Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

BIỆN PHÁP QUẢN lý CÔNG tác GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM lớp ở các TRƯỜNG THPT HUYỆN tân CHÂU, TỈNH tây NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.54 KB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HUỲNH VĂN CHỚ

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Ở CÁC
TRƯỜNG THPT HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Hà Nội, năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HUỲNH VĂN CHỚ

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP Ở CÁC
TRƯỜNG THPT HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

Chuyên ngành:

Quản lý giáo dục

Mã số:

60.14.01.14


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Hiền

Hà Nội, năm 2014


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại
học, Khoa Quản lý Giáo dục trường Đại học Sư phạm Hà Nội, cùng các thầy
cô giáo đã tận tình giảng dạy, tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Hiền
đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Sở Gíáo dục và Đào tạo Tây
Ninh, Ban Giám hiệu, các bạn đồng nghiệp ở 4 trường THPT và các cơ quan,
ban ngành trên địa bàn huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh đã nhiệt tình cộng
tác, cung cấp dữ liệu, cho ý kiến và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
nghiên cứu thực tế để làm luận văn.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, mặc dù bản thân đã rất cố
gắng, song luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong quý thầy cô
và các bạn quan tâm góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 7 năm 2014
Tác giả
Huỳnh Văn Chớ


KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBQL:

ĐT:
GD:
GV:
GVCN:
HS:
NXB:
QL:
QLGD:
SL:
TB:
THCS:
THPT:
TL:
TNCS:
tr:
TS:

Cán bộ quản lý
Đào tạo
Giáo dục
Giáo viên
Giáo viên chủ nhiệm
Học sinh
Nhà xuất bản
Quản lý
Quản lý giáo dục
Số lượng
Trung bình
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông

Tỷ lệ
Thanh niên Cộng sản
Trang
Tổng số


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Nhận thức và thái độ của CBQL và GV về tầm quan trọng của công tác
chủ nhiệm lớp...........................................Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.2: Hình thức kiểm tra, đánh giá công tác chủ nhiệm...Error: Reference source
not found
Biểu đồ 2.3: Hình thức khen thưởng GVCN lớp..........Error: Reference source not found


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, chất lượng giáo dục học sinh ở nước ta nói
chung và ở tỉnh Tây Ninh nói riêng có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được
nhiều thành tích đáng kể. Song vẫn còn tình trạng một bộ phận HS không tích
cực học tập, chưa ngoan, thậm chí sa sút về đạo đức, lối sống. Một trong
những nguyên nhân của tình trạng này là do HS chưa xác định được mục tiêu
phấn đấu, chưa có động cơ, thái độ học tập đúng đắn. Đồng thời, sự lỏng lẻo

trong việc QL nền nếp, kỷ cương trường học và những tác động tiêu cực từ xã
hội, các yếu tố không muốn từ nền tảng gia đình cũng làm ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng giáo dục học sinh. Ngoài ra, một nguyên nhân cơ bản dẫn
đến tình trạng nêu trên là công tác GVCN ở các trường còn nhiều yếu kém.
Công tác GVCN lớp đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì nền nếp,
kỷ cương trường học, góp phần vào việc GD toàn diện HS. Tuy nhiên trong
thời gian qua, công tác GVCN ở các trường THPT trên địa bàn huyện Tân Châu,
tỉnh Tây Ninh vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém như chưa được quan tâm đúng mức,
công tác QL của hiệu trưởng chưa thật sự khoa học và năng lực đội ngũ GVCN còn
nhiều hạn chế. Trong khi đó, ngành GD - ĐT của Huyện vẫn chưa có đề tài nào
nghiên cứu một cách đầy đủ về công tác này nên việc tìm ra các biện pháp QL
công tác GVCN phù hợp với thực trạng các trường THPT ở địa phương nhằm
góp phần nâng cao chất lượng GD toàn diện HS huyện Tân Châu là vấn đề
cấp thiết. Vì vậy tôi lựa chọn vấn đề “Biện pháp quản lý công tác giáo viên
chủ nhiệm lớp ở các trường THPT huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh” làm
đề tài nghiên cứu cuối khóa học thạc sỹ QLGD.

1


2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu lý luận và thực trạng QL công tác GVCN lớp ở các
trường THPT huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, từ đó đề xuất biện pháp QL
công tác GVCN lớp của hiệu trưởng nhằm góp phần nâng cao chất lượng GD
toàn diện cho HS ở các trường THPT huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý công tác GVCN lớp ở trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý công tác GVCN lớp ở các trường THPT huyện Tân

Châu, tỉnh Tây Ninh.
4. Giả thuyết khoa học
Việc QL công tác GVCN lớp ở các trường THPT huyện Tân Châu, tỉnh
Tây Ninh có những hạn chế nhất định. Nếu đề xuất được các biện pháp QL
công tác GVCN phù hợp với các trường THPT trong Huyện và áp dụng
chúng một cách đồng bộ, triệt để thì sẽ có thể nâng cao nhận thức, năng lực,
nghiệp vụ cho đội ngũ GVCN, từ đó góp phần nâng cao chất lượng GD toàn
diện cho HS ở các trường THPT huyện Tân Châu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của QL công tác GVCN lớp ở trường
THPT.
5.2. Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng các biện pháp QL
công tác GVCN lớp ở các trường THPT huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

2


5.3. Đề xuất biện pháp QL công tác GVCN lớp ở các trường THPT
huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Phạm vi về nội dung
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu công tác chủ nhiệm lớp và biện pháp
QL công tác GVCN lớp ở các trường THPT.
6.2. Phạm vi về không gian
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở điều tra, khảo sát, đánh giá
thực trạng công tác GVCN lớp và biện pháp QL công tác GVCN lớp ở các
trường THPT huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, bao gồm 04 trường: THPT Lê
Duẩn, THPT Tân Đông, THPT Tân Hưng và THPT Tân Châu.
6.3. Phạm vi về thời gian
Số liệu tổng quan và khảo sát lấy từ năm học 2011-2012 đến năm học

2013-2014.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Đọc và phân tích sách báo, tài liệu nghiên cứu, tạp chí liên quan tới
nội dung nghiên cứu của đề tài.
- Phân loại, hệ thống hoá, khái quát hoá các nội dung về lý luận QLGD,
thực tiễn GD,…
- Nghiên cứu các văn bản pháp quy, những quy định của ngành GD về
công tác GVCN lớp.

3


7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra viết: Xây dựng các phiếu trưng cầu ý kiến với
một hệ thống câu hỏi đã được biên soạn sẵn nhằm thu thập những thông tin
cần thiết về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát: Tiếp cận, xem xét, thu thập dữ liệu thông tin
từ thực tiễn công tác chủ nhiệm lớp và QL công tác GVCN lớp của hiệu
trưởng các trường THPT huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
- Phương pháp chuyên gia: Liên hệ, gặp gỡ các thầy, cô giáo có nhiều
kinh nghiệm về lĩnh vực đang nghiên cứu để trao đổi, nghe sự tư vấn, định
hướng cho việc nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn CBQL và GV, đặc biệt là GVCN
về các vấn đề có liên quan đến công tác chủ nhiệm và quản lý công tác chủ
nhiệm ở trường THPT.
7.3. Các phương pháp hỗ trợ: Sử dụng phương pháp thống kê toán học
để xử lý và phân tích các số liệu từ các phiếu hỏi thu thập được nhằm kiểm
chứng giả thuyết khoa học và xác định tính khả thi của đề tài.
8. Dự kiến đóng góp của đề tài

- Đề tài phát hiện thực trạng công tác GVCN lớp và các biện pháp QL
công tác GVCN lớp đang sử dụng ở các trường THPT huyện Tân Châu, tỉnh
Tây Ninh.
- Đề xuất được 06 biện pháp QL công tác GVCN lớp ở các trường
THPT huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; đồng thời góp phần vào việc phổ biến
kinh nghiệm QL công tác GVCN lớp trong các trường THPT.
9. Cấu trúc luận văn

4


Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, danh mục các bảng
biểu, danh mục chữ viết tắt và các phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm
3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp
ở trường THPT;
- Chương 2: Thực trạng quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở các
trường THPT huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh;
- Chương 3: Biện pháp quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở các
trường THPT huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.

5


Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ
NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Từ thế kỷ thứ XVI, nhà GD Tiệp Khắc (nay là cộng hoà Séc)
J.A.Cômenxki (1592 - 1670) là người đầu tiên đưa ra hình thức tổ chức dạy

học “lớp - bài”. Theo đó, những HS có trình độ tương đương, lứa tuổi tương
đương, tâm sinh lý tương đồng được tập hợp lại thành một đơn vị lớp; chương
trình dạy học được phân ra bao gồm nhiều môn học, mỗi môn học có số bài
học nhất định, có thời gian mở đầu và kết thúc, năm học được chia ra thành
nhiều học kỳ. Lý thuyết về tổ chức dạy học theo hình thức “lớp - bài” vẫn còn
nguyên giá trị và được duy trì cho đến ngày nay.
Để giúp hiệu trưởng QL lớp học một cách hiệu quả, đội ngũ GVCN bắt
đầu hình thành. Ở Việt Nam, người GVCN xuất hiện trong cuộc cải cách GD
lần thứ nhất năm 1950 trong các nhà trường vùng tự do. GVCN là người thay
mặt hiệu trưởng QL hoạt động học tập, sinh hoạt của lớp học, có vai trò đặc
biệt trong việc GD HS. Trong thời đại ngày nay, xã hội ngày càng đặt ra
những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực đối con người, GVCN lại càng có
vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp GD nước nhà.
Xuất phát từ tầm quan trọng của người GVCN, công tác chủ nhiệm và
QL công tác chủ nhiệm luôn được Ngành GD - ĐT và các nhà nghiên cứu
khoa học quan tâm. Các vấn đề về có liên quan đến công tác chủ nhiệm được
nghiên cứu, bàn luận dưới nhiều góc độ khác nhau. Tại Hội thảo công tác
GVCN ở trường THPT do Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở GD phối
hợp với Dự án phát triển GD THCS tổ chức năm 2010, các nhà khoa học đã
6


nêu lên một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác chủ nhiệm, chẳng hạn
như các tác giả: Hà Nhật Thăng có bài viết về “Một vài điểm mới trong công
tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông”, Nguyễn Dục Quang đề cập về
“Phương hướng nâng cao năng lực GD cho đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp ở
trường phổ thông”, Đặng Quốc Bảo bàn về “Giáo viên chủ nhiệm lớp ở
trường phổ thông - quan niệm và một số kiến giải”, Mạc Văn Trang nêu lên
“Sứ mệnh và vai trò của giáo viên chủ nhiệm”,... Bên cạnh đó, nhiều CBQL
GD tham gia báo cáo tham luận về chỉ đạo, QL công tác chủ nhiệm ở các địa

phương khác nhau như Hà Nội, Hải Phòng, Lai Châu, Ninh Bình, Nghệ An,
Bình Phước, Tiền Giang, Vĩnh Long,...[6]
Một số công trình nghiên cứu về công tác chủ nhiệm đã thể hiện sự
quan tâm sâu sắc của các nhà khoa học. Tác giả Hà Nhật Thăng đã giới thiệu
rất cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của GVCN lớp ở trường phổ thông, nội
dung công tác chủ nhiệm và hướng dẫn thực hiện một số nội dung công tác
chủ nhiệm lớp trong quyển sách “Công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường
phổ thông”, NXB Giáo dục, năm 1998. Tác giả Nguyễn Thị Bình chủ biên
quyển “Một số vấn đề trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT hiện
nay”, NXB Đại học Sư phạm, năm 2011. Quyển sách đã giới thiệu rất cụ thể,
chi tiết những vấn đề chung về GVCN lớp ở trường phổ thông và những nội
dung cần quan tâm trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT hiện nay.
Trong quyển “Lý luận giáo dục”, NXB Đại học Sư phạm, năm 2010, tác giả
Phan Thanh Long (chủ biên) đã dành riêng một chương để trình bày về chức
năng của người GVCN lớp, nhiệm vụ, nội dung công tác chủ nhiệm lớp, các
phương pháp tác động GD của người GVCN và những phẩm chất, năng lực
sư phạm của người GVCN lớp.
Trong những năm gần đây, một số tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài
luận văn thạc sĩ khoa học GD chuyên ngành QLGD về QL công tác GVCN

7


lớp ở trường THPT tại các địa phương khác nhau như: Trần Châu Hoàn
(2010), “Biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối với công tác chủ nhiệm lớp
ở trường THPT huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng”; Nguyễn Văn
Thành (2011), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên chủ
nhiệm lớp ở trường THPT huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An”; Nguyễn Văn
Chương (2012), “Biện pháp quản lý công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở
trường THPT Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên”. Tuy nhiên, hiện nay trên địa

bàn huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh chưa có một tác giả nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, khoa học về đề tài QL công tác GVCN lớp ở cấp THPT. Việc
nghiên cứu tìm ra những biện pháp khả thi để QL công tác GVCN lớp ở các
trường THPT huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh sẽ góp phần nâng cao chất
lượng GD toàn diện HS trên địa bàn Huyện trong thời gian tới.
1.2. Lý luận về quản lý trường THPT
1.2.1. Quản lý
1.2.1.1. Khái niệm quản lý
Khi xã hội loài người xuất hiện, các nhóm người bắt đầu hình thành để
thực hiện những mục tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách là những cá
nhân riêng lẻ, QL xuất hiện như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ
lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung.
C. Mác coi quản lý (quản lý xã hội) là chức năng được sinh ra từ tính
chất xã hội hoá lao động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển
của xã hội đều thông qua hoạt động của con người và thông qua QL. Ông
viết: “Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến hành
trên quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những
hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải là những chức năng chung, tức là
những chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ

8


thể sản xuất với những vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợp
thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình,
nhưng một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng”. [18; tr.29]
Theo Từ điển Giáo dục học, QL là hoạt động hay tác động có định
hướng, có chủ định của chủ thể QL đến khách thể QL trong một tổ
chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ
chức. [14; tr.326]

Theo Trần Quốc Thành, dưới góc độ hành động, QL được hiểu là chỉ
huy, điều khiển, điều hành. Chủ thể QL điều khiển hoạt động của thuộc cấp
bằng cách tổ chức họ lại, đưa họ vào guồng máy bằng các quy định và điều
khiển các đối tượng khác, có thể là các vật hữu sinh hoặc là các vật thể vô
tri vô giác, nhằm để đạt được mục tiêu đã đề ra. [29; tr.2]
Theo Nguyễn Ngọc Quang thì QL là tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể QL đến tập thể những người lao động (nói chung là khách thể
QL) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến. [25; tr.24]
Frederick Winslow Taylor (1856-1915) là một trong những người đầu
tiên tiếp cận và nghiên cứu QL một cách khoa học và có hệ thống. Ông cho
rằng: QL là biết chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu
rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất. [19; tr.31]
William Henry Koontz khẳng định rằng: QL là một hoạt động thiết
yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được
các mục đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của QL là hình thành một môi
trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với
thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. [20; tr.31]
Các khái niệm trên tuy khác nhau nhưng có một số điểm chung trong
quan niệm về QL. Đó là hoạt động QL có sự tham gia của chủ thể QL và đối

9


tượng QL; QL luôn hướng đến việc đạt được một hoặc một tập hợp mục
đích cụ thể thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra.
Từ việc phân tích, tổng hợp và khái quát các nhận định về QL trong
các khái niệm nêu trên có thể xác định: QL là sự tác động có ý thức của chủ
thể QL lên đối tượng QL thông qua các hoạt động lập kế hoạch, tổ chức,
lãnh đạo và kiểm tra điều chỉnh nhằm đạt được những mục tiêu của tổ chức
đã đề ra.

1.2.1.2. Chức năng quản lý
Có nhiều cách phân chia chức năng QL nhưng nhiều người cho
rằng QL có bốn chức năng cơ bản, đó là: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh
đạo và kiểm tra.
* Chức năng lập kế hoạch:
Lập kế hoạch là quá trình chuẩn bị đối phó với những sự thay đổi và
tính không chắc chắn bằng việc trù liệu những cách thức hành động trong
tương lai. [18; tr.39]
Lập kế hoạch là bước khởi đầu và trọng yếu trong quá trình QL, là cơ
sở để thực hiện các chức năng của QL. Nhà QL phải xác định các mục tiêu
cho bộ máy tổ chức, những công việc và biện pháp cần làm trong tương lai
nhằm hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra.
* Chức năng tổ chức:
Tổ chức là quá trình thiết lập một hệ thống các vị trí cho mỗi cá nhân
và bộ phận sao cho họ có thể phối hợp với nhau một cách tốt nhất để đạt
được mục tiêu của tổ chức.
Chức năng tổ chức có khả năng tạo ra sức mạnh của một tổ chức nếu
việc tiếp nhận, phân phối và sắp xếp các nguồn lực được tiến hành một cách
hợp lý, khoa học. Điều này phụ thuộc vào năng lực của nhà QL trong việc

10


sử dụng hiệu quả các nguồn lực của tổ chức.
* Chức năng lãnh đạo hay chỉ đạo:
Lãnh đạo là khả năng tác động, thúc đẩy, hướng dẫn và chỉ đạo người
khác để đạt được những mục tiêu đã đề ra. [18; tr.47]
Nhà QL thực hiện chức năng chỉ đạo bằng cách làm cho thuộc cấp tự
nguyện phục tùng mệnh lệnh, làm đúng kế hoạch và nhiệm vụ được phân
công; đồng thời cũng cần phải khơi dậy động lực, kích thích sự năng động,

tính sáng tạo của con người trong công việc bằng các biện pháp cụ thể như
động viên, khen thưởng và kể cả trách phạt.
* Chức năng kiểm tra:
Kiểm tra là một chức năng quan trọng của QL, không có kiểm tra là
không có QL. Nó cung cấp thông tin làm cơ sở cho việc điều chỉnh, đổi mới
công tác QL ở các khâu trước đó như lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo nhằm
từng bước nâng cao chất lượng hoạt động và QL hoạt động của tổ chức.
Tóm lại, các chức năng của QL có mối quan hệ thống nhất, tác động
qua lại lẫn nhau và là tiền đề của nhau. Ở giai đoạn này, chức năng này là
nền tảng và là điểm tựa cho giai đoạn kia, chức năng kia. Chúng vận động
và luân chuyển tạo nên một chu trình QL, giúp duy trì sự tồn tại và tạo nên
sự phát triển của tổ chức.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Có nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ QLGD. Thực sự thuật ngữ
này có nhiều cấp độ, ít nhất là hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và vi mô. QL vĩ
mô tương ứng với khái niệm về QL một nền GD (hệ thống GD) và QL vi mô
tương ứng với khái niệm về QL một trường học hay một cơ sở GD.
Ở cấp độ vĩ mô, QLGD được hiểu là hệ thống tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể QL vào hệ thống GD quốc dân nhằm huy động và tổ

11


chức thực hiện có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho mục tiêu phát triển
GD, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. [31; tr.5]
Theo Nguyễn Kỳ và Bùi Trọng Tuân, QLGD được hiểu là những tác
động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy
luật) của chủ thể QL đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất
đến các cơ sở GD là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả
mục tiêu phát triển GD, ĐT thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội. [17; tr.10]

Ở cấp độ vi mô, QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể QL vào hệ thống tổ chức GD của nhà trường nhằm điều
khiển các thành tố trong hệ thống phối hợp hoạt động theo đúng chức năng,
đúng kế hoạch, đảm bảo cho quá trình GD đạt được mục đích, mục tiêu đã
xác định với hiệu quả cao nhất. [31; tr.6]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, “Quản lý giáo dục thực chất là tác
động đến nhà trường, làm cho nó tổ chức tối ưu được quá trình dạy học,
giáo dục thể chất theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng, quán triệt
được những tính chất trường trung học phổ thông xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, bằng cách đó tiến tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái chất lượng
mới”. [25, tr32]
Đối với cấp độ vi mô, QLGD diễn ra trong phạm vi một cơ sở GD (một
nhà trường). Vì thế, thuật ngữ “quản lý nhà trường” có thể xem là đồng
nghĩa với QLGD ở tầm vi mô.
1.2.3. Quản lý trường THPT
1.2.3.1. Khái niệm trường THPT
Theo Điều 26, Luật Giáo dục số 38/2005/QH11, ngày 14/6/2005 của
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, GD phổ thông bao
gồm: GD tiểu học, GD THCS và GD THPT. Tương ứng với các cấp GD

12


phổ thông là trường tiểu học, THCS và THPT. Trường THPT gồm 3 khối
lớp: 10, 11 và 12, là một loại hình đào tạo chính quy ở Việt Nam, dành cho
lứa tuổi từ 15 tới 18 không kể một số trường hợp đặc biệt. Sau khi tốt
nghiệp hệ GD này, HS được nhận bằng Tốt nghiệp THPT (có giai đoạn
được gọi là Bằng Tú tài). Trường THPT được lập tại các địa phương trên cả
nước, đứng đầu là Hiệu trưởng, được sự QL trực tiếp của Sở GD và ĐT
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trường hoạt động theo Điều lệ

trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học do Bộ
GD và ĐT ban hành.
Nhà trường là nơi được tổ chức và hoạt động theo một mục đích xác
định, với một nội dung giáo dục có chọn lọc, có hệ thống, với những
phương pháp giáo dục khoa học, với đội ngũ thầy giáo được đào tạo, được
trang bị cả về kiến thức, năng lực chuyên môn và đạo đức. Nhà trường còn
là nơi được trang bị những phương tiện, điều kiện ngày một hoàn thiện để
có khả năng đào tạo thế hệ trẻ liên tục trong một thời gian dài. [18; tr.178]
Như vậy trường THPT là một cơ sở GD (nhà trường) trong hệ thống
giáo dục quốc dân, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Luật Giáo dục, Điều
lệ trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học.
1.2.3.2. Khái niệm quản lý nhà trường THPT
QL nhà trường, QL trường THPT là một hình thức QLGD ở tầm vi mô.
Đối tượng QL của nhà trường bao gồm nhiều yếu tố như con người, các hoạt
động GD và cơ sở vật chất,.... Song bản chất của QL nhà trường là QL con
người (GV và HS). Trong nhà trường, GV và HS là đối tượng QL, chịu sự tác
động của chủ thể QL hay hiệu trưởng. Ở một góc độ nào đó, họ cũng là chủ
thể QL như: tổ trưởng QL GV trong tổ chuyên môn; GV bộ môn QL HS mình
giảng dạy; GVCN QL HS lớp chủ nhiệm; ban cán sự lớp QL thành viên trong

13


tổ; các tổ, nhóm HS tự quản trong trường, lớp,... Tất cả tham gia một cách chủ
động, tích cực vào hoạt động QL chung của nhà trường, biến nhà trường trở
thành hệ tự QL.
Theo tác giả Trần Kiểm, QL nhà trường là QL hoạt động GD trong nhà
trường bao gồm hệ thống những tác động có hướng đích của hiệu trưởng đến
các hoạt động GD, đến con người (GV, cán bộ nhân viên và HS), đến các

nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, thông tin,...), đến các ảnh hưởng ngoài
nhà trường một cách hợp quy luật (quy luật QL, quy Luật Giáo dục, QL tâm
lý, quy luật kinh tế, quy luật xã hội,...) nhằm đạt mục tiêu GD. [17; tr.11]
Cũng có thể xem QL nhà trường (một cơ sở GD) là những tác động tự
giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật) của
chủ thể QL nhà trường (hiệu trưởng) đến khách thể QL nhà trường (giáo viên,
nhân viên và người học,…) nhằm đưa các hoạt động GD và dạy học của nhà
trường đạt tới mục tiêu GD. [11; tr.20]
Như vậy, QL nhà trường, trong đó có QL trường THPT, có thể hiểu là
QL hoạt động GD của nhà giáo, hoạt động học tập và rèn luyện của người
học, các nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu GD.
1.2.3.3. Mục đích quản lý nhà trường
Mục đích của QL nhà trường là nâng cao chất lượng GD và ĐT, đưa
nhà trường từ trạng thái hiện có tiến lên một trạng thái mới có chất lượng hơn.
Mục đích cuối cùng của QLGD là tổ chức quá trình GD có hiệu quả để ĐT
một lớp thanh niên thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và
phấn đấu vì hạnh phúc của bản thân và xã hội.
Mục đích của QLGD còn là xây dựng và phát triển mạnh mẽ các nguồn
lực GD, hướng các nguồn lực đó phục vụ cho việc tăng cường hệ thống GD
và chất lượng GD. [23; tr.136]

14


1.2.3.4. Nguyên tắc quản lý nhà trường
Để đảm bảo sự thành công trong mọi hoạt động của nhà trường, công
tác QL phải thực hiện các nguyên tắc sau đây:
- Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với toàn bộ
công tác GD trong nhà trường về: chuyên môn, tư tưởng, chính trị, đạo đức,
văn thể, lao động hướng nghiệp và GD quốc phòng,...

- Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo các công việc
của nhà trường. Động viên và phối hợp với các tổ chức đoàn thể, các tập thể
GV, cán bộ công nhân viên cùng tham gia vào công tác QL nhà trường. Phát
huy vai trò chủ động, tích cực của các lực lượng GD đối với sự nghiệp GD.
Đảm bảo sự đoàn kết, nhất trí trong tập thể sư phạm.
- Nguyên tắc QL quan trọng nhất là QL theo chất lượng. Mỗi trường
học phải có sứ mệnh, mục tiêu và chính sách chất lượng, công bố các tiêu chí,
tiêu chuẩn chất lượng, phải phấn đấu để đạt danh hiệu trường chuẩn quốc gia.
- Đảm bảo nguyên tắc tính khoa học trong trong hoạt động QL, đó là áp
dụng kỹ thuật QL gồm bốn khâu: kế hoạch hóa, thực hiện, kiểm tra và điều
chỉnh. Mỗi công việc cần mục tiêu cụ thể, được tổ chức thực hiện chu đáo, có
kiểm tra uốn nắn, điều chỉnh kịp thời. [23; tr.137]
1.2.3.5. Nội dung quản lý nhà trường
Nội dung QL trường học được hiểu là tất cả những hoạt động mà người
hiệu trưởng phải QL. Trong quyển Những vấn đề cơ bản của khoa học
QLGD, tác giả Trần Kiểm chia hoạt động QLGD, đồng thời cũng là hoạt động
QL trường học, thành 5 nội dung có tính ước lệ như sau:
- Điều hành các hoạt động GD, bao gồm: hoạt động dạy và học, hoạt
động lao động, hoạt động văn - thể - mỹ, hoạt động xã hội, hoạt động ngoại

15


khóa, hoạt động GD diễn ra trong nhà trường, ngoài xã hội, ở gia đình,... Các
hoạt động GD này mang tính chất chuyên môn, học thuật và tính GD.
- Điều hành các quan hệ như: quan hệ giữa người dạy và người học,
quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, quan hệ giữa các bộ phận QL cùng cấp,...
- Điều hành các nguồn lực GD (nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực,...)
nhằm khai thác, huy động tiềm năng của các nguồn lực phục vụ một cách có
hiệu quả việc thực hiện mục tiêu GD theo yêu cầu của xã hội.

- Điều hành các tác động khách quan đối với hệ thống GD và hệ thống
QLGD. Đối với nhà QL ở bất kỳ cấp nào cũng đều phải xử lý mối quan hệ
giữa GD và môi trường, tức là phải điều hành những tác động khách quan,
biến chúng thành những nhân tố tích cực có lợi cho GD.
- Điều hành công tác QL của bản thân chủ thể QL (hiệu trưởng). [17;
tr.297]
1.3. Lý luận về công tác GVCN lớp
1.3.1. Vị trí, vai trò GVCN lớp
Sự thành công hay thất bại của một lớp học đều ảnh hưởng đến hoạt
động chung của nhà trường. Người GVCN có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc xây dựng một tập thể lớp vững mạnh, từ đó góp phần xây dựng và
phát triển nhà trường. Thuật ngữ “GVCN” được sử dụng thường xuyên trong
các trường học, đặc biệt là ở các cấp học tiểu học, THCS, THPT,...
Quyển Sổ công tác GVCN trường tiểu học, THCS và THPT năm học
2012-2013 nêu rằng: GVCN là người đại diện cho hiệu trưởng QL toàn diện
HS một lớp ở một trường phổ thông. [27; tr.50]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo, có thể coi GVCN là một nhà QL - nhà
QL không có dấu đỏ. [6; tr.26]

16


Theo tác giả Nguyễn Thanh Bình, GVCN là thành viên của tập thể sư
phạm và hội đồng sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà
trường và cha mẹ HS QL và chịu trách nhiệm về chất lượng GD toàn diện HS
lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở
lớp chủ nhiệm.
Đối với tập thể HS và tập thể lớp, GVCN là nhà GD và là người lãnh
đạo gần gũi nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện
mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách

dựa trên đội ngũ tự quản là cán bộ lớp, cán bộ Đoàn và tính tự giác của mọi
HS trong lớp.
Trong quan hệ với các lực lượng GD khác trong và ngoài nhà trường,
GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách HS và là cầu
nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội. [1; tr.7]
Từ những quan niệm nêu trên có thể hiểu GVCN là người:
- Chịu trách nhiệm QL, GD toàn diện HS một lớp.
- Vạch ra kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các nội dung theo
kế hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện các nội dung GD đối với HS.
- Có vai trò quan trọng trong việc góp phần hình thành, phát triển nhân
cách HS và là cầu nối giữa các lực lượng GD trong và ngoài nhà trường.
Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của người GVCN lớp,
đầu mỗi năm học hiệu trưởng phải căn cứ vào tình hình thực tế của nhà
trường để tuyển chọn, phân công một trong số GV giảng dạy của mỗi lớp đảm
nhiệm công tác GVCN lớp đúng theo Điều lệ trường trung học. Tuy nhiên,
khi phân công GVCN, hiệu trưởng phải chú ý những yêu cầu cơ bản đối với
người GVCN. Đó là:

17


- Có tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức tốt; gương mẫu, làm việc với
tinh thần trách nhiệm cao; có tình thương yêu và sức thuyết phục đối với HS.
- Đạt trình độ chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ; có đủ năng lực sư
phạm như: nắm vững kiến thức cơ bản về tâm lý học, GD học; có khả năng
xây dựng kế hoạch chủ nhiệm, bồi dưỡng ban cán sự lớp; có khả năng GD,
định hướng sự phát triển nhân cách tốt đẹp cho HS; có khả năng nhận xét,
đánh giá kết quả rèn luyện của HS; có khả năng phối hợp các lực lượng GD
trong và ngoài nhà trường để thực hiện tốt công tác GD HS.
- Nên có điều kiện thuận lợi, đặc biệt là về thời gian và sức khỏe tốt

nhằm giúp họ hoàn thành nhiệm vụ được giao.
1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của GVCN lớp
1.3.2.1. Chức năng của GVCN lớp
GVCN cơ bản là GV bộ môn trực tiếp giảng dạy tại lớp được phân
công làm công tác chủ nhiệm, thực hiện chức năng QL, GD toàn diện tập thể,
cá nhân HS ở lớp chủ nhiệm. Theo các tác giả Phan Thanh Long, Trần Quang
Cấn và Nguyễn Văn Diện, GVCN có các chức năng sau:
- GVCN lớp là người thay mặt hiệu trưởng QL, GD toàn diện tập thể
HS một lớp học.
- GVCN là người cố vấn tổ chức hoạt động tự quản của tập thể HS.
- GVCN là cầu nối giữa hiệu trưởng, ban giám hiệu, các tổ chức trong
nhà trường, các GV bộ môn với tập thể HS lớp mình phụ trách.
- GVCN có chức năng phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thực hiện
mục tiêu GD ở lớp mình phụ trách. [21; tr.203]
1.3.2.2. Nhiệm vụ của GVCN lớp
Nhiệm vụ của GVCN được quy định cụ thể tại các văn bản pháp lý như:

18


×