79
2.3.2. Các yếu tố kinh tế - xã hội trong thành tạo cảnh quan Quảng Bình.............................85

i


CHƯƠNG III.............................................................................................89
PHÂN TÍCH ĐA DẠNG CẢNH QUAN TỈNH QUẢNG BÌNH...........89
3.1. Hệ thống phân loại cảnh quan tỉnh Quảng Bình ............................................89
3.1.1. Cơ sở và nguyên tắc xây dựng hệ thống phân loại cảnh quan tỉnh Quảng Bình...........89
3.1.2. Hệ thống phân loại cảnh quan tỉnh Quảng Bình cho bản đồ cảnh quan tỉnh Quảng Bình
tỷ lệ 1:100.000..................................................................................................................................95
3.1.3. Bản đồ cảnh quan tỉnh Quảng Bình tỷ lệ 1:100.000......................................................98


3.2. Đặc điểm đa dạng cảnh quan tỉnh Quảng Bình ............................................100
3.2.1. Đa dạng cấu trúc cảnh quan tỉnh Quảng Bình.............................................................100

3.2.1.1. Cấp Lớp cảnh quan.................................................................................101
3.2.1.2. Cấp Phụ lớp cảnh quan............................................................................103
3.2.1.3. Cấp Kiểu cảnh quan................................................................................110
3.2.2. Đa dạng chức năng và động lực cảnh quan tỉnh Quảng Bình......................................111

CHƯƠNG IV ..........................................................................................120
ĐÁNH GIÁ CẢNH QUAN CHO MỤC ĐÍCH ĐỊNH HƯỚNG SỬ
DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN, BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG TỈNH QUẢNG BÌNH...........................................................120
4.1. Đánh giá cảnh quan tỉnh Quảng Bình cho mục đích phát triển nông, lâm nghiệp
và du lịch.......................................................................................................................120
4.1.1. Nguyên tắc, đối tượng, mục tiêu đánh giá cảnh quan Quảng Bình............................121
4.1.2. Hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá.........................................................................121
4.1.3. Kết quả đánh giá:.........................................................................................................134

4.2. Định hướng sử dụng hợp lý nguồn TNTN và BVMT tỉnh Quảng Bình.......142
4.2.1. Quan điểm và cơ sở của việc định hướng sử dụng TNTN và BVMT Tỉnh Quảng Bình.
........................................................................................................................................................142
4.2.2. Định hướng và giải pháp phát triển các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp, du lịch tỉnh
Quảng Bình.....................................................................................................................................153

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.................................................................167
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................iii
PHỤ LỤC

ii



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để phát triển kinh tế xã hội của một lãnh thổ lâu dài và bền vững thì vấn đề sử
dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và khai thác các
nguồn lực, sử dụng có hiệu quả là những vấn đề hết sức quan trọng.
Cảnh quan của một lãnh thổ luôn có những thay đổi và phân hoá phức tạp.
Các thành phần cấu tạo cảnh quan có tính độc lập tương đối, song giữa chúng có
mối quan hệ chặt chẽ tạo thành một hệ thống động lực. Hệ thống đó tồn tại trong
trạng thái cân bằng động, một thành phần nào đó trong hệ thống thay đổi có thể sẽ
dẫn đến sự thay đổi của các thành phần khác và phá vỡ hệ thống cũ tạo nên một hệ
thống mới. Nếu khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên tức là tác động vào
hệ thống tự nhiên một cách phù hợp với đặc điểm, quy luật phát sinh, phát triển của
chúng thì sẽ bảo vệ, tái tạo được nguồn tài nguyên thiên nhiên (TNTN) và đảm bảo
được sự phát triển bền vững của lãnh thổ. Ngược lại, nếu con người khai thác, sử
dụng tự nhiên không tuân theo những quy luật thì sẽ mang lại những hậu quả lâu dài
và không lường trước được. Vì thế, việc nghiên cứu để tìm ra những đặc trưng, quy
luật phát sinh, phát triển của một lãnh thổ tự nhiên là rất quan trọng, giúp cho việc
sử dụng lãnh thổ một cách hợp lý, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi
trường, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội một cách bền vững.
Trong những năm gần đây, để giải quyết những vấn đề thực tế mang tính tổng
hợp cao, hướng nghiên cứu cảnh quan (NCCQ), đánh giá cảnh quan (ĐGCQ) đã trở
thành hướng nghiên cứu quan trọng, đáp ứng được nhiều vấn đề thực tế đặt ra và là
cơ sở khoa học của việc lựa chọn các mục tiêu sử dụng thích hợp lãnh thổ. Dựa vào
kết quả nghiên cứu, đánh giá đặc điểm các thành phần tự nhiên, TNTN; phân tích
tính đa dạng của cảnh quan trên cơ sở làm rõ cấu trúc, chức năng và động lực phát
triển cảnh quan có xem xét đến yếu tố nhân tác là những cơ sở khoa học đầy đủ và
đáng tin cậy để hoạch định phát triển kinh tế của mỗi một vùng lãnh thổ.
Quảng Bình là cửa ngõ của miền Trung Trung Bộ, nơi hẹp nhất của lãnh thổ
nước ta. Quảng Bình nằm trong vùng giao thoa của các điều kiện tự nhiên và kinh tế

xã hội giữa miền Bắc và miền Nam, vì thế sự phân hoá của tự nhiên cũng như kinh
tế xã hội là hết sức phức tạp. Đây cũng là một trong những tỉnh nghèo, kinh tế xã
hội phát triển chậm so với các tỉnh khác trong khu vực và cả nước. Quảng Bình có
rừng núi, có đồng bằng duyên hải và giáp với biển, vì thế với tiềm năng vốn có
Quảng Bình có thể phát triển một nền kinh tế toàn diện gồm cả công, nông, lâm,
1


ngư nghiệp và du lịch. Tuy nhiên tiềm năng để phát triển kinh tế của tỉnh còn rất lớn
nhưng vấn đề khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực mang tính bền vững lâu
dài và đồng bộ trên toàn lãnh thổ thì vẫn đang là vấn đề cấp bách, cần được quan
tâm. Nhiều hoạt động kinh tế xã hội như phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị, du
lịch ở Quảng Bình trong những năm gần đây ít nhiều đã ảnh hưởng không tốt đến
môi trường tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên tỉnh Quảng Bình.
Trên thực tế ở Quảng Bình các công trình đã được nghiên cứu, ứng dụng vào
phát triển kinh tế xã hội chỉ dừng lại ở mức độ phục vụ cho từng mục tiêu cụ thể,
chưa có công trình nghiên cứu, đánh giá một cách tổng hợp về điều kiện tự nhiên,
tài nguyên thiên nhiên trên toàn tỉnh. Để có một cách nhìn nhận tổng thể và hoàn
thiện hơn về đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên tỉnh Quảng Bình, nhằm
xây dựng những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác quy hoạch phát triển kinh
tế xã hội bền vững lâu dài, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tự nhiên và
tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường trên toàn lãnh thổ thì có thể thấy rằng vấn
đề nghiên cứu, đánh giá cảnh quan tỉnh Quảng Bình là vấn đề hết sức cần thiết.
Bên cạnh đó, tác giả hiện đang là giảng viên, giảng dạy Địa lý tại trường Đại
học Quảng Bình, vì vậy vấn đề vận dụng phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu vào thực tiễn nghiên cứu địa lý địa phương là một hướng nghiên cứu vừa có ý
nghĩa khoa học vừa mang ý nghĩa thực tiễn lớn.
Xuất phát từ những nhìn nhận trên tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu
cảnh quan phục vụ sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường tỉnh Quảng Bình” để thực hiện nghiên cứu.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Xác lập được những luận cứ khoa học cho việc sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình trên cơ sở phân tích,
đánh giá cảnh quan cho các mục đích phát triển kinh tế.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận của cảnh quan học, cảnh quan ứng dụng,
đánh giá cảnh quan và nghiên cứu cơ sở lý luận, phương pháp luận sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình.

2


2. Phân tích đặc điểm và vai trò của các yếu tố thành tạo cảnh quan để thấy
được đặc điểm phân hóa của quy luật tự nhiên và mối quan hệ của các thành phần
tự nhiên trong tổng thể tự nhiên, cũng như mối quan hệ giữa tự nhiên và kinh tế - xã
hội tỉnh Quảng Bình.
3. Xây dựng hệ thống phân loại cảnh quan và thành lập Bản đồ cảnh quan tỉnh
Quảng Bình tỷ lệ 1:100.000. Phân tích đa dạng cảnh quan tỉnh Quảng Bình.
4. Đánh giá cảnh quan nhằm xác định mức độ thích nghi của các đơn vị cảnh
quan đối với mục đích phát triển các ngành kinh tế nông, lâm nghiệp và du lịch tỉnh
Quảng Bình, đề xuất định hướng và các giải pháp phát triển nhằm sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Không gian nghiên cứu:
Phạm vi lãnh thổ đất liền tỉnh Quảng Bình, kéo dài từ 17005’02” đến
18005’12” vĩ độ Bắc và từ 105036’55” đến 106059’37” kinh độ Đông.
3.2. Phạm vi khoa học:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh

quan, các yếu tố thành tạo cảnh quan tỉnh Quảng Bình. Xây dựng hệ thống phân
loại và bản đồ cảnh quan tỉnh Quảng Bình tỷ lệ 1:100.000.
- Phân tích cảnh quan tỉnh Quảng Bình làm cơ sở đánh giá tổng hợp điều kiện
tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên cho mục đích phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp
và du lịch và đề xuất định hướng, giải pháp phát triển trên quan điểm sử dụng hợp
lý tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững lãnh thổ nghiên cứu.
4. Luận điểm bảo vệ
- Tiếp cận cảnh quan học, phân tích tính đa dạng và phức tạp trong cấu trúc,
chức năng của cảnh quan có ý nghĩa khoa học, tính hiệu quả và sự phù hợp cao
trong sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường lãnh thổ nghiên cứu.
- Quảng Bình có tiềm năng đa dạng về tự nhiên, tài nguyên và kinh tế - xã hội,
tạo nên sự phân hóa phức tạp của các cảnh quan tự nhiên từ lớp CQ đồi núi thấp
phía tây với những dạng địa hình caxtơ đến lớp CQ đồng bằng ven biển với dải cồn
cát trắng vàng, hình thành nên 6 phụ lớp gồm 130 loại CQ khác nhau. Đánh giá
tổng hợp điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, xác định mức độ thích nghi
của các đơn vị cảnh quan đối với các mục đích phát triển nông, lâm nghiệp và du

3


lịch là cơ sở khoa học và thực tiễn tin cậy để đề xuất các định hướng, các giải pháp
phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển bền vững lãnh thổ tỉnh Quảng Bình.
5. Những điểm mới của đề tài
- Lần đầu tiên tiến hành nghiên cứu sự phân hóa đa dạng và có tính quy luật
của các thành phần tự nhiên trong hệ thống cảnh quan tỉnh Quảng Bình, từ đó xây
dựng được hệ thống phân loại cảnh quan, thành lập bản đồ cảnh quan tỉnh Quảng
Bình tỷ lệ 1:100.000.
- Đánh giá và xác lập mức độ thích nghi của các đơn vị cảnh quan cho mục
đích phát triển các ngành kinh tế nông, lâm nghiệp và du lịch trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình; là cơ sở đề xuất định hướng và các giải pháp cho phát triển nông, lâm

nghiệp và du lịch tỉnh Quảng Bình trên quan điểm sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo
vệ môi trường và phát triển bền vững.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Góp phần hoàn thiện thêm những vấn đề về lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu, tiếp cận cảnh quan học vào việc nghiên cứu, đánh giá cảnh quan cho
một lãnh thổ cụ thể. Kết quả nghiên cứu chứng minh được sự phân hoá đa dạng,
phức tạp của tự nhiên, tính đặc trưng và tính quy luật của cảnh quan.
- Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá cảnh quan, luận án xác lập luận cứ khoa học
đề xuất các định hướng và các giải pháp phát triển các ngành sản xuất, kinh tế nhằm
sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững lãnh thổ tỉnh
Quảng Bình.
7. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án trình bày trong 4 chương gồm …
trang, có 16 bản đồ, 2 lát cắt, 05 sơ đồ, biểu đồ và 27 bảng số liệu. Ngoài ra còn có
phần phụ lục minh hoạ.
Chương 1: Cơ sở lý luận về nghiên cứu cảnh quan phục vụ sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình
Chương 2: Đặc điểm các yếu tố thành tạo cảnh quan tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Phân tích đa dạng cảnh quan tỉnh Quảng Bình
Chương 4: Đánh giá cảnh quan phục vụ cho mục đích định hướng sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường tỉnh Quảng Bình.

4


CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN CỨU CẢNH QUAN PHỤC VỤ
SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN,
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỈNH QUẢNG BÌNH

Trên thế giới cũng như ở Việt Nam cảnh quan học ngày càng gắn bó với nhu
cầu thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội, các xu hướng ứng dụng ngày càng rộng rãi,
đồng thời ngày càng hoàn thiện về cả lý luận, phương pháp nghiên cứu và ứng dụng
công nghệ hiện đại. Để tiến hành NCCQ, ứng dụng vào thực tiễn sử dụng hợp lý
TNTN và BVMT tỉnh Quảng Bình, trước hết luận án nghiên cứu những vấn đề về
lý luận và phương pháp luận nghiên cứu gồm: Tổng quan các công trình đã nghiên
cứu ở trên thế giới và ở Việt Nam, các công trình ở Quảng Bình có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu; Quan điểm tiếp cận, phương pháp và quy trình nghiên cứu,
ĐGCQ phục vụ sử dụng hợp lý TNTN và BNMT.
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về lý luận nghiên cứu cảnh
quan, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Cảnh quan học là một bộ môn khoa học về địa lý tự nhiên tổng hợp. Cảnh
quan học là sự kế tục của địa lý tự nhiên đại cương, giữa chúng không có ranh giới
rõ rệt, những kiến thức cơ sở của địa lý tự nhiên đại cương là điều kiện để nghiên
cứu cảnh quan học. Cảnh quan học có ý nghĩa thực tiễn lớn lao về nhiều mặt và có
quan hệ trực tiếp tới vấn đề sử dụng tổng hợp và bảo vệ TNTN. Chính vì lẽ đó Cảnh
quan học đã phát triển một cách nhanh chóng và trở thành một ngành quan trọng
của địa lý tự nhiên hiện đại nghiên cứu về các thể tổng hợp địa lý tự nhiên.
1.1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu cảnh quan trên thế giới
1.1.1.1. Các tiền đề phát triển của học thuyết cảnh quan
Sự xuất hiện của bất kỳ học thuyết mới nào đều được chuẩn bị từ những phát
triển của nhiều ngành khoa học và nó ra đời khi có những tiền đề nhất định. Bất cứ
một khoa học nào cũng phải được chuẩn bị bằng những bước phát triển của các
khoa học trước đó và chỉ xuất hiện một cách có quy luật khi có những điều kiện
chín muồi nhất định, khoa học cảnh quan cũng không nằm ngoài quy luật này. Khi
mà các ngành địa lý bộ phận (địa chất học, khí hậu học, địa mạo học…) đã được
kiện toàn một cách sâu sắc, địa sinh vật và thổ nhưỡng học đã trở thành các lĩnh vực
khoa học độc lập; vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, hướng nghiên cứu các tổng
hợp thể địa lý tự nhiên lãnh thổ đã ở vào giai đoạn phân tích các lượng thông tin địa


5


lý, khái niệm về tổng hợp thể địa lý tự nhiên đã được hình thành nhờ sự tiến bộ
trong phương pháp nghiên cứu từ phân tích đến tổng hợp của khoa học tự nhiên.
Các nhà sinh vật học và thổ nhưỡng học là những người đầu tiên đề cập đến mối
quan hệ tương hỗ, phức tạp giữa giới vô sinh và giới hữu sinh. Những cơ sở đó làm
cho các khoa học bộ phận tiến dần đến sự tổng hợp của địa lý. Đây là tiền đề thứ
nhất cho sự phát triển của khoa học cảnh quan.
Tiền đề thứ hai là những đòi hỏi của hoạt động KT-XH. Vào thời kỳ này, thực
tiễn sản xuất chỉ ra rằng: muốn giải quyết những vấn đề nóng bỏng trong quá trình
khai thác tự nhiên cần phải hiểu biết rõ ràng, đầy đủ các mối quan hệ giữa các hợp
phần tự nhiên và các tổng hợp thể địa lý tự nhiên lãnh thổ cụ thể.
Hai tiền đề cơ bản trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành khoa học
cảnh quan. Tuy nhiên, nguồn gốc ra đời của học thuyết sâu xa hơn, gốc rễ của nó ăn
sâu vào kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân và sự phát triển của nó liên quan đến
những vấn đề về phát triển KT-XH.
Những ý tưởng về cảnh quan học thực tế có từ trong sự phát triển của các khoa
học tự nhiên bắt đầu vào thời kỳ giữa, cuối thế kỷ XIX. Trong thực tiễn khai thác tự
nhiên phục vụ sản xuất, những từ ngữ như: đài nguyên, rừng lá nhọn, thảo nguyên,
sa mạc…được dùng để chỉ những kiểu cảnh quan khác nhau đã xâm nhập vào trong
khoa học. Đến một giai đoạn nhất định, việc xem xét một cách toàn diện và đầy đủ
các ĐKTN, TNTN của một vùng trong tiến hành sản xuất đòi hỏi cần quan tâm đến
công tác phân vùng lãnh thổ, vào cuối thế kỷ XIX công tác này càng được tăng
cường. Có rất nhiều công trình phân vùng địa lý tự nhiên nước Nga đóng vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của khoa học cảnh quan trong suốt cả thế kỷ, song
các công trình này chủ yếu còn mang tính chất thực nghiệm, thiếu cơ sở lý luận và
học thuyết cảnh quan chính là cơ sở lý luận đó [31], [39], [41].
Nền móng cảnh quan học được ra đời vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở 2
chiếc nôi lớn trên thế giới là Châu Âu và Bắc Mỹ với các công trình nghiên cứu về

sự phân chia tự nhiên bề mặt đất của nhiều nhà Địa lý Nga như: V.V. Đôcutraev,
L.S. Berge, G.N.Vưxotxki, G.F.Môrôzov,...ở Đức có Z.Passarge, A.Hettner... và
một số nhà địa lý ở Anh, Pháp, Mỹ.
1.1.1.2. Những luận điểm cơ bản áp dụng để nghiên cứu cảnh quan
Cơ sở triết học của lý luận cảnh quan học coi tự nhiên là một hệ thống hoàn
chỉnh, trong đó các đối tượng, hiện tượng đều phát sinh, phát triển trong mối quan
hệ, tác động qua lại vô cùng mật thiết. Tự nhiên mà rộng nhất là lớp vỏ địa lý bao
6


gồm nhiều thành phần xâm nhập vào nhau (thạch quyển, thủy quyển, thổ nhưỡng
quyển, sinh quyển, khí quyển) và được cấu tạo từ các khu vực lớn, nhỏ được phân
hóa ra trong lịch sử phát triển hàng trăm triệu năm của Trái Đất. Các khu vực lớn
nhỏ này là các địa tổng thể hay các tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên, chúng là các khu
vực địa lý khác nhau về hình dạng bên ngoài và tính chất bên trong. Đây là đối
tượng nghiên cứu của Cảnh quan học.
Cảnh quan học có nhiệm vụ nghiên cứu các địa tổng thể, tìm hiểu mối quan hệ
biện chứng giữa các thành phần vật chất và năng lượng cấu tạo nên chúng và cả
những mối quan hệ biện chứng giữa các địa tổng thể với nhau. Để hoàn thành
nhiệm vụ này, cảnh quan học phải giải quyết hàng loạt các cặp phạm trù biện
chứng, với nhiều mâu thuẫn phức tạp.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Cảnh quan học hiện đại bắt đầu phát triển
mạnh. Những nghiên cứu cấu trúc thiên về xác định định tính các tính chất CQ đã
sử dụng các biện pháp liên ngành, nhiều bộ môn khoa học CQ mới ra đời như: Địa
hóa học cảnh quan, địa vật lý cảnh quan, trạng thái học cảnh quan, sinh thái học
cảnh quan,…Trong quá trình sử dụng các biện pháp nghiên cứu liên ngành thì việc
sử dụng tiếp cận hệ thống, tiếp cận điều khiển, tiếp cận sinh thái,…cũng như việc
nghiên cứu các tác động kỹ thuật vào CQ đã tạo nên một bước ngoặt từ nghiên cứu
cấu trúc sang nghiên cứu chức năng, động lực trong nghiên cứu CQ.
Trong những năm gần đây, nhờ sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã giúp

cho địa lý CQ có những công cụ nghiên cứu hữu hiệu như công nghệ viễn thám,
công nghệ GIS... Hiện nay việc NCCQ đã được mở rộng về cả phương pháp nghiên
cứu, cách tiếp cận, vì vậy các kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng rộng rãi trong
phát triển KT-XH, tạo cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý TNTN, BVMT và
phát triển bền vững kinh tế xã hội.
1.1.1.3. Sự phát triển của Cảnh quan và Cảnh quan sinh thái.
a) Sự phát triển của Cảnh quan học ở Nga và các nước Đông Âu.
Cơ sở của địa lý tự nhiên hiện đại gắn liền với tên tuổi và các công trình
nghiên cứu của nhà thổ nhưỡng học người Nga V.V. Đôcutsaev (1846 - 1903). Học
thuyết về đất của ông là nhân tố khởi đầu về tổng hợp thể địa lý tự nhiên. Theo V.V.
Đôcutsaev thì “đất là kết quả của sự tác động qua lại giữa đá gốc, địa hình, nước,
nhiệt và sinh vật, nó dường như là sản phẩm của CQ và đồng thời cũng là tấm
gương của nó, phản ánh một cách cụ thể hệ thống phức tạp các mối quan hệ qua lại
trong tổng thể tự nhiên”; “đất là tấm gương của cảnh quan”. Trong các nghiên cứu
7


của mình, Ông cho rằng phải có một khoa học mới về quan hệ và tác động qua lại
giữa các hợp phần tự nhiên và về các quy luật phát triển chung của chúng. Ông đã
cống hiến cho nền khoa học địa lý một công trình lớn lao là học thuyết về các Đới
thiên nhiên. Ông là người đầu tiên trình bày về tính đới như một quy luật thế giới,
quan niệm mỗi đới thiên nhiên hay còn gọi là đới lịch sử - tự nhiên là một tổng hợp
thể thiên nhiên có quy luật, quan điểm này không tìm thấy ở các nhà khoa học trước
đó và bản thân Ông cũng không nêu lên được tên gọi cho môn khoa học mới này,
song quan niệm của Ông đã được các học trò của Ông tiếp tục nghiên cứu về cả lý
thuyết lẫn thực tiễn và mang lại những kết quả đáng kể. A.A.Iarilôv ngay sau đó
cũng đã hiểu và cho rằng, chính quan điểm trên của Đôcutsaev đã tạo nên bản chất
của địa lý học hiện đại, của cảnh quan học [39], [41].
Tiếp theo V.V. Đôcutsaev, một nhà bác học, nhà nghiên cứu địa lý Nga nổi
tiếng khác là L.S.Becgơ cũng đã khẳng định: các đới lịch sử-tự nhiên của V.V.

Đôcutsaev không có gì khác với các đới CQ và khoa học tương quan mà ông đã cố
gắng tìm ra cơ sở cho nó, đó chính là Cảnh quan địa lý. Ông cũng cho rằng chính
V.V. Đôcutsaev với những công trình nghiên cứu rất lớn, rất sâu sắc cả về lý thuyết
và thực tiễn là người đã đặt nền móng, người đã sáng lập ra địa lý học hiện đại, sáng
lập ra Cảnh quan học.
A.N.Kraxnôv một trong những người học trò gần gũi của V.V. Đôcutsaev đã
đưa ra nhiều ý kiến và nhận thấy môn địa lý cũ thực tế đã tan rã thành nhiều môn
khoa học độc lập, vì vậy cần phải thành lập môn địa lý mới trên cơ sở của những
thành tựu mới về khoa học tự nhiên và kỹ thuật để nghiên cứu các mối liên hệ nhân
quả và những liên hệ phát sinh giữa các hiện tượng trên trái đất. Năm 1895
A.N.Kraxnôv đi tới quan điểm cho rằng, địa lý phải nghiên cứu các thể tổng hợp địa
lý, đến năm 1910 ông đã nêu lên đặc trưng của những thể tổng hợp lớn ở trên trái
đất và G.F.Môrôdôv, một trong những đại biểu xuất sắc của trường phái V.V.
Đôcutsaev đã suy nghĩ đến vấn đề địa lý ứng dụng.
Học thuyết về CQ là bước tiếp theo có tính chất tự nhiên của sự phát triển các
học thuyết về thể tổng hợp địa lý và học thuyết về các đới tự nhiên của V.V.
Đôcutsaev. Sự xuất hiện của Cảnh quan học là một giai đoạn có tính quy luật trong
lịch sử phát triển của khoa học địa lý tự nhiên. Quan niệm khoa học về CQ dần dần
được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau bởi các nhà bác học Xô Viết trong
thời kỳ từ năm 1904 đến 1914.
Năm 1904, với nhiều công trình nghiên cứu ở các bộ môn địa lý khác nhau
G.I.Vưsôtxki đã đưa ra định nghĩa CQ một cách độc đáo, ông gọi CQ là “địa
8


phương” hay “châu tự nhiên”. Ông nêu lên mức độ phong phú bên trong của các
điều kiện sinh thành chính là dấu hiệu của từng địa phương, các địa phương khác
biệt nhau bởi đặc điểm kết hợp của các kiểu sinh thành (tức các bộ phận hình thái
CQ). Ông cũng có ý nghĩ thành lập các bản đồ về các kiểu sinh thành (tức bản đồ
cảnh quan), đây là cơ sở quan trọng để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp [31], [39].

Năm 1913, L.S.Becgơ đã nêu lên rằng, CQ là đối tượng nghiên cứu của địa lý
học. Ông cũng xác định các đới tự nhiên chính là các đới cảnh quan, nó bao gồm
nhiều vùng tự nhiên hay còn gọi là các cảnh quan địa lý và trong mỗi CQ có thể
thấy mối quan hệ hài hòa giữa các dạng địa hình, khí hậu, nước, đất và các quần
hợp sinh vật. Công lao to lớn của ông là đã sáng lập nên trường phái cảnh quan học
[50], [60]. Sau đó G.F.Môrôdôv đã dựa trên cơ sở quan điểm về cảnh quan địa lý
của L.S.Becgơ để sáng lập ra môn Lâm học, ông còn cho rằng kết quả cuối cùng
của việc nghiên cứu lãnh thổ phải là sự phân chia chúng thành “một loạt các cảnh
quan toàn vẹn hay còn gọi là các đơn vị địa lý cá thể”, chính quan điểm này có ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành quan điểm của L.S.Becgơ.
Sau năm 1917, sự phát triển của bộ môn Địa lý ở Nga bước vào giai đoạn mới.
Mặc dù trong giai đoạn đầu Cảnh quan học Xô Viết chưa có những tổng hợp lý luận
lớn, song CQ đã xâm nhập sâu vào thực tế nghiên cứu lãnh thổ. Những bản đồ CQ
đầu tiên do B.B.Pôlưnôp, I.V.Larin, R.I.Abôlin thành lập là thành tựu quan trọng
của những cuộc nghiên cứu thực địa, chủ yếu được xây dựng ở tỷ lệ lớn và trung
bình, phân chia lãnh thổ các địa phương trên cơ sở các yếu tố đá mẹ, địa hình, đất
và thực vật; những bản đồ này thành lập một cách ngẫu nhiên do nhu cầu thực tiễn
do đó thiếu thống nhất, nhưng đã đưa ra được lập luận rằng: Những biện pháp cải
tạo thiên nhiên phải dựa trên bản đồ cảnh quan [31], [32].
Vào những năm 30, 40 có nhiều công trình mở rộng tìm hiểu các đồng cỏ tự
nhiên ở Liên Xô, dựa trên đó L.G.Ramenxki đã nêu hàng loạt những khái niệm mới
trong lĩnh vực lý thuyết CQ, những quan điểm cơ bản trong học thuyết CQ được áp
dụng nghiên cứu ở các miền thảo nguyên, đài nguyên, sa mạc...Có nhiều nhà địa lý
đã chú ý tới nghiên cứu về lý luận và phương pháp luận của khoa học CQ. Đáng
chú ý là công trình nổi tiếng của L.S.Becgơ năm 1931,“Các đới cảnh quan địa lý
Liên Xô”, ông đã trình bày một cách có hệ thống cơ sở học thuyết CQ, chỉnh lý, bổ
sung lại định nghĩa đầu tiên của mình và đưa ra những ví dụ về CQ, nhận xét về sự
tác động tương hỗ giữa các CQ và giữa các thành phần của nó, ông cũng chỉ ra
nguồn gốc của Cảnh quan học. Tiếp sau đó các công trình của A.N. Panômarep,
M.A. Pecvukhin đã đưa ra quan niệm về kiểu CQ hay kiểu lãnh thổ là tất cả những

9


bộ phận lãnh thổ cùng loại tương tự với nhau. Trong khi đó L.G.Ramenxki lại có
quan điểm rằng CQ là một hệ thống lãnh thổ phức tạp bao gồm những thể tổng hợp
tự nhiên cơ bản khác nhau, chúng liên hệ với nhau một cách có quy luật và phát
triển toàn vẹn, ông gọi đó là các Bì diện; Ông cũng đưa ra các khái niệm Cảnh khu
là sự tập hợp các cảnh diện thích nghi với các dạng địa hình độc lập, các khái niệm
của ông đã đề cập đến vấn đề động lực CQ. Cũng trong thời kỳ này, A.A.Grigôriep,
X.V.Kalexnik đã phát triển quan điểm rằng mỗi CQ có những đặc điểm không lặp
lại và phải được phân chia ở ngoài thực địa, gắn lý thuyết với thực địa. Tuy vậy về
phương pháp nghiên cứu CQ vẫn chưa có những bước tiến đáng kể.
Từ sau những năm 1945, Cảnh quan học Xô Viết mở rộng mạnh mẽ công tác
thực địa thành lập bản đồ CQ cũng như tăng cường nghiên cứu về lý luận. Năm
1947, N.A.Xôlntxev đã trình bày những tổng hợp lý luận đầu tiên, ông phát triển
các quan niệm về CQ trong các công trình trước đó của L.G.Ramenxki,
X.V.Kalexnik, đưa ra một nghĩa mới, rõ ràng hơn về hình thái CQ. Từ đó bắt đầu có
nhiều công trình nghiên cứu về lý luận CQ và các vấn đề liên quan như quần hệ
sinh vật, địa hoá học cảnh quan, phân vùng địa lý tự nhiên và hướng nghiên cứu
định lượng trong CQ cũng được quan tâm. Đầu tiên là các nghiên cứu của B.B.
Pôlưnôp, tiếp đó A.I. Pérelmen đã nghiên cứu về sự di động của các nguyên tố hoá
học trong CQ và yếu tố hoá học trong phân chia CQ. Tác giả M.A.Glazôpxkaia đã
tiến hành xây dựng những nguyên tắc phân loại địa hoá các CQ một cách cụ thể hơn
và đưa ra hệ thống phân loại các CQ địa phương. Hướng nghiên cứu địa vật lý cảnh
quan do A.L.Armand đề xuất, Ông đã sử dụng các phương pháp vật lý hiện đại để
nghiên cứu mối tác động qua lại giữa các thành phần cấu tạo nên CQ [40].
Năm 1955, hội nghị chuyên đề Cảnh quan học được triệu tập ở Lêningrat và
liên tiếp sau đó là các Hội nghị khoa học về các vấn đề Cảnh quan học được tổ chức
gần như hàng năm. Từ đó các nhà nghiên cứu cảnh quan học Xô Viết đã dần hoàn
thiện lý luận, phương pháp nghiên cứu, ứng dụng Cảnh quan học, mở rộng các công

trình nghiên cứu và thành lập bản đồ CQ ở nhiều tỷ lệ khác nhau, nghiên cứu về
nguyên tắc, phương pháp xây dựng bản đồ, phân loại CQ, vấn đề sử dụng học
thuyết CQ trong thực tiễn qua các công trình của N.I.Mikhailôv, V.B.Xôtsava
(1956), N.A.Gvozdexki (1963), X.V.Kalexnik (1964), A.G.Ixatsenko (1965),
P.N.Minkov, V.X.Preobrazenxki (1966), N.A.Xôlnxev, V.I.Prôkaev (1971)...
Theo A.E.Phedina trong những năm 1960 ở Liên Xô hàng năm đã có vài trăm
công trình nghiên cứu về các vấn đề phân vùng địa lý tự nhiên, phân vùng ứng dụng
và nghiên cứu về Cảnh quan học [41]. Những công trình này đã có những nghiên
10


cứu sâu về các vấn đề ứng dụng CQ, đáng chú ý nhất là các công trình phân loại CQ
của A.G.Ixasenko (1961), N.A.Gvozdexki (1963), V.A.Nhicolaev (1970). Khoa học
CQ từ nghiên cứu cấu trúc sang nghiên cứu chức năng, động lực (Ixasenko, 1991)
trên cơ sở địa lý học.
Trong quá trình sử dụng các phương pháp liên ngành, cách tiếp cận hệ thống
nghiên cứu quá trình trao đổi vật chất, năng lượng giữa các thành phần cảnh quan,
nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ giữa các thành phần vật chất sống với môi trường
đã xuất hiện một hướng nghiên cứu mới hướng Sinh thái cảnh quan học.
Từ những năm 1990 trở lại đây hướng nghiên cứu CQ ứng dụng được các nhà
địa lý Nga và các nước Đông Âu quan tâm, vận dụng ngày càng nhiều vào thực tiễn
phát triển KT-XH của các vùng, quốc gia, lãnh thổ trên thế giới. Các công trình
nghiên cứu CQ, CQST của Nga và một số nước như Ucraina, Belorutxia, Litva, Ba
Lan, Tiệp Khắc…đều dựa trên Cảnh quan học cơ bản và thống nhất quan điểm
trong nghiên cứu CQ ứng dụng cho các mục đích khác nhau. Có thể kể đến một số
tác giả và công trình nghiên cứu tiêu biểu từ những năm 1990 trở lại đây như sau:
- Hướng nghiên cứu phân vùng CQ lãnh thổ Liên bang Nga có công trình của
I.P.Geraximov, phân chia Liên bang Nga thành 17 miền CQ khác nhau và được các
nhà nghiên cứu Nga sử dụng để tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng trong các mục đích
xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

- Vào cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, Bacglanov tiến hành nghiên cứu, đánh
giá tính đa dạng của CQ vùng Viễn Đông, Liên bang Nga, đưa ra những cơ sở khoa
học và cơ sở thực tiễn phục vụ phát triển KT-XH và đảm bảo an ninh quốc phòng
của đất nước.
- Ở Ucraina từ những năm 1990 trở lại đây, do nhu cầu thực tiễn phát triển
KT-XH nên hướng CQ ứng dụng phát triển mạnh. Có các công trình của Marinhich
nghiên cứu phân vùng CQST Ucraina, làm rõ quy luật, đặc điểm, quy luật phát sinh,
phát triển, đặc thù từng vùng, miền CQ cho phát triển KT-XH. Sisenko đã tiếp tục
thiết kế CQ lãnh thổ Ucraina, chú trọng CQ đồng cỏ Nam Ucraina. Các ứng dụng
trong tổ chức và quy hoạch lãnh thổ đều dựa trên bản đồ cảnh quan.
Ở Ba Lan sự quan tâm về các vấn đề CQ xuất hiện do sự ảnh hưởng của các
nhà nghiên cứu CQ Liên Xô. Năm 1959, E.Cônđratxơki đã xây dựng hệ thống phân
loại và thành lập bản đồ cảnh quan Ba Lan ở tỷ lệ 1/1.000.000. Xu hướng này cũng
được các nhà địa lý Tiệp Khắc vận dụng để nghiên cứu lãnh thổ Tiệp Khắc [33].

11


Cũng như các nước khác trên thế giới, ở Nga và các nước Đông Âu khoa học
CQ nói chung, nghiên cứu CQ và STCQ nói riêng ngày càng đi sâu vào nghiên cứu
đa dạng cấu trúc, chức năng và động lực phát triển của CQ. Bằng các phương pháp
nghiên cứu và hỗ trợ của công nghệ hiện đại, với nhiều cách tiếp cận khác nhau tuy
nhiên không ngoài mục đích NCCQ để ứng dụng vào các vấn đề phát triển KT-XH
của đất nước, các vùng miền, lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý TNTN, BVMT và phát
triển kinh tế xã hội một cách bền vững.
b) Sự phát triển của Cảnh quan học ở các nước khác trên thế giới.
Quan niệm về cảnh quan đã được nêu lên bởi một vài nhà địa lý từ đầu thế kỷ
XX như: Nhà địa lý người Anh A.Ghebecxơn năm 1905 cho rằng nhiệm vụ của Địa
lý học là sự phân chia và hệ thống hoá những thể tổng hợp và đưa ra các kiểu khu
vực thiên nhiên cơ bản của đất liền bằng cách xem xét những sự khác biệt chung

nhất về địa hình, khí hậu và thực vật; phổ biến hơn là quan điểm của A.Ghetne và
một số nhà địa lý khác nhưng thường là quan điểm duy tâm.
Có thể nói một trong những nhà lý luận CQ đầu tiên người Đức là Z.Passarge
(1866-1958), Ông đã có những công trình về các đới CQ trên Trái Đất. Sau đó các
nhà địa lý người Đức cũng đã tiến hành thành lập bản đồ CQ và chủ yếu dựa trên
nghiên cứu cấu tạo hình thái CQ, lấy các đơn vị sinh cảnh để phân chia CQ.
Ở các nước tư bản nói chung khoa học CQ không phát triển, chủ yếu nghiên
cứu theo hướng Môi trường địa lý tự nhiên. Các nhà địa lý Mỹ như Khactơxo,
D.Uittơlxli chú ý tới địa lý khu vực nhưng quan điểm không có gì chung với các
nhà địa lý Xô Viết. Tuy nhiên sau đó họ cũng đã chú ý tới lý luận địa lý của các nhà
nghiên cứu Xô Viết về các vấn đề NCCQ và xây dựng bản đồ CQ. Nhìn chung ở
các nước TBCN, quá trình nghiên cứu tiến tới Cảnh quan học xảy ra chậm, mang
tính chất tự phát, chủ quan và duy tâm [32].
Từ sau những năm 1980 Cảnh quan học đã có sự kết hợp với Sinh thái học
xuất hiện một hướng nghiên cứu mới là Sinh thái cảnh quan. Đây là hướng nghiên
cứu phát triển mạnh mẽ bắt đầu từ các nước ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
c) Sự phát triển của Sinh thái cảnh quan trên thế giới.
Sinh thái học cảnh quan là một khoa học liên ngành nghiên cứu về CQ, đặc
biệt là về thành phần, cấu trúc, chức năng của CQ. Sinh thái học cảnh quan nghiên
cứu các mô hình CQ, mối quan hệ tác động giữa các yếu tố trong mô hình đó, và
cách thức thay đổi của mô hình CQ theo thời gian, cũng như các nguyên tắc ứng
dụng trong quá trình con người cải biến CQ.
12


Theo các nghiên cứu của Wu.J và R.Hobbs, Sinh thái học cảnh quan là khoa
học nghiên cứu và cải thiện các mối quan hệ giữa quá trình phát triển đô thị và hệ
sinh thái trong môi trường với các hệ sinh thái đặc trưng. Hai ông cũng chỉ rõ đặc
điểm nổi bật nhất của hệ STCQ là sự nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa các quá
trình, mô hình và quy mô, cũng như tập trung vào các vấn đề sinh thái và môi

trường trên quy mô rộng. Các chủ đề nghiên cứu quan trọng trong hệ STCQ bao
gồm sự thay đổi của hệ sinh thái trong cảnh quan, sử dụng đất và thay đổi độ che
phủ đất, nhân rộng mô hình phân tích CQ có liên quan với quá trình sinh thái, bảo
tồn CQ và tính bền vững CQ [105], [106].
Thuật ngữ Sinh thái cảnh quan được Carl Troll nhà địa lý học người Đức đưa
ra năm 1939, trong công trình này Ông đã phát triển nhiều khái niệm cơ sở cho
khoa học STCQ từ việc phân tích ảnh hàng không để nghiên cứu tương tác giữa môi
trường và thảm thực vật [103].
Từ năm 1939 đến 1970, STCQ nghiên cứu trên nền tảng của Địa lý học dựa
trên việc nghiên cứu các thành phần địa lý, phát triển mạnh ở Đông Âu, Canađa và
Úc, được ứng dụng để nghiên cứu sinh thái các khu vực rộng lớn ở Nga và Canađa,
thành lập bản đồ hệ sinh thái, xây dựng các hệ thống CQ ở Nga.
Sau năm 1970, STCQ phát triển mạnh mẽ ở Châu Âu với các công trình
nghiên cứu về phân loại thực vật và địa lý khu vực. Tuy nhiên các nghiên cứu này
chỉ mới tập trung nghiên cứu sự tác động của con người đối với CQ ở những khu
vực nhỏ. Những công trình nghiên cứu của các tên tuổi nổi tiếng thuộc trường phái
châu Âu như Carl Troll, Izaak Zonneveld, M.Godron hay Richard Forman đều bắt
nguồn từ Địa lý học, chủ yếu dựa trên phân tích ảnh hàng không, nhấn mạnh chủ
thể con người trong STCQ ở quy mô nhỏ và vai trò của văn hóa CQ. Ngoài ra, quan
niệm về sinh thái học cảnh quan của trường phái châu Âu còn tích hợp cả khoa học
sử dụng đất đai. Trường phái này phân loại CQ dựa trên các hệ thống “nhân tạo”
được xây dựng sẵn. Trường phái Tây Âu cũng xuất hiện từ lâu đời, gắn liền với
khoa học sinh thái hơn là khoa học cảnh quan [89], [93].
Trong khi đó, trường phái Sinh thái học cảnh quan ở châu Mỹ lại có nhiều
điểm tiến bộ hơn khi sử dụng các phương pháp định lượng trong nghiên cứu của
mình như công nghệ viễn thám, GIS hoặc số liệu thống kê không gian. Đối lập với
trường phái châu Âu, đối tượng nghiên cứu của trường phái châu Mỹ là các hệ
thống tự nhiên hoặc bán tự nhiên, như các công viên quốc gia. Các lý thuyết và mô
hình cũng được đầu tư phát triển. Trường phái này chỉ phát triển mạnh vào cuối
những năm 80 của thế kỷ trước [104], [106].

13


Đến những năm 1980, STCQ mới phát triển như một khoa học thực sự và
được đánh dấu bởi sự ra đời của Hiệp hội quốc tế về Sinh thái cảnh quan (IALEThe International Assosiation of Landscape Ecology) năm 1982. Từ những năm
1985 trở lại đây STCQ phát triển một cách nhanh chóng, có tầm ảnh hưởng đến sự
phát triển KT-XH với một số lượng lớn các công trình nghiên cứu cả lý thuyết và
ứng dụng trong các ngành sản xuất. Lý thuyết STCQ nhấn mạnh vai trò của các tác
động của con người trong cấu trúc và chức năng CQ. Đồng thời cũng đề xuất các
phương pháp để khôi phục lại CQ bị suy thoái và nhận thức một cách rõ ràng STCQ
bao gồm cả con người như những thực thể gây ra sự thay đổi trong CQ [93], [99].
Từ việc nghiên cứu các đặc trưng quan trọng của STCQ là cấu trúc và chức
năng (Forman và Godron năm 1986) [89], đến nghiên cứu xây dựng các cách phân
loại chức năng CQ (De Groot năm 1992)[87], xây dựng bản đồ các vùng sinh thái ở
các nước Hà Lan, Hoa Kỳ, Mêxicô, Canađa,… đến nay Sinh thái học cảnh quan đi
sâu vào nghiên cứu ĐGCQ, tìm ra các mối liên hệ trong cấu trúc và chức năng CQ,
phân tích tính đa dạng và đánh giá giá trị sử dụng của các đơn vị CQ (Troy và
Wilson năm 2006, Meyer và Grabaum năm 2008), Sinh thái cảnh quan ngày nay
gắn liền nghiên cứu với ứng dụng thực tiễn [85],[99].
Có thể điểm qua một vài cột mốc đáng nhớ của STCQ thế giới như sau [110]:
- Năm 1972: Tổ chức khoa học đầu tiên về STCQ được thành lập ở Hà Lan
mở đầu cho việc thành lập các diễn đàn trao đổi của các nhà khoa học về CQ.
- Năm 1981: Các bài viết về STCQ Bắc Mỹ của Forman và Gordon lần đầu
xuất hiện trên tạp chí Bioscience.
- Năm 1982: Hiệp hội quốc tế về sinh thái học cảnh quan (IALE) được thành
lập tại hội thảo quốc tế lần thứ 6 về nghiên cứu sinh thái ở Piestany, Tiệp Khắc cũ.
- Năm 1983: Cuộc hội thảo về sinh thái cảnh quan mang tên Allerton Park
được tổ chức bởi diễn ra tại Illinois, Mỹ với 25 người tham gia.
- Năm 1984: Ẩn phẩm đầu tiên về sinh thái cảnh quan học được xuất bản
Landscape Ecology: Theory and Application của hai tác giả Naveh và Lieberman.

- Cũng trong năm 1984: Phiên họp đầu tiên về sinh thái học cảnh quan được
diễn ra tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội sinh thái học Hoa Kỳ.
- Năm 1986: Hội nghị sinh thái học cảnh quan Bắc Mỹ được diễn ra rại
trường đại học Georgia với 100 thành viên tham gia, do hai nhà khoa học Monica
Turner và Frank Golley chủ trì.
14


- 1986: Cuốn Landscape Ecology (Forman và Godron) được xuất bản, đây là
một trong những công trình nền tảng của lý thuyết nghiên cứu Sinh thái cảnh quan
học đầu tiên trên thế giới. Hầu hết các nghiên cứu sau đó đều vận dụng mô hình này
để phát triển.
- 1986: Hiệp hội quốc tế về sinh thái học cảnh quan Hoa Kỳ được thành lập.
- 1987: Tạp chí Landscape Ecology được xuất bản, do Frank Golley làm tổng
biên tập.
Từ những năm 1990 trở lại đây: Nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng của STCQ
tiếp tục phát triển mạnh mẽ theo xu hướng ứng dụng CQ và BVMT dựa trên công
nghệ nghiên cứu tiên tiến và hiện đại như Viễn thám, GIS, các mô hình không gian
để thành lập bản đồ CQ, bản đồ ĐGCQ. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu định
lượng trong phân tích, ĐGCQ mang lại các kết quả chính xác về các dữ liệu đất, các
yếu tố khí hậu, thảm thực vật và có giá trị thực tiễn lớn [100], [102], [106].
Việc phát triển lý thuyết STCQ gần đây đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa mô
hình không gian và quá trình biến đổi CQ. Một số nghiên cứu cho thấy rằng CQ có
những ngưỡng quan trọng mà tại đó quá trình sinh thái sẽ có những thay đổi lớn, ví
dụ sự thay đổi nhiệt độ và chuyển đổi hoàn toàn một số loài do yêu cầu của môi
trường sống. Bên cạnh đó STCQ còn có những nghiên cứu ứng dụng quan trọng
hình thành nên các phương pháp, khái niệm, quy trình phân tích cảnh quan trong
nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa
cảnh quan và tác động của các ngành sản xuất giúp chúng ta quản lý các mối đe doạ
đối với môi trường và có biện pháp bảo tồn, sử dụng cảnh quan [86], [91], [97],

[98].
Có thể kể đến một số hướng nghiên cứu cơ bản về STCQ của các tác giả trên
thế giới và các công trình nghiên cứu những năm 1990 đến nay như sau [94]:
Bảng 1.1. Tổng hợp các công trình nghiên cứu Sinh thái cảnh quan
Nội dung nghiên cứu
Nhóm lý thuyết:
- Cảnh quan bền vững
- Nghiên cứu thực trạng hệ thống
sinh thái

Quốc gia

Tác giả nghiên cứu

Anh
Thụy Sỹ

Haines – Young (2000)
Poschin và Haines – Young (2001)
Karr (2000)
Pimentel et al (2001)
Barkamann et al (2001)
Kutsch et al (2001)
Potschin và Haines – Young (2001)
Luz (2001)
Katter et al (2000)

Mỹ
Đức


- Ứng dụng của cảnh quan trong
dự án

Đức
Áo

15


Nội dung nghiên cứu
Nhóm phương pháp:
- Phương pháp phân tích trạng
thái cảnh quan dựa trên các
nghiên cứu “base line survey”
- Định lượng phi chức năng

Quốc gia
Úc

Tác giả nghiên cứu
Lefroy et al (1991)
Dilworth et al (2000)

Đức

Leser và Klink (1988)
Zepp và Mũller (1999)

Đức


- Định lượng đa chức năng

Đức

- Đánh giá môi trường cảnh quan

Anh

Bastian và Schreiber (1999)
Grabaum (1996)
Syrbe (1996)
Treweek (1999)
Hobbs và Sauders (1993)

- Phân tích sự tác động của các
thành phần chính hay tiểu hệ
thống trong cảnh quan
- Nghiên cứu đánh giá cảnh quan
đa chức năng
Nhóm nghiên cứu sự thay đổi và
quá trình phát triển:
- Lịch sử cảnh quan học
- Cảnh quan và các yếu tố phá vỡ
cảnh quan

Úc
Thụy sỹ

Waffenshmidt và Postchin (1998)
Brandt et al (2000)


Châu Âu

Brandt và Vejre
Tress et al (2001)

Thụy điển
Phần Lan
Đức
Mỹ

Nhóm ứng dụng:
- Dịch vụ hệ thống cảnh quan và
khái niệm “natural capital”
- Nghiên cứu thiết kế cảnh quan

Hà Lan
Úc
Anh
Mỹ
Hà Lan
Slovakia
Thụy Điển

Skanes (1996)
Vuorela (2001)
Konold (1996)
Turner (1989)
Turner et al (2001)
De Groot (1992)

De Groot et al (2001)
CSIRO (2001)
Turner et al (2001)
Costanza (2000)
Harm et al (1993)
Miklos (1988)
Mortberg và Wallentius (2000)

Mỹ

Lindsey (1999)

New Zealand
Anh
Pháp/Anh
Mỹ
Đức

Viles và Rosier (2001)
Barr và Petit (2001)
Baudry et al (2000)
Forman (1995)
Blaschke (2000), Blaschke và Petch
(1999), Jaeger (2001)
Opdam et al. (1995)

- Mạng lưới đa chức năng cây
xanh
- Xây dựng các khu vực nông
thôn “hedgerows”

- Bảo tồn đa dạng sinh học tự
nhiên
- Các ảnh hưởng của sự phá vỡ
cảnh quan và sự biến động dân số

Hà Lan

Tóm lại, có thể thấy Cảnh quan học trên thế giới được hình thành, phát triển ở
Nga và Đông Âu vào cuối thế kỷ XIX gắn liền với việc nghiên cứu phân vùng địa lý
tự nhiên. Sau đó NCCQ được xuất hiện ở các nước khác như Đức, Tiệp Khắc, Ba
Lan... và phát triển mạnh mẽ sau chiến tranh thế giới 2 cùng với nhiều khái niệm
mới trong NCCQ ra đời. Đồng thời Cảnh quan học đi sâu vào nghiên cứu các yếu tố
thành tạo, thành lập bản đồ CQ. Bên cạnh đó xu hướng nghiên cứu các quần xã sinh

16


thái phổ biến ở các nước Tây Âu, xu hướng Sinh thái hoá đã xâm nhập vào CQ và
xuất hiện 2 trường phái nghiên cứu về Sinh thái cảnh quan ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Từ những năm 1980 trở lại đây, khoa học CQ và STCQ đã phát triển một cách
nhanh chóng về cả phương pháp nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn cùng với sự tiến
bộ của khoa học công nghệ. Cảnh quan học ngày càng đi sâu nghiên cứu đa dạng
cấu trúc, động lực, chức năng, mối quan hệ giữa CQ và sản xuất lãnh thổ, vận dụng
quan điểm ứng dụng và nghiên cứu CQ theo hướng sinh thái góp phần giải quyết
các vấn đề thực tiễn SDHL nguồn TNTN, BVMT và phát triển bền vững KT-XH.
1.1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu cảnh quan ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu CQ chủ yếu dựa trên nền tảng lý luận
khoa học Cảnh quan của các nhà địa lý Xô Viết, tùy vào từng giai đoạn phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước mà khoa học địa lý nói chung và nghiên cứu cảnh quan
nói riêng có sự vận dụng để đáp ứng với nhu cầu thực tiễn.

Trong giai đoạn đầu tiên (từ 1954 đến 1980), các công trình chủ yếu phát hiện
sự phân hóa lãnh thổ theo hướng phân vùng địa lý tự nhiên: Trước tiên là công trình
phân chia Địa lý tự nhiên Việt Nam của T.N.Sêglova (1957) đã sử dụng hệ thống
phân vị đơn giản có 2 cấp vùng và á vùng. Năm 1961, V.M.Fridland đã tiến hành
phân vùng địa lý tự nhiên với hệ thống phân chia gồm 5 cấp, theo dấu hiệu của quy
luật phi địa đới. Các công trình của các tác giả trong nước giai đoạn này trước hết
phải kể đến “Địa lý tự nhiên Việt Nam” của Nguyễn Đức Chính, Vũ Tự Lập năm
1963. Các tác giả đã đưa ra hệ thống phân vị Địa lý tự nhiên Việt nam gồm 6 cấp
dựa trên cả 2 quy luật phân hoá địa đới và phi địa đới nhưng chưa có chỉ tiêu cho
từng cấp phân vị vì thế nên không thể áp dụng rộng rãi. Năm 1970, Uỷ ban KH-KT
Nhà nước đã nghiên cứu và tiến hành Phân vùng địa lý tự nhiên lãnh thổ Việt Nam
với hệ thống gồm 7 cấp phân vị, ngắn gọn và tương đối hoàn chỉnh, có chỉ tiêu cho
từng cấp phân vị. Đây là công trình có ý nghĩa lớn trong công tác điều tra và sử
dụng lãnh thổ. Cũng trong giai đoạn này đáng chú ý là công trình “Cảnh quan địa lý
miền Bắc Việt Nam” năm 1976 của Vũ Tự Lập đã tìm ra những đặc điểm, quy luật
phân hoá của địa lý tự nhiên Việt Nam; công trình có giá trị về mặt lý luận, trong đó
tác giả cũng đưa ra một hệ thống phân vị mà mỗi cấp có một chỉ tiêu riêng xác định,
đưa ra khái niệm Cảnh địa lý và vận dụng quan điểm tổng hợp trong NCCQ lãnh
thổ Việt Nam, phản ánh được sự thống nhất biện chứng trong các quy luật phân hoá
địa đới và phi địa đới trong tự nhiên lãnh thổ Việt Nam [38], [ 64], [81].

17


Có thể nói trong giai đoạn này cơ sở lý luận về khoa học cảnh quan đã được
các nhà địa lý Việt Nam tiếp thu có hệ thống, vận dụng một cách linh hoạt phù hợp
điều kiện cụ thể của thiên nhiên Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu bước đầu đã
đáp ứng phần nào đối với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước lúc bấy giờ
và đặt nền móng cho nghiên cứu cảnh quan ở nước ta sau này.
Từ sau 1980 cho đến nay, có rất nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu CQ về cả

những vấn đề lý luận và vận dụng vào thực tiễn các vùng, miền lãnh thổ Việt Nam.
Những năm 1992 Hội Địa lý Việt nam đã có nhiều báo cáo khoa học về quan
điểm và phương pháp luận nghiên cứu STCQ như: Nguyễn Thế Thôn Bàn về Sinh
thái cảnh quan và Cảnh quan sinh thái (1993), Nguyễn Trần Cầu với Cảnh quan
học- Sinh thái học và việc nghiên cứu thành lập bản đồ Cảnh quan sinh thái
(1992),...Các báo cáo khoa học của Hội Địa lý Việt Nam năm 1995, 1996 đã nghiên
cứu về vấn đề tổ chức lãnh thổ và phân vùng lãnh thổ; Nguyễn Thế Thôn năm 2000
tiếp tục nghiên cứu “Về lý thuyết cảnh quan sinh thái”, năm 2001 đưa ra “Nguyên
tắc và phương pháp thiết kế mô hình kinh tế - môi trường trên cơ sở lý thuyết cảnh
quan sinh thái và cảnh quan sinh thái ứng dụng”.
Song song với việc nghiên cứu về lý luận là các công trình nghiên cứu và vận
dụng các vấn đề lý luận và phương pháp luận NCCQ vào thực tiễn CQ Việt Nam.
Năm 1991, Trương Quang Hải Phân kiểu cảnh quan Miền Nam Việt Nam; Năm
1993, tập thể tác giả thuộc Trung tâm Địa lý tự nhiên đã Nghiên cứu xây dựng bản
đồ cảnh quan lãnh thổ Việt Nam; Nguyễn Cao Huần, Nguyễn Ngọc Khánh, Phạm
Hoàng Hải đã nghiên cứu Các đơn vị phân loại cảnh quan Việt Nam vào năm 1996;
Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Thượng Hùng, Nguyễn Ngọc Khánh nghiên cứu xây
dựng Cơ sở cảnh quan học của việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
lãnh thổ môi trường Việt Nam năm 1997; Nguyễn Cao Huần và Trần Anh Tuấn đã
nghiên cứu Phân loại cảnh quan nhân sinh Việt Nam (2000); Phạm Hoàng Hải
Nghiên cứu về các nguyên tắc và hệ thống phân vị cảnh quan Việt Nam (2000).
Theo hướng nghiên cứu này Phạm Hoàng Hải đã tiếp tục "Nghiên cứu đa dạng
cảnh quan Việt Nam, phương pháp luận và một số kết quả thực tiễn nghiên cứu"
năm 2006 và “Phân vùng sinh thái cảnh quan ven biển Việt Nam để sử dụng hợp lý
tài nguyên, bảo vệ môi trường”. Các công trình này đã đưa ra các hệ thống phân
loại khác nhau phù hợp với từng phạm vi lãnh thổ và mục đích nghiên cứu, đồng
thời đã cung cấp những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan
các vùng lãnh thổ Việt Nam ở nhiều khía cạnh khác nhau.

18



Bên cạnh đó, việc NCCQ phục vụ SDHL tài nguyên thiên nhiên và BVMT
nhằm phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững ngày càng được các nhà khoa học
quan tâm. Trong những năm gần đây xu hướng NCCQ đi vào cụ thể từng vùng lãnh
thổ của các miền, khu, tỉnh ở nước ta. Năm 1990, Phạm Hoàng Hải Đánh giá tổng
hợp các ĐKTN và TNTN lãnh thổ nhiệt đới ẩm, gió mùa dải ven biển Việt Nam cho
mục đích phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp và bảo vệ môi trường; Năm 1993,
tiếp tục Đánh giá tổng hợp các ĐKTN và TNTN lãnh thổ nhiệt đới ẩm, gió mùa Việt
Nam cho mục đích phát triển sản xuất và bảo vệ môi trường. Đồng thời hướng
nghiên cứu Sinh thái hoá CQ cũng phát triển mạnh mẽ, có thể kể đến công trình của
Nguyễn Văn Vinh (1996), nghiên cứu STCQ vùng gò đồi Quảng Bình; Phạm Thế
Vĩnh (2002), nghiên cứu cảnh quan sinh thái dải ven biển đồng bằng sông Hồng;
Nguyễn Cao Huần, Nguyễn An Thịnh (2004) nghiên cứu, đánh giá STCQ Sa Pa
tỉnh Lào Cai; Nguyễn Xuân Độ (2005), nghiên cứu cảnh quan Đăk Lăk; Trương
Quang Hải (2008), Nghiên cứu và xác lập cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững vùng núi đá vôi Ninh Bình... Bên cạnh
đó có nhiều công trình ứng dụng công nghệ viễn thám, GIS để nghiên cứu, ĐGCQ
phục vụ các mục đích khác nhau trong phát triển các ngành kinh tế - xã hội.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu sự phân hóa
lãnh thổ, các công trình NCCQ ứng dụng hiện nay ở nước ta có xu hướng vận dụng
cho từng vùng lãnh thổ cụ thể, vì thế đã xây dựng nhiều hệ thống phân loại CQ khác
nhau. Các công trình này chủ yếu tiến hành theo hướng phân loại CQ không dựa
vào cá thể địa tổng thể. Hệ thống phân vị của hầu hết các công trình này đều sử
dụng các cấp phân vị chung như: Hệ, Phụ hệ, Lớp, Phụ lớp, Kiểu, Phụ kiểu, Hạng,
Loại CQ và có những điểm chung trong việc lựa chọn các chỉ tiêu phân chia, đây
cũng là những cấp phân vị phù hợp trong quá trình nghiên cứu lãnh thổ cụ thể ở
Việt Nam như một vùng, miền, khu vực hoặc phạm vi lãnh thổ một tỉnh và tác giả
cũng đã vận dụng các cấp phân vị này cho việc nghiên cứu CQ tỉnh Quảng Bình.
1.1.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến cảnh quan

tỉnh Quảng Bình
Quảng Bình là tỉnh có điều kiện tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt. Trước đây
việc nghiên cứu về lãnh thổ Quảng Bình còn rất hạn chế, chỉ có các công trình
nghiên cứu cho các lãnh thổ rộng hơn về Địa lý tự nhiên Việt Nam, dải ven biển
Việt Nam, miền Bắc Việt Nam, Bắc Trung Bộ, khu vực Bình Trị Thiên... và các
công trình có liên quan gần với nghiên cứu về ĐKTN và TNTN lãnh thổ Quảng
Bình như: Nghiên cứu Đất Bình Trị Thiên và hướng dẫn sử dụng của Tôn Thất
19


Chiểu (1986); Chương trình Đánh giá tổng hợp ĐKTN và TNTN, kinh tế xã hội tỉnh
Bình Trị Thiên của Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (1989).
Từ ngày tái lập Tỉnh trở lại đây (năm 1989), Quảng Bình được Nhà nước quan
tâm đầu tư phát triển KT-XH, khai thác tiềm năng vốn có để xoá đói giảm nghèo
tiến kịp với các tỉnh, thành khác trong cả nước. Vì vậy đã có nhiều đề tài, dự án cấp
tỉnh, cấp nhà nước nghiên cứu các vấn đề về ĐKTN và TNTN phục vụ cho mục
đích phát triển KT-XH. Đa số các công trình nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học
để phục vụ cho một mục đích sử dụng lãnh thổ cụ thể nào đó, cũng có những công
trình điều tra về các nguồn lực tự nhiên, TNTN để xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ
cho nghiên cứu và phát triển các ngành kinh tế. Có thể tổng hợp một số công trình
tiêu biểu từ 1990 đến nay như sau:
Bảng 1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan về NCCQ tỉnh Quảng Bình
Thời
gian
1991
1992

1995

1996

1997
1998
1998
2000
2003
2003
2003
2003

Tên công trình nghiên cứu

Tác giả

Nghiên cứu tổng hợp điều kiện tự nhiên
vùng cát ven biển Quảng Bình tạo cơ sở
để giải quyết vấn đề cát di động.
Đặc điểm khí hậu, bản đồ sinh khí hậu
tỉnh Quảng Bình và đánh giá mức độ
thích hợp của điều kiện khí hậu 3 vùng
dự án cho một số cây trồng và đời sống
con người
Nghiên cứu về việc xây dựng luận cứ
khoa học cho việc lập quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế xã hội Quảng Bình giai
đoạn 1996-2010
Nghiên cứu đặc điểm cảnh quan sinh thái
và phương hướng sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên vùng gò đồi Q. Bình
Xây dựng luận cứ khoa học cho việc quy
hoạch các khu Công nghiệp tỉnh Q. Bình

Nghiên cứu về trữ lượng và chất lượng
mỏ khoáng sản ở Bố Trạch;
Điều tra môi trường nước nội thuỷ phục
vụ nuôi trồng thuỷ sản Quảng Bình
Điều tra cơ bản xây dựng bản đồ đất
Quảng Bình 2005- 2010
Xây dựng luận cứ khoa học để quy hoạch
và phát triển kinh tế miền Tây Q.Bình sau
khi xây dựng đường Hồ Chí Minh
Điều tra nghiên cứu tổng hợp địa chất
khoáng sản phục vụ phát triển kinh tế và
bảo vệ môi trường Quảng Bình
Nghiên cứu Di sản Thiên nhiên Thế giới
Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng.
Nghiên cứu Quy hoạch phát triển kinh tế

20

Lê Đức An

Đối tượng nghiên
cứu
ĐKTN dải cồn cát

Nguyễn Thị Hiền, Khí hậu Quảng Bình
Nguyễn
Khanh
Vân - Viện Địa lý
Nguyễn Văn Phú, Quy hoạch lãnh thổ
Viện chiến lược

Nguyễn
Văn CQST vùng gò đồi
Vinh-Viện Địa lý Quảng Bình
Lê Văn Tuấn, Sở Quy hoạch các khu
Kế hoạch đầu tư
Công nghiệp
Trần Ngọc Soạn
Điều tra TN Khoáng
sản ở Bố trạch
Sở Thuỷ sản
Điều tra MT nước
nội thuỷ
Sở Tài nguyên và Điều tra TN đất
môi trường
Lại Vĩnh Cẩm và Quy hoạch miền Tây
các tác giả Viện Quảng Bình
Địa lý
Lê Dũng và nnk, Điều tra địa chất,
Đại Học Mỏ Địa khoáng sản
Chất
Trần Nghi, Đặng Vườn QG Phong
Văn Bào và nnk
Nha-Kẻ Bàng
Nguyễn Bá Ân và Quy hoạch kinh tế


Thời
gian
2004


2005

Tên công trình nghiên cứu

Tác giả

xã hội hành lang quốc lộ 12A tỉnh Quảng
Bình
Nghiên cứu đánh giá phân hạng đất đai
tỉnh Quảng Bình theo phương pháp của
FAO-UNESCO bằng phần mềm ALES
phục vụ quy hoạch Nông-Lâm-Ngư
nghiệp bền vững
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
nuôi tôm trên cát và giải pháp khắc phục

2006

Nghiên cứu về tuyến du lịch mạo hiểm
Phong Nha – Kẻ Bàng

2006

Thu thập và chỉnh lý số liệu khí tượng
thủy văn Quảng Bình từ năm 1956 đến
năm 2005
Đánh giá sức chịu tải tới hạn của hệ sinh
thái môi trường tự nhiên - xã hội khu di
sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ
Bàng tỉnh Quảng Bình, đề xuất mô hình

phát triển bền vững kinh tế du lịch

2006

Đối tượng nghiên
cứu
nnk, Viện chiến trên quốc lộ 12A
lược phát triển
Nguyễn
Anh Đánh giá đất đai
Hoành,
Nguyễn
Đình Kỳ - Viện
Địa lý
Trần Như Ý,
Nguyễn
Xuân
Tặng và nnk, Viện
Địa Lý
Trương
Quang
Hải

nnk,
Trường ĐHKH Tự
nhiên
Nguyễn
Đại,
Trung tâm Dự báo
KTTV Q. Bình

Trần Nghi và nnk,
Trường ĐHKH Tự
nhiên

Điều kiện nuôi tôm
trên dải cồn cát
Du lịch mạo hiểm
Vườn Quốc gia
Phong Nha-Kẻ Bàng
Số liệu về Khí tượng,
thuỷ văn
Hệ sinh thái phục vụ
phát triển Du lịch
Vườn Quốc gia
Phong Nha-Kẻ Bàng

Các công trình nghiên cứu về ĐKTN, TNTN tỉnh Quảng Bình và một số vấn
đề ứng dụng trong việc khai thác tài nguyên để phát triển các ngành kinh tế - xã hội
của tỉnh Quảng Bình là những nguồn tài liệu quan trọng trong quá trình tác giả
nghiên cứu về các yếu tố thành tạo nên CQ tỉnh Quảng Bình. Tuy nhiên lãnh thổ
Quảng Bình vẫn chưa có công trình nào đánh giá một cách đầy đủ các ĐKTN và
nguồn TNTN làm cơ sở khoa học cho việc SDHL trên toàn lãnh thổ.
Công trình nghiên cứu CQ đáng lưu ý đối với Quảng Bình là đề tài Nghiên
cứu đặc điểm cảnh quan sinh thái và phương hướng sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên vùng gò đồi Quảng Bình của tác giả Nguyễn Văn Vinh, Viện Địa lý
năm 1996. Đây là một trong những tài liệu được tác giả sử dụng tham khảo về cơ sở
phương pháp nghiên cứu và ứng dụng đối với lãnh thổ nghiên cứu. Năm 1999, tác
giả cũng đã thực hiện đề tài luận văn Thạc sỹ Nghiên cứu điều kiện tự nhiên dải cồn
cát ven biển Nam Quảng Bình đề xuất định hướng cải tạo và sử dụng.
Bên cạnh đó các tài liệu nghiên cứu quan trọng cần được kể đến là nguồn báo

cáo, số liệu được các Sở, Ban ngành trong tỉnh nghiên cứu, bổ sung, cập nhật hàng
năm như: Báo cáo hiện trạng môi trường, Báo cáo tình hình sử dụng đất, Quy hoạch
các loại rừng, tình hình phát triển KT-XH...UBND tỉnh Quảng Bình, Sở Kế hoạch
và Đầu tư năm 2009 đã tiến hành Đánh giá môi trường chiến lược, phục vụ cho dự
21


án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Bình đến 2020 là những
nguồn thông tin đáng tin cậy mà tác giả đã sử dụng trong quá trình nghiên cứu.
Trong xu hướng chung ngày càng sử dụng công nghệ hiện đại trong nghiên
cứu địa lý tổng hợp, năm 2010 tác giả đã cùng tham gia với tập thể tác giả Viện Tài
nguyên - Môi trường và phát triển bền vững Huế tiến hành nghiên cứu đề tài Ứng
dụng công nghệ GIS và viễn thám điều tra, đánh giá tổng hợp ĐKTN và TNTN
phục vụ phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Quảng Bình. Đối với đề tài này tác giả đã thừa
kế một số kết quả biên hội về ĐKTN, TNTN, các kết quả khảo sát, thực địa và phân
tích ảnh viễn thám để chuẩn hoá lại các dữ liệu đã có, cập nhật một số dữ liệu trong
bản đồ thành phần, các lát cắt.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về lãnh thổ Quảng Bình là những kết
quả hết sức quan trọng về mặt lí luận và thực tiễn để khi tiến hành nghiên cứu đề tài
tác giả có thể sử dụng. Trên cơ sở các tài liệu này, tác giả nghiên cứu để định ra
phương pháp và nội dung nghiên cứu một cách phù hợp, vận dụng một cách hiệu
quả các kết quả đã có vào công trình nghiên cứu của mình.
1.2. Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu cảnh quan.
1.2.1. Quan niệm Cảnh quan và Cảnh quan học
Về mặt phương pháp luận nghiên cứu, học thuyết CQ được xây dựng bắt đầu
từ thế kỷ XIX, tuân thủ các giai đoạn phát triển từ phân tích bộ phận, rồi đến tổng
hợp; phân tích các bậc cao hơn, tổng hợp ở bậc cao hơn và ngày càng đi sâu vào
bản chất của các sự vật, hiện tượng trong lớp vỏ cảnh quan. Sau chiến tranh thế giới
lần thứ 2, Cảnh quan học xác định rõ nhiệm vụ của mình là học thuyết các quy luật
phân hóa lãnh thổ của lớp vỏ địa lý, CQ là đơn vị cơ sở của hệ thống phân vùng và

có thể nhóm CQ vào bậc liên kết cao hơn. Chuyển sang giai đoạn nghiên cứu sâu
cấu trúc không gian của cảnh quan, xem CQ là những hệ thống có cấu trúc không
gian phức tạp, là một hệ thống động lực hở và là hệ thống có tính chất phân bậc
lôgic, khẳng định Cảnh quan học đã tiến thêm một bước mới.
Trong quá trình phát triển, khái niệm “cảnh quan” dần dần được hoàn chỉnh,
mỗi khái niệm đánh dấu một bước phát triển của khoa học cảnh quan trên thế giới.
Lần đầu tiên L.S. Berge (1913) đã đưa ra khái niệm coi CQ như là một miền,
trong đó địa hình, khí hậu, nước, đất, lớp phủ sinh vật cũng như hoạt động của con
người được gắn kết thành một thể thống nhất, hài hòa, lặp lại một cách điển hình
trong một đới nhất định nào đó của Trái Đất. Quan điểm giải thích cảnh quan của

22


ông được các nhà địa lý Xô Viết như: L.G.Ramenxki, X.V.Kalexnik, N.A.Xontxep,
A.A.Grigôriep cùng nhiều nhà địa lý khác ủng hộ và phát triển [27, 50].
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, khoa học về CQ mới xác định rõ nhiệm vụ
và thực sự phát triển rộng rãi, hoàn thiện dần về cả lý thuyết, phương pháp luận,
phương pháp nghiên cứu.
Năm 1948, N.A.Xolsev đã phát triển trên cơ sở quan niệm của L.S.Berge, ông
đưa ra định nghĩa xác định: Cảnh quan là một lãnh thổ đồng nhất về mặt phát sinh,
các thành phần địa chất, địa hình, khí hậu, đất và động thực vật có sự lặp lại một
cách điển hình và có quy luật. Năm 1962, ông đã đưa ra định nghĩa cụ thể và rõ
ràng hơn về CQ. Quan niệm này cho rằng CQ là một đơn vị cơ bản trong phân vùng
địa lý tự nhiên “…là một thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên đồng nhất về mặt phát sinh,
có một nền địa chất đồng nhất, có một kiểu địa hình, một kiểu khí hậu đồng nhất và
bao gồm một tập hợp các dạng địa lý chủ yếu và thứ yếu có liên kết với nhau về mặt
động lực, lặp lại một cách có quy luật trong không gian, tập hợp này chỉ thuộc riêng
cho cảnh quan đó mà thôi”. Với định nghĩa này, N.A.Xolsev đã xác định được cấu
trúc thẳng đứng và cấu trúc ngang của cảnh quan [18],[31].

Năm 1965, A.G.Ixatsenko đã bổ sung định nghĩa trên, ông cho rằng: Cảnh
quan là một bộ phận được tách ra từ một miền, một đới địa lý và nói chung là của
một đơn vị lãnh thổ bất kỳ nào đó lớn hơn, nó có đặc điểm là đồng nhất về cả tương
quan địa đới và phi địa đới, có một cấu trúc riêng và một cấu tạo hình thái riêng.
Cũng trên quan điểm đó năm 1991 ông đưa ra định nghĩa gắn gọn hơn: “Cảnh quan
là một địa hệ thống nhất về mặt phát sinh, đồng nhất về các dấu hiệu địa đới và phi
địa đới, bao gồm một tập hợp đặc trưng các địa hệ liên kết bậc thấp” [31].
Ở Việt Nam, khi nghiên cứu CQ địa lý miền Bắc Việt Nam, Vũ Tự Lập đã đưa
ra định nghĩa: “Cảnh quan địa lý là một địa tổng thể, được phân hóa trong phạm vi
một đới ngang ở đồng bằng và một đai cao ở miền núi, có một cấu trúc thẳng đứng
đồng nhất về nền địa chất, kiểu địa hình, kiểu khí hậu, kiểu thủy văn, về đại tổ hợp
thổ nhưỡng và đại tổ hợp thực vật, bao gồm một tập hợp có quy luật của các dạng
địa lý và những đơn vị cấu tạo khác theo một cấu trúc ngang đồng nhất” [38].
Như vậy, CQ được hiểu và áp dụng khác nhau phụ thuộc vào quan điểm của
người nghiên cứu. Theo quan điểm của Phạm Hoàng Hải và nnk, thuật ngữ này có
thể hiểu theo một trong các nội dung sau:
1. Cảnh quan được coi là một thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên ở bất kỳ một cấp
phân chia nào, đó là quan niệm chung.
23


×