bộ giáo dục và đào tạo
tr-ờng đại học s- phạm hà nội
-----------
PHM TH THY LIấN
PHƯƠNG THứC Kể CHUYệN
TRONG TáC PHẩM CủA NGUYễN NHậT áNH
(QUA MộT Số TáC PHẩM TIÊU BIểU)
Chuyờn ngnh: Ngụn ng hc
Mó s
: 62.22.02.40
Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyn Th Thu Thy
Hà Nội - 2014
BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT
ĐN
: Điểm nhìn
NKC
: Người kể chuyện
NTĐH
: Người tiêu điểm hóa
N.ĐTĐH
: Nhân tố được tiêu điểm hóa
PTKC
: Phương thức kể chuyện
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 7
6. Dự kiến đóng góp của luận văn .................................................................. 8
7. Cấu trúc luận văn........................................................................................ 8
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ....................................................................... 9
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học................................................................................. 9
1.1.1. Điểm nhìn ............................................................................................. 9
1.1.2. Ngôn ngữ kể chuyện ........................................................................... 13
1.1.3. Hành động ngôn ngữ của người kể chuyện ......................................... 18
1.1.4. Phương thức kể chuyện ...................................................................... 21
1.1.5. Giọng kể (giọng điệu) ......................................................................... 22
1.2. Cơ sở văn học ........................................................................................ 23
1.2.1. Đặc điểm của tiểu thuyết .................................................................... 23
1.2.2. Quan điểm, phong cách nghệ thuật Nguyễn Nhật Ánh........................ 25
Tiểu kết ....................................................................................................... 30
Chƣơng 2:ĐẶC ĐIỂM PHƢƠNG THỨC KỂ CHUYỆNTRONG TÁC
PHẨM CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH ........................................................ 31
2.1. Đặc điểm người kể chuyện .................................................................... 31
2.1.1. NKC là nhân vật - NTĐH ................................................................... 31
2.1.2. NKC là người phát ngôn cho nhân vật - NTĐH .................................. 35
2.2. Điểm nhìn của người kể chuyện trong truyện ........................................ 39
2.2.1. ĐN không gian và thời gian ................................................................ 39
2.2.2. ĐN quyền lực, thân hữu...................................................................... 43
2.2.3. NKC mượnĐN nhân vật ..................................................................... 44
2.3. Nhân tố được tiêu điểm hóa ................................................................... 48
2.3.1. N.ĐTĐH là nhân vật được NTĐH quan sát, cảm nhận ....................... 48
2.3.2. N.ĐTĐH là NKC - NTĐH - tự quan sát, cảm nhận về mình ............... 54
Tiểu kết ....................................................................................................... 60
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TÁC
PHẨM CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH ........................................................ 61
3.1. Đặc điểm lời người kể chuyện ............................................................... 61
3.1.1. Lời kể ................................................................................................. 61
3.1.2. Lời tả .................................................................................................. 67
3.1.3. Lời trữ tình (Lời bình luận trực tiếp)................................................... 71
3.2. Đặc điểm lời nhân vật ............................................................................ 73
3.3. Đặc điểm giọng điệu.............................................................................. 75
3.3.1. Giọng hài hước - tinh nghịch .............................................................. 76
3.3.2. Giọng hồn nhiên - ngộ nghĩnh ............................................................ 79
3.3.3. Giọng triết lí - chiêm nghiệm .............................................................. 81
Tiểu kết ....................................................................................................... 84
KẾT LUẬN ................................................................................................. 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 87
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Phương thức kể chuyện (PTKC) là một trong những vấn đề trung
tâm của lí thuyết tự sự học. Khi tạo một văn bản tự sự, PTKC là yếu tố quan
trọng hàng đầu. PTKC không chỉ liên quan đến người kể chuyện, điểm nhìn,
giọng điệu, đến việc tổ chức lời nói, tổ chức hình tượng, các tầng nghĩa của
truyện kể mà còn chi phối mạnh mẽ mạch vận động của tác phẩm. Tìm hiểu
tác phẩm từ góc độ PTKC sẽ giúpkhám phá hình thức tổ chức sinh động, phức
tạp của thế giới nghệ thuật và tiếp cận phong cách tác giả.
1.2. Nguyễn Nhật Ánh xuất hiện trên văn đàn như một “hiện tượng tác
giả” ăn khách nhất Việt Nam, với nỗ lực cách tân không ngừng về mặt tư duy
cũng như nghệ thuật, những trang văn của ông thực sự hấp dẫn các độc giả
không chỉ là trẻ em mà cả với những ai “từng là trẻ em”. Truyện Nguyễn Nhật
Ánh đi sâu khai thác những đề tài giản dị về cuộc sống, số lượng nhân vật
không nhiều nhưng với cách kể chuyện độc đáo, ông đã tạo được sức hút
riêng cho sáng tác của mình. Đọc tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, trẻ em
thấy yêu cuộc sống tươi đẹp, nhân ái và tràn ngập hi vọng vào tương lai;
người lớn thấy nuối tiếc những tháng ngày thơ ấu hồn nhiên, trong trẻo đã qua
và muốn lên tàu cùng nhà văn trở về sân ga tuổi nhỏ. Trong thời đại công
nghệ thông tin, kĩ thuật số... tâm hồn con người ngày càng xơ cứng trước cuộc
sống nhân sinh, điều mà tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh mang lại
thật đáng nâng niu và trân trọng.
1.3. Từ khi đất nước đổi mới, văn hóa đọc của trẻ em đã đón nhận một
phát minh thời đại đó làtruyện tranh hiện đại được du nhập từ nước ngoài.
Nhiều bộ truyện tranh có ích đã trở thành người bạn thân thiết của trẻ em Việt
Nam: Đôrêmon, Thám tử lừng danh Conan, Thủy thủ mặt trăng... Đây là
thành công lớn của ngành xuất bản, nhưng cũng lại là thách thức lớn đối với
1
nhà văn (đặc biệt là nhà văn viết về đề tài thiếu nhi) và suy rộng ra là thách
thức đối với một nền văn học.
Nhà xuất bản Kim Đồng đã cố duy trì sức sáng tác của văn học thiếu
nhi trong nước với những Tủ sách vàng, Tủ sách thơ với tuổi thơ... Sự cố
gắng duy trì tình yêu văn học bằng cách tái bản liên tục các tác phẩm cổ điển
đã phần nào lưu giữ được những giá trị thẩm mỹ có ý nghĩa bồi dưỡng nhân
cách cho bạn đọc trẻ.Nhưng mặt trái của việc làm ấy là tạo ra sức ì trong sáng
tạo các tác phẩm mới. Đó cũng là một trong nhiều yếu tố khiến cho hàng loạt
các cây bút viết cho thiếu nhi xuất hiện vào cuối thập kỷ 80 đã không còn đi
tiếp con đường sáng tạo khó khăn này. Thực tế là sách thiếu nhi Việt Nam lép
vế so với sách thiếu nhi dịch từ tiếng nước ngoài. Nguyên nhân do tư duy
sáng tác của nhà văn quá cũ, cần phải đổi mới toàn diện.Lựa chọn đề tài này
cũng là một dịp để chúng ta ghi nhận sự nỗ lực của các cây bút đương đại
trong việc đổi mới tư duy, cách viết đem lại một diện mạo mới cho văn học
đương đại nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Phương thức kể chuyện trong
tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh (Qua một số tác phẩm tiêu biểu) để làm rõ
hơn đặc điểm về phương thức kể chuyện của nhà vănvànhững đóng góp của
ông cho văn học thiếu nhi đương đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về phƣơng thức kể chuyện
Hơn nửa thế kỉ qua, việc tìm hiểu PTKC đặc biệt là vấn đề phân loại
các PTKC được các nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm và luận bàn.
Chẳng hạn Pospelov (1960) trong Dẫn luận nghiên cứu văn học [15] đã đưa
ra ý kiến sâu sắc về sự tác động của người kể chuyện đến PTKC và khẳng
định có hai kiểu truyện kể là truyện kể theo ngôi thứ nhất và truyện kể theo
ngôi thứ ba.
2
Các tác giả S.Barnet, M.Berman, W.Burto trong công trìnhAn
introduction to literature đưa ra bảng phân loại với 5 quan điểm tự sự, tương
ứng với 5 phương thức kể: quan điểm tham dự (người kể là nhân vật ở ngôi
thứ nhất); quan điểm không tham dự (người kể hàm ẩn); thông suốt tất cả
(người kể biết tất cả hành động và đời sống nội tâm nhân vật); thông suốt tất
cả có lựa chọn (người kể biết hết tất cả đối với một vài nhân vật); quan điểm
khách quan (người kể chỉ là người quan sát, ghi chép, không đánh giá). Cách
phân chia PTKC này khá tỉ mỉ nhưng lại chưa có tiêu chí phân loại, các kiểu
loại xét về mặt cấp độ cũng chưa hợp lí [36; 42].
N.Friedman trong công trình Điểm nhìn tiểu thuyết đã đưa ra một bảng
phân loại các kiểu kể chuyện tương đối phức tạp với các tên gọi: kể chuyện
toàn tri; kể ngôi thứ nhất; kể toàn tri có lựa chọn; kể thuần túy khách quan. Có
thể thấy danh sách phân loại này khá phức tạp và còn có sự trùng lặp giữa các
kiểu [36; 43].
Khác với những cách phân chia này, G.Genette trong công trình Figure
III (1972) đã căn cứ vào một tiêu chí duy nhất là điểm nhìn để phân loại
PTKC một cách hợp lí hơn cả. Theo tác giả, có 3 PTKC sau đây: truyện
không mang tiêu điểm hóa; truyện kể theo tiêu điểm hóa bên trong; truyện kể
theo tiêu điểm hóa bên ngoài [36; 46].
Có thể nói, những công trìnhtrên đâyđã mang đến cái nhìn đa chiều về
PTKC, về vai trò, vị trí quan trọng của người kể chuyện và điểm nhìn trong
việc phân loại PTKC, tạo nền tảng lí luận khi tìm hiểu phạm trù này.
Các nhà nghiên cứu trong nước cũng dành nhiều sự quan tâm cho vấn
đề PTKC và các hình thức biểu hiện của nó. Trần Đình Sử trong giáo trình Lí
luận văn học (1987) và Từ điển thuật ngữ văn học (1992) đã đưa ra khái
niệm, chức năng, cách nhận diện người kể chuyện. Phùng Văn Tửu trong
chuyên luận Tiểu thuyết Pháp hiện đại, tìm tòi, đổi mới (1990) cũng đề cập
3
đến tiêu chí điểm nhìn để nhận diện các cách kể. Cuốn Tự sự học, một số vấn
đề lí luận và lịch sử do Trần Đình Sử chủ biên (2004) đã tập hợp nhiều bài
viết của các nhà nghiên cứu về tự sự học, từ những vấn đề mang tính khái
quát như: Về trần thuật sử dụng ngôi thứ nhất của văn học phương Tây thế kỉ
XVIII (Lê Nguyên Cẩn), Vài khía cạnh về kĩ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết
Tây Âu thế kỉ XX (Đặng Thị Hạnh), Trần thuật trong truyện ngắn (Phùng
Ngọc Kiếm), Vấn đề người kể chuyện trong truyện ngắn đương đại (Bùi Việt
Thắng), Vấn đề phân loại góc nhìn trần thuật (Phương Lựu), Người kể chuyện
- nhân vật mang tính chức năng trong truyện ngắn tự sự (Nguyễn Thị Hải
Phương), Về khái niệm người kể chuyện ở ngôi thứ ba (Nguyễn Thị Thu
Thủy)… đến những vấn đề mang tính cụ thể hơn như Phương thức tự sự chủ
yếu của sử thi Đam San(Đỗ Hồng Kỳ), Mô hình tự sự Truyện Kiều (Trần
Đình Sử), Hình tượng người trần thuật trong truyện ngắn Người tình (Trần
Huyền Sâm), Nghệ thuật tự sự của Ngô Tất Tố (Trần Đăng Xuyền).
Nhiều luận văn thạc sĩ cũng đề cập đến cách thức kể trong những tác
phẩm cụ thể như: Giọng điệu ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác trước cách
mạng Tháng tám của Nam Cao (1999) của Lê Hải Anh; Đặc sắc của tự
truyện viết cho thiếu nhi (2003) của Lý Kim Oanh; Điểm nhìn trong tiểu
thuyết của Hồ Anh Thái (2009) của Hoàng Thu Thủy; Người kể chuyện trong
văn học mới 2000 - 2010 (2011) của Bùi Thị Hải Vân… Bên cạnh đó, một số
luận án tiến sĩ cũng đề cập đến vấn đề PTKC, ngôn ngữ, điểm nhìn trong
truyện ngắn từ sau 1975 như: Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt
Nam sau 1975 (Điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện) (2003) của tác giả
Nguyễn Thị Thu Thủy; Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau
1975 (Trên tư liệu truyện ngắn của ba nhà văn nữ) (2012) của tác giả Hoàng
Dĩ Đình… Ngoài ra còn một số bài báo, báo cáo khoa học đề cập đến vấn
đề này, chẳng hạn: Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam đương
4
đại (Thái Phan Vàng Anh), Người kể chuyện và mối quan hệ giữa người kể
chuyện và tác giả (Cao Thị Kim Lan), Những yếu tố tuyến tính hóa đặc
trưng nhân vật người kể, điểm nhìn, và giọng điệu của diễn ngôn truyện kể
(Nguyễn Thị Ngân Hoa)… Những công trình nghiên cứu về ngôn ngữ kể
chuyện, điểm nhìn cũng như cách thức kể trên đây đã định hướng cho
chúng tôi khi tìm hiểu về PTKC.
2.2. Một số nghiên về tác giả Nguyễn Nhật Ánh
Nguyễn Nhật Ánh xuất hiện trên văn đàn từ những năm 70 của thế kỉ
XX với tư cách là một nhà văn của thiếu nhi. Tên tuổi ông gắn liền với tuổi
thơ - đối tượng mà ông đã dành tâm huyết trong cuộc đời cầm bút của mình.
Một thế giới đầy ắp tiếng cười và tình yêu thương tỏa ra từ các tác phẩm của
nhà văn đã sưởi ấm tâm hồn độc giả nhiều lứa tuổi.
Nguyễn Nhật Ánh tạo nên sức hút lớn đối với các độc giả, có rất nhiều
bài giới thiệu, bình luận, nhận xét, đánh giá về ông, về các sáng tác của ông
trên các báo, tạp chí, mạng xã hội, trang thông tin điện tử.Chẳng hạn như bài
viết: Nhà văn thời vi tính (Ngô Thị Kim Cúc) trên báo Thanh niên, số Xuân
2000;Nước mắt hồi sinh thế giới (Lưu Khánh Thơ), báo Thanh niên, số ra
ngày 07/07/2013… Tuy nhiên đây chỉ là những bài viết mang tính chất giới
thiệu về tác giả, tác phẩm.
Trong những năm gần đây, đã có một số luận văn nghiên cứu về
Nguyễn Nhật Ánh và tác phẩm của ông vớinhữngmức độ khác nhau, nhưng
hầu hết đều thuộc chuyên ngành lí luận văn học. Công trìnhThế giới trẻ thơ
qua cách nhìn của Nguyễn Nhật Ánh trong bộ truyện Kính vạn hoa (2005) của
tác giả Phạm Thị Bền là luận văn thạc sĩ đầu tiên đi sâu nghiên cứu về tác
phẩm của Nguyễn Nhật Ánh. Tác giả đã tập trung khai thác bộ truyện trên hai
phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm được coi là “hiện tượng”
của văn học thiếu nhi thời kì đổi mới. Tác giả Vũ Thị Hương với đề tài Thế
5
giới nghệ thuật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh (2009) đã mở rộng đối tượng
nghiên cứu thêm hai tác phẩm là Chuyện xứ Lang Biang,Cho tôi xin một vé đi
tuổi thơ và đã có những đóng góp cụ thể khi nghiên cứu vềcáchxây dựng hình
tượng nhân vật, nghệ thuật tổ chức cốt truyện, ngôn ngữ trẻ thơ, vấn đề thời
gian, không gian nghệ thuật.Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu khác
nữa như luận văn thạc sĩ Yếu tố huyền thoại trong truyện Nguyễn Nhật Ánh
(2011) của Lê Thị Diệu Phương, khóa luận tốt nghiệp Các nhóm nhân vật
chính trong sáng tác viết cho thiếu nhi của Nguyễn Nhật Ánh (2010) của Đàm
Thị Thu…
Nhìn chung, những công trình ngôn ngữ và văn học đề cập đến PTKC
nói chung và PTKC trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh nói riêng không
nhiều. Đáng kể là luận án tiến sĩ:Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt
Nam sau 1975 (Điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện) (2003) của tác giả
Nguyễn Thị Thu Thủy. Trong luận án này, người viết đã xây dựng một cơ
sở lí thuyết về ĐN của ngôn ngữ và văn học, vận dụng cơ sở lí thuyết đó để
xác định, phân loại và miêu tả ĐN ở truyện ngắn Việt Nam sau 1975, đồng
thời chỉ ra sự chi phối của ĐN tới các phương diện: phương thức kể và
thoại dẫn trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 và xem xét những ảnh
hưởng của ĐN với ngôn ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ; luận văn thạc sĩ:
Đặc điểm nhân vật người kể chuyện trong “Tôi là Bêtô” của Nguyễn Nhật
Ánh (2013), tác giả Vũ Thị Hương Giang đã khai thác nhân vật người kể
truyện trong Tôi là Bêtô một cách độc lập với vai trò là một kiểu nhân vật
giao tiếp.
Việc điểm qua lịch sử nghiên cứu vấn đề PTKC và tình hình nghiên
cứu các sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh cho thấy, đến nay, chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách hệ thống về PTKC trong tác phẩm của Nguyễn Nhật
Ánh dưới ánh sáng của lí thuyết điểm nhìn.
6
3. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài Phương thức kể chuyện trong tác phẩm của Nguyễn Nhật
Ánh (Qua một số tác phẩm tiêu biểu), người viết hướng tới mục đích: vận
dụng những quan điểm nghiên cứu liên ngành: ngôn ngữ học, thi pháp học,
văn học để tìm hiểu đặc điểm PTKC và sự chi phối của PTKC đối với đặc
điểm sử dụng ngôn từ, giọng điệu trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung làm rõ đặc điểm của PTKC
trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh qua các nội dung: ĐN, NKC, NTĐH,
N.ĐTĐH.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu một số tác phẩm tiêu
biểu của Nguyễn Nhật Ánh: Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Tôi là Bêtô, Đảo
mộng mơ, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Bóng bóng lên trời, Có hai con
mèo ngồi bên cửa sổ, Lá nằm trong lá.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
5.1. Phƣơng pháp khảo sát, thống kê, phân loại
Trên cơ sở lí thuyết, chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê, phân loại
các kiểu người kể chuyện, điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu trong tác phẩm
của Nguyễn Nhật Ánh để thấy được đặc điểm PTKC và giúp cho sự phân tích,
đánh giá có căn cứ xác thực.
5.2. Phƣơng pháp miêu tả ngôn ngữ
Căn cứ vào kết quả thống kê, chúng tôi tiến hành miêu tả các đặc điểm
sử dụng ngôn ngữ trong tác phẩm.
5.3. Phƣơng pháp so sánh liên văn bản
7
Tiến hành so sánh các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh với nhau và với
tác phẩm của những tác giả khác để thấy được nét độc đáo trong PTKC của
Nguyễn Nhật Ánh và phong cách của nhà văn.
5.4. Phƣơng pháp phân tích diễn ngôn
Trên cơ sở khảo sát diễn ngôn truyện Nguyễn Nhật Ánh, chúng tôi tiến
hành phân tích về ngữ nghĩa và ngữ dụng của diễn ngôn, đồng thời tiến hành
phân tích diễn ngôn theo nhiều đường hướng khác nhau như đường hướng
phân tích ngữ nghĩa học, ngữ dụng học…
6. Đóng góp của luận văn
- Cung cấp một cái nhìn hệ thống về PTKC từ những khía cạnh như:
người kể chuyện, điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu đồng thời góp phần làm
sáng tỏ những ứng dụng của lí thuyết điểm nhìn đối với tác phẩm của Nguyễn
Nhật Ánh.
- Là cơ sở để nhìn nhận, đánh giá phong cách Nguyễn Nhật Ánh trong
lĩnh vực văn học viết cho trẻ em và đóng góp của nhà văn cho nền văn học
Việt Nam đương đại.
- Tạo tiền đề cho việc nghiên cứu về các phương diện khác của ngôn ngữ
học cũng như tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh và các tác giả khác.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận
- Chương 2: Đặc điểm phương thức kể chuyện trong tác phẩm của
Nguyễn Nhật Ánh
- Chương 3: Tính chất ngôn từ trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
Đề tài nghiên cứu Phương thức kể chuyện trong tác phẩm của Nguyễn
Nhật Ánh (Qua một số tác phẩm tiêu biểu) đòi hỏi phải có cái nhìn tổng quát,
liên ngành giữa ngôn ngữ và văn học. Vì thế, bên cạnh việc tiếp thu hệ thống
lí thuyết về ngôn ngữ kể chuyện, phương thức kể chuyện trong luận án tiến sĩ
Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Điểm nhìn và
ngôn ngữ kể chuyện) của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy, chúng tôi còn sử
dụng hệ thống lí thuyết về thể loại tiểu thuyết và một số lí thuyết về phong
cách tác giả của lí luận văn học.
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
1.1.1. Điểm nhìn
1.1.1.1. Khái niệm
ĐN là vị trí, xuất phát điểm mà từ đó hiện thực được quan sát và kể lại.
Vị trí, xuất phát điểm này được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm: vị trí,
xuất phát điểm về không gian, thời gian; về quyền uy và thân hữu; xuất phát
điểm về tâm lí; xuất phát điểm về nhận thức, xuất phát điểm về văn hóa, đạo
đức, ý thức hệ.
Dù ở phương diện nào thì ĐN đều mang đặc trưng là tính vị trí, điểm
xuất phát, tính khoảng cách và hướng nhìn. Khi thực hiện một hành động nói
năng, người nói có thể bộc lộ một hoặc nhiều phương diện của ĐN.
1.1.1.2. Các nhân tố của ĐN
ĐN có những nhân tố: người tiêu điểm hóa, nhân tố được tiêu điểm
hóa, người phát ngôn, người nhận (độc giả), tiêu điểm, tiêu cự, hình thức
ngôn ngữ. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ trình bày hai nhân tố quan trọng
nhất của ĐN, đó là: người tiêu điểm hóa và nhân tố được tiêu điểm hóa.
a) Người tiêu điểm hóa
9
Người tiêu điểm hóa (NTĐH) hay chủ thể của ĐN là nhân vật mà nhận
thức của anh ta sẽ định hướng cho sự phát triển của truyện. Nói cách khác,
NTĐH là người thực hiện hành vi nhìn - hành vi quan sát, cảm nhận, đánh
giá… là xuất phát điểm để định vị giá trị của thế giới hiện thực trong truyện.
Đặc tính của NTĐH là: anh ta là người nghĩ hoặc cảm thấy một cách trực
tiếp đối với độc giả. NTĐH không phải là người phát ngôn trong truyện (trừ
trường hợp NTĐH đồng thời là người kể chuyện (NKC) tường minh). NTĐH có
thể là NKC, có thể là nhân vật, có thể không là ai trong số hai người này.
- NTĐH là NKC
Đó là trường hợp NTĐH đồng thời là NKC hàm ẩn. Loại NTĐH này
thường xuất hiện trong những truyện có ĐN bên ngoài và truyện có ĐN toàn
tri. Trong những truyện kể này, câu chuyện được kể từ ĐN của NKC hàm ẩn.
Mọi sự đánh giá, cảm nhận, quan sát… đều là của NKC hàm ẩn đứng ngoài
quan sát và kể lại câu chuyện.
- NTĐH là nhân vật
NTĐH là nhân vật ở ngôi thứ ba trong những truyện có NKC hàm ẩn,
kể theo ĐN bên trong tựa vào ĐN của nhân vật để kể. Trường hợp này,
NTĐH là nhân vật có suy nghĩ, có hoạt động tự cảm nhận. Và mối quan hệ
giữa các nhân vật trong truyện được xác định trong quan hệ với NTĐH này
chứ không phải với NKC hàm ẩn.
- NTĐH vừa là nhân vật, vừa là NKC
Trong trường hợp này, NTĐH là NKC tường minh đồng thời là một
nhân vật của truyện, kể chuyện của mình hoặc kể chuyện người khác từ quan
sát của mình.
- NTĐH không phải là NKC cũng không phải là bất cứ nhân vật nào
trong truyện
Đây là trường hợp truyện kể có NKC tường minh nhưng NKC tường
10
minh này không tham gia vào hành động của truyện, không phải là chủ thể
cảm nhận, quan sát, anh ta chỉ có nhiệm vụ kể chuyện.
b) Nhân tố được tiêu điểm hóa
Nhân tố được tiêu điểm hóa (N.ĐTĐH) là nhân vật thuộc về thế giới
của truyện, là đối tượng được NTĐH quan sát, nhận thức hoặc kể lại.
N.ĐTĐH có thể là NKC, nhân vật hoặc NTĐH.
- N.ĐTĐH là NKC
Đó là trường hợp N.ĐTĐH là NKC tường minh, khi anh ta tự kể về mình.
- N.ĐTĐH là NTĐH
N.ĐTĐH là NTĐH trong trường hợp anh ta tự quan sát mình, tự cảm
nhận về mình. Thường gặp là trường hợp NTĐH đồng thời là NKC tường
minh kể chuyện chính mình.
- N.ĐTĐH là nhân vật
Khác với NTĐH, N.ĐTĐH phần lớn là các nhân vật của truyện, kể cả
nhân vật xưng “tôi” kể chuyện thì cũng là một nhân vật trong truyện.
Khi N.ĐTĐH được nhìn từ ĐN bên ngoài thì các hành vi có thể nhìn
thấy được của anh ta sẽ được thuật lại. Đó là các hành vi nói năng và các hành
vi vật lí như nói, cười, ăn, uống, chạy, nhảy…
Khi N.ĐTĐH được nhìn từ ĐN bên trong thì sự thật về những cảm xúc,
suy nghĩ hoặc phản ứng của N.ĐTĐH được thuật lại. Đó là các hành vi nội
tâm như suy nghĩ, tư duy, cảm nhận…
Ngoài ra, thuật ngữ N.ĐTĐH còn có thể được hiểu rộng ra là thiên
nhiên, con vật, đồ vật… những vật chất của thế giới hiện thực hoặc chỉ
tồn tại trong thế giới tâm linh: thế giới của những người chết, thế giới của
những giấc mơ, sự tưởng tượng hoặc những ảo ảnh khác của trí tưởng
tượng của NTĐH.
11
N.ĐTĐH khi được tái hiện trong phát ngôn là đã mang dấu ấn ĐN của
NTĐH, không còn là hiện thực ngoài cuộc sống nữa.
1.1.1.2. Tính chất của ĐN
- Tính hàm ẩn: ĐN không bộc lộ trực tiếp mà luôn được chứa trong
hiện thực, trong phát ngôn hoặc trong sự quan sát, cảm nhận của chủ thể. ĐN
chỉ có thể được nhận ra qua các hình thức ngôn ngữ bằng thao tác suy ý.
- Tính chất di động: tính di động của ĐN được hiểu là tính thay đổi vị
trí, xuất phát điểm để nhìn hoặc vị trí được quan sát. Sự di động của ĐN có
thể được diễn ra theo ba chiều hướng:
+ Thay đổi vị trí, xuất phát điểm của chủ thể, tức là thay đổi NTĐH.
+ Thay đổi vị trí, xuất phát điểm của chủ thể nhưng không thay đổi
NTĐH và N.ĐTĐH.
+ Thay đổi vị trí khách thể, đối tượng được quan sát, tức là thay đổi
N.ĐTĐH.
Tính chất di động là đặc tính quan trọng, tất yếu của ĐN nghệ thuật bởi
sự phong phú của hiện thực được phản ánh. Hiện thực cần được phản ánh
càng phong phú bao nhiêu thì mức độ di động của ĐN càng lớn bấy nhiêu.
- Tính khúc xạ: tính khúc xạ trong ngôn ngữ được thể hiện ở tính chủ
quan của hiện thực khách quan trong lời nói, đặc biệt trong các tác phẩm nghệ
thuật. Tính khúc xạ làm nên sự phong phú, sinh động của hiện thực khách
quan, thể hiện ĐN mang tính cá thể của nhà văn.
1.1.1.3. Phân loại ĐN
Phần lớn các công trình nghiên cứu về ĐN đều quy ĐN về hai chiều
hướng: ĐN bên trong và ĐN bên ngoài.
- ĐN bên trong
ĐN bên trong còn được gọi là ĐN chủ quan hay ĐN tâm lí. Ở ĐN bên
trong, NTĐH hay NKC quan sát, cảm nhận, tri giác kể về nhân vật từ chính
12
nội tâm của mình, bằng sự hiểu biết về nội tâm của nhân vật của mình. Lúc
này, nhân vật không có điều gì bí ẩn với NKC.
- ĐN bên ngoài
ĐN bên ngoài còn được gọi là ĐN khách quan hay ĐN hành động. Ở
ĐN bên ngoài, NTĐH hay NKC đứng ở ngoài nhân vật, chỉ nhìn thấy và mô
tả những hành vi bên ngoài của nhân vật, không hề biết gì về suy nghĩ của
nhân vật và cũng không thể đoán được chúng như thế nào. Đồng thời NKC
cũng không quan tâm đến việc giải thích, biện minh cho hành vi của nhân vật
cũng như những hiểu biết của mình, anh ta chỉ miêu tả những cách xử sự và
bằng lòng với việc quan sát. Như vậy, ở ĐN bên ngoài có một khoảng cách
rất xa về sự hiểu biết giữa NTĐH hoặc NKC với N.ĐTĐH.
ĐN bên trong và ĐN bên ngoài là hai trường hợp điển hình của sự thâm
nhập của NTĐH hoặc NKC vào thế giới N.ĐTĐH hay nhân vật. Ngoài ra, còn
có một trường hợp trung gian giữa hai trường hợp điển hình này là ĐN toàn tri.
- ĐN toàn tri
Ở ĐN toàn tri, NTĐH hay NKC vừa quan sát và mô tả cả thế giới bên
ngoài cũng như thế giới nội tâm của N.ĐTĐH, nhưng không thâm nhập quá
sâu vào bất cứ phương diện nào. Góc nhìn của NTĐH được trải rộng, NTĐH
biết hết đối với nhiều nhân vật, sự kiện. Sự thông tuệ của NTĐH và NKC ở
ĐN toàn tri thường được bộc lộ qua những cảm nhận, suy ngẫm, phân tích,
bình luận về nhân vật, sự kiện.
Nếu như ở ĐN bên trong, NTĐH hiểu biết hoàn toàn về N.ĐTĐH ở bề
sâu thì ở ĐN toàn tri, NTĐH hiểu biết hoàn toàn về N.ĐTĐH trên diện rộng.
1.1.2. Ngôn ngữ kể chuyện
Khái niệm ngôn ngữ kể chuyện được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả
hành vi kể chuyện và diễn ngôn kể chuyện, tức là phương thức và lời kể
13
chuyện. Trong đó diễn ngôn kể chuyện hay lời kể chuyện là sản phẩm bằng
ngôn ngữ của hành vi kể chuyện.
1.1.2.1. Hành vi kể chuyện
Sự thực hiện hành vi kể chuyện gồm có các vai sau đây: tác giả thực,
tác giả hàm ẩn, người kể, cái được kể, độc giả hàm ẩn, độc giả thực. Trong đó
vai kể và cái được kể là hai vai cơ bản nhất của hành vi kể chuyện.
Dưới đây, luận văn sẽ lần lượt trình bày hai vị trí này.
a) Người kể chuyện
Người kể chuyện (NKC) là chủ thể của hành vi kể chuyện, là người nói
trong tác phẩm. NKC bao giờ cũng ở ngôi thứ nhất.
Có hai kiểu NKC:
- NKC tường minh: còn gọi là NKC ở ngôi thứ nhất, bởi sự xuất hiện
trực tiếp bằng các hình thức của đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất “tôi”, “chúng
tôi”. Trong trường hợp này, NKC chính là một nhân vật trong truyện, cùng
tham gia vào các hành động, sự kiện trong truyện, xưng “tôi” để kể về mình
hoặc các nhân vật khác trong truyện. Mọi diễn biến mọi sự kiện và mọi kiến
giải đều thông qua quan điểm của nhân vật này.
- NKC hàm ẩn: là NKC không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm,
không được biểu thị bằng hình thức của đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất,
không tham gia vào hành động trong truyện mà đứng ở ngoài quan sát và kể
lại câu chuyện của các nhân vật.
+ NKC hàm ẩn có thể chỉ như một người quan sát, miêu tả được những
hành động bên ngoài của nhân vật mà không biết gì về thế giới nội tâm của
nhân vật, cũng có thể không biết được cả kết cục của câu chuyện.
+ NKC có thể nhập thân vào thế giới nội tâm nhân vật lắng nghe được
những suy nghĩ thầm kín nhất của nhân vật, tựa vào điểm nhìn của nhân vật
14
để kể. Khi có sự thâm nhập của NKC vào trong các nhân vật của mình,
khoảng cách giữa NKC và nhân vật được rút ngắn.
+ Một trường hợp khác của NKC hàm ẩn, trường hợp NKC toàn tri.
NKC toàn tri vừa quan sát và mô tả cả thế giới bên ngoài cũng như thế giới
nội tâm của nhân vật, nhưng không thâm nhập quá sâu vào bất cứ phương
diện nào. Sự thông tuệ của NKC thường được bộc lộ qua những cảm nhận,
suy ngẫm, phân tích, bình luận về nhân vật, sự kiện.
b) Cái được kể
Theo Chatman, sự thực hiện hành vi kể chuyện bao gồm hai nhân tố cơ
bản: người kể và cái được kể. Trong đó, cái được kể là các nhân vật và sự
kiện được kể trong truyện [36; 26].
Nhân vật là chủ thể của các hành động, lời nói và ý nghĩ… được kể
lại.Nhân vật là người phát ngôn đích thực trong tác phẩm (SP1). Và phần lớn
các nhân vật đều là N.ĐTĐH, một số trường hợp là NKC hoặc NTĐH.Những
người nghe của SP1 được gọi là SP2. Về cơ bản, SP1 thì xuất hiện trong lời
nói của người kể chuyện, còn SP2 thì xuất hiện trong lời nói của SP1. Cho
nên, SP1 thì có thể được nhận diện qua tên riêng, chỉ xuất và biểu thức miêu
tả (tức là qua cách gọi tên nhân vật của người kể chuyện). Còn SP2 thì được
nhận diện qua các biểu thức xưng hô và hành vi ngôn ngữ mà SP1 thực hiện.
Sự kiện bao gồm các hành động, lời nói, suy nghĩ… của nhân vật được
kể lại.Về cơ bản có hai loại sự kiện là sự kiện hành động và sự kiện tâm lí. Sự
kiện hành động bao gồm các sự kiện hành động vật lí và sự kiện hành động
ngôn ngữ. Sự kiện hành động vật lí bao gồm các hành động vật lí như chạy,
nhảy, cắt, ăn, chặt… Sự kiện hành động ngôn ngữ là các hành động nói năng
như: nói, bảo, hỏi…Sự kiện tâm lí là các hành động nội tâm như suy nghĩ,
cảm nhận, băn khoăn, day dứt…Trong một chuyện các sự kiện hành động và
sự kiện tâm lí phải được trình bày kết hợp với nhau. Không thể có một truyện
15
nào hoàn toàn là các sự kiện hành hoặc hoàn toàn là các sự kiện tâm lí. Tuy
nhiên với những truyện có điểm nhìn bên ngoài thì các sự kiện hành động
chiếm đa số, vì điểm nhìn bên ngoài chỉ thấy được các hành động bên ngoài
(các sự kiện hành động). Với những truyện có điểm nhìn bên trong thì sự kiện
tâm lí là chủ yếu.Lời nói và ý nghĩ của nhân vật là hai sự kiện ngôn ngữ cơ
bản nhất được tái hiện lại trong truyện.
1.1.2.2. Lời kể chuyện
Lời kể chuyện bao gồm lời của NKC và lời nhân vật.
a) Lời người kể chuyện
Lời NKC có vai trò quan trọng tạo nên sự hình thành và phát triển cốt
truyện, đảm bảo cho các sự kiện được diễn ra theo logic nhất định. Nhờ lời
kể, các sự kiện, biến cố, những nhân vật, hiện thực cuộc sống được tái hiện
trong câu chuyện và liên kết với nhau, qua đó bộc lộ quan điểm và cách đánh
giá của nhà văn về hiện thực và con người được nói tới.
Xét trong chức năng xây dựng hình tượng, lời NKC được chia thành:
lời kể/lời trần thuật; lời miêu tả; lời trữ tình.
- Lời kể/lời trần thuật: chiếm tỉ lệ lớn nhất trong lời NKC. Lời kể có vai
trò dẫn dắt, chú thích, chú giải, kết nối sự kiện, phụ họa cho lời nhân vật đồng
thời thuật lại diễn tiến sự việc, tái hiện các sự việc theo logic. Chức năng quan
trọng này gắn với đặc điểm về trình tự kể, nhịp điệu kể. Lời kể bị chi phối bởi
ĐN và thời gian nghệ thuật.
- Lời tả: cũng là lời chiếm tỉ lệ khá lớn trong kết cấu lời nói của lời
NKC, đặc biệt trong văn xuôi lãng mạn, giàu chất trữ tình. Lời tả tái hiện thế
giới tự nhiên, con người từ đời sống vào truyện ngắn, tạo nên không gian,
phông nền, môi trường sống cho các nhân vật và các sự kiện. Lời tả nhất là
các lời đặc tả chi tiết, điểm nhấn luôn mang những thông điệp và có những
mục tiêu hàm nghĩa nhất định của chủ thể sáng tạo.
16
- Lời trữ tình (lời bình luận trực tiếp): được coi là lời trực tiếp của tác
giả, nằm ngoài yếu tố cốt truyện và không có mối liên hệ đối với ngôn ngữ
nhân vật về mặt hình thức. Lời trữ tình bộc lộ trực tiếp ý nghĩ, tình cảm, quan
niệm của tác giả về con người và các vấn đề của đời sống đồng thời góp phần
soi sáng nội dung tư tưởng của truyện ngắn.
Lời NKC - so với lời nhân vật mang tính khách quan hơn, làm nền cho
sự xuất hiện của câu chuyện, của lời nhân vật.
Lời NKC có vai trò quan trọng trong cấu trúc kĩ thuật của truyện:
- Lời NKC tạo ra hình tượng NKC trong truyện có đặc điểm cá tính
hóa, không hòa lẫn với đặc điểm nhân vật.
- Lời NKC thể hiện ĐN của NKC hoặc NTĐH mà NKC dựa vào đó để
kể chuyện.
- Lời NKC là mối dây liên kết các yếu tố tổ chức tác phẩm nhằm làm
nổi bật tư tưởng và chủ đề tác phẩm.
Lời NKC có vai trò then chốt trong việc định hướng sự đánh giá của
độc giả về các hình tượng được xây dựng trong tác phẩm. Lời NKC luôn gắn
bó mật thiết với hình tượng NKC, với tư tưởng tác giả và với độc giả. Là yếu
tố cơ bản để thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá
tính tác giả.
b) Lời nhân vật
Lời nhân vật là một bộ phận quan trọng trong cấu trúc lời nói nghệ
thuật. Lời nhân vật thường được phân hóa theo các chức năng: dẫn dắt, trình
bày sự việc; biểu hiện tâm lí, tính cách nhân vật; biểu hiện quan hệ giữa các
nhân vật, đặc trưng không gian, thời gian nghệ thuật; phát ngôn cho tư tưởng
tác giả.
- Dẫn dắt, trình bày sự việc: với chức năng này, hình tượng nhân vật
không có sắc thái, diện mạo riêng mà hòa lẫn với lời NKC, mang tính ước lệ.
17
Thường được biểu hiện trong một số thể loại, tác phẩm tự sự như: truyện cổ,
truyện Nôm, tiểu thuyết, truyện ngắn, sử thi đơn tuyến.
- Biểu hiện tâm lí, tính cách nhân vật: lời nói là một trong những yếu tố
thể hiện khá rõ tâm lí, tính cách nhân vật. Thông qua lời nói trong những ngữ
cảnh khác nhau với những đối tượng khác nhau, nhân vật sẽ bộc lộ mình với
những góc độ khác nhau.
- Biểu hiện quan hệ giữa các nhân vật, đặc trưng không gian, thời gian
nghệ thuật: môi trường xung quanh với những con người khác nhau, thời
giân, địa điểm khác nhau sẽ tác động trực tiếp đến lời nhân vật, đặc biệt là lời
đối thoại. Vì vậy, lời nhân vật góp phần biểu hiện quan hệ giữa các nhân vật
với không gian, thời gian nghệ thuật.
- Phát ngôn cho tư tưởng của tác giả: lời nhân vật có thể thể hiện tư
tưởng, quan niệm của tác giả theo hướng đồng hướng hoặc nghịch hướng, tùy
thuộc vào ĐN của tác giả và nhân vật đồng hướng hay nghịch hướng.
Lời nhân vật gồm nhiều chức năng kết hợp và tác động lẫn nhau.
Những chức năng ấy không chỉ thể hiện thế giới tâm hồn, tính cách nhân vật
mà còn thể hiện giọng điệu, cách xây dựng bối cảnh không gian, thời gian,
tính đa nghĩa và cấu trúc bề sâu của tác phẩm.
1.1.3. Hành động ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện
1.1.3.1. Hành động ngôn ngữ
Hành động ngôn ngữ là hành động được thực hiện nhờ phương tiện là
ngôn ngữ [7]. Người đầu tiên phát hiện ra bản chất hành động trong lời nói
được phát ra là nhà triết học Austin vào những năm 60 của thế kỉ trước. Lí
thuyết về hành động ngôn ngữ trở thành xương sống của ngữ dụng học và
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Theo Austin, hành động ngôn ngữ bao
gồm ba loại lớn: hành động tạo lời, hành động mượn lời và hành động ở lời.
18
Hành động tạo lời là hành động sử dụng các yếu tố ngôn ngữ và các
quy tắc của ngôn ngữ để tạo ra phát ngôn, diễn ngôn với hình thức nhất định
và nội dung tương ứng trong cuộc giao tiếp. Để thực hiện hành động tạo lời,
người phát phải nắm chắc hình thức và ý nghĩa của các yếu tố từ vựng và các
quy tắc cú pháp. Hành động tạo lời thuộc phạm vi của từ vựng học và ngữ
pháp học.
Hành động mượn lời là hành động phát ra lời nói để nhằm đặt đến một
hiệu quả nằm ngoài lời đó, tức là mượn phương tiện ngôn ngữ để gây ra một
hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở các nhân vật giao tiếp. Hành động mượn
lời không thuộc phạm vi nghiên cứu của ngôn ngữ học.
Hành động ở lời là hành động mà người phát thực hiện ngay trong lời
nói của mình. Hành động ở lời tạo ra hiệu lực ở lời (lực ngôn trung) - là đối
tượng chính của ngữ dụng học.
Một trong những nhà ngôn ngữ có công trong việc làm cho lí luận hành
động nói có khả năng áp dụng trong phân tích diễn ngôn là Saerle (1969).
Dựa vào bốn tiêu chí: đích ở lời, hướng khớp ghép lời - hiện thực, trạng thái
tâm lí, nội dung mệnh đề để phân loại hành động ngôn ngữ thành năm nhóm:
- Hành động trình bày: là hành động người phát ngôn thông qua phát
ngôn của mình để xác nhận sự có mặt hoặc vắng mặt một sự việc nào đó hay
miêu tả lại một sự tình đang được nói đến (bao gồm một số hành động ngôn
ngữ tiêu biểu: kể, miêu tả, xác nhận, khẳng định, báo cáo…).
- Hành động điều khiển: là hành động người phát ngôn thông qua phát
ngôn của mình để đặt người nhận vào trách nhiệm thực hiện một hành động
tương lai (gồm một số hành động ngôn ngữ tiêu biểu như: yêu cầu, đề nghị, ra
lệnh, sai, mời, khuyên…).
19
- Hành động cam kết: là hành động người phát ngôn thông qua phát
ngôn của mình để tự đặt mình vào trách nhiệm phải thực hiện một hành động
trong tương lai (gồm một số hành động ngôn ngữ tiêu biểu: hứa, đe dọa…).
- Hành động biểu cảm: là hành động người phát ngôn thông qua phát
ngôn của mình để bày tỏ trạng thái tâm lí (gồm một số hành động ngôn ngữ
tiêu biểu: khen, chê, phê bình, xin lỗi, cảm ơn…).
- Hành động tuyên bố: là hành động người phát ngôn thông qua phát
ngôn của mình để làm cho nội dung mệnh đề trở nên có hiệu lực (gồm một số
hành động ngôn ngữ tiêu biểu: tuyên bố, tuyên án, buộc tội…).
1.1.3.2. Các kiểu hành động ngôn ngữ trong diễn ngôn truyện kể
Phân tích ngôn ngữ trần thuật trong các diễn ngôn truyện kể tương
đương với phân tích hành động ngôn trung, tức NKC làm thế nào và bằng
hình thức gì để phản ánh thực tại của một sự kiện và đồng thời làm cho hành
động ngôn từ của người trần thuật mang lại hiệu lực, hiệu quả nhất định.
Ngôn ngữ trần thuật là hình thức biểu hiện của hành động ngôn từ trần
thuật: hành động ngôn từ của người trần thuật có thể được nhận diện bằng các
kí hiệu ngôn ngữ, những hình thức biểu hiện của ngôn ngữ người trần thuật
gồm có các từ ngữ chỉ nhân xưng và ngôi, các từ ngữ và các đoạn biểu thị ý
thời gian…
Tìm hiểu các kiểu hành động ngôn từ của NKC trong diễn ngôn truyện
kể, chúng tôi nhận thấy kiểu hành động ngôn từ đặc trưng, phổ biến của NKC
là hành động kể - trần thuật (hành động này được NKC thực hiện nhằm thuật
lại, tái hiện sự việc). Văn bản trần thuật có thể được coi như là một câu trần
thuật được mở rộng nhằm kể lại các sự kiện cho người tiếp nhận trần thuật
biết, đồng cảm và đánh giá cùng mình. Ngoài ra còn có thể tìm thấy trong lời
NKC các kiểu hành động ngôn ngữ khác, với tần số xuất hiện ít hơn như:
20
hành động miêu tả (hành động giúp người đọc hình dung các sự việc, chi tiết,
nhân vật, thời gian, không gian của câu chuyện), hành động biểu cảm (hành
động bày tỏ trạng thái tâm lí của NKC, làm cho câu chuyện giàu cảm xúc),
hành động bình luận, đánh giá (giúp người đọc thấy rõ thái độ, cách nhìn
nhận, đánh giá của NKC với các sự kiện, nhân vật trong câu chuyện).
Các kiểu hành động ngôn ngữ của NKC trong truyện kể có mối quan hệ
chặt chẽ, trong đó kể (trần thuật) là hành động chủ đạo, các hành động khác
(miêu tả, biểu cảm, bình luận, đánh giá) có vai trò hỗ trợ, phối hợp để tạo
điểm nhấn trong diễn ngôn truyện kể.
1.1.4. Phƣơng thức kể chuyện
Phương thức kể chuyện (PTKC) hay viễn cảnh tường thuật hay phối
cảnh là thuật ngữ dùng để chỉ phương thức trình bày thông tin theo một ĐN
nào đó [36; 42].
Nói cách khác, PTKC là cái cách thức mà người kể chuyện sử dụng để
thực hiện hành vi kể chuyện của mình.
Có nhiều quan điểm phân loại PTKC dựa trên các tiêu chí khác nhau, ở
đây, chúng tôi nêu ra cách phân loại của Genette trong công trình Figure III
(1972). Tác giả đã căn cứ vào một tiêu chí duy nhất là điểm nhìn để chia
thành 3 phương thức kể chuyện (3 kiểu truyện kể) sau đây:
1) Truyện không mang điểm nhìn
Loại truyện này thích hợp với kiểu người kể toàn tri và Todorov thì
tượng trưng bởi một công thức là: người kể chuyện > nhân vật (ở đó người kể
chuyện biết nhiều hơn nhân vật, nói nhiều hơn bất cứ một nhân vật nào).
2) Truyện kể theo điểm nhìn bên trong
Là loại truyện kể nội tâm, dòng tâm tư, người kể chuyện biết những điều
mà nhân vật biết, nhân vật nghĩ. Người kể chuyện và nhân vật nói như nhau, kể
theo điểm nhìn nhân vật. Trường hợp này người kể chuyện = nhân vật.
Có hai kiểu truyện kể theo điểm nhìn bên trong:
a) Truyện kể theo điểm nhìn bên trong cố định
21