Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Ý thức và vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.6 KB, 38 trang )

Tiểu luận triết học
Đề tài:
Ý THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC TRONG CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
CHƯƠNG 1
NGUỒN GỐC , BẢN CHẤT VÀ KẾT CẤU CỦA Ý THỨC
1. Ý thức là gì
Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng ý thức có một cuộc sống riêng , tồn
tại tách biệt vật chất thậm chí quyết định , sinh ra vật chất .
Chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng ý thức cũng là một dạng vật chất .
Chủ nghĩa duy vật cận đại đã thấy dược ý thức phản ánh thế giới khách
quan, đã chỉ ra được kết cấu của ý thức song lại chưa thấy nguồn gốc xã hội và
vai trò xã hội của ý thức .
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa , phát triển , khắc phục những
quan niệm trên đưa ra định nghĩa khoa học về ý thức :
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người
thông qua lao động và ngôn ngữ .
Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ cảm giác
cho tới tư duy , lý luận trong đó tri thức là phương thức tồn tại của ý thức .
2. Nguồn gốc của ý thức : Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và
nguồn gốc xã hội .
1.1. Nguồn gốc tự nhiên :
Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên
của ý thức , song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích
đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức . Dựa trên những thành tựu của khoa
học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh , chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng
vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc
1



Tiểu luận triết học
người . Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức . Ý thức là chức năng của bộ
óc người . Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ óc người . Ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người , do đó
khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối
loạn . Vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động sinh lý thần kinh của
bộ óc . Ý thức không thể diễn ra , tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc
người .
Bộ óc của con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài
về mặt sinh vật - xã hội sau khi vượn biến thành người , óc vượn biến thành óc
người . Bộ óc là một tổ chức vật chất sống đặc biệt , có cấu trúc tinh vi và phức
tạp , bao gồm từ 14 dến 15 tỷ tế bào thần kinh . Các tế bào này có liên quan với
nhau và với các giác quan , tạo thành vô số những mối liên hệ thu nhận , điều
khiển hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài qua các phản
xạ không điều kiện và có điều kiện . Trong bộ óc người , quá trình ý thức không
đồng nhất và cũng không tách rời , độc lập hay song song với quá trình sinh lý .
Đây chính là hai mặt của một quá trình - quá trình sinh lý thần kinh trong bộ óc
người mang nội dung ý thức , cũng giống như tín hiệu vật chất mang nội dung
thông tin .
Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật hiện đại đã tạo
ra những máy móc thay thế cho một phần lao động trí óc của con người . Chẳng
hạn các máy tính điện tử , rôbốt " tinh khôn " , trí tuệ nhân tạo . Song điều đó
không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như con người . Máy móc dù có tinh
khôn đến.đâu đi chăng nữa cũng không thể thay thế được cho hoạt động trí tuệ
của con người . Máy móc là một kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra , còn con
người là một thực thể xã hội . Máy móc không thể sáng tạo lại hiện thực dưới
dạng tinh thần trong bản thân nó như con người . Do đó chỉ có con người với bộ
óc của mình mới có ý thức theo đúng nghĩa của từ đó .
Tuy nhiên , nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế
giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại các tác động đó thì cũng không thể có ý

2


Tiểu luận triết học
thức . Phản ánh là một thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất .Phản ánh
được thể hiện trong sự tác động qua lại giữa các hệ thống vật chất ; đó là năng
lực giữ lại , tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật
chất . Thí dụ : nước và oxi tác động vào kim loại gây ra sự han gỉ của kim loại
phản ánh đặc điểm của nước và oxi .
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất , tương ứng với sự
phát triển của các hình thức hoạt động của vật chất , thì thuộc tính phản ánh của
vật chất cũng phát triển . Hệ thống vật chất có tổ chức càng phức tạp thì năng
lực phản ánh càng cao .
Phản ánh đơn giản nhất ở trong giới vô sinh là phản ánh vật lí . Hình
thức phản ánh này được thể hiện qua những biến đổi cơ , lí , hoá dưới những
hình thức biểu hiện cụ thể như thay đổi vị trí , biến dạng và phá huỷ .
Giới hữu sinh có hệ thống tổ chức cao hơn so với giới vô sinh . Song
bản thân giới hữu sinh lại tồn tại với những trình độ khác nhau tiến hoá từ thấp
đến cao , từ đơn giản đến phức tạp nên hình thức phản ánh sinh vật cũng thể
hiện ở thực vật và các cơ thể động vật bậc thấp . Khác với phản ánh vật lý mang
tính thụ động , không chọn lọc , phản ánh kích thích đã có sự chọn lọc trước
những sự tác động của môi trường . Thí dụ hoa hướng dương hướng đến mặt
trời , rễ cây phát triển mạnh về phía có nhiều phân bón ...
Ở động cao cấp phản ánh được phát triển cao hơn do việc xuất hiện hệ
thần kinh . Tính cảm ứng ( năng lực có cảm giác ) là hình thức phản ánh nảy
sinh do những tác động từ bên ngoài lên cơ thể động vật và cơ thể phản ứng lại
trước tác động đó của môi trường . So với tính kích , tính cảm ứng hoàn thiện
hơn , nó được thực hiện trên cơ sở các quá trình thần kinh điều khiển mối liên
hệ giữa cơ thể với môi trường thông qua cơ chế phản xạ không điều kiện .
Phản ánh tâm lý , hình thức cao nhất trong giới động vật gắn liền với

quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện . Ở phản ánh tâm lý ngoài cảm
giác , đã xuất hiện tri giác và bểu tượng . Cảm giác , tri giác , biểu tượng là
những biểu hiện của phản ánh tâm lý ở động vật có hệ thần kinh trung ương .
3


Tiểu luận triết học
Cùng với quá trình vượn biến thành người , phản ánh tâm lý ở động vật
cao cấp chuyển hoá thành phản ánh ý thức của con người . Phản ánh ý thức là
một hình thức phản ánh mới đặc trưng của một dạng vật chất có tổ chức cao
nhất , đó là bộ não con người
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực , ý thức chỉ nảy
sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất , cùng với sự xuất hiện của
con người . Ý thức là ý thức của con người , nằm trong con người , không thể
tách rời con người . Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất - thuộc tính
phản ánh - phát triển thành . Ý thức ra đờì là kết quả phát triển lâu dài của thuộc
tính phản ánh của vật chất , nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài ,
về vật được phản ánh . Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc
người . Bộ óc người là cơ quan phản ánh , song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa
thể có ý thức . Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và
qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra .
Như vậy , bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức .
1.2. Nguồn gốc xã hội
Để cho ý thức ra đời , những tiền đề , nguồn gốc tự nhiên là rất quan
trọng , không thể thiếu được , song chưa đủ . Điều kiện quyết định cho sự ra đời
của ý thức là những tiền đề , nguồn gốc xã hội . Ý thức ra đời cùng với quá trình
hình thành bộ óc người nhờ lao động , ngôn ngữ và những quan hệ xã hội . Ý
thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội , nó phụ thuộc vào xã hội , và ngay từ
đầu đã mang tính chất xã hội .

Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới dạng
trực tiếp , còn loài người thì khác hẳn . Những vật phẩm cần thiết cho sự sống
thường không có sẵn trong tự nhiên . Con người phải tạo từ những vật phẩm
ấy . Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giơí khách quan mà

4


Tiểu luận triết học
con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan , mới có ý thức về thế
giới đó .
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận
thụ động . Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực ,
bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính , những kết cấu , những quy luật vận
động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác
động vào bộ óc người . Ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác
động thuần tuý tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người , mà chủ yếu
là do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan , làm biến đổi thế giới
đó . Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ động của con người .
Như vậy , không phải ngẫu nhiên thế giới khách quan tác động vào bộ óc người
để con người có ý thức , mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ
động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới .
Con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới . Nói cách khác , ý thức chỉ
được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người . Nhờ tác động
vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới , ngày càng
làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới .
Trong quá trình lao động , ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh
nghiệm cho nhau . Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ .
Ph.Ăngghen viết : " Đem so sánh con người với các loài vật , người ta sẽ thấy rõ
rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao động , đó

là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ ".
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà hình thành .
Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức . Không có hệ thống tín
hiệu này - tức ngôn ngữ , thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được . Ngôn
ngữ , theo C.Mác là cái vỏ vật chất của tư duy , là hiện thực trực tiếp của tư
tưởng , không có ngôn ngữ , con người không thể có ý thức . Ngôn ngữ ( tiếng
nói và chữ viết ) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công cụ của tư duy .
Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát hoá , trừu tượng hoá , mới có thể
5


Tiểu luận triết học
suy nghĩ , tách khỏi sự vật cảm tính . Nhờ ngôn ngữ , kinh nghiệm , hiểu biết
của người này được truyền cho người kia , thế hệ này cho thế hệ khác . Ý thức
không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất
xã hội , do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức
không thể hình thành và phát triển được . Như vậy , nhôn ngữ là yếu tố quan
trọng để phát triển tâm lý , tư duy và văn hoá con người , xã hội loài người nói
chung . Vì thế Ph.Ăngghen viết :" sau lao động và đồng thời với lao động là
ngôn ngữ ... đó là hai sức kích thích chủ yếu " của sự chuyển biến bộ não của
con người , tâm lý động vật thành ý thức .
2. Bản chất của ý thức
Dựa trên lý luận phản ánh của mình , chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
giải quyết một cách khoa học vấn đề bản chất của ý thức . Trước C.Mác , các
nhà duy vật đều thừa nhận sự vật , vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự
phản ánh sự vật đó . Tuy nhiên , do chịu ảnh hưởng bởi quan điểm siêu hình nên
nhiều nhà duy vật trước C.Mác đã coi ý thức là sự phản ánh thụ động giản đơn ,
máy móc sự vật mà không thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức , tính
biện chứng của quá trình phản ánh . Trái lại , các nhà duy tâm lại cường điệu
tính năng động , sáng tạo của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất , chứ

không phải là sự phản ánh của vật chất .
Khác với những quan điểm trên đây , chủ nghĩa duy vật Mácxít coi ý thức
là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người một cách năng động
, sáng tạo .
Điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức là phải thừa nhận ý thức là sự
phản ánh , là cái phản ánh , còn vật chất là cái được phản ánh . Cái được phản
ánh - tức vật chất - tồn tại khách quan , ở ngoài và độc lập với cái phản ánh là ý
thức . " Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại ý thức " , là
hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan . Vì vậy không thể đồng nhất hoặc
tách rời ý thức với vật chất . Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan , nhưng
6


Tiểu luận triết học
nó là cái thuộc phạm vi chủ quan , là thực tại chủ quan , không có tính vật chất .
Ý thức là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính .
Nếu coi ý thức cũng là một hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý
thức , làm mất ý nghĩa của sự đối lập giữa vật chất và ý thức , từ đó đó dẫn đến
làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm .
Tuy nhiên , ý thức không phải là bản sao giản đơn , thụ động máy của sự
vật . Ý thức là của con người , mà con người là một thực thể xã hội năng động ,
sáng tạo . Ý thức phản ánh thế giới khách quan trong quá trình con người tác
động , cải tạo thế giới . Do đó ý thức con người là sự phản ánh có tính năng
động , sáng tạo . Ý thức là sự phản ánh sáng tạo lại hiện thực , theo nhu cầu
thực tiễn xã hội . Vì vậy ý thức " chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển
vào đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó ". Nói cách khác , ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan .
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú . Trên cơ sở
những cái đã có , ý thức có thể tạo ra tri thức về sự vật , có thể tưởng tượng ra
cái không có trong thực tế . Ý thức có thể tiên đoán , dự báo tương lai ( phản

ánh vượt trước ) , có thể tạo ra những ảo tưởng , những huyền thoại , những giả
thuyết , lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao , thậm chí ở một
số người có những khả năng đặc biệt như tiên tri , thôi miên , ngoại cảm , thấu
thị ... Những khả năng đó càng nói lên tính chất phức tạp và phong phú của đời
sống tâm lý - ý thức ở con người mà khoa học còn phải tiếp tục đi sâu nghiên
cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng kì lạ đó ...
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người , song đây là
phản ánh đặc biệt - phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới . Quá
trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây :
Một là , trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh . Sự trao
đổi này mang tính hai chiều , có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết .

7


Tiểu luận triết học
Hai là ,mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần
. Thực chất đây là quá trình sáng tạo lại hiện thực của ý thức theo nghĩa mã hóa
các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất .
Ba là , chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan , tức quá trình
hiện thực hóa tư tưởng , thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành
cái thực tại , biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất
ngoài hiện thực . Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp ,
phương tiện , công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện
mục đích của mình . Điều đó càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức .
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất . Sáng
tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh , theo quy luật và trong khuôn khổ
của sự phản ánh , mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần . Sự
sáng tạo của ý thức không đối lập , loại trừ , tách rời sự phản ánh , mà ngược lại
thống nhất với phản ánh , trên cơ sở phản ánh . Phản ánh và sáng tạo là hai mặt

thuộc bản chất của ý thức . Ý thức - trong bất kỳ trường hợp nào - cũng là sự
phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp ,
năng động , sáng tạo của bộ óc .
Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện
tượng xã hội . Ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội , phản ánh những
quan hệ xã hội khách quan . C.Mác khẳng định :" ngay từ đầu , ý thức đã là một
sản phẩm xã hội , và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại ".
3. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp , bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với
nhau . Có thể phân chia kết cấu đó theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo cách tiếp
cận . Ở đây có thể chia cấu trúc đó theo hai chiều sau đây :
3.1. Theo chiều ngang
Bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức , tình cảm , niềm tin , lý trí , ý
trí ... Trong đó tri thức là nhân tố cơ bản , cốt lõi .
8


Tiểu luận triết học
Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới , là sự phản
ánh thế giới khách quan . Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như tri thức về
tự nhiên , về xã hội , về con người ... và có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức
cảm tính và tri thức lý tính , tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận , tri thức
tiền khoa học và tri thức khoa học ... Để cải tạo tự nhiên và xã hội , con người
phải có hiểu biết về thế giới , nghĩa là phải có tri thức về sự vật . Do đó mọi
hiện tượng ý thức đều có nội dung tri thức ở mức độ nhất định . Ý thức mà
không bao hàm tri thức , không dựa vào tri thức vì ý thức đó là một sự trừu
tượng , trống rỗng , không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn .
Theo Mác tri thức là phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái
gì đó nảy sinh ra đối với ý thức ... Cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý
thức chừng nào mà ý thức biết cái đó . Quá trình hình thành và phát triển của ý

thức cũng là quá trình con người tìm kiếm , tích luỹ tri thức về thế giới xung
quanh . Càng hiểu biết về sự vật thì ý thức về sự vật càng sâu sắc .
Tuy nhiên , sự tác động của thế giới bên ngoài đến con người không chỉ
đem lại hiểu biết về thế giới mà còn đem lại tình cảm của con người đối với thế
giới . Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại , nó phản ánh
quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan .
Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và trở thành một trong
những động lực quan trọng của hoạt động con người . Tri thức có biến thành
tình cảm mãnh liệt mới sâu sắc và phải thông qua tình cảm thì mới biến thành
hành động thực tế , mới phát huy được sức mạnh của mình .
3.2. Theo chiều dọc
Đó là lát cắt theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người bao gồm các
yếu tố như tự ý thức , tiềm thức , vô thức ... Tất cả những yếu tố đó cùng với
những yếu tố khác quy định tính chất phong phú , phức tạp trong thế giới tinh
thần và hoạt động tinh thần của con người .

9


Tiểu luận triết học
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh , con người đồng thời
cũng tự nhận thức bản thân mình , đó chính là tự ý thức . Như vậy , tự ý thức
cũng là ý thức , là một thành tố quan trọng của ý thức , song đây là ý thức về
bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài . Tự ý thức là
ý thức của con người về những hành vi , những tình cảm , tư tưởng , động cơ ,
lợi ích của mình , về địa vị của mình trong xã hội . Tự ý thức là ý thức hướng về
nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài . Thông qua
phản ánh thế giới xung quanh , con người ý thức mình như một cá nhân đang
tồn tại , đang hoạt động , có tư duy , có cảm giác , có các hành vi đạo đức và có
vị trí trong xã hội . Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý

thức của một giai cấp , một tập đoàn xã hội , thậm chí của xã hội . Trình độ tự ý
thức nói lên trình độ phát triển của nhân cách , trình độ làm chủ bản thân . Nhờ
có tự ý thức , con người tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc , các chuẩn mực
mà xã hội đề ra .
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý ( chủ yếu là hoạt động nhận thức ở
cả hai trình độ cảm tính và tư duy) tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của
chủ thể , song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra
dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy . Về thực chất , tiềm thức là những tri thức mà
chủ thể đã có được từ trước ( bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp nắm bắt chúng )
nhưng đã gần như trở thành bản năng , thành kĩ năng nằm trong tầng sâu của ý
thức chủ thể , là ý thức dưới dạng tiềm năng . Do đó tiềm thức có thể tự động
gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát
chúng một cách trực tiếp . Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động
tâm lý hàng ngày của con người và cả trong tư duy khoa học . Trong tư duy
khoa học , vai trò của tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính xác ,
với các hoạt động tư duy thường lặp đi lặp lại nhiều lần . Ở đây tiềm thức góp
phần làm giảm sự quá tải của đầu óc trong việc xử lý một khối lượng các tài liệu
, dữ kiện , tin tức diễn ra một cách lặp đi , lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ
chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học .
10


Tiểu luận triết học
Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển . Lĩnh
vực vô thức là lĩnh vực các hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý
thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó . Chúng liên quan đến những
hoạt động xảy ra bên ngoài phạm vi của lý trí hoặc chưa được con người ý thức
đến . Con người là một thực thể xã hội có ý thức nhưng không phải mọi hành vi
của con người đều do lý thí chỉ đạo . Trong đời sống của con người , có những
hành vi do bản năng chi phối hoặc do những động tác được lặp đi lặp lại nhiều

lần trở thành thói quen tới mức chúng vẫn tự động xảy ra ngay cả khi không có
sự chỉ đạo của lý trí . Những hành vi thuộc loại như vậy là những hành vi vô
thức , do vô thức điều khiển , nói cách khác , vô thức là những trạng thái tâm lý
ở chiều sâu , điều chỉnh sự suy nghĩ , hành vi , thái độ ứng xử của con người mà
chưa có sự truyền tin bên trong , chưa có sự kiểm tra , tính toán của lý trí . Vô
thức biểu hiện ra thành những hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn ,
giấc mơ , bị thôi miên , mặc cảm , sự lỡ lời , nói nhịu , trực giác ... Mỗi hiện
tượng vô thức có vùng hoạt động riêng , có vai trò , chức năng riêng , song tất
cả đều có một chức năng chung là giải toả những ức chế trong hoạt động thần
kinh vượt ngưỡng nhất là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ
ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng đồng . Nó góp phần quan trọng
trong việc lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con người mà
không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức , sự dày vò mặc cảm ...
Nghiên cứu những hiện tượng vô thức giúp cho con người luôn luôn làm chủ
đời sống nội tâm của mình , có phương pháp kìm chế đúng quy luật những trạng
thái ức chế của tinh thần . Như vậy vô thức có vai trò và tác dụng nhất định
trong đời sống và hoạt động của con người . Nhờ vô thức , con người tránh
được tình trạng căng thẳng không cần thiết do thần kinh khi làm việc quá tải .
Nhờ vô thức mà những chuẩn mực con người đặt ra được thực hiện một cách tự
nhiên không có sự khiên cưỡng . Vô thức có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động
giáo dục thế hệ trẻ , trong hoạt động khoa học và nghệ thuật . Vì vậy không thể
phủ nhận vai trò của vô thức trong cuộc sống , nếu phủ nhận vô thức sẽ không
11


Tiểu luận triết học
thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người .Tuy nhiên không nên cường điệu
hoá , tuyệt đối hóa và thần bí hoá vô thức . Không nên coi vô thức là hiện tượng
tâm lý cô lập , hoàn toàn tách biệt khỏi hoàn cảnh xã hội xung quanh và tuyệt
nhiên không phải nó không có liên hệ gì đến ý thức . Thực ra vô thức là vô thức

nằm trong con người có ý thức , con người là một thực thể có ý thức . Giữ vai
trò chủ đạo trong hoạt động của con người là ý thức chứ không phải vô thức .
Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân ,
thiện , mỹ . Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con
người .
4. Vai trò và tác dụng của ý thức . Ý nghiã phương pháp luận của mối quan hệ
giữa vật chất và ý .
Kẻ thù của chủ nghĩa Mác thường xuyên tạc là chủ nghĩa Mác chỉ biết
đến vật chất , kinh tế mà coi nhẹ vai trò của ý thức tư tưởng . Thực ra hoàn toàn
không phải như vậy . Chỉ có chủ nghĩa duy vật tầm thường , không biện chứng ,
duy vật kinh tế mới phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của các yếu tố tinh thần , ý
thức mà thôi .
Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức , chủ nghĩa
duy vật Mácxít đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng
của ý thức đối với vật chất . Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định , song sau
khi ra đời , ý thức có tính độc lập tương đối nên có tác động trở lại to lớn đối
với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người . Ý thức của con
người có tác động tích cực , làm biến đổi hiện thực , vật chất khách quan theo
nhu cầu của mình . Quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một
chiều mà là quan hệ tác động qua lại . Không thấy điều đó sẽ rơi vào quan niệm
duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động .
Nói tới vai trò của ý thức về thực chát là nói tới vai trò của con người ,
bởi vì ý thức là ý thức của con người . Bản thân ý thức không trực tiếp thay đổi
được gì trong hiện thực cả . Theo Mác " lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổi
12


Tiểu luận triết học
bằng lực lượng vật chất " , cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực
lượng thực tiễn . Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện thực hiện

được các quy luật khách quan thì phải nhận thức vận dụng đúng đắn những quy
luật đó , phải có ý chí và có phương pháp để tổ chức hành động . Cho nên vai
trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người , hình thành mục tiêu ,
kế hoạch , ý chí , biện pháp cho hoạt động của con người . Ở đây ý thức , tư
tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai , thành công
hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định .
Vai trò tích cực của ý thức , tư tưởng không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra
hay thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan và từ đó làm
cho con người hình thành được mục đích , phương pháp , biện pháp và ý chí cần
thiết cho hoạt động của mình . Sức mạnh của ý thức con người không phải ở
chỗ tách rời điều kiện vật chất , thoát ly hiện thực khách quan , mà biết dựa vào
điều kiện vật chất đã có , phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới
khách quan một cách chủ động , sáng tạo với ý chí , nhiệt tình cao . Con người
phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới
có hiệu quả . Vì vậy phải phát huy tính năng động , sáng tạo của ý thức , phát
huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan . Đồng
thời phải khắc phục bệnh bảo thủ , trì trệ , thái độ tiêu cực , thụ động , ỷ lại ,
ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay .
Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan là việc thừa
nhận và tôn trọng tính khách quan của vật , của các quy luật tự nhiên và xã hội .
Nếu như thế giới vật chất - với những thuộc tính và quy luật vốn có của nó - tồn
tại khách quan , không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan , lấy thực tế khách
quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình . Chính vì vậy , Lênin đã nhiều
lần nhấn mạnh rằng không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính
sách , không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược
cách mạng . Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan , nếu lấy ý chí áp đặt cho
13



Tiểu luận triết học
thực tế , lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý
chí .
Trước Đại hội Đảng lần thứ VI , bên cạnh những thành tựu đạt được ,
chúng ta đã phạm những sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật , cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế .
Chúng ta đã nóng vội muốn xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần , vi phạm
nhiều quy luật khách quan . Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội
lần thứ VII đã khẳng định :" Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí , vi
phạm quy luật khách quan " . Vì vậy , từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách
mạng , Đại hội lần thứ VII của Đảng ta đã rút ra bài học quan trọng là : " Mọi
đường lối , chủ Đảng phải xuất phát từ thực tế , tôn trọng quy luật khách quan ".
Bài học đó có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước ta . Đại
hội lần thứ VIII của Đảng ta đã tổng kết 10 năm đổi mới , đề ra những mục
tiêu , phương pháp cho thời kì mới - thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước . Trong thời kì mới này phải " lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững " , chúng ta cần
tránh sai lầm chủ quan nóng vội trong công nghiệp hoá , hiện đại hóa đồng thời
phải " khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước , ý chí quật cường , phát huy tài
chí của nguời Việt Nam , quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu
... "

Chương 2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới nền kinh tế ở
nước ta .

1. Vai trò của tri thức khoa học trong nền kinh tế - xã hội .
14



Tiểu luận triết học
Trên phạm vi thế giới những tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới
đẫ làm cho lợi thế so sánh của mỗi quốc gia biến đổi không ngừng , làm thay
đổi mối quan hệ giữa các nước , trong đó mỗi nước đều có cơ hội to lớn để tìm
ra lợi thế so sánh mới cho mình và đều đứng trước những thách thức mới .
Trong điều kiện như vậy các nước phụ thuộc lẫn nhau rất mạnh mẽ .
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật thực sự góp phần không nhỏ vào quá trình
quốc tế hoá đời sống kinh tế này , đã làm nảy sinh sự liên kết kinh tế đa dạng ,
nhiều chiều . Chính tiến bộ khoa học - kỹ thuật , một mặt đang làm thay đổi
những quan điểm trước đây về một nền kinh tế độc lập , tự chủ , hoàn chỉnh ,
dẫn thế giới đến một chỉnh thể đầy mâu thuẫn đòi hỏi phải có cách giải quyết
mới , mặt khác , dẫn đến sự cấu trúc lại nền kinh tế cả trên phạm vi thế giới lẫn
trong nội bộ từng nước .
Nền kinh thế giới chuyển dần sang cơ cấu phát triển theo chiều sâu , đặc
biệt là trong công nghiệp cơ cấu đó chuyển dịch khá nhanh về phía những
ngành có hàm lượng khoa học , công nghệ và trí tuệ cao , cơ cấu tiêu thụ giảm
theo hướng giảm các sản phẩm dùng nhiều lao động và nguyên liệu . Chính tiến
bộ khoa học - kỹ thuật đã làm cho vai trò của năng lượng và lợi thế so sánh của
nguyên liệu và sản phẩm sơ cấp trong công nghiệp giảm dần , do vậy mà mới có
tình trạng chỉ số giá cả các sản phẩm sơ cấp và nguyên liệu trên thị trường thé
giới giảm tói 40% so với đầu thập kỷ 80 . Cũng do sự chuyển dịch nhanh chóng
đó mà hiện nay đã có tới 11 trong số 28 ngành công nghiệp chính của thế giới
đang bị lu mờ , bị coi là đã xế chiều và đang bị các ngành mới ra đời lấn át hoặc
thay thế hoàn toàn . Trước tình hình đó để tránh thua thiệt những nước xuất
khẩu nguyên liệu và các sản phẩm sơ cấp - mà ở đây chủ yếu là các nước đang
phát triển - phải tìm cách nhanh chóng nâng cao năng lực biến đổi tài nguyên
thành sản phẩm tiêu dùng cao cấp , muốn như thế thì không có cách nào khác
hơn là phải tìm đến tiến bộ khoa học - kỹ thuật .
Như vậy , do tác động của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà yêu cầu phải đổi
mới về mặt kinh tế , từ cơ cấu sản xuất cho đến quan hệ giữa các quốc gia , trở

15


Tiểu luận triết học
thành một tất yếu không thể cưỡng lại được nếu như quốc gia đó muốn tồn tại
và không bị nhấm chìm .
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay , một mặt , tạo điều
kiện cho sự quản lý sản xuất , quản lý xã hội nhanh nhạy và linh hoạt hơn , mặt
khác nó lại cũng đòi hỏi phải có sự quản lý đối với nó nhanh nhạy và linh hoạt
như vậy . Vì thế tiến bộ khoa học - kỹ thuật thực tế là mâu thuẫn với cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp . Những thay đổi nhanh chóng trong kỹ thuật và trong
công nghệ cũng như trong tổ chức sản xuất , trong các mặt hàng , các sản phẩm
được làm ra đòi hỏi phải có cách quản lý linh hoạt , mềm dẻo có hiệu quả cao ,
nghĩa là để chuyển sang chất lượng mới của sự phát triển thì phải có sự đổi mới
sâu sắc và căn bản trong cơ chế quản lý . Một hệ thống kinh tế bị đóng kín , bị
giới hạn từ trên xuống dưới , bị hạn chế quan hệ ngang , được điều khiển bằng
mệnh lệnh tập trung và quan liêu không tránh khỏi kìm hãm sự phát triển của xã
hội , sự tiến bộ khoa học - kỹ thuật cho nên tất yếu phải bị thay thế .
Ngày nay việc quản lý xã hội , trong đó quan trọng quản lý kinh tế , quản
lý nhà nước , thành công đến mức nào là tuỳ thuộc vào khả năng xử lý thông tin
. Không theo kịp những biến đổi hết sức mới trong lĩnh vực này mà khư khư giữ
lấy cách quản lý cũ , lạc hậu thì không tránh khỏi bỏ lỡ thời cơ có thể vươn lên
để tiến kịp cùng thời đại và thoát ra sự trì trệ .
Cùng với những biến đổi về chất lượng trong lực lượng sản xuất , trong
kinh tế và trong quản lý xã hội , tiến bộ khoa học - kỹ thuật còn tạo nên những
biến đổi ghê gớm trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự , trong việc tạo ra những
phương tiện phá hoại và huỷ diệt sự sống , làm gay gắt những vấn đề toàn cầu
của thời đại . Sức mạnh quân sự của một quốc gia lúc này không chỉ phụ thuộc
vào số lượng lớn binh lính , vào những loại vũ khí thông thường có sức công
phá lớn đã từng một thời làm mọi người khiếp đảm mà còn phụ thuộc rất lớn

vào các vũ khí dựa trên những tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất , thậm chí
có khi chỉ phụ thuộc vào một số ít người thuộc các ngành nghề khác nhau từ
nhà chính trị cho đến nhà sinh học , y học chuyên nghiên cứu các vi khuẩn gây
16


Tiểu luận triết học
bệnh , từ nhà vật lý hạt nhân cho đến người điều khiển tên lửa mang đầu đạn hạt
nhân . Những tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất được sử dụng để sản xuất
các loại vũ khí giết người hàng loại .
Chẳng hạn , đứng về mặt kỹ thuật mà xét thì số vũ khí hiện có đã đủ để xoá
sạch hoàn toàn nhiều lần toàn bộ sự sống trên trái đất nếu chiến tranh hạt nhân
xảy ra . Chỉ riêng một tầu ngầm chiến lược , trong số hàng trăm tàu ngầm hiện
có , cũng mang theo tiềm năng huỷ diệt tương đương với mấy cuộc chiến tranh
thế giới thứ hai . trong cuộc chiến tranh mới đó không ai có thể tìm thấy phần
thắng . Trước nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới có sức huỷ diệt lớn
như vậy những người đứng đầu các quốc gia buộc phải đổi mới cách đánh giá ,
cách nhìn nhận các quan hệ chính trị quốc tế , cách giải quyết mâu thuẫn khu
vực và thế giới , đổi mới quan niệm về quốc phòng và an ninh mới . Nếu làm
ngược lại chắc chắn không thể tránh được những hậu quả ghê gớm khó lường
trước được .
Nhờ tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà càng ngày người ta càng tạo ra được
nhiều loại nguyên liệu và vật liệu có thể thay thế những thứ từ trước đến nay chỉ
có thể dựa vào sự cung cấp của thiên nhiên . Vì vậy tiến bộ khoa học - kỹ thuật
đang làm cho ưu thế dưới dạng tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên trở nên
tương đối .
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật một mặt tạo thời cơ thuận lợi cho các nước
này thoát ra khỏi sự lạc hậu và trì trệ nếu như biết định hướng đúng , nếu có một
tiềm năng nhất định nào đó về nguồn vốn và nguồn nhân lực có trình độ cần
thiết để tiếp thu các công nghệ tương đối hiện đại . Khi đã có những kĩ thuật và

công nghệ mới , tiến bộ thì vấn đề đặt ra tiếp theo là giải quyết việc làm cho số
lao động dôi ra , tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm ... Nếu giải quyết tốt chúng thì
khả năng hội nhập của các nước này với trào lưu chung của thế giới là hiện thực
. Song tiến bộ khoa học - kỹ thuật thời đại chúng ta còn có một mặt khác nghiệt
ngã là hoàn toàn có khả năng nhấn các nước kém phát triển chìm sâu hơn trong
cảnh lạc hậu và phụ thuộc , đồng thời còn tạo nên một khoảng cách còn lớn gấp
17


Tiểu luận triết học
bội so với khoảng cách đã từng tồn tại trước đây giữa họ và các nước phát triển
nếu như họ không tìm ra con đường thích hợp hoặc cố tình duy trì cách làm ăn
cũ , thói quen cũ , không thích nghi với những biến đổi của thời đại .
Như vậy , trong thế giới hiện đại vừa liên kết hợp tác , vừa chứa đầy mâu
thuẫn và cạnh tranh với nhau khốc liệt , mọi quốc gia trong đó có chúng ta , nếu
muốn giành cho một vị trí xứng đáng hay ít ra để không bị nhấn chìm , đều
không thể cưỡng lại xu thế của thời đại là đổi mới mọi mặt trên cơ sở nhận
thức , đánh giá và sử dụng đúng đắn , nhanh chóng các tiến bộ khoa học - kỹ
thuật mới nhất được loài người tạo ra , đồng thời biết khai thác và tạo được
những điều kiện cho sự khai thác những nguồn lực khác có thể khai thác .
2. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay .
2.1. Những thành tựu của công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội ở nước ta .
2.1.1. Bối cảnh thế giới và trong nước :
Thế giới và nền sản xuất của nó đang chuyển biến hết sức nhanh chóng
dưới tác động mạnh mẽ của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà đỉnh cao mới là
những tiến bộ do cách mạng công nghệ , cách mạng tin học mang lại . Nhiều
nước đã và đang tiến hành những cải cách rộng rãi , mạnh bạo , đặc biệt là trong
lĩnh vực thông tin .
Tuy nhiên cũng trong bối cảnh đó các nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào
tình trạng nặng nề và rút cục bị lạc hậu về nhiều mặt . Nguyên nhân của tình

trạng này là không đánh giá đúng đắn và kịp thời những tiến bộ khoa học - kỹ
thuật , thiếu những điều kiện cần thiết , thiếu một môi trường dân chủ thực sự
để cho con người phát huy mọi khả năng sáng tạo của mình . Có thể thấy rõ
điều này qua các chỉ số so sánh cụ thể giữa Liên Xô và Mĩ .
Việt Nam tiến hành đổi mới trong bối cảnh bị cô lập tương đối về kinh tế
trong một thời gian dài . Những hỗ trợ kinh tế và tài chính hầu như không đáng
kể , nguồn viện trợ vay của Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu bị cắt . Sự
phong toả về kinh tế , sự lôi cuốn Việt Nam vào những xung đột chính trị và
18


Tiểu luận triết học
quân sự đã buộc đất nước phải tiêu hao nguồn lực mà lẽ ra có thể sử dụng cho
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội .
Tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta cũng có một số cơ may và thuận lợi : xu
thế hoà bình và hợp tác kinh tế quốc tế đang mở rộng , sự phát triển như vũ bão
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại , vị trí địa lý thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế .
2.1.2. Công cuộc đổi mới và những thành tựu đã đạt được ở nước ta
Đại hội Đảng lần thứ VI ( tháng 12 / 1986 ) đã đưa ra những quan điểm cơ
bản trong quá trình đổi mới ở nước ta là :
_Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa
_Chuyển nền kinh tế vận hành từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung , quan
liêu , bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa .
_Mở cửa nền kinh tế , đa dạng hoá , đa phương hóa và nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại trên cơ sở mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong
khu vực và trên thế giới .
_Dân chủ hoá mọi mặt đời sống kinh tế xã hội , tiến tới đổi mới hành

chính và xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh .
Nhìn vào một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản , chúng ta thấy những nhân tố ổn
định của nền kinh tế đã đạt được hình thành :
Tổng sản phẩm trong nước tăng đều và có xu hướng tăng nhanh trong
những năm gần đây . Trong gai đoạn 1986 - 1990 bình quân mỗi năm tăng 3,9%
( 1986 tăng 0,3% ; 1987 tăng 3,6 % ; 1988 tăng 6% ; 1989 tăng 4,7% ; 1990
tăng 5,1% ) . Trong giai đoạn 1991 - 1995 bình quân mỗi năm tăng 8,7 %
( 1991 tăng 6% ; 1992 tăng 8,6% ; 1993 tăng 8,1% ; 1994 tăng 8,8% ; 1995 tăng
9,5% ; 1996 tăng 9,34% ) . Tăng trưởng kinh tế năm 1996 vẫn đạt trên mức 9%
nói lên sự phát triển ổn định .
19


Tiểu luận triết học
Lạm phát bị đẩy lùi và được kiềm chế ở mức thấp .
Tiền đồng ổn định , tỷ giá hối đoái giao động trên dưới 11000
VNĐ/USD .
Cán cân thanh toán trong và ngoài nước được chuyển động theo hướng
tích cực . Ngân sách Nhà nước có nguồn thu từ thuế và phí tăng lên .
Quan hệ xuất nhập khẩu đã có những tiến bộ , xuất khẩu hàng năm tăng
dần . Năm 1995 xuất khẩu 5,2 tỷ USD , nhập khẩu 7,5 tỷ USD . Năm 1996 xuất
khẩu 7 tỷ USD và nhập khẩu 11 tỷ USD . Tỷ lệ xuất so với năm 1995 đã tăng
lên nhưng nhập siêu còn lớn .
Tỷ lệ tăng dân số giảm dần từ 2,33% năm 1991 xuống còn 2% năm 1995 ,
năm 1996 tỷ lệ này đã xuống dưới 2% nhưng tỷ lệ tăng dân số vẫn lớn nếu
không kiềm chế được thì đây là cản trở lớn cho phát triển . Số người có việc
làm đã tăng lên , từ 30,97 triệu người làm việc năm 1991 đến năm 1995 con số
này là 34,68 triệu người . Năm 1996 số người có việc làm vẫn tiếp tục tăng lên ,
nhưng tỷ lệ thiếu việc làm vẫn đang còn lớn .
Mức sống dân cư được cải thiện , GDP đầu người năm 1991 là 273 USD .

Năm 1996 mức sống đã tăng lên nhưng còn một bộ phận dân cư ở nông thôn và
miền núi đời sống vẫn còn khó khăn .
Đổi mới , cải cách về kinh tế , nhưng không gây rối loạn về xã hội hoặc
đổ vỡ về chính trị như ở nhiều nước khác . Chính sự ổn định về chính trị và xã
hội là điều kiện hết sức quan trọng cho việc triển khai và đẩy tới công cuộc đổi
mới về kinh tế ; ngược lại những kết quả của công cuộc đổi mới về kinh tế lại là
tiền đề cho sự ổn định về xã hội và đổi mới về chính trị .
Ổn định chính trị do một chính Đảng lãnh đạo thu hút được quần chúng .
2.1.3. Những hạn chế của công cuộc đổi mới
Công cuộc đổi mới của nước ta đã thu được rất nhiều thành tựu to lớn
nhưng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế :

20


Tiểu luận triết học
Xét trên tổng thể , nền kinh tế nước ta hiện vẫn chưa thoát rả khỏi tình
trạng tái sản xuất giản đơn và nhiều mặt còn mất cân đối nặng nề . Tổng sản
phẩm quốc dân tính theo đầu người mới đạt khoảng 200 USD .
Sự tăng trưởng kinh tế tuy đang phát triển , nhưng đặc biệt là trong lĩnh
vực nông nghiệp sự tăng trưởng đang bị giới hạn , nếu không có đầu tư lớn về
khoa học và công nghệ . Sự tăng trưởng vừa qua chủ yếu là do đổi mới cơ chế ,
do hỗ trợ đầu tư nước ngoài và do đầu tư của các công trình lớn trước đây được
huy động . Năng suất trong nông nghiệp chủ yếu là do tăng diện tích , tăng vụ
do đổi mới cơ chế và luật đất đai kích thích người lao động làm việc có năng
suất . Do thiếu sự đầu tư của khoa học - kỹ thuật nên sản phẩm nông nghiệp
chất lượng thấp . Trong khi đó tốc độ tăng dân số vẫn chưa được kiềm chế nên
thu nhập đầu người kể cả lương thực , thực phẩm thấp , làm cho tích luỹ nội bộ
chậm .
Năng suất và chất lượng sản phẩm trong công nghiệp cũng chưa có sản

phẩm cạnh tranh . Các sản phẩm chủ yếu tăng trưởng vừa qua ở dạng khai thác
tài nguyên như dầu thô , than , đất hiếm ...Thép và xi măg chất lượng thấp tiêu
thụ nội địa chưa được người tiêu dùng yêu thích . Sản phẩm trong nước của ta ít
, không cạnh tranh được với hàng nước ngoài và chưa có nhiều sản phẩm chế
biến xuất đi các nước .
Lĩnh vực dịch vụ hoạt động rất sôi động nhưng còn lộn xộn và nảy sinh
nhiều mặt trái về xã hội . Việc mua bán , ăn uống , du lịch , khách sạn và cũng
rất nhộn nhịp ở thành phố Hồ Chí Minh , Hà Nội và các thành phố khác , còn
vùng nông thôn , miền núi do đường xá , phương tiện đi lại và sức mua kém nên
chưa có gì đáng kể .
Do thu nhập thấp nên tiết kiệm và đầu tư nội bộ thấp , chưa đủ độ để tạo
đà cất cánh . Tỷ lệ mức tiết kiệm gần 20% GDP là thấp và quy mô lại nhỏ . Khó
khăn hơn nữa là tổng mức tiết kiệm đó trong dân vẫn chưa huy động được vào
đầu tư hoặc đầu tư chưa đúng hướng .

21


Tiểu luận triết học
Việc huy động nguồn tiết kiệm trong dân vào sản xuất kinh doanh đang bị
cản trở .
Hiệu quả đầu tư và sản xuất kinh doanh thấp , một bộ phận nguồn lực kể
cả sử dụng cho sản xuất và tiêu dùng lãng phí . Hiện tại theo tính toán một đồng
vốn Nhà nước tạo được 3,4 đồng doanh thu , tỷ xuất lợi nhuận trên vốn Nhà
nước đạt 19,2% .
Việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn từ nước ngoài còn gặp khó
khăn nhiều mặt . Tỷ lệ đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2000 khoảng 30%
GDP đòi hỏi phải có nguồn đầu tư trực tiếp FDI và tài trợ từ nguồn ODA đều
đặn để bù đắp sự thiếu hụt khoảng 6 -7% GDP do nguồn tiết kiệm trong nước
còn ít .

Khuôn khổ pháp lý và trình độ quản lý từ vĩ mô và vi mô theo cơ chế , thị
trường còn nhiều bất cập , thiếu đồng bộ . Đặc biệt sự tương đồng luật pháp của
ta với các nước trong kinh doanh còn cách xa nhau . Sự hiểu biết và thi hành
luật pháp khó khăn , nhũng nhiễu . Thủ tục hành chính phiền hà làm ách tắc luật
lệ , chính sách , cơ chế quản lý và gây ra những tiêu cực xã hội .
Kết cấu hạ tầng còn quá lạc hậu . Mạng lưới giao thông vận tải , thông tin
liên lạc chưa được mở mang , chất lượng lại thấp . Hiện hay chỉ có 12% đường
bộ được đánh giá là đường tốt , gần 50% đướng sắt không đảm bảo kỹ thuật .
Sân bay bến cảng chưa đáp ứng yêu cầu . Điện thoại bình quân 1000 dân mới có
1,8 máy , ngang hàng với những nước lạc hậu nhất trong khu vực .
Mặc dầu kim ngạch xuất khẩu tăng đáng kể trong mấy năm qua , song
nhìn chung quy mô của kinh tế đối ngoại còn nhỏ , hiệu quả còn thấp , chưa đáp
ứng được yêu cầu hỗ trợ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất
nước .
Tỷ lệ tăng dân số vẫn ở mức bùng nổ , điều đó vừa làm triệt tiêu mọi cố
gắng và thành quả đạt được trong phát triển kinh tế , vừa làm gay gắt thêm các
vấn đề xã hội vốn đã rất gay gắt .

22


Tiểu luận triết học
Trình độ dân trí nói chung thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
và so với nhiều nước khác trên thế giới . Chất lượng giáo dục và đào tạo còn
chưa cao , cả nước còn khoảng 12% ( 8 triệu người ) mù chữ . Ở nước ta , tính
bình quân trong 1000 người dân mới có 2 sinh viên . Tay nghề đội nhũ lao động
chưa cao , trong công nghiệp cấp bậc thợ bình quân chưa đạt 3,5/7 bậc . Ở nông
thôn , trong số 25 triệu lao động chỉ có 1,5 triệu có trình độ phổ thông trung học
; 0,67 triệu lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp và 0,25 triệu có trình
độ cao đẳng , đại học và trên đại học . Trong thương nghiệp có gần 50% lao

động chưa được học tập buôn bán .
Sức dân với tư cách là yếu tố quan trọng trong nguồn lực phát triển kinh
tế - xã hội đang có những dấu hiệu đáng lo ngại . Trong các tầng lớp nhân dân
lao động còn nhiều người ăn chưa đủ no và thiếu dinh dưỡng . Bình quân mới
đạt 1950 kilo calo/người /ngày . Ở nông thôn , số liệu điều tra ở miền Bắc cho
thấy mức tiêu dùng lương thực , thực phẩm bình quân đầu người/tháng tính
bằng calo đều dưới mức nhu cầu tối thiểu : về lương thực đạt 93,1% ; thịt các
loại 55,4% ; cá các loại 56% . Điều đáng lo ngại là có tới 36% số trẻ em ở nước
ta đang bị suy dinh dưỡng . Công tác phòng chống và chữa bệnh cho nhân dân ,
nhất là miền núivà ở tuyến xã xuống cấp nghiêm trọng . Đó cũng là một trong
những nguyên nhân khiến cho tỷ lệ trẻ em chết cao so với số trẻ sơ sinh ở vùng
miền núi .
Tình hình xã hội còn diễn biến phức tạp . Số người không có hoặc thiếu
việc làm ngày càng gia tăng . Ở thành thị 6-7% số người trong độ tuổi lao động
chưa có việc làm mà phần đông là thanh niên , ở nông thôn , thời gian lao động
mới được sử dụng 60-70% , nếu quy đổi 30-40% còn lại thì có tới 8-9 triệu
người thiếu việc làm .
Sự phân tầng xã hội . phân hoá giàu nghèo diễn ra khá phổ biến và phức
tạp ở cả thành thị và nông thôn . Nếu chia các dải phân tầng xã hội thành 5
nhóm đều nhau , mỗi nhóm bằng 20% dân số thì hệ số chênh lệch giữa nhóm có

23


Tiểu luận triết học
thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất ở nước ta năm 1994 là gần 7
lần .
Chất lượng giáo dục đào tạo thấp so với yêu cầu . Mục tiêu , nội dung ,
chương trình , phương pháp dạy và học , sách giáo khoa , thi cử , cơ cấu đào tạo
, trình độ quản lý có nhiều thiếu sót , trong giáo dục và đào tạo có nhiều hiện

tượng tiêu cực đáng lo ngại . Chi phí học tập cao hơn so với khả năng thu nhập
của dân nhất là của người nghèo . Giáo dục và đào tạo ở vùng sâu , vùng sa còn
nhiều khó khăn . Công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng . Phát luật và kỷ
cương xã hội không nghiêm . Trật tự và an toàn xã hội chưa được bảo đảm ,
thậm chí có mặt còn xấu di , đạo đức bị xói mòn . Nạn tham nhũng và các tệ nạn
xã hội khác nhau như lừa đảo , trốn thuế , lậu thuế , làm hàng giả , cá cược , số
đề , mê tín , dị đoan ... đang phát triển .
Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá , xây dựng và bảo vệ Tổ quốc . Sự phát
triển của khoa học chưa thực sự gắn với những nhiệm vụ thực tiễn cuộc sống
đặt ra , đồng thời nhiều phương hướng phát triển kinh tế - xã hội còn thiếu ,
thậm chí không có nhiều dự án kinh tế - xã hội trở thành không hiện thực , ảnh
hưởng trực tiếp đến nhịp độ phát triển kinh tế , xã hội nói chung mà còn ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của khoa học , kỹ thuật nói riêng .
Môi trường đô thị , nơi công nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn
bị ô nhiễm ngày càng nặng .
2.1.4.Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới ở nước ta
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học và sản xuất hiện đại, khoa
học ngày càng có vị trí quan trọng trong sự phát triển của xã hội . Có tình hình
đó là vì trong điều kiện hiện nay khoa học ngày càng tác động mạnh mẽ , sâu
sắc đến sự phát triển của kinh tế - xã hội . Khoa học không chỉ phát hiện ra
những quy luật của hiện thực mà còn chỉ ra những con đường khả dĩ để vận
dụng các quy luật ấy vào thực tiễn cuộc sống vì lợi ích con người .
24


Tiểu luận triết học
Trong lĩnh vực kinh tế ,có thể nói rằng , điều kiện khách quan cho sự liên
kết giữa khoa học , kỹ thuật và sản xuất là khoa học ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp . Trong điều kiện hiện nay , sự liên kết giữa khoa học ,

kỹ thuật và sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với việc vận dụng có hiệu quả
khoa học , kỹ thuật vào sản xuất . Điều đó là dễ hiểu bởi vì khoa học , tri thức
khoa học là yếu tố chung có mặt trong mọi thành phần của lực lượng sản xuất .
Sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật , việc vận dụng các thành tựu của khoa học
vào đời sống một mặt có ý nghĩa to lớn đến sự phát triển mọi thành của lực
lượng sản xuất . Mặt khác , trong điều kiện hiện nay , khoa học là sản phẩm tinh
thần của sự phát triển xã hội , ngày càng tam gia tích cực vào quá trình sản
xuất . Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và của tiến bộ xã
hội , khoa học ngày càng biểu thị dưới dạng một thực tiễn xã hội trực tiếp nhờ
quá trình biến khoa học từ lực lượng sản xuất tiềm năng thành lực lượng sản
xuất trực tiếp . Tuy nhiên cần phải thấy rằng khoa học chỉ trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp dựa trên những tiền đề nhất định . Những tiền đề đó là :
1. Sản xuất phải đạt được một mức độ phát triển nhất định . Trong điều
kiện sản xuất thấp kém , mối liên hệ khoa học và thực tiễn chủ yếu đi theo con
đường từ khoa học đến thực tiễn , nghĩa là người ta tìm cách chủ yếu vận dụng
những thành tựu khoa học đã có vào sản xuất . Ở trình độ này khoa học mới
biểu thị như lực lượng tiềm năng chứ chưa thể trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp . Ở trình độ cao chính sản xuất đã đặt ra những vấn đề phức tạp đòi hỏi
khoa học phải giải quyết . Như vậy ở đây chính sự phát triển của sản xuất là
điều kiện cần cho sự xuất hiện của những tri thức khoa học mới , những ngành
khoa học mới . Khoa học không phục vụ sản xuất một cách thụ động mà tham
gia một cách tích cực vào quá trình sản xuất . Cũng chỉ khi đó mới có điều kiện
để biến khoa học thành lực lượnng sản xuất trực tiếp .
2. Tương ứng với một mức độ phát triển nhất định của khoa học - ở mức
khoa học phải đủ sức giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra . Chúng ta
thấy rằng không thể giải quyết những vấn đề của sản xuất hiện đại chỉ trong
25



×