NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
- CNTT
:
Công nghệ thông tin
- CMTS
:
Cách mạng tư sản
- DHLS
:
Dạy học lịch sử
- ĐHQG
:
Đại học quốc gia
- ĐHSP
:
Đại học sư phạm
- GV
:
Giáo viên
- HS
:
Học sinh
- LS
:
Lịch sử
- LSVN
:
Lịch sử Việt Nam
- LSTG
:
Lịch sử thế giới
- LLSX
:
Lực lượng sản xuất
- Nxb
:
Nhà xuất bản
- PPDH
:
Phương pháp dạy học
- QHSX
:
Quan hệ sản xuất
- SGK
:
Sách giáo khoa
- SĐTD
:
Sơ đồ tư duy
- THPT
:
Trung học phổ thông
- TCN
:
Trước công nguyên
- TD
:
Thực dân
- XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xác định được tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục trong thời kì đổi
mới, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “Phát triển giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam
theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc
tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo,
coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả
năng lập nghiệp. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ
giữa nhà trường với gia đình và xã hội”. Quan điểm chỉ đạo trên đây của Đảng
đã đặt ra hệ thống tổng hợp của các nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, trong đó việc
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng năng lực sáng tạo, kỹ năng thực
hành cho HS là một trong những nhiệm vụ quan trọng.
Để nâng cao chất lượng dạy học theo định hướng phát huy năng lực sáng
tạo và khả năng thực hành cho HS hiện nay, vấn đề tạo hứng thú học tập và
năng lực nhận thức tích cực cho HS trong dạy học ln là nhân tố cơ bản và
có ảnh hưởng quyết định tới việc thực hiện mục tiêu nói trên.
Bộ môn LS ở trường phổ thông với đặc trưng riêng của mình có vị trí
quan trọng trong việc bồi dưỡng nhận thức và giáo dục nhân cách cho thế hệ
trẻ. Nội dung học tập nhằm trang bị cho học sinh những tri thức lịch sử cơ bản
hiện đại, những tri thức về quy luật xã hội, những kinh nghiệm và bài học lịch
sử. Trên cơ sở đó dần hình thành cho các em có được hệ thống thế giới quan
duy vật biện chứng khoa học, xây dựng niềm tin vững chắc vào sự phát triển
của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Đồng thời qua dạy
học lịch sử, phải phát triển các năng lực nhận thức, đặc biệt là năng lực tư duy
độc lập và tích cực cho học sinh.
1
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
Tuy nhiên, thực tế nhiều năm trở lại đây, việc dạy học lịch sử ở trường
phổ thơng, bên cạnh mặt tích cực, cịn khơng ít những bất cập. Chúng ta
thường quan tâm đến việc học sinh nhận thức được cái gì? nhận thức được
bao nhiêu? mà ít coi trọng việc học sinh nhận thức như thế nào? Các vấn đề
về kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hành, trong đó có kỹ năng nhận thức tích
cực cho học sinh, ít được quan tâm đầy đủ. Do vậy, việc đổi mới phương
pháp dạy học để phát triển kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh là một
vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông hiện nay.
Nhận thức tích cực là một trong những nội dung cơ bản và chủ yếu của
lý luận dạy học hiện đại. Đó cũng là một trong những khác biệt cơ bản giữa
dạy học theo lối truyền thống và lối dạy học theo phương pháp hiện đại. Theo
đó, tính chủ động và tích cực nhận thức của người học ln chiếm vị trí chủ
đạo và chi phối tồn bộ q trình dạy học. Có thể nói, sự chuyển hướng từ lối
dạy học thụ động “thầy đọc trò chép” sang lối dạy học tích cực “thầy thiết kế,
trị thi cơng” thực sự là một cuộc cách mạng lớn trong dạy học và là xu hướng
chủ đạo trong dạy học hiện nay. Luật Giáo dục 2011 (sửa đổi bổ sung), Điều
28.2, đã ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh” 1
Nhận thức tích cực là u cầu quan trọng, có giá trị quyết định tới chất
lượng dạy học, và theo đó cũng có ảnh hưởng quyết định tới hiệu quả của
hoạt động dạy học. Nhưng nhận thức tích cực khơng phải tự nhiên mà có. Để
có nhận thức tích cực, phải hiểu bản chất của nhận thức tích cực và quan
1
[].
2
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
trọng hơn, phải hình thành được kỹ năng nhận thức tích cực và thường xuyên
rèn luyện kỹ năng ấy trong thực tiễn nhận thức. Khơng quan tâm tới kỹ năng
nhận thức tích cực và thường xuyên rèn luyện kỹ năng ấy, mục tiêu của nhận
thức tích cực, mặc dù rất quan trọng và cần thiết, nhưng mãi sẽ chỉ là khẩu
hiệu xuông mà thôi. Vấn đề này càng trở nên quan trọng hơn trong dạy học
lịch sử hiện nay, khi mà việc học tập lịch sử theo lối nhận thức thụ động, nhồi
nhét, thầy đọc trò chép vẫn đang còn là phổ biến và dẫn đến thực trạng báo
động: học sinh chán sử, thờ ơ với lịch sử, không hứng thú học tập lịch sử.
Xuất phát từ quan điểm trên, chúng tôi chọn vấn đề “Rèn luyện kỹ năng
nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trƣờng trung học
phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn) làm đề tài Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ của mình. Với
bản thân tơi, đây là vấn đề mới và khó, nhưng xác định được ý nghĩa lý luận
và giá trị thực tiễn của vấn đề này, tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu và tin
tưởng, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nhất định vào việc nâng cao
năng lực nghề nghiệp cho bản thân và hy vọng góp một phần nhỏ bé vào
nhiệm vụ nâng cao chất lượng DHLS ở trường THPT hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học
lịch sử nói riêng, trong đó có vấn đề kỹ năng và nhận thức tích cực đã và đang
được các nhà lý luận dạy học, các nhà giáo dục lịch sử trong và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến các cơng trình tiêu biểu sau đây:
2.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi
Từ thời cổ đại, các nhà sư phạm tiền bối đã từng nói đến tầm quan trọng
to lớn cũng như nói đến phương pháp và biện pháp phát huy tính tích cực
nhận thức, chủ động của HS.
Socrat (469 – 339 TCN) nhà triết học, người thầy vĩ đại của Hy Lạp cổ đại
đã từng dạy các trị của mình bằng cách luôn đặt ra các câu hỏi gợi mở nhằm giúp
3
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
người học dần dần phát hiện ra chân lý. Phương châm sống của ơng là: “... sự tự
nhận thức, nhận thức chính mình...” [68; tr.29]
Khổng Tử (551 - 479 TCN) – nhà sư phạm kiệt xuất của giáo dục
phương Đông cổ đại đã rất coi trọng vai trò của giáo dục, đòi hỏi người ta
phải học và tìm tịi, suy nghĩ, đào sâu trong quá trình học.
Montaigne (1533 – 1592) nhà quý tộc người Pháp, chuyên nghiên cứu lý
luận, đặc biệt là về giáo dục, ông đề ra phương pháp giáo dục “học qua
hành”. Ông cho rằng: “Muốn đạt được mục tiêu này, tốt nhất, hiệu quả nhất
là bắt trò liên tục hành để học, học qua hành. Vậy vấn đề không phải là giảng
dạy một cách giáo điều, thầy nói liên tục, thao thao bất tuyệt. Trái lại, chủ yếu
là bắt trò hoạt động, vận dụng khả năng xét đốn của mình...”. Như vậy,
Montaigne đã chú ý đến kỹ năng nhận thức tích cực và đặc biệt nhấn mạnh
đến kỹ năng thực hành.
Tác phẩm “Lí luận dạy học vĩ đại” của J.A Comenxki (1592 – 1670), cha
đẻ của nền giáo dục cận – hiện, đã đưa ra những yêu cầu cải tổ nền giáo dục
theo hướng phát huy sự tích cực, chủ động, sáng tạo nhu cầu người học. Theo
ông, dạy học thế nào để người học thích thú học tập và có những cố gắng bản
thân để nắm lấy tri thức.
Sang những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, J.Dewey với tác phẩm
“The school and Societ”, 1899 (Trường học và xã hội), ông cho rằng: vừa học
vừa làm nghĩa là giáo dục không nên quá coi trọng vào lý thuyết mà phải chú
trọng đến rèn luyện kỹ năng, chú ý đến nhận thức tích cực và kỹ năng thực
hành cho học sinh.
Nửa sau thế kỷ XX, Kixegof X.I với tác phẩm “Hình thành các kỹ năng
và kỹ xảo sư phạm cho sinh viên trong điều kiện của nền giáo dục Đại học”
(Vũ Năng Tính (dịch) – 1977. Tác giả chỉ ra và nhấn mạnh rằng: “việc hình
thành kỹ năng, kỹ xảo khái quát có liên quan đến việc phát triển tư duy và
4
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
việc làm phong phú tầm hiểu biết của người được dạy dỗ. Việc hình thành các
kỹ năng chỉ có kết quả khi con người ý thức được rõ rệt mục đích, nhiệm vụ,
những điều kiện cụ thể, những phương thức thực hiện động tác, cùng những
phương thức kiểm tra của động tác này”[50; tr.13-14].
Ở một khía cạnh khác trong “Lý luận dạy học hiện đại” do trường
ĐHSP Hà Nội và ĐH Potsdam (Cộng hòa Liên bang Đức) phối hợp xuất bản
năm 2009 của GS Bernd Meier và TS Nguyễn Văn Cường đã đưa ra một số
vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học, đề cập đến các thuyết học tập như
thuyết hành vi, thuyết nhận thức và thuyết kiến tạo dựa trên cơ sở tâm lý học.
Tác giả nhấn mạnh “học tập là q trình xử lý thơng tin, trung tâm của q
trình nhận thức là các hoạt động trí tuệ như: xác định, phân tích và hệ thống
hóa các sự kiện và các hiện tượng, nhớ lại những kiến thức đã học, giải quyết
các vấn đề và phát triển, hình thành các ý tưởng mới” [17; tr.39]. Vậy để có
thể xử lý các thông tin thu nhận được HS cần phải có các kỹ năng tương ứng;
ở thuyết nhận thức, các tác giả nhấn mạnh đến kỹ năng nhận thức của học
sinh một cách tích cực.
Đặc biệt, bộ sách đổi mới phương pháp dạy học của Tổ chức ASCD Hoa
Kỳ được Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam mua bản quyền và dịch (2011) đã
mang đến cho các nhà nghiên cứu, nhà quản lý giáo dục và GV có cách tiếp
cận mới mẻ về phương pháp dạy học.
Thomas Armstrong với tác phẩm “Đa trí tuệ trong lớp học” gồm 16
chương, trong đó ơng đã giành hẳn chương 12 để nói về đa trí tuệ và các kỹ
năng nhận thức như: ghi nhớ, kỹ năng giải quyết vấn đề, và đặc biệt nhấn
mạnh đến thang mức độ nhận thức phức tạp của Bloom đó là: biết, hiểu, ứng
dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá...
Robert J.Marzano, Debra J.Pickering và Jane E.Pollock với “Các
phương pháp dạy học hiệu quả” trên cơ sở tổng hợp các cơng trình nghiên
cứu thực tế giảng dạy và tổng hợp lý thuyết đã giúp giáo viên có thể rèn các
5
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
kỹ năng cần thiết cho HS như: kỹ năng nhận ra sự giống và khác nhau, kỹ
năng tóm tắt - ghi ý chính, kỹ năng làm bài tập về nhà, kỹ năng thực hành, kỹ
năng làm việc nhóm... Đồng thời, GV cũng cần ghi nhận và khích lệ các em
trong q trình học tập. Như vậy, đây cũng là một trong những biện pháp góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Trong “Tám đổi mới để trở thành người giáo viên giỏi” của Giselle
O.Martin- Kniep cũng đề cập đến các kỹ năng trên và đưa ra cách chấm điểm
của GV đối với các kỹ năng của HS trong đó coi trọng kỹ năng nhận thức
theo hướng tích cực hóa.
Mặc dù có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau nhưng các tác
giả đều cho rằng để nâng cao chất lượng dạy học ngoài đổi mới về mục tiêu,
nội dung và phương pháp còn phải chú ý đến HS nhất là quan tâm đến việc
HS suy nghĩ như thế nào? Tức HS phải có những kỹ năng cơ bản, trong đó
nhận thức tích cực là một trong những kỹ năng quan trọng.
Ngoài những tài liệu về giáo dục học, phương pháp dạy học, vấn đề kỹ
năng và nhận thức tích cực cịn được thể hiện qua các sách giáo trình về
phương pháp dạy học lịch sử, tiêu biểu nhất là:
N.G Đairi trong “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào” đã nhấn mạnh:
để phát huy tư duy độc lập và nhận thức tích cực của HS cần xây dựng và sử
dụng hệ thống câu hỏi trong quá trình dạy học. Qua việc giải đáp câu hỏi cũng
chính là rèn cho các em những kỹ năng cơ bản của nhận thức. Những lập luận
của Đairi giúp GV lịch sử hiểu rõ cách sử dụng câu hỏi phù hợp với nhận thức
học sinh. Ông chú ý đến dạy học “nêu vấn đề” là cách rèn cho học sinh kỹ
năng nhận thức tích cực một cách tốt nhất.
I.F.Kharlamop trong “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như
thế nào” (1978) , Nxb Giáo dục, Hà Nội. Ngay trong phần lời nói đầu: “Một
trong những vấn đề căn bản mà nhà trường Xô viết hiện đang lo lắng và giải
6
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
quyết là việc phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS trong
quá trình dạy học” [44; tr.5]. Bên cạnh đó, tác giả đã khẳng định: dạy học là
q trình lĩnh hội một cách vững chắc kiến thức của HS, song việc nhận thức
của học sinh không phải do GV hình thành mà là quá trình tự lĩnh hội của các
em “Q trình nắm kiến thức mới khơng thể hình thành bằng cách thuộc lòng
các quy tắc, các kết luận, khái quát hóa nó phải được xác định trên cơ sở của
việc cải tiến công tắc tự lập của HS, của việc phân tích tính logic sâu sắc tài
liệu, sự kiện làm nền tảng cho việc hình thành các khái niệm khoa học”...
“Học sinh chỉ thực sự nắm vững cái mà bản thân giành được bằng lao động
của chính mình [44; tr.17]. Từ đó ơng đề ra những u cầu về quá trình lĩnh
hội kiến thức của HS: “Học tập là một q trình nhận thức tích cực của học
sinh, học sinh muốn nắm kiến thức một cách sâu sắc thì phải thực hiện đầy đủ
một chu trình trí tuệ, bao gồm: những hành động tri giác tài liệu nghiên cứu
(trực tiếp và gián tiếp), thông hiểu (hiểu), ghi nhớ (ghi nhận ban đầu, ghi
nhớ, củng cố thường xuyên và ôn tập tập tiếp theo); luyện tập kỹ năng, kỹ xảo
bằng những bài tập luyện tập và cuối cùng là những hoạt động khái quát hóa
và hệ thống hóa kiến thức nhằm xác lập mối quan hệ trong từng đề tài, giữa
các đề tài và các môn học” [44; tr.29]. Như vậy, thông qua việc thường xuyên
luyện tập, HS sẽ được rèn luyện các kỹ năng nói trên.
Tác giả I.a.Lecne với “Phát triển tư duy của học sinh trong dạy học lịch
sử” đã đưa ra yêu cầu đối với giáo viên trong dạy học lịch sử phải tạo ra “tình
huống có vấn đề nhằm nâng cao kỹ năng nhận thức tích cực để giải quyết tốt các
vấn đề” trong quá trình dạy học. Theo tác giả, thơng qua các biện pháp này sẽ
kích thích năng lực sáng tạo, nhận thức tích cực của học sinh. Do đó, sẽ nâng cao
chất lượng dạy học mơn lịch sử nói riêng và q trình dạy học nói chung.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu trong nước
Về vấn đề kỹ năng nhận thức và nhận thức tích cực, các nhà giáo dục
học, tâm lý học, giáo dục lịch sử Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng
7
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
kể. Ngay từ những năm 60 của thế kỉ XX, dạy học tích cực đã bắt đầu được
đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong giáo trình Giáo dục học, Tâm lí
học, phương pháp giảng dạy bộ mơn. Trong trường THPT đã xuất hiện tư
tưởng “Phương pháp giáo dục tích cực”, khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo”.
Trước hết, là nguồn tài liệu giáo dục học
Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt trong cuốn “Giáo dục học” đã nhấn mạnh
những phẩm chất quan trọng của hoạt động nhận thức tự giác, tính tích cực,
tính độc lập và tác dụng của chúng đối với kết quả học tập của HS. Các tác giả
còn chỉ ra rằng “kiểm tra và đánh giá tri thức, rèn luyện kỹ năng và kỹ xảo của
học sinh là một khâu quan trọng của quá trình dạy học...” [61; tr.258].
Thái Duy Tuyên trong các tác phẩm của mình như: “Những vấn đề cơ
bản của giáo dục hiện đại”, “Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới”,
(2008), đã tập trung nghiên cứu các phương pháp dạy học hiện đại được sử
dụng rộng rãi trên thế giới như dạy học nêu vấn đề, dạy học tương tác, dạy
học theo thuyết kiến tạo... qua đó rèn cho HS kỹ năng nhận thức tích cực để
giải quyết các vấn đề mà nhu cầu nhận thức đặt ra.
Hai là, nguồn tài liệu phương pháp dạy học lịch sử:
Các giáo trình về Phương pháp dạy học lịch sử dùng cho sinh viên
trường Đại học sư phạm, xuất bản vào các năm 1976, 1980; đặc biệt là cuốn
giáo trình xuất bản năm 1992 tái bản vào các năm 1998, 1999, 2000, 2004….
đã giành một chương đề cập đến vấn đề phát triển các năng lực nhận thức và
năng lực hành động của học sinh qua dạy học lịch sử. Trong đó đặc biệt chú ý
tới nhận thức tích cực trong học tập lịch sử cho học sinh, góp phần nâng cao
chất lượng dạy học bộ môn.
Cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử” do Nguyễn
Thị Côi (chủ biên), (2009) đã nêu lên khái niệm kỹ năng, kỹ năng nghiệp
vụ sư phạm, các tố chất của một người có kỹ năng “kỹ năng địi hỏi con
người phải có tri thức về hành động và các kinh nghiệm cần thiết” [13;
8
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
tr.15]. Đây cũng là tác phẩm giúp ích rất nhiều về mặt lý luận cho tác giả
khi làm luận văn.
Tác phẩm “Áp dụng dạy và học tích cực trong mơn lịch sử” – dự án Việt
– Bỉ do Trần Bá Hoành, Vũ Ngọc Anh, Phan Ngọc Liên (biên soạn) đã đề cập
về lý luận cơ bản dạy và học tích cực trong dạy học nói chung và với bộ mơn
Lịch sử nói riêng. Đặc biệt, tác phẩm đã đưa ra 4 phương pháp dạy học tích
cực là: phương pháp dạy – học đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp dạy –
học trực quan, phương pháp dạy – học vấn đáp, phương pháp dạy – học vĩ
mơ. Chính qua các phương pháp trên năng lực nhận thức và kỹ năng nhận
thức, kỹ năng thực hành của HS được tăng lên rõ rệt: “học sinh được đặt vào
tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm
thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm
được kiến thức kỹ năng mới, vừa nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức,
kỹ năng đó và phát huy tiềm năng sáng tạo” [32; tr.15].
Ngồi ra, vấn đề kỹ năng, nhận thức tích cực cịn được bàn đến nhiều
trong các bài viết ở các báo và tạp chí chun ngành như: “Hình thành kỹ
năng cho học sinh trong dạy học lịch sử cấp II” của tác giả Nguyễn Cao Lũy
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 10/1986; Phạm Văn Đồng trong
bài: “Một phương pháp cực kỳ quý báu” đăng trên báo Nhân dân ngày
18/11/1994 viết: PPDH mà các đồng chí nêu ra, nói gọn lại là lấy người học
làm trung tâm. Người ta phải đặt ra những câu hỏi, đưa ra câu chuyện có tính
hấp dẫn, khêu gợi, địi hỏi người nghe, người học, dẫu là người suy nghĩ kém
cỏi cũng phải chịu khó suy nghĩ, tìm tịi... PPDH tích cực này có khả năng
phát triển được những năng lực đang ngủ yên ở mỗi con người...
Tác giả Trần Quốc Tuấn với “Bài tập lịch sử trong việc tích cực hóa
hoạt động nhận thức của học sinh” – Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 2/1998;
tác giả Nguyễn Mạnh Hưởng với bài viết “Một số vấn đề về đổi mới phương
pháp dạy học môn lịch sử ở trường phổ thông hiện nay” đăng trên Tạp chí
9
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
Dạy và học ngày nay – số 5/2012; bài “Đặc trưng của việc rèn luyện kỹ năng
nghiệp vụ sư phạm trong dạy học lịch sử ở trường phổ thơng” đăng trên tạp
chí Giáo dục số 304 (2/2012) ... Đây chính là những gợi mở quan trọng để
chúng tôi thực hiện đề tài này.
Luận án tiến sĩ của tác giả Kiều Thế Hưng “Xây dựng hệ thống thao tác
sư phạm trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông” đã đề cập đầy
đủ về khái niệm thao tác, hệ thống thao tác, kỹ năng, kỹ năng sư phạm, những
yêu cầu và việc phân loại hệ thống thao tác sư phạm... Tác giả chỉ ra rằng:
“hạt nhân của kỹ năng là thao tác, sự thuần thục nhuần nhuyễn của thao tác,
của một hệ thống thao tác nào đó sẽ đạt đến trình độ kỹ năng” [34; tr.29].
Đây cũng là tác phẩm giúp cho tơi rất nhiều về mặt lý luận.
Như vậy, có thể nói vấn đề kỹ năng và nhận thức tích cực đã được bàn
luận khá cơ bản ở cả cơng trình trong và ngồi nước. Nhìn chung, hầu hết các
tác giả đều khẳng định vai trò và ý nghĩa quan trọng của kỹ năng nhận thức
tích cực trong dạy học. Đồng thời các tác giả còn đề xuất một số biện pháp
rèn các kỹ năng trong học tập của HS, góp phần nâng cao chất lượng dạy học
bộ môn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một cơng trình nào trình bày một
cách tập trung, trực tiếp, chuyên biệt, có hệ thống về vấn đề kỹ năng nhận
thức tích cực và các biện pháp rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho HS,
nhất là việc rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực trong DHLS. Khái niệm kỹ
năng nhận thức tích cực cũng chưa được nhắc đến, mặc dù tinh thần của nó có
được đề cập ở những mức độ khác nhau, với tên gọi khác nhau, trong những
hoàn cảnh khác nhau của vấn đề mà tác giả nghiên cứu. Mặc dù vậy, đây là
những tài liệu quý giá, là cơ sở nền tảng để chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên
cứu, tìm ra các biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng nhận thức của HS một cách
tích cực và hiệu quả nhất, góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng DHLS ở
trường THPT hiện nay.
10
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Việc rèn luyện kỹ năng nhận thức
tích cực cho HS trong dạy học lịch sử ở trường THPT và vận dụng vào việc
dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 – chương trình chuẩn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu và đề xuất những biện pháp sư phạm nhằm
rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho HS trong DHLS ở trường THPT và
vận dụng vào quá trình học tập lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 – chương
trình chuẩn.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của kỹ năng nhận thức tích cực
đối với sự phát triển tồn diện của HS, chúng tơi đề xuất một số biện pháp
nhằm rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho HS trong suốt q trình dạy
học lịch sử, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu của bộ
mơn và của chương trình giáo dục.
4.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ cụ thể:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về nhận thức tích cực, kỹ năng nhận thức tích
cực cho HS trong DHLS.
- Tìm hiểu chương trình SGK, nội dung phần lịch sử Việt Nam từ 1945
đến 1954 trường THPT – chương trình chuẩn
- Xác định yêu cầu và nội dung các kỹ năng nhận thức tích cực của học
sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
- Đề xuất các biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho
học sinh trong dạy học lịch sử.
11
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
- Điều tra, đánh giá thực trạng việc rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực
cho HS trong DHLS ở trường THPT.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận của đề tài
Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhận thức, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Giáo dục và Đào tạo; lý luận về tâm lý học, giáo dục học, PPDH
của các nhà giáo dục và giáo dục lịch sử .
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết: tìm hiểu các tác phẩm kinh điển của Mác –
Lênin, của Đảng cộng sản về giáo dục lịch sử, Luật Giáo dục về nhận thức
tích cực, kỹ năng nhận thức tích cực của HS.
- Nghiên cứu nội dung, chương trình SGK lớp 12 và phương pháp rèn
luyện kỹ năng nhận thức tích cực qua dạy học phần lịch sử Việt Nam từ 1945
đến 1954 trường THPT – chương trình chuẩn hiện nay.
- Nghiên cứu thực tiễn: điều tra thực trạng về nhận thức và kỹ năng nhận
thức tích cực cho học sinh của bộ mơn lịch sử ở trường phổ thông bằng các
phiếu điều tra, phỏng vấn, quan sát, dự giờ.
- Thực nghiệm sư phạm: soạn bài, tiến hành thực nghiệm sư phạm ở
trường phổ thông để khẳng định tính khả thi của đề tài.
- Sử dụng tốn học thống kê để xử lí số liệu.
6. Đóng góp của đề tài
- Tiếp tục khẳng định vai trị, ý nghĩa của việc nghiên cứu kỹ năng nhận
thức tích cực cho học sinh trong quá trình DHLS ở trường phổ thông.
- Xác định được nội dung các kỹ năng nhận thức tích cực cho HS.
- Đề xuất được các biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực
cho HS trong DHLS ở trường THPT.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về
12
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
kỹ năng nhận thức tích cực của HS trong dạy học lịch sử.
- Đề xuất được nội dung và biện pháp rèn luyện kỹ năng nhận thức tích
cực cho HS trong DHLS ở trường THPT.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đối với GV: có thể vận dụng các biện pháp sư phạm nhằm rèn luyện kỹ
năng nhận thức tích cực cho HS trong quá trình học tập một cách tồn diện,
nâng cao hiệu quả DHLS ở trường THPT.
- Đối với HS: góp phần tạo hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của
HS, có thêm mục đích phấn đấu trong học tập.
- Đối với bộ mơn Lịch sử: đóng góp một cách nhìn nhận mới về bộ môn
lịch sử trước thực trạng học tập lịch sử hiện nay. Đồng thời đề xuất một số
biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho HS.
8. Giả thuyết khoa học
Trong DHLS ở trường phổ thông, nếu vận dụng các biện pháp sư phạm
nhằm rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực theo những yêu cầu mà đề tài đưa
ra sẽ góp phần nâng cao chất lượng DHLS, giúp HS nhận thức đúng về bộ
mơn, từ đó tạo hứng thú và say mê học tập lịch sử cho các em.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận
văn được cấu tạo thành 3 chương:
Chƣơng 1. Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy
học lịch sử ở trường THPT – Lý luận và thực tiễn
Chƣơng 2. Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy
học lịch sử lịch sử ở trường THPT – yêu cầu và những nội dung cơ bản.
Chƣơng 3. Các biện pháp rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho
học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 – chương
trình chuẩn.
13
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
Chương 1
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NHẬN THỨC TÍCH CỰC
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƢỜNG THPT – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1.1 Nhận thức tích cực và nhận thức tích cực trong dạy học lịch sử
Nhận thức
Theo Từ điển Tiếng việt: Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh
và tái hiện hiện thực vào tư duy, quá trình con người nhận biết và hiểu biết thế
giới khách quan [64; tr.712]
Theo Từ điển Giáo dục học: Nhận thức là quá trình và kết quả phản ánh
tái tạo thực tiễn vào trong tư duy con người. Điểm xuất phát đầu tiên của nhận
thức là cảm giác, cảm giác được lặp lại tạo thành tri giác. Các sự vật, hiện
tượng đã được tri giác trước đó nay dù khơng hiện diện trước mặt nhưng vẫn
có thể hình dung thấy, vẫn được tái hiện dưới dạng biểu tượng. [62; tr.432]
Một cách chung nhất, theo chúng tôi:
Nhận thức là q trình tiếp thu và xử lý thơng tin vào trong tư duy con
người nhằm phản ánh sự vật, sự việc, hiện tượng xung quanh giúp chúng ta
nắm được đặc tính, bản chất của chúng.
Nhận thức tích cực
Theo tâm lí học: tính tích cực của HS có mặt tự phát và mặt tự giác:
Mặt tự phát: là những yếu tố tiềm ẩn, bẩm sinh thể hiện ở tính tị mị,
hiếu kì, hiếu động, linh hoạt và sơi nổi trong hành vi mà trẻ đều có ở những
mức độ khác nhau.
Mặt tự giác: là trạng thái tâm lí có mục đích và đối tượng rõ rệt, do đó có
hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó. Tính tích cực tự giác thể hiện ở óc
quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí tị mị khoa học.
14
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
Nhận thức tích cực còn biểu hiện sự nỗ lực của chủ thể khi tương tác với
đối tượng trong quá trình học tập, nghiên cứu; thể hiện sự nỗ lực của hoạt
động trí tuệ, sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí (như hứng thú,
chú ý, ý chí...) nhằm đạt được mục đích đặt ra với mức độ cao.
Từ những quan điểm trên, theo chúng tơi hiểu:
Nhận thức tích cực là quá trình nhận thức chủ động, tự giác của chủ
thể, nhằm chiếm lĩnh đối tượng nhận thức bằng sự nỗ lực cao của hoạt
động trí tuệ và sự huy động tối ưu các chức năng tâm lý, dựa trên nền tảng
của hứng thú và khát vọng sáng tạo.
Nhận thức tích cực trong dạy học lịch sử
Nhận thức lịch sử, và theo đó là nhận thức tích cực trong DHLS, bên
cạnh những cái chung cịn có những cái riêng.
Tính riêng của nhận thức tích cực trong DHLS được quy định bởi chính
đặc trưng của nhận thức lịch sử và DHLS, với những nội dung cơ bản dưới đây:
Một là, nhận thức lịch sử là nhận thức về các sự kiện đã xảy ra trong quá
khứ mà hiện không tồn tại vẹn nguyên trong thực tiễn. Do đó, nhận thức lịch sử
chủ yếu không phải nhận thức bằng con đường trực tiếp hoặc tiến hành các thí
nghiệm như nhiều môn học khác. Việc tiếp nhận kiến thức quá khứ địi hỏi tính
trừu tượng rất cao và óc tưởng tượng rất phong phú, để dựng lại hình ảnh chân
thật về một sự kiện đã qua, mà sự kiện đó khơng còn tồn tại trong hiện tại.
Hai là, nhận thức lịch sử, xét cho đến cùng là tìm hiểu bản chất của quá
khứ chứ không phải chỉ là nhận thức ở bề ngoài, là kể lại diễn biến sự kiện,
mà là nhận thức bản chất của sự kiện, của quy luật phát triển của xã hội. Bản
chất của sự kiện lịch sử không bao giờ bộc lộ trực diện và trực tiếp ở những
biểu hiện bên ngoài mà giác quan của con người có thể trực tiếp cảm nhận
được. Đây cũng là một trong những đặc điểm chung của quá trình nhận thức
bản chất của mọi sự vật, hiện tượng.
15
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
Trong tính thống nhất và hệ thống của mình, bản chất của quá trình lịch
sử thể hiện ở những khái niệm trừu tượng, thông qua những khái niệm trừu
tượng, từ ở mức độ thấp trong phạm vi bản chất một sự kiện, của một giai
đoạn lịch sử cụ thể, đến bản chất của một thời đại, một thời kỳ lịch sử, cũng
như cả quá trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Ba là, nhận thức bản chất của sự kiện, của quá trình lịch sử - mặc dù rất
quan trọng – nhưng chưa phải là mục tiêu cuối cùng của nhận thức lịch sử nói
chung và hoạt động DHLS nói riêng. Vấn đề ở chỗ, phải khai thác được giá trị
của sự kiện lịch sử cho việc giáo dục thế giới quan và nhân sinh quan của HS,
là vận dụng việc hiểu biết quá khứ vào thực tiễn cuộc sống. Đó là một nguyên
tắc rất cơ bản của hoạt động dạy học [33].
Từ những nội dung trên đây, theo chúng tơi, có thể hiểu khái quát:
Nhận thức tích cực trong học tập lịch sử là quá trình nhận thức chủ
động, tự giác của người học, nhằm chiếm lĩnh tri thức lịch sử bằng sự nỗ lực
cao của hoạt động trí tuệ và tự huy động tối ưu các chức năng tâm lý dựa trên
nền tảng của hứng thú và khát vọng sáng tạo, phù hợp với đặc trưng, bản
chất của tri thức lịch sử và vận dụng sáng tạo tri thức đó vào cuộc sống.
1.1.1.2 Kỹ năng nhận thức tích cực và kỹ năng nhận thức tích cực trong
học tập lịch sử
Để hiểu được thế nào là kỹ năng nhận thức tích cực trong DHLS chúng
ta cần làm rõ khái niệm kỹ năng và kỹ năng nhận thức.
Kỹ năng
Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: kỹ năng là khả năng vận dụng những
kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế [64; tr.520]
Từ điển Tâm lý học: kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri
thức về phương thức hoạt động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những
nhiệm vụ tương ứng [18; tr.421].
16
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu bàn về kỹ năng và những luận điểm
trên, chúng tôi cho rằng:
Kỹ năng là khả năng, là năng lực vận dụng những kiến thức thu nhận
được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế thông qua hệ thống của các hoạt
động hoặc các thao tác, nhằm đạt được hiệu quả tương ứng.
Kỹ năng nhận thức và kỹ năng nhận thức tích cực
Học tập của HS là một quá trình nhận thức, song khác với q trình nhận
thức trong nghiên cứu khoa học. Nó là q trình nhận thức đặc thù, HS khơng
nhằm phát hiện những điều loài người chưaa biết về bản chất, tính quy luật
của các hiện tượng khách quan mà nhằm lĩnh hội những tri thức mà lồi người
đã tích lũy, phù hợp với yêu cầu và trình độ nhận thức của mình. Để làm được
điều đó các em cần phải có các kỹ năng cơ bản của nhận thức để tự mình khám
phá những kiến thức mới đối với bản thân mình, dù đó chỉ là khám lại những
điều lồi người đã biết. Bởi vì, con người chỉ thực sự nắm vững cái mà mình
giành được bằng chính những hoạt động của bản thân. HS sẽ thơng hiểu những
gì trải qua bằng hoạt động nhận thức tích cực và sự cố gắng trí tuệ, cùng với kỹ
năng nhận thức cơ bản nhằm đạt được mục đích đặt ra.
Trên cơ sở nắm rõ những khái niệm khoa học về (kỹ năng, nhận thức) đã
được trình bày ở trên chúng tơi hiểu:
Kỹ năng nhận thức là khả năng tiếp thu và xử lý thông tin về các sự vật,
hiện tượng xung quanh thông qua hệ thống của các thao tác tư duy tương ứng.
Kỹ năng nhận thức tích cực là khả năng tiếp thu và xử lý thông tin về các
sự vật, hiện tượng thông qua hệ thống của các thao tác tư duy tích cực, tự
giác, chủ động nhằm chiếm lĩnh đối tượng nhận thức trên cơ sở của hứng thú
và khát vọng sáng tạo.
Kỹ năng nhận thức tích cực trong học tập lịch sử
Kỹ năng nhận thức tích cực trong học tập lịch sử là sự thể hiện của kỹ
17
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
năng nhận thức tích cực nói chung trong nhận thức LS. Đó là sự thể hiện của
hệ thống các kỹ năng nhận thức nhằm phản ánh trung thực sự kiện LS thông
qua hệ thống các thao tác tư duy nhưng với tính chủ động, tự giác cao.
Có thể thấy, gốc của kỹ năng nhận thức tích cực trong dạy học nói chung
và trong DHLS nói riêng là “tính có vấn đề”. Chính “tính có vấn đề” đó thơi
thúc con người ta phải nhận thức được sự kiện, hiện tượng lịch sử để hiểu bản
chất, từ đó có biểu tượng lịch sử cụ thể, chân thực. Đó cịn là nhu cầu ln
mong muốn tìm kiếm cái mới (thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính). Khi HS có kỹ năng nhận thức tích cực trong
học tập lịch sử thì nhận thức sẽ mang tính khoa học, liên tục và đạt được nhận
thức hoàn chỉnh các sự kiện, để từ đó nêu quy luật (nếu có) và rút ra bài học,
vận dụng sắc bén vào thực tiễn cuộc sống.
Từ cơ sở lý luận trên, chúng tôi hiểu:
“Kỹ năng nhận thức tích cực trong học tập lịch sử là khả năng HS tiếp
thu và xử lý kiến thức lịch sử một cách hứng thú, chủ động và tích cực thông
qua hệ thống của các thao tác tư duy thuần thục nhằm giúp các em có khả
năng vừa nhận thức hiệu quả kiến thức đã học, vừa vận dụng sáng tạo kiến
thức vào cuộc sống”.
1.1.2 Cơ sở xuất phát điểm của vấn đề nghiên cứu
1.1.2.1 Xuất phát từ mục tiêu và đặc trưng của bộ môn lịch sử
Mục tiêu của bộ môn lịch sử
Mục tiêu của bộ môn LS ở trường THPT được xây dựng dựa trên cơ sở
lí luận và thực tiễn. Nó thể hiện thơng qua chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng nội
dung của môn học và tình hình nhiệm vụ của đất nước trong hồn cảnh, điều
kiện lịch sử cụ thể. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh: “dạy sử cũng
như bất cứ cái gì địi hỏi người thầy khêu gợi cái thơng minh chứ khơng phải
bắt buộc các trí nhớ làm việc, bắt nó ghi nhớ rồi tả lại”. Đó chính là nhấn
18
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
mạnh đến mục tiêu giáo dục toàn diện trên cả ba mặt: kiến thức; kỹ năng và
thái độ, tư tưởng, tình cảm.
+ Về kiến thức: HS được cung cấp kiến thức cơ bản về tiến trình LSTG
và LSDT. Qua đó, từng bước trang bị quan điểm về duy vật lịch sử, vai trò
của quần chúng nhân dân trong LS, sự phát triển hợp quy luật của xã hội lồi
người, vai trị, ý nghĩa của lao động sản xuất đối với LS nhân loại, biết được
đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội.
+ Về kỹ năng: HS dần dần được rèn luyện năng lực tư duy và hình thành
các kỹ năng thực hành bộ môn (phát triển tư duy biện chứng trong nhận thức
và hành động: phân tích, đánh giá, so sánh...). Bồi dưỡng kỹ năng học tập và
thực hành bộ môn khi sử dụng SGK, đọc tài liệu tham khảo, khả năng diễn
đạt ngôn ngữ LS,... Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống.
+ Về thái độ: Hình thành và phát triển các phẩm chất đạo đức, tư tưởng
tốt đẹp, giáo dục cho HS các phẩm chất cần thiết trong cuộc sống, góp phần
đào tạo con người Việt Nam tồn diện.
Các nhiệm vụ trên được hình thành và củng cố góp phần tạo ra vốn năng
lực chủ yếu nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục và phát triển con người trong
thời đại mới.
Đặc trưng của bộ môn LS ở trường phổ thông.
Việc nắm vững các đặc trưng của môn LS ở trường phổ thông cũng là
căn cứ để đề xuất các biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực
cho HS. Những đặc trưng của bộ mơn LS là:
Một là, LS mang tính q khứ. Nói đến LS là nói đến những gì đã qua
trong quá khứ (các sự kiện, hiện tượng, biến cố lịch sử), chỉ xảy ra một lần
duy nhất và không bao giờ lặp lại. Chúng ta không thể trực tiếp quan sát và
cũng không thể khôi phục lại được diễn biến của nó trong phịng thí nghiệm
mà phải tiếp nhận lịch sử một cách gián tiếp thông qua các tài liệu được lưu
giữ lại.
19
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
Hai là, LS mang tính khơng lặp lại về khơng gian và thời gian. Mỗi sự
kiện, hiện tượng LS chỉ xảy ra trong một thời gian, không gian xác định và
chỉ xảy ra một lần duy nhất, nếu lặp lại chỉ là sự kế thừa “lặp lại trên cơ sở
không lặp lại”.
Ba là, LS mang tính cụ thể. Mỗi sự kiện LS bao giờ cũng diễn ra trong
một hoàn cảnh cụ thể về khơng gian, thời gian nhất định, nên khi trình bày
chúng ta rất cần phải cụ thể, sinh động. Vì thế, khi DHLS, GV phải giúp HS
hiểu được các yếu tố đó đã chi phối, ảnh hưởng như thế nào đối với các sự
kiện liên quan đã xảy ra.
Bốn là, khoa học LS mang tính hệ thống. Sự vận động của hiện thực LS
ln là q trình phát triển hợp quy luật. Do vậy, khi DHLS giáo viên phải
chú ý đến mối liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng, các vấn đề LS để cung cấp
cho HS những tri thức LS mang tính hệ thống và hồn chỉnh, đảm bảo sự
thống nhất giữa “sử” và “luận”.
Như vậy, để nhận thức lịch sử HS phải có biểu tượng chân thực, cụ thể,
sinh động về các sự kiện, hiện tượng LS. Muốn vậy, ngoài SGK, GV phải sưu
tầm nhiều loại tài liệu tham khảo kết hợp với các PPDH khác để khôi phục lại
quá khứ LS sinh động, hấp dẫn, kích thích hứng thú học tập của HS – đó là
điều cần thiết để rèn luyện các kỹ năng nhận thức tích cực cho các em.
1.1.2.2 Xuất phát từ yêu cầu đổi mới hoạt động DHLS hiện nay
Khi con người xuất hiện và xã hội lồi người hình thành – giáo dục LS
cũng bắt đầu. Việc cung cấp cho mọi người, đặc biệt là cho thế hệ trẻ những
hiểu biết về gốc tích tổ tiên, quê hương rồi dần nhận thức về đất nước, về
những nhân vật với các sự kiện vẻ vang của nhân dân trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc là điều cần thiết. Như vậy, ngay từ đầu, những nội dung lịch sử đó
tự nó đã có ý nghĩa giáo dục lớn lao. Học LS con người biết nhận thức và hiểu
được giá trị của các sự kiện, hiện tượng LS có thật trong quá khứ, từ đó giáo
dục lòng yêu quê hương, đất nước, đồng thời xác định trách nhiệm của mình
20
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
đối với hiện tại và tương lai. Đặc biệt trong thời kì hiện nay, nếu không giáo
dục thế hệ trẻ hiểu rõ LS, có ý thức tự tơn thì nguy cơ “hịa nhập” cùng với
“hịa tan” là điều khó tránh khỏi. Bởi vậy, việc giáo dục LS cho mỗi công dân
ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường lại càng trở nên cần thiết.
Nhưng thực tế, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan mà bộ
môn LS vẫn chưa được đặt đúng vị trí của mình. Kết quả của nhiều kì thi tốt
nghiệp và tuyển sinh Đại học, Cao đẳng những năm gần đây đã phản ánh
phần nào thực trạng đáng buồn của việc dạy – học LS hiện nay.
Theo số liệu thống kê của Bộ GDĐT, trong mùa tuyển sinh ĐH, CĐ năm
2013, thí sinh thi vào khối C giảm mạnh, từ 4% trên tổng số hồ sơ của các
khối năm 2012 xuống còn 2,6% năm 2013. Cụ thể: năm 2013, hồ sơ tuyển
sinh khối C ở TPHCM chỉ có 2.639/148.290 số hồ sơ dự thi; Đồng Tháp
có 778/21.902 tổng số hồ sơ; ĐH Sư phạm Hà Nội năm 2013 chỉ có 3.306 bộ,
giảm so với năm 2012 là 4.042 bộ 3. Đặc biệt vào tháng 4/2014 học sinh khối
12 của trường THPT Nguyễn Hiền (TP.HCM) xé đề cương ôn luyện môn
Lịch sử khi biết môn này không thi tốt nghiệp và trường Lương Thế Vinh (Hà
Nội): 0% học sinh chọn mơn Sử thi tốt nghiệp. Đó là thực trạng đáng buồn,
tiếng chuông báo động đối với giáo dục Việt Nam nói chung và với bản thân
mỗi GV dạy học lịch sử nói riêng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên. Từ việc nhận thức chưa
đúng về vai trò, chức năng của bộ môn LS trong hệ thống các môn học ở
trường phổ thơng; từ chương trình và SGK; từ đặc trưng riêng của bộ môn LS
mà lâu nay phương pháp dạy học vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
riêng khi giảng dạy; một bộ phận đội ngũ GV chưa tâm huyết với nghề... Đó
là những tác nhân dẫn tới thực trạng đáng báo động nêu trên, kết quả thấp là
điều khó tránh khỏi.
3
21
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
Rõ ràng, đó là bức tranh không hề tươi sáng của việc dạy và học lịch sử
hiện nay, một sự thực buộc chúng ta phải đối mặt để cùng tìm giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học lịch sử hiện nay.
Nằm trong xu thế chung của toàn ngành giáo dục, muốn nâng cao chất
lượng giáo dục lịch sử, chúng ta cần thực hiện đổi mới ở tất cả các khâu của
QTDH từ mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, việc kiểm tra, đánh giá
HS. Điều đó khơng đơn giản, nhưng cùng trong q trình đó, nếu GV tạo
được hứng thú học tập, rèn các kỹ năng nhận thức tích cực thì những vấn đề
khác theo đó cũng được giải quyết một cách mau lẹ và nhẹ nhàng hơn. Chất
lượng giáo dục bộ môn tất yếu được nâng lên.
1.1.2.3 Xuất phát từ đặc điểm nhận thức và tâm lý của HS THPT
Theo sự phân chia của tâm lý học lứa tuổi thì HS THPT là vào độ tuổi
thanh niên (từ 16 đến 18 tuổi). Đây là lứa tuổi có sự chuyển biến mạnh về tâm
sinh lý so với bậc THCS. Với lứa tuổi này, trình độ nhận thức của các em đã
phát triển ở mức độ nhất định, có ý thức cao và hứng thú đối với các môn học.
Khi thế giới quan, hệ thống tri thức đang dần hình thành, năng lực trí tuệ phát
triển, các em đồng thời có khả năng phê phán những vấn đề lý luận và thực tiễn,
khả năng đi sâu hiểu bản chất cũng như mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên và trong xã hội. Quá trình nhận thức của HS cũng tuân theo con
đường nhận thức mà Lênin đã nêu “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng
và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Nhưng nhận thức của HS cũng mang đặc
thù riêng là “một sự nhận thức được làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới
sự chỉ đạo của GV” [63; tr.12].
HS THPT nói chung, HS lớp 12 nói riêng hồn tồn có khả năng đạt tới
trình độ tư duy lý luận ở lứa tuổi của mình như: khả năng suy nghĩ độc lập,
năng lực trừu tượng hóa và khái qt hóa,... Chính vì vậy mà GV cần nghiên
cứu sử dụng những biện pháp dạy học tích cực để làm sao phát huy được hết
22
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
những yếu tố đó, hướng dẫn các em tự giác học tập. Đó là việc GV khơi gợi
được hứng thú học tập, từ đó HS sẽ chủ động lĩnh hội kiến thức.
Hiểu được trình độ tư duy và đặc điểm tâm lý lứa tuổi với những nét đặc
thù sẽ là điều kiện quan trọng để GV có những phương pháp thích hợp giúp nâng
cao hiệu quả bài học LS. Trong đó, việc rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực
phù với khả năng nhận thức và tâm lí của HS sẽ gây được chú ý, sự thích thú ban
đầu tạo động lực cho các em nỗ lực làm việc trong suốt quá trình học tập LS.
1.1.3 Vai trò, ý nghĩa của việc rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực
cho học sinh trong DHLS ở trường THPT
Mỗi con người đều có một sở trường nào đó, có thể nó đang “ngủ yên”
chưa được phát huy, chưa được rèn luyện. Việc hình thành và thường xuyên
rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho HS sẽ “khêu gợi, kích thích, địi hỏi
con người phải suy nghĩ, tìm tịi và phát huy đến mức cao nhất, moi móc
trong con người cái gì có thể giải quyết vấn đề đặt ra” [26; tr.5]. Vì vậy,
chúng tơi khẳng định việc rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực có vai trị và
ý nghĩa to lớn.
1.1.3.1 Vai trị
Thứ nhất, đối với GV: kiến thức của bộ môn LS ở trường phổ thông mà
GV phải dạy, HS phải học rất phong phú và đa dạng. Để giúp HS lĩnh hội tốt
những kiến thức cơ bản, có những kỹ năng cần thiết để giải quyết bài tập
đồng thời mở rộng hiểu biết của các em, GV phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa nội dung bài học và phương pháp thực hiện. Vì vậy, thơng qua việc rèn
luyện kỹ năng nhận thức tích cực giúp cho GV khơng ngừng nâng cao trình
độ lý luận dạy học bộ mơn, từ đó góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
Thứ hai, đối với HS: với việc nhận thức tích cực, HS vừa được rèn luyện kỹ
năng học tập bộ mơn như: tính kiên trì, nhẫn nại khi tìm hiểu vấn đề, chăm chỉ
chịu khó trong học tập... vừa góp phần bồi bổ và phong phú thêm vốn hiểu biết
cũng như kiến thức đối với các mơn học khác có liên quan (Địa Lý, Triết học...)
23
Đề tài: Rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực cho học sinh trong dạy học lịch sử ở
trƣờng trung học phổ thông (vận dụng qua phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 –
chƣơng trình chuẩn)
1.1.3.2 Ý nghĩa
Kỹ năng là một trong những vấn đề quan trọng trong việc giáo dục toàn
diện cho học sinh trong dạy học ở trường THPT hiện nay. Việc công bố chuẩn
đầu ra đối với học sinh tốt nghiệp đòi hỏi mỗi trường học không chỉ trang bị
những kiến thức chuyên môn nền tảng cho học sinh mà còn phải trang bị
nhiều kỹ năng khác cho học sinh, đặc biệt là kỹ năng nhận thức tích cực để
học sinh có thể nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống định hướng nghề nghiệp
trong tương lai. Vì vậy, chúng tơi khẳng định việc rèn luyện KNNT tích cực
có ý nghĩa trên cả ba mặt:
- Về kiến thức
Việc rèn luyện KNNT có vai trị quan trọng cho cả hai giai đoạn của quá
trình nhận thức. Về điều này, các nhà lý luận dạy học đã nhấn mạnh nguyên lí
quan trọng nhất của I.P.Paplop về sự tác động qua lại của hệ thống tín hiệu
thứ nhất và thứ hai. Chức năng của hệ thống tín hiệu thứ nhất là sự phản ánh
cảm tính thế giới bên ngồi dưới dạng cảm giác, tri giác và biểu tượng. Chức
năng của hệ thống tín hiệu thứ hai là phân tích và tổng hợp hiện thực, sự phản
ánh đó được thể hiện dưới dạng khái niệm, khái quá hóa, diễn tả thành lời. Hệ
thống tín hiệu thứ hai có ý nghĩa lớn lao trong hoạt động nhận thức nhưng
I.P.Paplop cũng nhấn mạnh rằng hệ thống tín hiệu thứ hai có ý nghĩa là nhờ
thơng qua hệ thống tín hiệu thứ nhất và trong mối liên hệ với nó, rằng “Nếu
anh bị tách rời ra khỏi hệ thống tín hiệu thứ nhất thì anh sẽ thành chàng nói
sng, ba hoa và anh sẽ chẳng tìm thấy chỗ đứng cho mình trong cuộc sống”
[1; tr.138].
Như vậy, trước hết rèn luyện kỹ năng nhận thức tích cực có ý nghĩa quan
trọng trong việc hình thành kiến thức LS cho HS
Chất lượng DHLS ở trường phổ thơng qua việc rèn kỹ năng nhận thức
tích cực cho HS phải được kiểm chứng thông qua kết quả HS nắm vững kiến
24