Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

XÂY DỰNG bộ tư LIỆU hỗ TRỢ dạy học các bài học văn học dân GIAN TRONG CHƯƠNG TRÌNHTHPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.57 MB, 163 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THU HƯƠNG

XÂY DỰNG BỘ TƯ LIỆU HỖ TRỢ DẠY HỌC
CÁC BÀI HỌC VĂN HỌC DÂN GIAN
TRONG CHƯƠNG TRÌNHTHPT

Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn
Mã số: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Thị Lan

HÀ NỘI, NĂM 2014


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn với đề tài Xây dựng bộ tư liệu hỗ trợ dạy học
các bài học văn học dân gian trong chương trình THPT, tôi đã thường xuyên
nhận sự giúp đỡ nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi của các thầy cô giáo khoa
Ngữ văn, các thầy cô trong tổ Phương pháp dạy học bộ môn Văn và đặc biệt
là TS. Trịnh Thị Lan, người hướng dẫn khoa học trực tiếp.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới
TS. Trịnh Thị Lan cùng tập thể các thầy cô trong khoa Ngữ văn đã giúp tôi
hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gởi lời tri ân tới gia đình, bạn bè là những người đã
động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua để tôi có thể hoàn thành tốt
luận văn này.


Hà Nội, ngày 5 tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Thu Hương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn và giúp đỡ của TS. Trịnh Thị Lan.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cá nhân mình trong
công trình này.
Hà Nội, ngày 5 tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Thu Hương


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1. CNTT
2. GV
3. HS
4. Nxb
5. PPDH
6. PTDH
7. PGS. TS.
8. SGV
9. SGK
10. TS.
11. THCS
12. THPT

13. VHDG

: Công nghệ thông tin
: Giáo viên
: Học sinh
: Nhà xuất bản
: Phương pháp dạy học
: Phương tiện dạy học
: Phó giáo sư, tiến sĩ
: Sách giáo viên
: Sách giáo khoa
: Tiến sĩ
: Trung học cơ sở
: Trung học phổ thông
: Văn học dân gian

MỤC LỤC
Trang
NGUYỄN THU HƯƠNG......................................................................................................1
XÂY DỰNG BỘ TƯ LIỆU HỖ TRỢ DẠY HỌC CÁC BÀI HỌC VĂN HỌC DÂN GIAN
1
TRONG CHƯƠNG TRÌNHTHPT........................................................................................1


HÀ NỘI, NĂM 2014..............................................................................................................1

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam
Đất nước ổn định về chính trị, thành tựu phát triển kinh tế - xã hội trong
nhiều năm qua, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 với yêu cầu
tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, cùng với Chiến lược
và quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011 – 2020 là những tiền đề cơ
bản để thực hiện đổi mới căn bản nền giáo dục Việt Nam.
Yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặc biệt là
yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu và cơ cấu lại
nền kinh tế theo hướng chất lượng và hiệu quả đòi hỏi giáo dục phải đáp ứng
nhu cầu học đa dạng của người dân, nhanh chóng góp phần tạo ra đội ngũ
nhân lực chất lượng cao. Nếu không đổi mới nền giáo dục thì nhân lực sẽ là
nhân tố cản trở cho sự phát triển đất nước.
Nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự
phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, khoa học giáo dục và sự
cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi giáo dục
phải đổi mới. Thực chất cạnh tranh giữa các quốc gia hiện nay là cạnh tranh
về nguồn nhân lực và về khoa học và công nghệ. Xu hướng chung của thế
giới khi bước vào thế kỉ XXI là các nước tiến hành đổi mới mạnh mẽ hay cải
cách nền giáo dục.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định: “Đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế và phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn
diện nền giáo dục quốc dân”.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục sẽ tạo ra bước chuyển biến
mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục, đáp ứng ngày càng tốt

1



hơn yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhu cầu học
tập của nhân dân.
1.2. Môn Ngữ văn trong nhà trường đang đứng trước những yêu
cầu đổi mới của xã hội
Ngữ văn là một môn khoa học xã hội và nhân văn có nhiệm vụ cung
cấp cho học sinh những kiến thức về Tiếng Việt, Văn học và Làm văn. Môn
Ngữ văn còn là môn học công cụ hướng tới hình thành và phát triển năng lực
tư duy và ngôn ngữ, cũng là môn học thể hiện rõ chức năng giáo dục thẩm mĩ.
Bởi vậy, môn Ngữ văn có vị trí và vai trò quan trọng trong nhà trường và
cuộc sống.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, trường học đang có hiện tượng
một số lượng không ít học sinh “quay lưng” chán học môn Ngữ văn. Điều này
có thể là do yếu tố khách quan như cơ chế thị trường, do nhận thức lệch lạc
của gia đình, của không ít người trong xã hội về vị trí của các môn khoa học
xã hội nói chung, của môn Ngữ văn nói riêng; có thể do những yếu tố chủ
quan như chương trình, năng lực giáo viên, phương pháp dạy học, những nhu
cầu mới của học sinh…
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống đã cho rằng: Xuất phát từ những yêu cầu của
đất nước trong giai đoạn mới với xu thế hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
môn Ngữ văn đang đứng trước những yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện. Về
chương trình và sách giáo khoa, chương trình sẽ đổi mới theo định hướng
phát triển năng lực của học sinh, sẽ đề cao mục tiêu hình thành và phát triển
năng lực giao tiếp, cụ thể là nghe - nói - đọc - viết sau đó mới phát triển các kĩ
năng khác. Chương trình dạy học Ngữ văn sẽ được thiết kế theo một thể
thống nhất ở tất cả các cấp học nhằm phân chia nội dung và mức độ phù hợp
với học sinh.
Theo xu thế hiện nay, Bộ Giáo dục sẽ biên soạn sách giáo khoa theo
hướng mở. Thay vì yêu cầu giáo viên, học sinh phải học theo một bộ sách
2



giáo khoa, Bộ sẽ cho phép sử dụng nhiều bộ sách, tài liệu khác nhau, miễn là
bộ sách thể hiện, tuân thủ chương trình quốc gia. Nội dung và cấu trúc sách
giáo khoa Ngữ văn sẽ đổi mới theo hướng tăng cường việc nêu vấn đề, hiện
tượng, gợi mở cách giải quyết và yêu cầu học sinh vận dụng tìm cách giải
quyết và cách học cho riêng mình.
Chuyển từ chương trình tập trung vào mục tiêu nhận thức là chính sang
chương trình nhằm phát triển năng lực cho người học, môn học Ngữ văn đang
hiện thực hóa mạnh mẽ việc chuyển từ phương pháp giảng văn sang phương
pháp dạy đọc - hiểu, hình thành năng lực tự học, tự đọc cho học sinh. Đồng
thời, môn Ngữ văn cũng đang tích cực đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập của học sinh theo hướng dân chủ và khuyến khích sự sáng tạo.
1.3. Ứng dụng công nghệ thông tin là điều cần thiết trong việc dạy học
môn Ngữ văn hiện nay
Thế giới hôm nay đang chứng kiến những đổi thay nhanh chóng và lớn
lao trong mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội nhờ những thành tựu của
công nghệ thông tin và truyền thông (Information and Communication
Technology - ICT). Công nghệ thông tin và truyền thông đã góp phần quan
trọng cho việc tạo ra những nhân tố năng động mới cho quá trình hình thành
nền kinh tế tri thức.
Về đổi mới phương pháp dạy học, nghị quyết TW 4 khóa VII và nghị
quyết TW 2 khóa VIII đã nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục –
đào tạo khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học. Từng bước áp dụng những phương pháp tiên tiến và
phương tiện vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu của học sinh”. Trong đổi mới giáo dục trung học phổ thông,
phương tiện dạy học tiếp tục giữ vai trò quan trọng: “Phương tiện dạy học
không dừng lại ở mức minh họa nội dung dạy học mà phải trở thành công cụ
nhận thức, là một bộ phận hữu cơ của cả phương pháp và nội dung dạy học”.

3


Để đem lại niềm yêu thích, say mê của học sinh với môn Ngữ văn hiện
nay, việc dạy học cần có những giờ học sáng tạo, linh hoạt và hiện đại đáp
ứng với mục tiêu đổi mới và phù hợp với thời đại.
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn theo hướng vận
dụng công nghệ thông tin (IT) và các thiết bị dạy học hiện đại đã đem lại
không khí và tín hiệu đáng mừng cho việc dạy và học. Tuy nhiên, cố giáo sư
Phan Trọng Luận từng phân tích: “Văn chương là địa hạt của cảm xúc, của
rung động thẩm mĩ. Tác phẩm văn chương là sản phẩm độc đáo của cá nhân
trong những tâm trạng và cảm hứng rất riêng tư” bởi vậy việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy học Ngữ văn cần thận trọng [28, 45]. Điều này có thể
được hiểu là giáo viên không được lạm dụng công nghệ thông tin khiến giờ
học trở nên cứng nhắc, máy móc, làm mất đi vẻ đẹp vốn có của môn Ngữ văn.
Họ cần nâng cao năng lực chuyên môn và khả năng ứng dụng công nghệ
thông tin như một dạng công cụ trợ giúp bài giảng Ngữ văn vừa hiện đại vừa
có thể đạt được tốt hơn các giá trị Chân - Thiện - Mĩ.
Nếu được vận dụng phù hợp, linh hoạt, có mức độ, đảm bảo tính nghệ
thuật và tính sư phạm thì phuơng tiện dạy học hiện đại sẽ là công cụ đắc lực
giúp giáo viên và học sinh đạt mục tiêu bài học Ngữ văn một cách sinh động,
hiệu quả. Hiện nay, với sự thay đổi mạnh mẽ từ phía người học, nhiều yêu cầu
đặt ra đối với năng lực người thầy; trong những năng lực cần thiết ấy, có năng
lực ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng phương tiện dạy học hiện đại
trong giờ dạy học.
1.4. Tư liệu dạy học có vai trò quan trọng trong dạy học Ngữ văn nói
chung và dạy học văn học dân gian nói riêng
Trong dạy học hiện đại, mỗi giờ học bao giờ cũng có một nguồn tài
nguyên (resources) đi kèm hỗ trợ. Theo đó, tư liệu dạy học trở thành một
phần quan trọng trong nhiều khâu của quá trình dạy học của giáo viên và học

sinh ở trường phổ thông.

4


Trong thực tiễn, tư liệu dạy học rất phong phú và đa dạng. Việc lựa
chọn và sử dụng tư liệu sao cho hợp lí, linh hoạt và sáng tạo không phải là
một việc đơn giản. Hơn nữa, tư liệu trong sách giáo khoa và tài liệu tham
khảo đa phần mới dừng lại ở kênh chữ và kênh hình mà chưa có kênh tiếng.
Việc đa dạng hóa các kênh thông tin tư liệu một cách chọn lọc và khoa học sẽ
góp phần đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Văn học dân gian là một phần quan trọng trong chương trình Ngữ văn
THPT. Học các bài học phần văn học dân gian sẽ giúp cho học sinh lĩnh hội
được nhiều kiến thức, bồi dưỡng nhân cách và phát triển năng lực. Tuy nhiên,
thời điểm ra đời của các tác phẩm văn học dân gian có khoảng cách khá xa so
với thời điểm hiện tại của xã hội hiện đại. Khoảng cách thời gian và khoảng
cách nhận thức cũng tạo nên sự khó khăn khi học sinh tiếp nhận các tác phẩm
của văn học dân gian. Hơn nữa, các bài học văn học dân gian không có trong
chương trình thi cử nên khó tránh khỏi tâm lý học sinh chưa thực sự thích thú
và quan tâm sâu sắc. Nhằm kích thích sự tìm tòi, khám phá cái hay, cái đẹp
trong các bài học phần văn học dân gian trong chương trình THPT thiết nghĩ
việc xây dựng bộ tư liệu về phần học này là cần thiết và quan trọng.
Bản thân là một người giáo viên yêu thích, ham muốn tìm tòi đối với
các tác phẩm văn học dân gian, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại nên tác
giả luận văn luôn mong muốn thu thập, xây dựng một bộ tư liệu hỗ trợ dạy
học các bài học văn học dân gian. Bộ tư liệu hi vọng sẽ góp phần truyền tải
cái hay, cái đẹp của văn học dân gian giúp cho học sinh thêm yêu thích phần
văn học này cùng với một niềm tự hào về chính dân tộc mình.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: Xây dựng bộ tư
liệu hỗ trợ dạy học các bài học văn học dân gian trong chương trình THPT

với mục đích cung cấp cho giáo viên nguồn tư liệu đáng tin cậy, hệ thống và
hiện đại để phục vụ cho quá trình dạy học góp phần đổi mới giáo dục và nâng
cao chất lượng dạy và học trong nhà trường hiện nay.
5


2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, người ta đã xuất bản nhiều cuốn
sách, tài liệu mang tính chất truyện kể, giải đáp, từ điển bằng tranh… với mục
đích là nguồn tư liệu quý báu cho giáo viên và học sinh có thể tham khảo
trong quá trình dạy học ở tất cả các môn khoa học.
Cũng như các môn khác, Ngữ văn rất cần các tư liệu cần thiết hỗ trợ
việc dạy học. Nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo dục đã sưu tầm và xây dựng
những bộ sách tư liệu có giá trị.
Trước hết, chúng ta phải kể đến bộ sách Tư liệu Ngữ văn gồm ba cuốn:
lớp 10, lớp 11 và lớp 12 với nội dung rất thiết thực. Cụ thể:
Cuốn Tư liệu Ngữ văn lớp 10, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, năm
2010 của nhóm tác giả Lã Nhâm Thìn, Bùi Minh Toán (Chủ biên), Lê
Nguyên Cẩn, Đỗ Kim Hồi, Lê Thái Hoa, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Phạm Thu
Yến.
Cuốn Tư liệu Ngữ văn lớp 11, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, năm
2010 của nhóm tác giả Đỗ Kim Hồi, Bùi Minh Toán (Chủ biên), Lê Nguyên
Cẩn, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Nguyễn Thị Ngọc Khanh.
Cuốn Tư liệu Ngữ văn lớp 12, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, năm
2010 của nhóm tác giả Lê Nguyên Cẩn, Đỗ Kim Hồi, Nguyễn Thị Ngọc
Khanh, Nguyễn Thị Nương, Bùi Minh Toán.
Mỗi cuốn sách về cơ bản gồm ba phần tương đương với ba phân môn
Văn học, Tiếng Việt và Làm văn. Nội dung tư liệu trong các cuốn sách đảm
bảo chương trình mở rộng vừa nâng cao kiến thức cho người học. Cuốn sách
cung cấp tư liệu và gợi ý sử dụng tư liệu thông qua những định hướng cơ bản.

Cuốn Tư liệu Ngữ văn 10 phần văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, năm
2008, của Đoàn Thị Thu Vân (Chủ biên), Nguyễn Thị Ngọc Điệp, Đoàn Lê
Giang là cuốn sách cung cấp tư liệu để GV, HS đi sâu vào khám phá những
giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Sách gồm ba phần là văn học dân
gian, văn học trung đại và văn học nước ngoài. Mỗi phần có các đơn vị bài
tương ứng các bài trong SGK Ngữ văn 10.
6


Cuốn Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 10 (nâng cao), Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam, năm 2009, của nhóm tác giả Nguyễn Khắc Phi (Chủ
biên), Nguyễn Xuân Đức, Nguyễn Bích Hà, Chu Văn Sơn, Nguyễn Hữu Sơn,
Lương Duy Trung, Lưu Đức Trung. Các tác giả đã phân tích, bình giảng văn
bản ở những mức độ nông, sâu khác nhau giúp học sinh nâng cao năng lực
đọc – hiểu văn bản và một số khái niệm cần thiết.
Cuốn sách Phân tích tác phẩm văn học dân gian trong nhà trường của
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam của tác giả Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên). Đây
không phải là giáo án, cũng không phải là sách hướng dẫn giảng dạy, học tập,
mà là những gợi ý tìm hiểu, phân tích các vấn đề cơ bản trong các tác phẩm,
giúp các bạn giáo viên, các em học sinh hiểu thêm các tác phẩm để từ đó tiếp
tục mở rộng, đào sâu suy nghĩ, chọn lọc vấn đề, sáng tạo ra những phương
pháp và hình thức giảng dạy, học tập, đọc - hiểu thích hợp trong từng bài.
Cuốn sách gồm ba phần:
Phần I: Phân tích tác phẩm văn học dân gian trong chương trình Ngữ
văn phổ thông hiện hành.
Phần II: Phân tích tác phẩm văn học dân gian trong chương trình Trung
học phổ thông trước đây.
Phần III: Một số bài viết khác của tác giả về văn học dân gian.
Cuốn sách Bình giảng truyện dân gian, Nhà xuất bản Giáo dục (2001)
của Hoàng Tiến Tựu là công trình nghiên cứu thuận lợi, khó khăn xung quanh

công việc bình giảng truyện dân gian và bình giảng một số truyện tiêu biểu.
Cuốn sách giúp cho giáo viên và học sinh có những định hướng cảm thụ bước
đầu các truyện dân gian tiêu biểu.
Cuốn sách gồm hai phần:
Phần I: Xung quanh công việc bình giảng truyện dân gian.
Phần II: Bình giảng một số truyện dân gian tiêu biểu.
7


Ở các cuốn sách thiết kế bài học và bài giảng:
Cuốn sách Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10, năm 2009, Nhà xuất bản Hà
Nội của Nguyễn Văn Đường (Chủ biên), đã bám sát chương trình, hệ thống
hóa, cụ thể hóa sách giáo khoa và sách giáo viên thành hệ thống hoạt động
dạy học chi tiết, là một tài liệu khá bổ ích cho giáo viên để tham khảo về phần
văn học dân gian.
Chúng tôi cũng tham khảo một số luận văn của học viên cao học trường
Đại học Sư phạm Hà Nội về sưu tầm sử dụng tài liệu như:
- Sử dụng tài liệu khai thác trên mạng Internet để dạy học lịch sử ở
trường THPT của tác giả Đoàn Thị Kiều Oanh.
- Sưu tầm và sử dụng tư liệu hỗ trợ dạy học chương 2 – Chăn nuôi thủy
sản đại cương, Công nghệ 10 THPT của tác giả Nguyễn Tất Thắng.
- Thiết kế sử dựng tư liệu điện tử trong dạy học Hóa học 10 của tác giả
Hoàng Thái Hậu.
- Xây dựng và sử dụng bộ tư liệu hỗ trợ dạy học Sinh học lớp 10 THPT
theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh của tác giả Trần
Khánh Ngọc.
- Xây dựng và sử dụng tư liệu điện tử phần Hiđrocacbon góp phần đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực trong dạy học hóa học 11
nâng cao ở THPT của tác giả Nguyễn Thị Thu.
- Xây dựng bộ tư liệu hỗ trợ dạy học các bài văn học nước ngoài trong

chương trình THPT của tác giả Vũ Hải Ninh.
- Xây dựng bộ tư liệu hỗ trợ dạy học phần Địa lý 10 THPT theo hướng
tích cực hóa học tập của học sinh của tác giả Nguyễn Thị Nga.
Có thể thấy đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tư liệu dạy
học ở THPT nhưng chủ yếu tập chung ở các môn Địa lí, Sinh học, Hóa học,
Lịch sử… Riêng môn Ngữ văn đã có luận văn nghiên cứu về vấn đề này
nhưng ở mảng văn học nước ngoài còn phần văn học dân gian Việt Nam
trong chương trình THPT vẫn còn để ngỏ.

8


Những thay đổi của cuộc sống đã dẫn đến những thay đổi phù hợp của
việc dạy học nhằm bắt nhịp với thời đại. Rất nhiều giáo viên đã sử dụng
những phương tiện nghe nhìn, những phim ảnh sinh động cho bài giảng của
mình, thậm chí họ cũng đưa giáo án lên mạng Internet để có thể chia sẻ với
mọi người trao đổi với các đồng nghiệp khác. Đã có nhiều website phục vụ
công tác giảng dạy, trong đó phải kể đến hai trang web cung cấp trực tiếp tư
liệu cho tất cả các môn học của tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục
Việt Nam là:
1. Tulieu.violet.vn của Công ty Cổ phần Tin học Bạch Kim.
Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy tư liệu trong đó sắp xếp khá lộn xộn, chưa
đúng với thẻ quy định, người đưa tư liệu khá tùy tiện nên khó quản lý và tìm
kiếm đồng thời các tư liệu này chưa qua kiểm định nên chỉ mang tính tham
khảo tự do.
2. Vnschool.net của Công ty Công nghệ tin học nhà trường.
Trang web này tập trung cung cấp các tư liệu cho môn khoa học tự
nhiên ở THPT.
Các trang web liên quan tới văn chương nằm rải rác hoặc nếu có thì
nguồn tư liệu về văn học dân gian còn khá nghèo nàn.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học môn Ngữ văn là cần
thiết nếu sử dụng có liều lượng và phù hợp thì chúng ta vẫn bám sát được đặc
trưng bộ môn vừa góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Từ đó, giáo viên
có thể có những bài giảng hay, sinh động và mạch lạc hơn còn học sinh thấy
hứng thú sẽ càng tích cực, chủ động kiến tạo kiến thức cho mình. Việc Xây
dựng bộ tư liệu hỗ trợ dạy học các bài học văn học dân gian trong chương
trình THPT sẽ là một thử nghiệm mới mẻ, góp phần làm phong phú hơn các
tài liệu học tập môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

9


Xây dựng bộ tư liệu hỗ trợ dạy học phần VHDG trong chương trình
THPT, đóng gói sản phẩm và hướng dẫn giáo viên, học sinh sử dụng hiệu
quả. Bộ tư liệu này sẽ là một công cụ hỗ trợ đắc lực phục vụ quá trình dạy học
phần văn học dân gian, góp phần đổi mới PPDH theo hướng ứng dụng CNTT
vào dạy học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc Xây dựng bộ tư liệu hỗ
trợ dạy học các bài học văn học dân gian trong chương trình THPT.
- Nghiên cứu nội dung và mục tiêu dạy học cho từng bài học cụ thể
phần văn học dân gian trong chương trình THPT để có cơ sở tiến hành các
tìm kiếm và lựa chọn các tư liệu cho phù hợp.
- Tập hợp các tư liệu dạy học có liên quan với các bài học văn học dân
gian trong chương trình THPT nhằm giúp giáo viên có một nguồn tài nguyên
phong phú phục vụ cho việc tìm kiếm, sử dụng cho các bài học văn học dân
gian.
- Xây dựng quy trình hoàn thiện và hướng dẫn sử dụng bộ tư liệu.

- Tổ chức khảo sát, thực nghiệm để kiểm tra đánh giá tính khả thi của
bộ tư liệu trong dạy học ở một số trường THPT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc xây dựng và sử dụng tư liệu thuộc các dạng: kênh chữ, kênh hình,
kênh tiếng… hỗ trợ dạy học phần văn học dân gian ở THPT.
- Kênh chữ: hệ thống văn bản tư liệu, bài tập tham khảo...
- Kênh hình: hệ thống tranh ảnh, ảnh động, phim…
- Kênh tiếng: các file âm thanh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Các văn bản văn học dân gian Việt Nam trong chương trình THPT
(bao gồm cả chương trình cơ bản và chương trình nâng cao).

10


- Các kiến thức, tài liệu có liên quan đến các bài học văn học dân gian
ở THPT qua sách báo, tài liệu tham khảo, qua mạng Internet và các phần mềm
sẵn có.
- Các tài liệu về phần mềm sử dụng để đóng gói và khả năng ứng dụng
phần mềm này để thiết kế Bộ tư liệu hỗ trợ dạy học các bài học văn học dân
gian trong chương trình THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu tổng hợp tài liệu
- Với các tài liệu lí luận, chúng tôi nghiên cứu các tác phẩm khoa học,
các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài từ đó tiếp thu một cách chọn
lọc các vấn đề để phục vụ cho việc hoàn thiện luận văn.
- Qua cấu trúc và thời lượng chương trình văn học dân gian trong SGK
THPT, kết hợp với việc phỏng vấn, phát phiếu điều tra đối với giáo viên và
học sinh, chúng tôi tìm hiểu thực trạng cụ thể của việc dạy và học, cũng như

quan niệm, nhu cầu và việc sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại đối với
phần văn học dân gian.
- Khi có kết quả, chúng tôi tiến hành tổng hợp, thu thập và xử lý tài
liệu, tìm ra những nội dung trọng tâm phục vụ đề tài.
5.2. Phương pháp phân tích hệ thống
Để Xây dựng bộ tư liệu hỗ trợ dạy học các bài học văn học dân gian
trong chương trình THPT, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, phân tích mục
tiêu, nội dung và phương pháp dạy học của từng bài học cụ thể.
5.3. Phương pháp thực nghiệm
- Chúng tôi tiến hành thực nghiệm khảo sát tình hình dạy học các bài
học văn học dân gian ở một số trường THPT qua các cuộc tiếp xúc, trao đổi
với các giáo viên Ngữ văn về đổi mới phương pháp dạy học.
- Chúng tôi phỏng vấn họ về quan niệm, những thuận lợi và khó khăn
cơ bản về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ học Ngữ văn và khảo
sát nhu cầu về sử dụng phương tiện dạy học hiện đại.
- Chúng tôi tiến hành thực nghiệm bằng cách cung cấp đĩa DVD bộ tư
liệu cho một số giáo viên các trường THPT. Các giáo viên sẽ tham khảo, đánh
11


giá và phản hồi lại bằng một bảng hỏi của chúng tôi về sự hữu ích, tính hứng
thú và hiệu quả của việc sử dụng các tư liệu trong Bộ tư liệu hỗ trợ dạy học
các bài học văn học dân gian trong chương trình THPT. Chúng tôi dự giờ,
trao đổi ý kiến với giáo viên, chấm các bài tập của HS. Cuối cùng từ kết quả
trên, chúng tôi tiến hành phân tích, đánh giá và điều chỉnh để rút ra những kết
luận cần thiết cho đề tài.
6. Giả thuyết khoa học
Tư liệu là nguồn thông tin cần thiết đối với quá trình dạy học của cả
giáo viên và học sinh. Việc xây dựng được Bộ tư liệu hỗ trợ dạy học các bài
học văn học dân gian trong chương trình THPT sẽ góp phần nâng cao hiệu

quả dạy học, góp phần đổi mới phương pháp khiến cho giờ dạy học những bài
học phần văn học dân gian trở nên hấp dẫn hơn, sinh động hơn.
7. Đóng góp của luận văn
Chúng tôi không tham vọng đóng góp một công trình mang tính lý thuyết
mới về văn học dân gian. Chúng tôi chủ yếu sưu tầm các tư liệu bước đầu hướng
dẫn giáo viên và học sinh sử dụng bộ tư liệu phục vụ quá trình dạy học.
Chúng tôi hi vọng đây sẽ là một công trình mang tính thực tiễn mới về
văn học dân gian trong chương trình THPT đáp ứng yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học Ngữ văn hiện nay.
Chúng tôi hi vọng đề tài này sẽ là một tài liệu hữu ích cho đồng nghiệp
hỗ trợ dạy học phần văn học dân gian trong chương trình THPT và mở ra khả
năng nghiên cứu mới cho học sinh trong việc xây dựng tư liệu, tự học, tự
đánh giá.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn gồm các chương sau:
Chương I: Cơ sở khoa học của việc xây dựng Bộ tư liệu hỗ trợ dạy
học các bài học văn học dân gian trong chương trình THPT
Chương II: Tổ chức xây dựng Bộ tư liệu hỗ trợ dạy học các bài học
văn học dân gian trong chương trình THPT
Chương III: Thực nghiệm sư phạm
12


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC XÂY DỰNG BỘ TƯ LIỆU
HỖ TRỢ DẠY HỌC CÁC BÀI HỌC VĂN HỌC DÂN GIAN
TRONG CHƯƠNG TRÌNH THPT
1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Quá trình dạy học ở nhà trường và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
1.1.1.1. Quá trình dạy học ở nhà trường phổ thông
• Khái niệm quá trình dạy học
Quá trình được xem xét như một hệ thống toàn vẹn. Trong cuốn giáo
trình Giáo dục học, tập 1 của Trần Thị Tuyết Oanh (Chủ biên), tác giả quan
niệm: “Quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng của hai thành tố cơ
bản trong quá trình dạy học – hoạt động học và hoạt động dạy. Dạy và học là
hai hoạt động tác động và phối hợp với nhau, nếu thiếu một trong hai hoạt
động đó thì quá trình dạy học không diễn ra” [37, 134].
Trong đó, “hoạt động dạy của người giáo viên là hoạt động lãnh đạo,
tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của học sinh, giúp học
sinh tìm tòi khám phá tri thức, qua đó thực hiện có hiệu quả chức năng học
của bản thân. Hoạt động học của học sinh là hoạt động tự giác, tích cực, chủ
động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình nhằm
thu nhận, xử lí và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của mình, qua
đó người học thể hiện mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị
của mình” [37, 135].
Cần phải thấy rằng: “Quá trình học của người học có thể diễn ra dưới
sự tác động trực tiếp của giáo viên diễn ra trong tiết học, hoặc dưới sự tác
động gián tiếp của giáo viên như việc tự học ở nhà của học sinh” [37, 137].
Hoạt động dạy và hoạt động học có mối quan hệ biện chứng, phối hợp
chặt chẽ với nhau, kết quả của hoạt động này phụ thuộc vào hoạt động kia và
ngược lại.
“Ngoài ra, cùng với sự bùng nổ tri thức cũng diễn ra sự lão hóa tri
thức với tốc độ nhanh. Do vậy để tránh được lạc hậu, mỗi người cần phải học

13


tập liên tục, học tập suốt đời. Vì vậy quá trình dạy học không chỉ dạy cho

người học lĩnh hội tri thức cần phải dạy cho họ học cách học một cách sáng
tạo” [37, 139].
Tóm lại, “quá trình dạy học là một quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức,
điều khiển của người giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ
chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình nhằm thực hiện
những nhiệm vụ dạy học” [37, 139].
Bởi vậy, bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo
của học sinh dưới vai trò chủ đạo của giáo viên.
• Lôgíc của quá trình dạy học
Tác giả Trần Thị Tuyết Oanh cũng chỉ ra: “Lôgíc của quá trình dạy học
là trình tự vận động hợp quy luật của quá trình đó, nhằm đảm bảo cho học
sinh đi từ trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và phát triển năng lực hoạt động
nhận thức, đặc biệt hoạt động trí tuệ tương ứng từ lúc bắt đầu nghiên cứu
môn học nào đó, đến trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và trình độ nhận thức,
đặc biệt là năng lực trí tuệ, tương ứng với lúc kết thúc môn học” [37, 152].
Xét một cách khái quát thì lôgíc của quá trình dạy học diễn ra theo các
khâu cơ bản sau:
- Giáo viên đề xuất vấn đề gây cho HS ý thức nhiệm vụ học tập.
- Tổ chức điều khiển học sinh lĩnh hội tri thức mới.
- Tổ chức điều khiển học sinh củng cố tri thức.
- Tổ chức điều khiển học sinh rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo.
- Tổ chức điều khiển, kiểm tra, đánh giá việc nắm vững tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo một cách có hệ thống của HS và tổ chức cho họ tự kiểm tra, tự
đánh giá.
- Phân tích kết quả từng giai đoạn, từng bước nhất định của quá trình
dạy học.
Trong quá trình dạy học, các khâu trên đều phải thực hiện với những
mức độ khác nhau. Chúng có mối quan hệ mật thiết, tác động, xen kẽ vào
nhau. Việc phối hợp các khâu đó nhằm đạt mục đích dạy học tốt nhất lại tùy
thuộc vào năng lực nghiệp vụ sư phạm của mỗi giáo viên.

14


1.1.1.2. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
• Quan niệm về PPDH
Thuật ngữ “phương pháp” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là
“Methodos” có nghĩa là con đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục
đích. Heghen cho rằng: “phương pháp là ý thức về hình thức của sự tự vận
động bên trong của nội dung”.
Kairov I. A trong cuốn Bách khoa toàn thư sư phạm cho rằng:
“PPDH là cách thức làm việc giữa thầy giáo và học sinh, nhờ đó mà HS
nắm vững được kiến thức, kĩ năng và kĩ xảo, hình thành thế giới quan và phát
triển năng lực”.
Trong cuốn Giáo dục học, khái niệm PPDH được hiểu là “cách thức
hoạt động phối hợp thống nhất của GV và HS trong quá trình dạy học được
tiến hành dưới vai trò chủ đạo của GV nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và các
nhiệm vụ dạy học” [37, 204].
Quan niệm trước đây cho rằng: PPDH là cách thức hoạt động của GV
để truyền kiến thức, kĩ năng cho HS theo mục tiêu giáo dục nhất định. Ở đó,
GV là nhân vật trung tâm, giữ vai trò chủ đạo, còn HS thụ động ghi nhớ và
tiếp thu những điều GV dạy. Quan niệm này dẫn đến chỗ đồng nhất PPDH là
phương pháp dạy của GV.
Hiện nay, cùng với sự đổi mới PPDH thì quan niệm về PPDH cũng có
sự thay đổi khác trước. Có thể hiểu, PPDH là tổng hợp cách thức hoạt động
phối hợp thống nhất của GV và HS (trong đó GV đóng vai trò chủ đạo, định
hướng tổ chức các hoạt động, HS đóng vai trò tích cực, chủ động và sáng tạo
chiếm lĩnh kiến thức) nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Bởi vậy, PPDH
bao gồm cả phương pháp dạy và phương pháp học. Phương pháp dạy là cách
thức GV trình bày tri thức, tổ chức và kiểm tra hoạt động nhận thức và thực
tiễn của học sinh nhằm đạt được các nhiệm vụ dạy học. Phương pháp học là

cách thức hoạt động tiếp thu, phát hiện tri thức, tự kiểm tra, đánh giá của học
sinh nhằm đạt được các nhiệm vụ học tập.
15


Như vậy, PPDH phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, tư
duy sáng tạo của HS, phải bồi dưỡng được năng lực tự học của HS, kích thích
được lòng say mê học tập và ý chí vươn lên của HS nhằm hình thành cho HS
các năng lực cần thiết mà xã hội yêu cầu. Đặc biệt, Ngữ Văn là môn học
không những chỉ cung cấp cho HS kiến thức, kĩ năng mà còn phải bồi dưỡng
và hình thành những phẩm chất đáng quý cho các em.
• Sự cần thiết phải đổi mới về phương pháp dạy học
Đổi mới PPDH xuất phát từ những yêu cầu của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, cuộc cách mạng xã hội, những yêu cầu của nền kinh tế chính trị của đất nước và đáp ứng những yêu cầu tất yếu của thời đại.
Thế kỷ XXI, với tác động nhanh chóng của những yêu cầu đó, sự
nghiệp giáo dục – đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Do đó, giáo dục rất cần có những đổi mới về PPDH nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả dạy học.
Theo hướng đổi mới hiện nay, có thể sơ đồ hóa bốn trụ cột giáo dục của
tổ chức UNESCO theo bốn năng lực như sau:

Học
nội dung
chuyên môn

Học
phương
pháp

Học giao tiếp

– xã hội

Học tự
trải nghiệm,
đánh giá

Năng lực
chuyên môn

Năng lực
Năng lực
Năng lực
phương
xã hội
cá thể
pháp
Học
Học
Học để
Học để
để biết
để làm
chung sống
khẳng định
Đổi mới giáo dục của Việt Nam cũng bám sát những mục
tiêu trên.
mình

Luật Giáo dục số 38/2005/QH11, điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học

sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
16


thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh”.
Trước những yêu cầu đổi mới, giáo dục Việt Nam cũng đòi hỏi phải:
“tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục – đào tạo, tăng cường cơ
sở vật chất các trường học” (Nghị quyết TW 2 khóa VIII). Kết luận TW 6
khóa IX (2002) tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường giáo
dục cho học sinh tư duy sáng tạo, năng lực học, tự tu dưỡng, tự tạo việc làm”.
Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu: “Đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra
theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo
dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống,
năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách
nhiệm xã hội”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và
học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận
dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát
triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học
tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học”.
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 ban hành kèm
theo quyết định 711/QĐ-TTG ngày 13/6/2012 của Thủ tướng chính phủ chỉ

rõ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn
luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng
lực tự học của người học”.

17


Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các
yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm
chất, năng lực của người học”; “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu,
định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ,
tin học, năng lực và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”. Theo
tinh thần đó, các yếu tố của quá trình giáo dục trong nhà trường trung học cần
được tiếp cận theo hướng đổi mới.
Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế xác định: “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và
đánh giá kết quả giáo dục theo hướng đánh giá năng lực người học; kết hợp
đánh giá cả quá trình với đánh giá cuối kì học, cuối năm học theo mô hình
các nước có nền giáo dục phát triển”.
Những quan điểm, định hướng trên tạo tiền đề, cơ sở và môi trường
thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới đồng bộ
phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng năng lực của người
học nói riêng.
Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú

ý tích cực hóa HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải
quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng
thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc
học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giữa GV – HS theo hướng cộng tác có ý
nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập
18


những tri thức và kĩ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung
các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề
phức hợp.
Công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam đã luôn được quan
tâm chú trọng và được coi là “quốc sách hàng đầu” trong các thời kỳ phát
triển của đất nước. Cuộc cách mạng phương pháp trong giáo dục vì thế có
nhiều điều kiện thực hiện và cần phải được thực hiện sâu sắc, toàn diện.
• Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Bước sang thế kỷ XXI, xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp
những thành tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách phổ biến.
Hiện nay, CNTT và truyền thông ảnh hưởng sâu sắc tới giáo dục và đào tạo
trên mọi khía cạnh, trong đó có cả việc đổi mới PPDH. Trong cuốn The Road
Ahead, Bill Gates đã khẳng định: “CNTT sẽ làm thay đổi rất lớn việc học của
chúng ta (…) Mọi người ở bất cứ nơi đâu sẽ có khả năng tham gia các khóa
học tốt nhất được dạy bởi các GV giỏi nhất”. Nhờ có CNTT mà giáo dục thực
hiện được các tiêu chí mới: học mọi nơi (anywhere), học mọi lúc (anytime),
học suốt đời (lifelong), dạy cho mọi người với mọi trình độ tiếp thu khác
nhau, làm thay đổi vai trò của người dạy và người học cũng như đổi mới cách
dạy và học.
Trong bài viết “Nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho
giáo viên THPT” đăng trên tạp chí Giáo dục, tác giả Trần Minh Hùng cho
rằng: “Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã tạo ra một khối

lượng tri thức khổng lồ, vượt qua giới hạn về cả không gian lẫn thời gian, đòi
hỏi con người có khả năng thu nhận, xử lý để hiểu biết một cách nhanh chóng
và chính xác. Điều đó đòi hỏi việc dạy học trong nhà trường phải thay đổi
cách tiếp cận bằng ghi nhớ sang cách tiếp cận bằng khả năng tìm kiếm, thu
nhận và xử lí thông tin. Như vậy, việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường gắn
với công nghệ thông tin như là một tất yếu.

19


Với các công cụ đa phương tiện (multimedia) của máy tính điện tử như
văn bản, đồ họa, âm thanh, video clip…, GV sẽ xây dựng được các bài giảng
một cách sinh động, hấp dẫn, thu hút sự tập trung chú ý của người học, sử
dụng linh hoạt các PPDH theo hướng đề cao tính tích cực, chủ động học tập
của HS. Những tiện ích đặc biệt của CNTT đã góp phần tích cực làm thay đổi
PPDH của người dạy và từ đó là thay đổi phương pháp học của người học”.
[18, 62].
Đổi mới PPDH có ứng dụng CNTT là phương pháp làm tăng giá trị
lượng thông tin, trao đổi thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và hiệu quả hơn.
Thông tin được hiểu càng có giá trị nếu nó gây bất ngờ càng lớn. Lượng
thông tin càng lớn, càng bất ngờ thì người học sẽ cảm thấy thú vị. Với người
GV, họ có thuận lợi trong công việc thiết kế các nội dung bài học để HS tiếp
thu dễ dàng bằng nhiều giác quan như nghe, nhìn, thực hành… Do đó, việc
đưa máy tính và các ứng dụng tin học khác vào giảng dạy là cần thiết để hiện
đại hóa nền giáo dục nước nhà, đáp ứng những yêu cầu, mục tiêu và nhiêm vụ
mà ngành giáo dục đề ra.
Việc ứng dụng CNTT đã và đang phát huy hiệu quả đối với dạy và học
ở nhiều bộ môn, giúp tiết học thêm sinh động hấp dẫn. Tùy vào điều kiện vật
chất, trang thiết bị, trình độ của GV và HS mà khả năng ứng dụng CNTT
trong dạy học khác nhau:

- Khai thác và sử dụng những tiện ích của CNTT trong tất cả các khâu
của quá trình dạy học như tìm và biên soạn tài liệu, thiết kế bài giảng, kiểm
tra, đánh giá…
- Xây dựng các phương tiện trực quan từ đơn giản đến phức tạp: xây
dựng bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh, băng ảnh…
- Thiết kế các phần mềm cho dạy học.
- Xây dựng các trang web cho dạy học.

20


×