Tải bản đầy đủ (.doc) (148 trang)

TÍCH hợp nội DUNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG dạy học môn GDCD ở TRƯỜNG THPT VIỆT bắc, TP LẠNG sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 148 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-------–&—-------

MAI HỒNG KHÁNH

TÍCH HỢP NỘI DUNG PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
Ở TRƯỜNG THPT VIỆT BẮC, TP LẠNG SƠN

Chuyên ngành
Mã số

: LL&PP Giảng dạy Giáo dục chính trị
: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Như Hải

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, lời cảm ơn chân thành và sâu sắc
nhất, trước tiên tôi xin gửi tới PGS.TS. Nguyễn Như Hải người thầy hướng
dẫn trực tiếp của tôi. Trong suốt thời gian làm luận văn tôi đã nhận được sự
giúp đỡ tận tình, chu đáo của thầy.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể Ban chủ nhiệm khoa, các thầy cô
giáo trong khoa Lý luận chính trị- Giáo dục công dân đã luôn giúp đỡ, chỉ
bảo, góp ý cho tôi rất nhiều trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.


Cuối cùng, tôi xin cảm ơn lãnh đạo và tập thể giáo viên trường THPT
Việt Bắc, thành phố Lạng Sơn và tập thể lớp Cao học LL&PPDH GDCT
K24, bạn bè và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình
học tập cũng như trong thời gian hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Trong quá trình làm đề tài, mặc dù tác giả đã bỏ nhiều thời gian, công
sức và được sự hướng dẫn nhiệt tình, chi tiết của thầy hướng dẫn. Tuy nhiên,
do trình độ còn nhiều hạn chế nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót.
Tôi mong muốn nhận được những góp ý xây dựng từ phía các thầy cô và mọi
người quan tâm đến đề tài này để đề tài này được hoàn thiện hơn./.
Hà Nội, ngày 06 tháng 06 năm 2016
Tác giả

Mai Hồng Khánh


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GD
ĐT
BD
PCTN
CNXH
GV
HS
SV
GDCD
THPT
SGK
TP
PPDH
HĐTNST

HĐGD
CLB
TN
ĐC

Giáo dục
Đào tạo
Bồi dưỡng
Phòng chống tham nhũng
Chủ nghĩa xã hội
Giáo viên
Học sinh
Sinh viên
Giáo dục công dân
Trung học phổ thông
Sách Giáo khoa
Thành phố
Phương pháp dạy học
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo
Hoạt động giáo dục
Câu lạc bộ
Thực nghiệm
Đối chứng


DANH MỤC BẢNG BIỂU


MỤC LỤC
Biểu hiện của hành vi tham nhũng: Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống

tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) đã phân loại tham
nhũng theo hành vi. Theo đó, những hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi
tham nhũng:.............................................................................................13


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tham nhũng đang là một hiện tượng xã hội, tham nhũng gây ra nhiều hậu
quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; là trở lực lớn đối với
quá trình đổi mới đất nước và làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước, đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng,
lãng phí ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc thực hiện chủ trương, chính sách
về kinh tế - xã hội cũng như một nhiệm vụ quản lý của nhà nước.
Trong những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, công tác
phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng đã đạt được những kết quả nhất định.
Nhiều vụ việc tham nhũng, trong đó có những vụ việc lớn, phức tạp đã được phát
hiện và xử lý nghiêm minh. Qua đó, góp phần quan trọng xây dựng bộ máy Nhà
nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, củng cố lòng tin của nhân dân.
Tuy nhiên, GD, BD, ĐT về PCTN là vấn đề mới ở nước ta. Chính vì lẽ đó
mà thời gian qua việc giáo dục về PCTN trong các cơ sở ĐT, GD chưa được quan
tâm đúng mức. Mặc dù có đưa vấn đề này vào chương trình ĐT, song nội dung còn
đơn giản và thường chỉ được lồng ghép ở một phần nhỏ trong các môn học chính
khóa khác. Hơn thế, việc tổ chức giảng dạy, học tập cũng chưa được chú trọng, còn
thiếu bài bản và hệ thống. Do vậy, nhận thức của SV, HS và thậm chí của cả đội
ngũ cán bộ làm công tác giảng dạy về PCTN trong các cơ sở GD, ĐT nhìn chung
còn hạn chế.
Xuất phát từ tình hình đấu tranh PCTN của nước ta, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã yêu cầu: “Đưa nội dung Luật
Phòng, chống tham nhũng... vào chương trình giáo dục”. Xác định đây là nội dung
quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tham nhũng. Thể chế hoá

chủ trương, quan điểm của Đảng, Chương trình hành động của Chính phủ đã tăng
cường thực hiện Luật PCTN đã giao cho Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Học viện Hành chính quốc gia (nay là Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) và các cơ quan chức năng liên quan triển khai

1


việc đưa nội dung PCTN vào chương trình GD, BD, ĐT.
Từ năm học 2013-2014, nội dung PCTN được chính thức đưa vào giảng dạy.
Có thể nói, quá trình dạy học tích hợp nội dung PCTN trong môn GDCD cấp THPT
có nhiều mặt thuận lợi như đội ngũ giáo viên về cơ bản được đào tạo đúng theo quy
định, có kỹ năng sư phạm đã đóng góp quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng
dạy học. Mặt khác, PCTN là vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Việc thực hiện dạy
học tích hợp nội dung PCTN trong môn GDCD được triển khai là một bước tiến
mới trong công tác giáo dục pháp luật về PCTN nhằm nâng cao nhận thức và trách
nhiệm của cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên đối với cuộc đấu tranh PCTN.
Bên cạnh những mặt thuận lợi, việc dạy học tích hợp nội dung PCTN trong
môn GDCD cũng gặp phải một số những khó khăn, trở ngại nhất định. Đó là PCTN
luôn là vấn đề nhạy cảm với xã hội, với đối tượng được dạy học ở lứa tuổi HS, SV
vì sự hiểu biết, nhận thức của các em về vấn đề này còn nhiều hạn chế.
Ngoài ra, GV dạy học ở các trường THPT nói chung và của trường THPT
Việt Bắc, thành phố Lạng sơn nói riêng còn gặp khó khăn trong việc lấy dẫn chứng
minh họa cho HS, tranh ảnh, tư liệu…phục vụ dạy và học về nội dung PCTN còn ít;
GV dạy môn GDCD chưa được ĐT, BD chuyên sâu về nội dung PCTN. Đây là những
trở ngại lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả dạy học nội dung PCTN cho HS.
Tất cả những vấn đề nêu ra ở trên đang đòi hỏi phải có sự tổng kết về lí luận,
trải nghiệm trong thực tiễn để làm cơ sở khoa học thiết thực và có hiệu quả cho quá
trình dạy học tích hợp nội dung PCTN trong môn GDCD ở trường THPT Việt Bắc,
tỉnh Lạng sơn nói riêng và trong các trường THPT cả nước nói chung.
Xuất phát từ những đòi hỏi đó mà tôi lựa chọn vấn đề: “Tích hợp nội dung

phòng chống tham nhũng trong dạy học môn GDCD ở trường THPT Việt Bắc,
thành phố Lạng Sơn” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Tích hợp là vấn đề của nhận thức và tư duy của con người, là triết lý chi
phối, định hướng và quyết định thực tiễn hoạt động của con người. Lý thuyết tích
hợp được ứng dụng vào giáo dục trở thành một quan điểm lý luận dạy học phổ biến
trên thế giới hiện nay. Chương trình được xây dựng trên quan điểm tích hợp, trước

2


hết dựa trên quan điểm giáo dục nhằm phát triển năng lực người học.
Ở Việt Nam, từ những năm cuối thế kỷ XX, việc nghiên cứu xây dựng môn
“Tìm hiểu tự nhiên và xã hội” theo quan điểm tích hợp đã được thực hiện và môn
học này được thiết kế để đưa vào dạy học ở trường cấp I từ lớp 1 đến lớp 5. Chương
trình năm 2000 đã được hoàn chỉnh thêm một bước. Quan điểm tích hợp đã được
thể hiện trong chương trình và SGK cùng các hoạt động dạy học ở tiểu học. Tuy
nhiên, khái niệm tích hợp vẫn còn mới lạ với nhiều GV.
Nghiên cứu về vấn đề PCTN ở nước ta không phải là vấn đề mới. Từ trước
đến nay có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như: “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTN, lãng phí”, Tạp chí Cộng Sản
2013 (số 771) của Trương Vĩnh Trọng; “Quyền được thông tin, công cụ hữu hiệu
trong đấu tranh PCTN ở Việt Nam”, công trình tham gia xét giải thưởng “Tài năng
khoa học trẻ Việt Nam” năm 2012- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhóm ngành kinh
doanh và quản lý (KD3); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về PCTN, lãng phí, quan liêu với
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay”, Tạp chí Cộng Sản 2013 (số 76) của
Nguyễn Tùng Lâm, Phạm Thị Hạnh; “Nhóm lợi ích và vấn đề chống tham nhũng”,
Tạp chí Triết học 2006 (số 3) của Nguyễn Hữu Khiển; “Tham nhũng ở Việt NamMột số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Cộng Sản 2013 (số 76) của Thái Thị
Thu Hương.
Các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu nghiên cứu các vấn đề lý luận và

thực tiễn về tham nhũng, quyền thông tin, học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh về tham nhũng, lãng phí. Đồng thời, nghiên cứu chưa đề cập và
nghiên cứu các nội dung về PPDH và tích hợp nội dung PCTN trong dạy học môn
GDCD.
Hệ thống văn bản quy định và hướng dẫn việc đưa nội dung PCTN vào giảng
dạy tại các cơ sở GDĐT như: Quyết định số 137/2009/QĐ-TTg ngày 2/12/2009 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đưa nội dung PCTN và chương trình GDĐT,
bồi dưỡng; Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 12/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc
đưa nội dung PCTN vào giảng dạy tại các cơ sở GDĐT từ năm học 2013-2014;

3


Hướng dẫn số 5571/BGDĐT-TTr ngày 13/8/2013 của Bộ GDĐT về việc hướng dẫn
Chỉ thị số 10/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Công văn số 8784/BGDĐTGDTrH ngày 06/12/2013 về việc thực hiện Chỉ thị số 10/CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ và bộ Tài liệu giáo dục nội dung PCTN trong môn GDCD cấp THPT.
Các công trình, bài viết như: Tài liệu bồi dưỡng về PCTN (dành cho giáo
viên các trường THPT), Tài liệu tham khảo về PCTN, Sổ tay công tác PCTN, do
Viện Khoa học Thanh tra thuộc Thanh tra Chính phủ biên soạn, Nhà xuất bản chính
trị Quốc Gia (xuất bản năm 2011). Những nghiên cứu này đã cung cấp những kiến
thức cơ bản nhất về tham nhũng, quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về
PCTN, các giải pháp PCTN; góp phần nâng cao năng lực dạy học về PCTN cho đội
ngũ giáo viên trong các trường THPT; giúp người đọc nhận diện được các biểu hiện
về hành vi tham nhũng, những tác hại, nguy cơ, thách thức của tham nhũng và
những nỗ lực chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Qua đó, giúp
cho cán bộ, công chức, HS, SV có những nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng
của công tác PCTN, từ đó có thái độ tích cực tham gia công tác này.
Các nghiên cứu, bài viết trên chủ yếu chỉ ra các vấn đề chung về tham
nhũng, lãng phí, nguyên nhân, biểu hiện, tác hại của tham nhũng, cách thức nhìn
nhận và giải quyết vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các

công trình đó chưa đề cập PPDH nội dung tham nhũng cho thế hệ trẻ nói chung và
tích hợp trong môn GDCD nói riêng như thế nào cho có hiệu quả.
Tài liệu giáo dục nội dung PCTN trong môn GDCD cấp THPT của Bộ Giáo
dục và Đào tạo (tháng 12/2013) đã tập trung nghiên cứu các vấn đề chương trình
tích hợp, PPDH tích hợp nội dung PCTN, gợi ý kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của học sinh về tích hợp nội dung PCTN trong môn GDCD cấp THPT. Nghiên cứu
đã chỉ ra một số PPDH, kỹ thuật dạy học tích hợp nội dung PCTN ở 3 bài. Tuy
nhiên, với thời gian 45 phút của 1 tiết học, PPDH tích hợp như vậy là hơi dài, sẽ
ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu cần đạt của bài học; đồng thời chưa bàn đến các
mức độ tích hợp trong dạy học nội dung PCTN ở từng đơn vị kiến thức cụ thể (tích
hợp liên hệ, tích hợp bộ phận, tích hợp toàn phần...). Mặt khác, nghiên cứu chỉ giới

4


thiệu tích hợp nội dung PCTN thông qua hoạt động ngoại khóa với các hoạt động
chung chung như: hoạt động thực hành, hoạt động thực tế, còn phương pháp cụ thể
tiến hành các hoạt động, chủ đề tích hợp PCTN thông qua hoạt động ngoại khóa cho
học sinh như thế nào để đạt được hiệu quả thì tài liệu này chưa nói đến.
Bên cạnh đó chưa có tài liệu nào đề cập đến cách thức khai thác, sử dụng các
tài liệu, nguồn thông tin khi tích hợp nội dung PCTN trong giảng dạy môn GDCD
cấp THPT.
Học viên kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước về giáo
dục tích hợp và nội dung PCTN để phục vụ cho đề tài: “Tích hợp nội dung phòng
chống tham nhũng trong dạy học môn GDCD ở trường THPT Việt Bắc, thành phố
Lạng Sơn”. Đồng thời bổ sung, phát triển những nội dung mới làm cho việc dạy học
tích hợp nội dung PCTN môn GDCD có hiệu quả cao hơn, thông qua đó giáo dục ý
thức trách nhiệm về công tác PCTN cho HS trường THPT Việt Bắc, TP Lạng Sơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ cơ sở khoa học của việc tích hợp nội dung PCTN trong dạy học

môn GDCD ở trường THPT. Từ đó, đề xuất các nguyên tắc và biện pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả dạy học tích hợp nội dung đó nhằm góp phần tăng cường
nhận thức, trách nhiệm và xây dựng thái độ, ý thức tự giác cho HS đối với công tác
PCTN ở trường THPT nói chung và trường THPT Việt Bắc, thành phố Lạng Sơn
nói riêng.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Khảo sát tích hợp nội dung PCTN trong chương trình môn GDCD ở trường
THPT.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các PPDH tích hợp nội dung PCTN trong
môn GDCD cấp THPT, thông qua việc khảo sát ở trường THPT Việt Bắc, thành
phố Lạng Sơn.
5. Giả thuyết khoa học

5


Dạy học tích hợp nội dung PCTN trong môn GDCD bằng những phương
pháp dạy học tích cực, phù hợp nếu thành công sẽ nâng cao ý thức trách nhiệm,
năng lực thực hành pháp luật cho HS trong công tác PCTN.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khảo sát cơ sở khoa học của việc tích hợp nội dung PCTN trong chương
trình môn GDCD cấp THPT. Đồng thời, thực hiện việc dạy và học tích hợp nội
dung PCTN trong 7 bài thuộc chương trình môn GDCD lớp 10,11,12 cùng với các
hoạt động ngoại khóa cho HS trường THPT Việt Bắc, thành phố Lạng Sơn. Từ đó,
đề xuất các nguyên tắc và biện pháp nâng cao hiệu quả chất lượng dạy và học nội
dung này.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Tích hợp nội dung PCTN trong dạy học 7 bài thuộc chương trình môn

GDCD cấp THPT. Từ đó, đề xuất PPDH tích hợp nội dung PCTN đó tại trường
THPT Việt Bắc, thành phố Lạng Sơn.
8. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh và hệ thống....
Đề tài còn sử dụng các phương pháp: điều tra xã hội học, thực nghiệm sư
phạm, thống kê toán học…nhằm đạt tới mục đích mà luận văn nêu ra.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được triển khai gồm 3 chương 8 tiết.
10. Tóm tắt cô đọng các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
10.1. Những luận điểm cơ bản của đề tài
- Làm rõ quan điểm về tích hợp nội dung PCTN trong dạy học.
- Tích hợp nội dung PCTN trong dạy học môn GDCD cho HS THPT là việc
làm thiết thực. Sự tích hợp các nội dung PCTN vào trong 7 bài thuộc chương trình
môn GDCD cấp THPT là phù hợp.

6


- Sử dụng các nguyên tắc và những biện pháp dạy học tích cực và HĐTNST
để dạy học nội dung tích hợp PCTN là phù hợp và có hiệu quả cao.
10.2. Đóng góp mới của tác giả
- Về mặt lí luận:
Qua việc nghiên cứu, vận dụng các phương pháp để phát triển kĩ năng tích
hợp góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới PPDH theo hướng lấy HS làm trung tâm
của quá trình dạy học.
- Về mặt thực tiễn:
Đề tài “Tích hợp nội dung phòng chống tham nhũng trong dạy học môn

GDCD ở trường THPT Việt Bắc, thành phố Lạng Sơn” là một đề tài mới. Thông
qua dạy học môn GDCD, GV tích hợp nội dung PCTN trong hoạt động chính khóa
và hoạt động ngoại khóa. Từ đó, hình thành ở HS kiến thức, kỹ năng thực hành, xây
dựng thái độ, ý thức đấu tranh PCTN với trách nhiệm của người công dân (HS hiện
tại và người công dân-cán bộ công chức, viên chức, người lao động) tương lai của
đất nước.
Đề xuất một số biện pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục, xây
dựng được thái độ, ý thức đấu tranh với nạn tham nhũng trong xã hội cho HS
trường THPT Việt Bắc, thành phố Lạng Sơn.
Mặt khác, cho đến nay, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn chưa có đề tài nào nghiên
cứu về tích hợp nội dung PCTN trong dạy học môn GDCD cho HS THPT. Do đó,
luận văn sẽ cung cấp thêm các luận chứng khoa học cho việc đổi mới PPDH theo
hướng hình thành và phát triển kĩ năng cho HS.

NỘI DUNG
Chương 1

7


CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÍCH HỢP NỘI DUNG PCTN
TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Cơ sở lý luận của tích hợp nội dung PCTN trong dạy học môn GDCD ở
trường THPT
1.1.1. Các quan điểm về tích hợp và dạy học tích hợp, PPDH tích hợp
1.1.1.1. Các quan điểm về tích hợp
Khi đề cập đến quan điểm về tích hợp, trong hoạt động nhận thức đã xuất
hiện nhiều ý kiến khác nhau. Chẳng hạn, theo từ điển Tiếng Việt: Tích hợp là sự kết
hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối
chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp.

Theo từ điển Giáo dục học: Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng
nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau
trong cùng một kế hoạch dạy học.
Trong lĩnh vực giáo dục, khái niệm tích hợp xuất hiện từ thời kì khai sáng
(thế kỉ XVIII) dùng để chỉ một quan niệm giáo dục toàn diện con người, chống lại
hiện tượng làm cho con người phát triển thiếu hài hòa, cân đối.
Trong dạy học các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội
dung từ các môn học, lĩnh vực khác nhau vào một “môn học” mới hoặc lồng ghép
các nội dung cần thiết vào các nội dung vốn có của một môn học.
Việc tích hợp này được thực hiện theo hai hướng đó là tích hợp chương trình
và tích hợp bộ môn:
Tích hợp chương trình (program intergraytion) là sự liên kết, hợp nhất nội
dung các môn học có nguồn tri thức khoa học và có những quy luật chung, gần gũi
với nhau. Tích hợp nhằm làm giảm bớt được những phần kiến thức trùng nhau, tạo
điều kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Tích hợp các bộ môn là quá trình hợp nhất, liên kết các ngành khoa học lại
với nhau trên cơ sở của những nhân tố, những quy luật giống nhau, chung cho các
bộ môn. Như vậy, tích hợp các bộ môn trong giáo dục là sự phản ánh trình độ phát

8


triển cao của các ngành khoa học vào trong nhà trường, đồng thời cũng là đòi hỏi tất
yếu của nhiệm vụ nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động giáo dục.
Tích hợp các bộ môn trong dạy học không những làm cho người học có tri
thức bao quát, tổng hợp hơn về thế giới quan, thấy rõ được mối quan hệ và sự thống
nhất của nhiều đối tượng nghiên cứu khoa học trong những chỉnh thể khác nhau.
Đồng thời, còn bồi dưỡng cho người học các phương pháp học tập, nghiên cứu có
lôgic, biện chứng, làm cơ sở đáng tin cậy để đi đến những hiểu biết, những phát
hiện có ý nghĩa khoa học và thực tiễn lớn hơn. Tích hợp các bộ môn còn có tác

dụng tiết kiệm thời gian, công sức. Bởi vì quá trình này loại bỏ được nhiều điều
trùng lặp trong nội dung dạy học cũng như PPDH của những bộ môn gần nhau.
Tích hợp các bộ môn được thể hiện dưới hai hình thức đó là tích hợp dọc và
tích hợp ngang: Tích hợp dọc là loại tích hợp dựa trên cơ sở liên kết hai hoặc nhiều
môn học thuộc cùng một lĩnh vực gần nhau; Tích hợp ngang là kiểu tích hợp dựa
trên cơ sở liên kết các đối tượng học tập, nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học
khác nhau.
Nếu căn cứ vào hoạt động của Thầy và hoạt động của trò thì tích hợp được
thể hiện dưới hai hình thức đó là tích hợp giảng dạy và tích hợp học tập: Tích hợp
giảng dạy là sự tiến hành quá trình dạy học theo hướng liên kết, lồng ghép những tri
thức khoa học, những quy luật chung gần gũi nhau nhằm trang bị cho người học các
cách nhìn bao quát đối với nhiều lĩnh vực khoa học có chung đối tượng nghiên cứu,
đồng thời nắm được các phương pháp xem xét vấn đề một cách lôgic, biện chứng;
Tích hợp học tập là hành động liên kết học tập cùng một lần những kiến thức khác
nhau và những kĩ năng khác nhau về cùng một chủ đề giáo dục.
Nếu căn cứ vào mục đích của môn học thì tích hợp được thể hiện dưới hai
hình thức đó là tích hợp kiến thức và tích hợp kỹ năng: Tích hợp kiến thức là sự liên
kết, nối liền các tri thức khoa học khác nhau thành một tập hợp kiến thức thống
nhất; Tích hợp kĩ năng là sự liên kết, rèn luyện hai hoặc nhiều kĩ năng thuộc cùng
một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực gần nhau để ghi nhớ và vận dụng.
1.1.1.2. Quan điểm về dạy học tích hợp

9


Dạy học tích hợp (được UNESCO định nghĩa) là cách trình bày các khái
niệm và nguyên lý khoa học cho phép diễn đạt thống nhất, cơ bản các tư tưởng khoa
học, tránh nhấn quá mạnh hoặc quá sớm giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau.
Định nghĩa này chú ý tập trung cách tiếp cận các khái niệm và nguyên lý khoa học
chứ không phải là hợp nhất nội dung.

Dạy học tích hợp là tư tưởng, là nguyên tắc, là quan điểm hiện đại trong giáo
dục. Tư tưởng tích hợp bắt nguồn từ cơ sở khoa học và đời sống. Trước hết phải
thấy rằng cuộc sống là một bộ đại bách khoa toàn thư, là một tập đại thành của tri
thức, kinh nghiệm và phương pháp. Mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống bao giờ
cũng là những tình huống tích hợp. Không thể giải quyết một vấn đề và nhiệm vụ
nào của lí luận và thực tiễn mà lại không sử dụng tổng hợp và phối hợp các kinh
nghiệm, kĩ năng đa ngành của nhiều lĩnh vực khác nhau. Dạy học tích hợp trong
nhà trường sẽ giúp HS học tập thông minh và vận dụng sáng tạo kiến thức, kĩ năng
và phương pháp của khối lượng tri thức toàn diện, hài hòa và hợp lí trong giải quyết
các tình huống khác nhau và mới mẻ trong cuộc sống hiện đại.
Trong những năm đầu của thế kỉ XXI, quan điểm tiếp cận dạy học tích hợp
đã ảnh hưởng tới giáo dục Việt Nam và bước đầu thể hiện một phần trong chương
trình và SGK các môn học ở tiểu học và được hiểu là phương hướng nhằm phối hợp
một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ các môn học, phân môn khác nhau
theo những hình thức, mô hình, cấp độ khác nhau nhằm đáp ứng mục tiêu, mục đích
và yêu cầu khác nhau.
Dạy học tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được
quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới và ở
Việt Nam trong những năm gần đây. Qua việc tích hợp tri thức của GV trong một
tiết lên lớp, HS được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có hệ
thống và lôgic. Qua đó, HS cũng thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến
thức được học trong chương trình.
Để dạy học tích hợp có hiệu quả đòi hỏi phải tuân thủ các yêu cầu cơ bản
sau đây:

10


Dạy học lấy người học làm trung tâm được xem là phương pháp đáp ứng yêu
cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục nhất là đối với giáo dục nghề nghiệp, có khả năng

định hướng việc tổ chức quá trình dạy học thành quá trình tự học, quá trình cá nhân
hóa người học. Dạy học lấy người học là trung tâm đòi hỏi người học là chủ thể của
hoạt động học phải tự học, tự nghiên cứu để tìm ra kiến thức bằng hành động của
chính mình. Người học không chỉ được đặt trước những kiến thức có sẵn ở trong
bài giảng của giáo viên mà phải tự đặt mình vào tình huống có vấn đề của thực tiễn,
cụ thể và sinh động của nghề nghiệp rồi từ đó tự mình tìm ra cái chưa biết, cái cần
khám phá học để hành, hành để học, tức là tự tìm kiếm kiến thức cho bản thân. Dạy
học tích hợp biểu hiện cách tiếp cận lấy người học là trung tâm. Đây là xu hướng
chung có nhiều ưu thế so với dạy học truyền thống.
Đặc điểm cơ bản nhất, có ý nghĩa trung tâm của đào tạo nghề theo năng lực
thực hiện là định hướng chú ý vào kết quả đầu ra của quá trình đào tạo xem người
học có thể làm được cái gì vào những công việc thực tiễn để đạt tiêu chuẩn đầu ra.
Người học đạt được những đòi hỏi đó còn tùy thuộc vào khả năng của mỗi người.
Trong đào tạo, việc định hướng kết quả đầu ra nhằm đảm bảo chất lượng trong quá
trình đào tạo, cho phép người sử dụng sản phẩm đào tạo tin tưởng và sử dụng trong
một thời gian dài.
Dạy học tích hợp chú ý đến kết quả học tập của người học để vận dụng
vào công việc tương lai nghề nghiệp sau này, đòi hỏi quá trình học tập phải đảm
bảo chất lượng và hiệu quả để thực hiện nhiệm vụ. Từ những kết quả đầu ra đi
đến xác định vai trò của người có trách nhiệm tạo ra kết quả đầu ra này, một vai
trò tập hợp các hành vi được mong đợi theo nhiệm vụ, công việc mà người đó sẽ
thực hiện thật sự.
Dạy học tích hợp do định hướng kết quả đầu ra nên phải xác định được các
năng lực mà người học cần nắm vững, sự nắm vững này được thể hiện ở các công
việc nghề nghiệp theo tiêu chuẩn đặt ra và đã được xác định trong việc phân tích
nghề khi xây dựng chương trình.

11



Trong dạy học tích hợp, lý thuyết là hệ thống tri thức khoa học chuyên ngành
về những vấn đề cơ bản, về những quy luật chung của lĩnh vực chuyên ngành đó.
Hơn nữa, việc dạy lý thuyết thuần túy sẽ dẫn đến tình trạng lý thuyết suông, kiến
thức sách vở không mang lại lợi ích thực tiễn. Do đó, cần gắn lý thuyết với thực
hành trong quá trình dạy học.
Để hình thành cho người học một kỹ năng thì cần phải dạy cho họ biết cách
kết hợp và huy động hợp lý các nguồn nội lực (kiến thức, khả năng thực hiện và thái
độ) và ngoại lực (tất cả những gì có thể huy động được nằm ngoài cá nhân). Như
vậy, người dạy phải định hướng, giúp đỡ, tổ chức, điều chỉnh và động viên hoạt
động của người học.
Trong dạy học tích hợp, người học được đặt vào những tình huống của đời
sống thực tế, họ phải trực tiếp quan sát, thảo luận, làm bài tập, giải quyết nhiệm vụ
đặt ra theo cách nghĩ của mình, tự lực tìm kiếm nhằm khám phá những điều mình
chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được GV sắp xếp.
1.1.1.3. Phương pháp dạy học tích hợp
Là phương pháp mà GV sử dụng để dạy học các nội dung khoa học đã được
liên kết, hợp nhất trong một môn học cụ thể. Vì nội dung khoa học đã được tích
hợp, do đó phương pháp dạy học tích hợp cũng đòi hỏi phải biết kết hợp các
phương pháp dạy học thuộc nhiều môn khoa học khác nhau nhằm nâng cao hiệu
quả nhận thức và thực hành của người học đối với việc tiếp thu các tri thức đã tích
hợp đó.
1.1.2. Tham nhũng và giáo dục PCTN cho học sinh
1.1.2.1. Định nghĩa, đặc trưng và biểu hiện của tham nhũng
Trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về tham nhũng. Theo nghĩa rộng,
tham nhũng được hiểu là hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc
được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ
được giao để vụ lợi. Theo nghĩa hẹp, tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước
để trục lợi riêng.
Ở Việt Nam, khái niệm tham nhũng được quy định tại Luật phòng, chống tham


12


nhũng năm 2005. Theo đó, “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
Đặc trưng của tham nhũng: theo các quy định của pháp luật hiện hành, tham
nhũng có những đặc trưng cơ bản như sau:
Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn: người có chức vụ, quyền
hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ
sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kĩ thuật trong cơ quan, đơn vị
thuộc công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà
nước; cán bộ lãnh đạo, quản lí là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại
doanh nghiệp; người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi
thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao: Đây là đặc trưng
thứ hai của tham nhũng. Chủ thể tham nhũng phải sử dụng "chức vụ, quyền hạn của
mình như một phương tiện để thực hiện hành vi sai trái". nhằm mang lại lợi ích cho
mình, cho gia đình mình hoặc cho người khác. Một người có chức vụ, quyền hạn
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật vì động cơ vụ lợi nhưng hành vi đó không lợi
dụng chức vụ, quyền hạn thì không coi là tham nhũng (ví dụ như hành vi trộm cắp).
Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi: Mục đích của hành vi tham nhũng
phải là mục đích vụ lợi. Vụ lợi là lợi ích vật chất (tiền, nhà, đất, các vật có giá trị...)
hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn mong muốn đạt được từ việc
thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình. Lợi ích đó có thể cho
mình, cho gia đình mình hoặc người thân của mình.
Biểu hiện của hành vi tham nhũng: Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống tham
nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) đã phân loại tham nhũng theo hành
vi. Theo đó, những hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi tham nhũng:
1. Tham ô tài sản.

2. Nhận hối lộ.
3. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

13


4. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ
lợi.
5. Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
7. Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
8. Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền
hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ
lợi.
9. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì
vụ lợi.
10. Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
11. Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Trong 12 hành vi tham nhũng nêu trên, có 7 hành vi đã được quy định trong
Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và có hiệu lực từ ngày
01/01/2010), bao gồm:
Tham ô tài sản: Tham ô tài sản là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản mà mình có trách nhiệm quản lý.
Nhận hối lộ: Nhận hối lộ là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp
hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác
dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu
cầu của người đưa hối lộ.

Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi là
cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm
trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân.

14


Lạm quyền trong khi thi hành công vụ: Lạm quyền trong khi thi hành công vụ
là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình
làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi. Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng của người khác để trục lợi là cá nhân lợi
dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền,
tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào, gây hậu quả nghiêm
trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, để dùng ảnh hưởng của
mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc
trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không
được phép làm.
Giả mạo trong công tác: Hành vi thứ 8 đến hành vi thứ 12 mới được bổ sung
do đây là những hành vi đã phát sinh và đang trở nên phổ biến trên thực tế, cần
được quy định cụ thể làm cơ sở pháp lí cho việc xử lí. Tuy nhiên, không phải mọi
hành vi tham nhũng đều bị xử lí về hình sự mà chỉ những hành vi hội đủ các dấu
hiệu cấu thành tội phạm quy định trong Bộ luật Hình sự thì mới được xác định là tội
phạm và bị xử lí bằng biện pháp hình sự (các hành vi được quy định từ khoản 1 đến
khoản 7 Điều 3 của Luật) còn những hành vi khác (từ khoản 8 đến khoản 12 Điều 3
của Luật) được xác định là hành vi tham nhũng nhưng chưa cấu thành tội phạm thì
được xử lý bằng biện pháp kỷ luật.

Về hành vi "nhũng nhiễu vì vụ lợi": một số cán bộ, công chức không thực hiện
trách nhiệm với thái độ công tâm và tinh thần phục vụ mà ngược lại thường tìm
cách lợi dụng những sơ hở hoặc không rõ ràng của các thủ tục, thậm chí tự ý đặt ra
các điều kiện gây thêm khó khăn cho công dân và doanh nghiệp để buộc công dân
và doanh nghiệp quà cáp, biếu xén cho mình.
Về hành vi "lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi để bao che cho người có
hành vi tham nhũng; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử người có hành vi tham nhũng; không thực hiện

15


nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi". Hành vi tham nhũng luôn được che chắn thậm chí là
đồng lõa của những người có chức vụ, quyền hạn ở cấp cao hơn.
Vì vậy, việc phát hiện và xử lí tham nhũng là hết sức khó khăn. Việc bao che
cho người có hành vi tham nhũng, việc cản trở quá trình phát hiện tham nhũng
nhiều khi được che đậy dưới rất nhiều hình thức khác nhau: thư tay, điện thoại, nhắc
nhở, tránh không thực hiện trách nhiệm của mình hoặc có thái độ, việc làm bất hợp
tác với cơ quan có thẩm quyền.
Hành vi "không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi" là hành vi thường được
gọi là "bảo kê" của những người có trách nhiệm quản lí, đặc biệt là một số người
làm việc tại chính quyền địa phương cơ sở, đã "lờ" đi hoặc thậm chí tiếp tay cho các
hành vi vi phạm để từ đó nhận "lương" của những kẻ phạm pháp. Đây là hiện tượng
hết sức nguy hại, xuất hiện ngày càng nhiều và cần phải đấu tranh mạnh mẽ.
1.1.2.2. Nguyên nhân của tham nhũng
Các nghiên cứu về tham nhũng ở các nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy
tham nhũng là hiện tượng xã hội gắn với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành
giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước và các
quyền lực công cộng khác. Tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ với những mức độ
khác nhau. Khi nhà nước và quyền lực chính trị còn tồn tại thì còn có điều kiện để

xảy ra tham nhũng. Tham nhũng nảy sinh bởi nguyên nhân khách quan và chủ
quan:
Nguyên nhân khách quan
Quá trình chuyển đổi cơ chế, tồn tại và đen xen giữa cái mới và cái cũ, các
chuẩn mực giá trị không rõ ràng tạo điều kiện cho không ít đối tượng lợi dụng danh
nghĩa đổi mới, năng động, sáng tạo để chiếm đoạt tài sản nhà nước, lợi dụng chủ
trương xã hội hóa một số lĩnh vực để "thương mại hóa", thu lợi ích tối đa cho cá
nhân hoặc một nhóm người, thậm chí một cơ quan, đơn vị hay một địa phương.
Ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, sự cạnh tranh và việc đề cao quá
mức giá trị đồng tiền làm cho người sản xuất kinh doanh có xu hướng tối đa hóa lợi
nhuận bằng mọi giá, tìm cách hối lộ công chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh

16


doanh. Trong kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, các giá trị
xã hội bị đảo lộn, mọi người đều bị sức ép của việc kiếm thật nhiều tiền, xuất hiện
tâm lí mọi việc đều có thể mua bán.
Do ảnh hưởng của tập quán văn hóa, một số nét văn hóa như "miếng trầu là
đầu câu chuyện", đạo lí "ăn quả nhớ người trồng cây"... đã và đang bị lợi dụng để
thực hiện hành vi tham nhũng.
Nguyên nhân chủ quan
Hệ thống chính trị chậm được đổi mới, hoạt động của bộ máy nhà nước kém
hiệu quả. Đây là một trong những nguyên nhân gây nên sự yếu kém và bất cập của
quá trình đổi mới đất nước, tạo điều kiện phát sinh tham nhũng.
Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái, công tác
quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên yếu kém. Điều này đã được đánh giá trong
nhiều văn kiện của Đảng.
Cơ chế chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán, việc
phân cấp quản lí giữa Trung ương và địa phương, phân biệt quản lí nhà nước và

quản lí sản xuất kinh doanh có phần chưa rõ.
Cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng túng, cơ chế "xin-cho" trong hoạt
động công vụ vẫn còn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lí.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham
nhũng ở một số nơi chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên, việc xử lí tham nhũng
chưa nghiêm.
Thiếu các công cụ phát hiện và xử lí tham nhũng hữu hiệu. Những năm qua
hoạt động điều tra, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát đã thu được một số kết
quả tích cực, nhưng trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu
tranh PCTN.
Việc huy động lực lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự tham gia của lực
lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng chưa được quan tâm đúng
mức. Báo chí vừa có tác dụng cảnh báo những nơi có nguy cơ tham nhũng, vừa
tham gia phát hiện và đặc biệt là tạo nên dư luận mạnh mẽ đòi xử lí tham nhũng.

17


Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về tham
nhũng và đấu tranh chống tham nhũng mặc dù đã nhận được sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước nhưng chưa tạo ra một sự chuyển biến tích cực trong ý thức xã hội
trong việc phản ứng với tệ nạn tham nhũng cũng như đề cao ý thức trách nhiệm của
người dân trong việc tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
0

1.1.2.3. Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội. Nhưng có thể khái quát những tác hại chủ yếu của tham
nhũng ở ba lĩnh vực là chính trị, kinh tế và văn hóa, xã hội:

Tác hại về chính trị
Tham nhũng là trở lực đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói mòn
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng đất
nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, tình hình tham nhũng ở nước ta đã ở mức nghiêm trọng, đáng báo
động. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp Trung ương, ở những chương trình, dự
án lớn mà còn xuất hiện nhiều trong các cấp chính quyền cơ sở - là cơ quan tiếp xúc
với nhân dân hàng ngày, giải quyết những công việc liên quan trực tiếp đến lợi ích
của nhân dân.
Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng, lãng phí ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về kinh tế, xã hội hoặc một nhiệm
vụ quản lí nhất định của Nhà nước. Tổng quát hơn, sự nghiệp cách mạng xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Nhân dân
chính là động lực, chủ thể, mục đích của cách mạng.
Tác hại về kinh tế: Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước,
của tập thể và của công dân.
Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền, thời gian,
công sức của nhân dân. Giá trị tài sản bị thiệt hại, bị thất thoát liên quan tới tham
nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỷ đồng. Đó

18


là những con số lớn và đáng lo ngại so với số thu ngân sách hàng năm của nước ta.
Hậu quả của hành vi tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước,
của tập thể hoặc của cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi
tham nhũng, mà nguy hiểm hơn, hành vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất
thoát, lãng phí một lượng lớn tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân.
Tác hại về văn hóa, xã hội

Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực
đạo đức xã hội, tha hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Trước những lợi ích
bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham nhũng, nhiều cán bộ, công
chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng. Điều
đáng báo động là một số cán bộ, công chức coi việc tham nhũng trở thành bình
thường. Đó chính là biểu hiện của sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức một cách
nghiêm trọng. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống thể
hiện trước hết ở tư tưởng hưởng thụ, quá coi trọng đồng tiền, tư tưởng vụ lợi, làm
giàu bất chính…Những tư tưởng này đang làm suy thoái một bộ phận cán bộ có
chức, có quyền. Xuất phát từ những tâm lí này mà một số cán bộ, đảng viên đã lợi
dụng công việc, nhiệm vụ, quyền hạn được giao để đòi hối lộ, tham ô tài sản.
Hơn thế, tham nhũng còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc, khi người thực hiện hành vi tham nhũng cũng có khi là giáo viên, bác sỹ,
những người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội – những người
xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.
Tham nhũng là một trong những nguyên nhân chính làm tăng trưởng tệ nạn xã
hội. Để công việc không bị cản trở những kẻ phạm pháp tìm cách mua chuộc cán
bộ, nhân viên, thành viên chính quyền. Nếu những viên chức này tham nhũng hành
vi những kẻ phạm pháp được che chở và trở thành “hợp pháp hoá”.
Khi xã hội bị tham nhũng thống trị tệ nạn xã hội tăng trưởng, những viên chức
thay vì bảo vệ luật pháp lại nhận tiền hối lộ bao che những kẻ phạm pháp, người
dân trước kia được viên chức tận tình giúp đỡ những khi cần thiết nay bị hạch sách
đủ điều khi không có quà bồi dưỡng...

19


1.1.3. Nội dung tích hợp PCTN trong môn GDCD cấp THPT.
Cần phải thấy rõ rằng không phải bài nào trong chương trình môn GDCD ở
cấp THPT cũng tích hợp được nội dung PCTN mà chỉ được đưa vào một số bài cụ

thể. Theo Tài liệu giáo dục nội dung PCTN trong môn GDCD cấp THPT ban hành
kèm theo công văn số 8784/BGDĐT-GDTrH của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo ngày 06 tháng 12 năm 2013 được thể hiện trong các bài sau đây:
Lớp
10

Tên bài
Bài 10.
Quan
niệm về
đạo đức

Địa chỉ
tích hợp
Tích hợp vào
điểm a mục 1
" Đạo đức là
gì?"

Nội dung tích hợp

Ghi chú

Về kiến thức:
- Người có hành vi tham
nhũng chà đạp lên lợi ích
của Nhà nước và công
dân, là người không có
đạo đức.
- Khái niệm tham nhũng.


Ví dụ: Người
tham ô tài sản
của Nhà nước
chỉ nghĩ đến lợi
ích của bản thân,
xâm phạm lợi
ích của Nhà
nước.

Về kỹ năng:
Phân biết hành vi tham Ví dụ: tham ô tài
nhũng với hành vi không sản của Nhà
phải là tham nhũng.
nước là hành vi
tham nhũng; lấy
Về thái độ
trộm tài sản
Xa lánh hành vi tham
không phải là
nhũng
hành vi tham
nhũng
10

Bài 11.
Một số
phạm trù
cơ bản
của đạo

đức

Tích hợp vào
điểm a mục 2
"Lương tâm là
gì?"

Về kiến thức:
Người tham nhũng phải
sống trong trạng thái cắn
rứt lương tâm, hoặc không
cắn rứt lương tâm, không
ăn năn, hối hận, nhưng
đều phải sống trong trạng
thái không thanh thản.
Về kỹ năng:
Phân biệt trạng thái lương
tâm của người tham
nhũng với người không
tham nhũng.
Về thái độ:

20

Ví dụ: Người có
hành vi tham
nhũng nếu còn
thấy cắn rứt
lương tâm là
người còn có

lương
tâm;
người
tham
nhũng không ăn
năn, hối hận thì
bị coi là người
vô lương tâm.
Tuy
nhiên,
người
tham


×